18/12/18

Kiểu ngụy biện phổ biến của người Việt

Nguồn : Internet .



Kiểu ngụy biện phổ biến của người Việt

1. Ngụy biện tấn công cá nhân
Đây là kiểu ngụy biện tấn công vào đối thủ tranh luận thay vì tập trung vào vấn đề đang tranh luận, trong khi người tranh luận và vấn đề vốn dĩ không liên quan gì tới nhau.

Ví dụ 1:
Rõ ràng trong ví dụ này, B đang sử dụng ngụy biện tấn công cá nhân. Thay vì lập luận để phân tích ra A giải sai bài toán ở chỗ nào thì B chỉ đơn thuần công kích cá nhân A. Lập luận như vậy hoàn toàn không có bất kỳ giá trị nào.

Ngụy biện tấn công cá nhân này có rất nhiều biến thể. Sau đây chúng ta sẽ xét một vài biến thể của nó.
1.1. Biến thể Ngụy biện “Bạn cũng thế”
A tuyên bố một điều. B ngụy biện rằng A hành động trái ngược với tuyên bố của chính mình cho nên tuyên bố của A là sai. Sự thật thì dù A hành động như thế nào cũng chẳng ảnh hưởng đến đúng sai của tuyên bố.
Ví dụ 1.1:
Cha (A): “Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Con không nên tập hút thuốc.”
Con (B): “Vậy tại sao cha hút thuốc? Cha hút được thì con cũng hút được.”
Rõ ràng trong ví dụ này, đứa con (B) đã sử dụng ngụy biên Tu quoque. Đứa con cho rằng vì cha hút thuốc nên điều cha nói về việc hút thuốc có hại cho sức khỏe là sai. Trong thực tế, hành động hút thuốc của người cha không liên quan gì tới tính đúng sai của mệnh đề mà người cha phát biểu.

1.2. Biến thể Ngụy biện “Cáo buộc thiên vị”:
Ngụy biện này cho rằng vì một người thuộc một tổ chức, phe phái nào đó nên chắc chắn những lập luận của người đó sẽ không có giá trị vì người đó sẽ thiên vị cho tổ chức, phe phái của mình.
Ví dụ 1.2:
A; “Quan điểm của tôi về vấn đề này là…”
B: “Cha anh A là Đảng viên đảng X nên chắc chắn anh A sẽ thiên vị cho Đảng X, quan điểm của anh A không có giá trị.”
Như vậy trong ví dụ này B đã ngụy biện bằng cách cáo buộc A thiên vị cho Đảng X mặc dù không hề có bằng chứng về việc đó.

1.3. Biến thể Ngụy biện “Bạn không đủ thầm quyền”:
Ngụy biện này mặc định rằng chỉ vì một người không đủ thẩm quyền hoặc trình độ trong một lĩnh vực nào đó thì chứng tỏ tất cả mọi phát biểu của anh ta về vấn đề đó đều sai.
Ví dụ 1.3:
Thực khách (A): “Món ăn này dở quá, tôi không nuốt nổi!”
Người phục vụ (B): “Anh không phải là đầu bếp nên anh không đủ trình độ để nhận xét về món ăn này!”
Rõ ràng B đã sử dụng ngụy biện. A không cần phải là một đầu bếp mà chỉ cần có vị giác bình thường là đủ để biết được món ăn ngon hay dở.

1.4. Biến thể ngụy biện “Văng tục chửi thề”:
Đây là biến thể thấp hèn nhất trong số các biến thể của ad hominem. Người sử dụng ngụy biện này đơn giản chẳng cần phải lý luận gì cả, chỉ cần văng tục chửi thề vào mỗi lập luận của đối thủ.
Ví dụ 1.4:
A: “Lập luận của tôi là…Bởi vì…cho nên…Như vậy…bla…bla…”
B: “Đờ mờ! Mày đi chết đi!”

2. Ngụy biện đảo ngược nhân quả:
Ngụy biện này còn có tên khác là “Ngụy biện khẳng định hậu thức” hay “Ngụy biện giả định nguyên nhân”. Những người sử dụng ngụy biện này rất thích suy luận ngược từ hậu quả ra nguyên nhân.
Ví dụ 2.1:
A: “Mèo bị chó cắn thì sẽ chết. Con mèo này chết, chứng tỏ nó bị chó cắn.”Thực ra có rất nhiều nguyên nhân có thể khiến một con mèo chết: bị điện giật chết, bị ngộ độc thức ăn chết, bị xe cán chết, đi ăn vụng bị người ta đập chết, bị bệnh chết… Nhưng anh A chỉ chăm chăm vào một nguyên nhân là bị chó cắn chết. Tất nhiên chúng ta cũng không loại trừ khả năng con mèo này bị chó cắn chết, nhưng đó chỉ là một trong rất nhiều khả năng có thể xảy ra. Khẳng định chắc chắn nguyên nhân như vậy khi chưa thu thập thêm thông tin cần thiết rõ ràng là một sự ngụy biện.

3. Ngụy biện giả định thông tin không có thực (Ngụy biện tiên nghiệm):
Người sử dụng loại ngụy biện này sẽ đưa ra một thông tin để hỗ trợ cho lập luận của mình mặc dù không nêu ra được bất cứ bằng chứng nào về tính đúng đắn của thông tin đó.
Ví dụ 3a:
A: “Thằng hàng xóm hôm nay cư xử hơi lạ, chắc hẳn nó là kẻ tối hôm qua đột nhập vào ăn cắp con gà nhà mình rồi!”
Thực ra chẳng có bằng chứng nào để chứng minh thằng hàng xóm ăn cắp con gà, ngoài việc nó “cư xử hơi lạ” theo con mắt cảm tính của anh A.

Ví dụ 3b:
Sếp (B) nói với nhân viên (C): “Chẳng cần kiểm tra tôi cũng biết anh lén chơi game trong giờ làm việc!”
Ủa, không kiểm tra làm sao ông biết được hắn chơi game trong giờ làm việc?

4. Ngụy biện quyền lực (ad verecundiam):
Ngụy biện này có 2 biến thể:

Biến thể 4.1. Loại ngụy biện này cho rằng vì một người nổi tiếng trong lĩnh vực X cũng đồng nghĩa với việc người đó hiểu biết trong những lĩnh vực khác như Y, Z…
Ví dụ 4.1a:
A: “Ý kiến của tôi về việc tăng thuế đã được nhiều nhà học giả nổi tiếng trong lĩnh vực thú y, sản khoa và nghệ thuật tự do ủng hộ.” (Vâng, nhưng không có bất kỳ nhà kinh tế học nào ủng hộ anh ta)
Ví dụ 4.1b:
B: “Bởi cô ấy là một diễn viên ca sĩ nổi tiếng nên tôi nghĩ rằng ý kiến của cô về chính sách đối ngoại và xuất nhập khẩu là hoàn toàn đúng đắn.”

Biến thể 4.2. Loại ngụy biện này cho rằng vì một người nổi tiếng trong lĩnh vực X nên tất cả những gì người đó nói về lĩnh vực X đều đúng.
Ví dụ 4.2: A: “Anh B là một người tốt nghiệp Đại học kinh tế nên chắc chắn anh ta không bao giờ có thể phát biểu sai khi nói về kinh tế được.”

5. Ngụy biện nặc danh (Ngụy biện không thể kiểm chứng):
Cũng là một loại ngụy biện viện dẫn thẩm quyền tuy nhiên người được viện dẫn lại không được nêu tên cụ thể, từ đó đối thủ không thể kiểm chứng được tính đúng sai.
Ví dụ 5:
A: “Các nhà khoa học đã chứng minh rằng uống nước ngọt có lẫn côn trùng như ruồi, gián, kiến… sẽ làm gia tăng tuổi thọ.”
Vấn đề là “các nhà khoa học” đó là những ai? Tên gì? Làm việc ở viện nghiên cứu hay trường Đại học nào? Nghiên cứu đó được xuất bản khi nào, trên tạp chí nào? Tất nhiên sẽ chẳng ai biết được liệu A có bịa ra các nhà khoa học đó hay không.

6. Ngụy biện ngoại suy (Ngụy biện tương đồng hóa những đối tượng không tương đồng):
Ngụy biện này cho rằng vì 2 đối tượng A và B có một số nét giống nhau nên tất cả các khía cạnh khác của A cũng phải giống hệt B. Vì mèo cũng có 4 chân như chó nên mèo cũng phải sủa “gâu gâu” như chó.
Ví dụ 6:
A: “Xã hội loài người cũng tương tự như cơ thể con người, làm việc hiệu quả nhất khi được điều khiển bởi một bộ não thống nhất. Do đó một chế độ độc tài luôn làm việc hiệu quả hơn một chế độ dân chủ.”
Ngụy biện này dựa trên việc xã hội và cơ thể có một chút tương đồng nên cho rằng 2 đối tượng đó giống hệt nhau về mọi khía cạnh.

7. Ngụy biện lấy trường hợp cá biệt để đại diện cho toàn thể:
Các xu hướng, quy luật thường có một số ít những trường hợp ngoại lệ. Người sử dụng ngụy biện này thường lấy những trường hợp ngoại lệ cá biệt đó để phủ nhận xu hướng chung.
Ví dụ 7:
A: “Theo các nghiên cứu của tác giả Tom Corley, có một mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng tự học của một người và thành công tài chính của người đó.”
B: “Ông sếp của tôi rất lười học hỏi mà ông ta vẫn giàu đấy thôi!”
Việc B viện dẫn ra một trường hợp cá biệt cũng chẳng thể phủ nhận mối tương quan về mặt thống kê mà A nhắc tới.

8. Ngụy biện rẽ đôi (Ngụy biện giới hạn 2 lựa chọn):
Là loại ngụy biện giới hạn câu trả lời xuống còn 2 lựa chọn, không trắng thì phải đen, nếu anh không phải là đồng minh của chúng tôi thì anh chắc chắn là kẻ thù (không có trung lập).
Ví dụ 8:
Người mẹ nói với đứa con: “Con muốn dọn đồ chơi lên trên tủ hay dọn vào thùng giấy?”
Rõ ràng ở đây người mẹ đã sử dụng ngụy biện rẽ đôi (kết hợp với ngụy biện câu hỏi phức-xem ở mục 11) để loại bỏ các lựa chọn khác (ví dụ lựa chọn không dọn đồ chơi) và chỉ để lại 2 lựa chọn. Tuy nhiên hãy cẩn thận, gieo gió có thể sẽ gặp bão. Mười năm sau đứa con nói với mẹ: “Mai là sinh nhật con! Mẹ muốn mua cho con một cái laptop mới hay một chiếc xe máy?” Lại là một ngụy biện rẽ đôi khác nhưng lần này là từ đứa con.

9. Ngụy biện lối mòn:
Là loại ngụy biện cho rằng cái gì đã tồn tại lâu đời hoặc đã được quen thuộc thì đều tốt. Người sử dụng ngụy biện này tin rằng cái gì đã từng hoạt động hiệu quả trong quá khứ thì sẽ luôn hoạt động hiệu quả trong hiện tại và tương lai, cho dù hoàn cảnh và môi trường có thay đổi như thế nào.
Ví dụ 9:
Ông chủ (A) nói với nhân viên: “Công ty chúng ta trước giờ vẫn sản xuất thủ công như vậy có làm sao đâu? Chẳng cần phải đổi mới công nghệ làm gì!”

10. Ngụy biện vòng vo (Điệp nguyên luận ):
Là loại ngụy biện dùng chính nó để chứng minh nó thông qua một chuỗi lý luận vòng vo.
Ví dụ 10:
A: Anh phải tin tôi! Cậu bé đánh giày có thể làm chứng cho tôi!
B: Sao tôi phải tin cậu ta?
A: Vì cậu ta làm một người trung thực, thưa ngài! Tôi có thể làm chứng cho sự trung thực của cậu ta!
Trong ví dụ này, A đã sử dụng ngụy biện vòng vo.

11.Ngụy biện câu hỏi phức:
Là loại ngụy biện mà trong đó một câu hỏi dạng có/không được tạo thành từ 2 hay nhiều câu hỏi khác nhau. Bằng cách đó thông tin sai sẽ được đưa vào câu hỏi và được mặc nhiên thừa nhận là đúng.
Ví dụ 11:
A: “Ngoài phân bò ra, bạn có ăn gì khác không?”
Rõ ràng với câu hỏi này, người trả lời cho dù trả lời “có” hay “không” thì cũng đều thừa nhận là mình ăn phân bò.

12. Ngụy biện khái quát hóa vội vã (secundum quid)
Là ngụy biện bằng cách khái quát hóa từ vài ví dụ lặt vặt và có thể không mang tính đại diện.
Ví dụ 12:
A: “Mấy con mèo nhà tôi đều có lông màu tam thể, chứng tỏ tất cả mèo trên thế giới đều có lông màu tam thể.”
Nếu một ngày nào đó bắt gặp một con mèo đen, không biết anh A này sẽ ngạc nhiên như thế nào?

13.Ngụy biện tổng thể:
Đây là loại ngụy biện cho rằng cái gì đúng với bộ phận thì sẽ đúng với tổng thể.
Ví dụ 13:
A: “Những nhân viên này mỗi người đều làm việc rất giỏi. Chắc chắn khi tập hợp lại họ sẽ tạo thành đội nhóm tuyệt vời.”
Vấn đề là nếu một vài thành viên trong nhóm có mâu thuẫn với nhau thì sao? Hoặc họ không thể phối hợp một cách nhịp nhàng với nhau? Hoặc họ không biết cách làm việc theo nhóm? Cho dù mỗi bộ phận đều tốt nhưng khi kết hợp lại chưa chắc tổng thể sẽ tốt.

14. Ngụy biện thiếu nhất quán (Kết luận chối bỏ tiên đề):
Kết luận chối bỏ tiên đề là một loại ngụy biện “Ôi trời, tôi quên mất tôi đã nói gì lúc đầu rồi!” Ngụy biện này bắt đầu với một số điều chắc chắn đúng rồi sau đó kết luận lại mâu thuẫn thẳng thừng với những khẳng định ban đầu. Nó tạo ra mâu thuẫn logic.
Ví dụ 14:
A: “Con trai, vì trên thế gian này không có gì chắc chắn, chúng ta phải dựa vào kinh nghiệm bản thân!”
B: “Cha chắc không?”
A: “Có chứ con trai. Ta chắc chắn!”

15. Ngụy biện tiên đề mâu thuẫn:
Là loại ngụy biện mà tiên đề tự mâu thuẫn với chính nó.
Ví dụ 15:
Chuyện ngày xưa kể rằng có một người chuyên đi bán mâu (giống cây giáo) và thuẫn (tấm khiên), để bán được hàng anh ta không tiếc lời khen về sản phẩm của mình. Một lần, tại một ngôi làng nọ, anh ta cầm chiếc thuẫn lên và lớn tiếng rao: “Các vị hãy đến đây mà xem, đây là chiếc thuẫn nổi tiếng thế giới, kiên cố không gì so sánh được, không chiếc mâu nào có thể đâm thủng được nó.”
Nghe vậy, mọi người xúm lại xem hàng của anh ta rất đông, và không ngớt bình phẩm. Người này thấy lời rao của mình có hiệu quả thì vô cùng đắc ý, anh ta lại nhấc chiếc mâu lên tán dương: “Các vị lại mà xem chiếc mâu của tôi, được đúc thuần bằng sắt thép nên sắc bén vô cùng, không chiếc thuẫn nào có thể cản được nó.” Mọi người xung quanh nghe thấy vậy đều cười ầm lên. Lúc đó, có một người đến trước mặt người lái buôn và nói: “Theo như anh nói, thì chiếc mâu của anh sắc bén có thể đâm thủng chiếc thuẫn kiên cố nhất, còn chiếc thuẫn của anh thì lại cứng chắc nhất thế giới, bất kì chiếc mâu sắc bén nào cũng không thể đỡ được. Vậy trước mặt mọi người, anh hãy thử dùng chiếc mâu đâm vào chiếc thuẫn xem kết quả như thế nào.”
Người bán buôn này nghe nói vậy cứng miệng, không nói được câu nào, vội vàng nhặt mâu và thuẫn của mình, biến mất trong tiếng cười của đám đông.

16. Ngụy biện hài hước:
Là ngụy biện sử dụng sự hài hước hoặc những câu nói gây cười để đánh lạc hướng người nghe ra khỏi luận điểm tranh luận, đòng thời khéo léo bôi nhọ đối thủ.
Ví dụ 16: A: “Luận điểm của đối phương làm tôi nhớ đến một câu chuyện buồn cười như sau…”

17. Ngụy biện cứng đầu (Lapidem, argumentum ad):
Là loại ngụy biện mặc kệ và bỏ ngoài tai tất cả mọi lý luận của đối phương, chỉ khăng khăng giữ ý kiến của mình dù ý kiến đó có bị chứng minh là sai đi nữa.
Ví dụ 17: “Anh ấy là bạn của tôi, tôi sẽ không nghe bất kỳ lời nói xấu nào về anh ta.”

18. Ngụy biện lối nói lập lờ:
Là ngụy biện bằng cách sử dụng những từ ngữ đa nghĩa, tối nghĩa để chuyển một khái niệm này sang một khái niệm khác có cùng tên gọi. Lối ngụy biện này rất được các chính trị gia ưa thích.
Ví dụ 18:
Nửa ổ bánh mỳ thì hơn là không có gì.
Không có gì quan trọng hơn sức khỏe.
Do đó nửa ổ bánh mỳ quan trọng hơn sức khỏe.4

19. Ngụy biện bù nhìn rơm:
Là ngụy biện bẻ cong, xuyên tạc lập luận của đối thủ khiến nó có ý nghĩa khác đi, rồi sau đó mới tấn công.
Ví dụ 19:
A: “Giới hạn tốc độ trên đường cao tốc này là không cần thiết.”
B: “Nếu tất cả mọi người có thể đi với bất cứ tốc độ nà họ muốn ở bất cứ nơi đâu, rất nhiều tai nạn giao thông sẽ xảy ra.”
Trong ví dụ trên, B đã dùng ngụy biện bù nhìn rơm để xuyên tác ý kiến của A.

20. Ngụy biện bằng cách tác động vào cảm xúc:
Kẻ ngụy biện khai thác và lợi dụng cảm xúc của người nghe như lòng trắc ẩn, nỗi sợ hãi, sự ganh ghét, tính sĩ diện…
Ví dụ 20:
A: “Tôi phản đối việc bỏ tù kẻ giết người hàng loạt này! Các bạn hãy đặt mình vào vị trí của anh ta xem sao, bị vây trong 4 bức tường lạnh lẽo, cách ly khỏi xã hội suốt nhiều năm, bị cộng đồng quay lưng. Các bạn không thấy anh ta quá tội nghiệp hay sao?”

Thật là cảm động!

Các lỗi ngụy biện thường gặp trong tranh luận

1. TẤN CÔNG CÁ NHÂN (Ad Hominem)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi này tấn công vào hoàn cảnh, thân phận, cử chỉ, ngôn từ không liên quan tới cách lập luận...của đối phương và dựa vào điều đó để cho rằng đối phương đã sai.
Vấn đề là: Trong tranh luận, chúng ta chỉ quan tâm tới luận điểm và cách lập luận.

2. “BẠN CŨNG VẬY“ (Ad Hominem Tu Quoque)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi sẽ chứng minh đối phương .sai bằng cách chỉ ra rằng những gì họ nói không đúng với những gì mà họ đã nói ( làm).
Ví dụ: "Bạn đã làm được những gì rồi mà chê bai bọn họ. Có giỏi thì làm như họ đi","Bộ cậu chưa vi phạm luật giao thông bao giờ hay sao mà nói vi phạm luận giao thông là sai".
Vấn đề là: Như lỗi thứ nhất.

3. TẤN CÔNG VÀO HOÀN CẢNH (Circumstantial ad Hominem)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi chứng minh đối phương sai bằng cách chỉ ra rằng luận điểm của đối phương đơn thuần tới từ hoàn cảnh (thân thế, nghề nghiệp,…) của họ.
Ví dụ: Cậu bảo vệ những người giàu là vì cậu giàu.
Vấn đề: Tương tự như 1.

4. CÓ UY TÍN THÌ ĐÚNG (Appeal to Authority)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi này dựa vào một ý kiến có uy tín để cho rằng đối phương đã sai.
Ví dụ: Ý kiến này đã được một con người vô cùng vĩ đại viết lên, bởi thế nó không thể nào mà sai được.
Vấn đề là: Tương tự như 1, chúng ta phân tích quan điểm chứ không phải thân phận của người đưa quan điểm.

5. ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI TIN THÌ ĐÚNG (Appeal to Belief)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi tìm sự ủng hộ của đám đông. Họ cho rằng những gì đám đông tin tưởng luôn đúng.
Ví dụ:
A- Tôi nghĩ rằng ý kiến này sai.
B- Có thấy ai nói nó sai không mà bảo đấy là sai?
Vấn đề là: Trước thế kỷ XV, nhân loại bảo Mặt Trời quay quanh Trái Đất.

6. “NHIỀU NGƯỜI CŨNG LÀM VẬY „ (Appeal to Common Practice)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi chứng minh mình đúng bằng cách chỉ ra rằng nhiều người cũng hành động như họ.
Ví dụ: „Tôi biết làm vậy là sai, nhưng rất nhiều người cũng đã làm vậy nên chẳng có vấn đề gì cả“.
Vấn đề là: Hầu hết mọi người làm một điều gì không có nghĩa rằng điều đó là chân lý.

7. HỆ QUẢ TỐT THÌ ĐÚNG (Appeal to Concequences of a Belief)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi chỉ ra rằng niềm tin của mình sẽ dẫn tới những kết quả tốt và niềm tin ngược lại sẽ đưa đến kết quả xấu.
Ví dụ: Nếu không có Chúa Trời thì chúng ta sẽ không biết tin vào điều gì, vì vậy tôi chắc rằng Chúa Trời có tồn tại.
Vấn đề là: Cũng tương tự như nói „Nếu Trái Đất hình tròn thì tôi sẽ rất đau khổ, vì vậy nên Trái Đất hình vuông“.

8. TÁC ĐỘNG VÀO CẢM XÚC: (Appeal to Emotion)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi tác động vào cảm xúc của đối phương để chứng minh mình đúng.
Ví dụ: (Kể một câu chuyện) Ai ghét hành động này thì like.
Vấn đề là: Tương tự „New York là thủ đô của nước Mỹ, ai có lòng yêu nước thì like“

9. CÂU NƯỚC MẮT (Appeal to Pity)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi này đưa ra một câu chuyện „câu nước mắt“ để chứng minh mình đúng.
Ví dụ: „Con chó đó thật là trung thành, thật là tội nghiệp, con người sống không bằng con chó“.
Vấn đề là: Cảm động không có nghĩa là đúng. Tương tự „1+1 = 3, nếu không thì một bà cụ ăn xin ở Venezuela sẽ chết...“.

10. HÀI HƯỚC THÌ ĐÚNG (Appeal to Ridicule)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi này móc mỉa luận điểm của đối phương (theo cách hài hước) để chứng minh mình đúng.
Ví dụ: “Nói thế mà cũng nói, thật buồn cười”.
Vấn đề là: Tương tự “1+1=2, thật hài hước”.

11. SONG ĐỀ SAI (False Dilemma)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi lập luận: A xảy ra hoặc B xảy ra, A sai thì B đúng.
Ví dụ: Hắn làm việc xấu như vậy hắn không thể là người tốt được. Hắn là một người xấu (A: “Hắn là một người tốt” hoặc B: “Hắn là một người xấu”).
Vấn đề là: A sai không có nghĩa là B đúng do A và B có thể cùng sai hoặc cùng đúng hoặc có nhiều hơn 2 lựa chọn A và B. Lỗi ngụy biện này hay bị nhầm với phép loại suy (loại trừ hết TẤT CẢ những trường hợp không thể xảy ra thì trường hợp còn lại phải đúng).

12. CHỌN “ĐIỀU ĐỨNG GIỮA” (Middle Ground)

Với lỗi ngụy biện này, người mắc lỗi chọn ra một mệnh đề C “đứng giữa” hai mệnh đề đối lập A và B và cho rằng C đúng.
Ví dụ: Một người vô tội bị kết án oan và phải nộp một số tiền phạt. Dư luận cho rằng chỉ cần nộp một phần số tiền đó hoặc xử phạt hành chính là được rồi.
Vấn đề là: A,B,C thực chất là ba mệnh đề khác nhau. Lập luận này đánh lừa bởi người ta rất dễ nhầm tưởng rằng giữa “nhiều” và “ít” là vừa đủ.

13. LỖI NGỤY BIỆN POST HOC

Post Hoc bắt nguồn từ một mệnh đề trong tiếng Latin: „Post hoc, ergo propter hoc“, có nghĩa „xảy ra sau (một hành động) thì là kết quả (của hành động đó).“
Lập luận: B xảy ra sau A -> B là kết quả của A.
Lập luận sai bởi: B xảy ra sau A không có nghĩa B là kết quả của A. Một ví dụ, thành phố X xảy ra một vụ cháy nhà (B) ngay sau khi tôi chuyển đến sống ở đó (A), hiển nhiên không có nghĩa cảnh sát có quyền truy cứu tôi vì tội gây ra đám cháy. -
Ví dụ:
+ Tôi để ý rằng cứ mỗi lần tôi đeo cái nhẫn này thì tôi gặp đủ thứ chuyện xui xẻo. Như vậy là cái nhẫn đã bị ám và nó là nguyên nhân mang đến xui xẻo cho tôi.
+ Từ ngày tôi gặp X tôi gặp đủ mọi chuyện xui xẻo. X chính là nguyên nhân làm tôi xui xẻo.

14. LỖI NGỤY BIỆN „HAI SAI THÀNH MỘT ĐÚNG“ (two wrongs make a right)

Lập luận sai: Đối tượng B làm một điều X với A thì A cũng có quyền làm điều X đó với B.
Lập luận sai là bởi: Nếu một hành động sai thì có nghĩa là nó sai, bất kể có bao nhiêu người làm nó đi chăng nữa. Vì thế lập luận này không giải quyết được điều cần chứng minh.
Ví dụ:
“Tên sát nhân này đã giết người, vì thế chúng tôi có quyền thoải mái mạt sát và trừng trị hắn bằng những cách đau đớn nhất có thể”
“Hắn đã ăn trộm nên chúng tôi có quyền đánh chết hắn”.

15. "KHÔNG ĐÚNG VỚI TÔI NÊN NÓ SAI"(Reletivist fallacy)

Thay vì lập luận logic, người mắc lỗi đưa ra một lập luận kiểu: “Mệnh đề này không đúng với tôi nên nó sai”.
Lập luận sai là bởi: Tương tự “Với tôi thì 1+1=3 nên 1+1 không thể bằng 2 được”.
Đây là một lỗi ngụy biện nếu sự thật được nói đến là khách quan ("Ngọn núi cao 3000m"). Nếu mệnh đề được nhắc tới là tương đối ("Ngọn núi thật đẹp"), thì đây không phải lỗi ngụy biện.
Ví dụ: “Đây là một luận điểm sai, do có nhiều mâu thuẫn trong đó”. “ Với người khác có thể nói là nó sai, nhưng với tôi thì nó đúng. Vì vậy nó đúng”.

16. LỖI NGỤY BIỆN BÙ NHÌN RƠM (Straw man)

Người mắc lỗi này bóp méo luận điểm của đối phương, sau đó chỉ trích luận điểm bị bóp méo đó và đưa ra kết luận đối phương sai.
Lập luận sai là bởi: Luận điểm bị bóp méo (B) không phải luận điểm gốc được đưa ra (A). Vì vậy B sai không có nghĩa A sai.
Ví dụ:
+ ”Chúng ta có nên dọn dẹp lại văn phòng của mình một chút không?”
+“Tháng trước chúng ta đã dọn dẹp rồi. Không cần thường xuyên như vậy chứ?”
+“Đồ lười nhác! Cậu chỉ muốn giữ rác trong phòng thôi.Điều đó thật buồn cười”.

17. LỖI NGỤY BIỆN GUILT BY ASSOCIATION

Người mắc lỗi ngụy biện này đưa ra lập luận rằng một mệnh đề không đúng vì nó được công nhận/được làm bởi những người anh ta không thích.
Lập luận sai là bởi: Tương tự “1+1 không thể bằng 2 được vì Adolf Hitler, Joseph Stalin và Ted Bundy đều nói 1+1=2”.
Ví dụ:
“Tôi nghĩ rằng chính phủ nên kiểm soát một số ngành công nghiệp quan trọng” .
”Ý cậu là quốc hữu hóa nền công nghiệp ấy à?”
"Ừ, trong thời điểm này đó có vẻ là một ý tưởng hay.”
”Cậu có biết là Stalin đã quốc hữu hóa nền công nghiệp và giết chết hàng triệu người dân Liên Xô. Polpot cũng đã quốc hữu hóa nền công nghiệp và giết chết hàng triệu người. Trung Quốc cũng thế. Vậy mà cậu còn ủng hộ cho quốc hữu hóa nền công nghiệp?”
“Không, tôi sẽ không đứng về phía những kẻ đó !”

18. LỖI NGỤY BIỆN ĐẶT NGHĨA VỤ CHỨNG MINH (Burden of Proof)

Lỗi ngụy biện này xảy ra mà bên cần phải chứng minh áp đặt nghĩa vụ chứng minh cho bên còn lại. Một ví dụ, trong luật pháp, một người được coi là vô tội cho tới khi người ta chứng minh được là anh ta có tội, và lỗi ngụy biện này xảy ra khi người ta tìm cách ép anh ta phải chứng minh mình vô tội.
Trong các cuộc tranh luận, nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên khẳng định (là bên đưa luận điểm). Lỗi ngụy biện xảy ra khi bên đưa luận điểm áp đặt nghĩa vụ cho bên phản bác chứng minh luận điểm của mình sai thay vì chứng minh mình đúng. Lập luận sai vì đối phương không chứng minh được luận điểm A sai không có nghĩa A đúng.
Ví dụ:
“Tôi nghĩ trên đời này có ma”
“Bằng chứng đâu?”
“Thế cậu có đưa ra được bằng chứng là không có ma không? Tức là trên đời này có ma!”.

Thói ngụy biện ở người Việt


Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong trường hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ. Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.

 

Logic

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Logic hay luận lý học, từ tiếng Hy Lạp cổ điển λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đã trở thành có ý nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.
Theo truyền thống, logic được nghiên cứu như là một nhánh của triết học. Kể từ giữa thế kỉ 19 logic đã thường được nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Là một ngành khoa học hình thức, logic nghiên cứu và phân loại cấu trúc của các khẳng định và các lý lẽ, cả hai đều thông qua việc nghiên cứu các hệ thống hình thức của việc suy luận và qua sự nghiên cứu lý lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng, đi từ các đề tài cốt lõi như là nghiên cứu các lý lẽ ngụy biện và nghịch lý, đến những phân tích chuyên gia về lập luận, chẳng hạn lập luận có xác suất đúng và các lý lẽ có liên quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic còn được sử dụng phổ biến trong lý thuyết lý luận.
Qua suốt quá trình lịch sử, đã có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt và lập luận không tốt, và do đó logic đã được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lý luận thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng hơn.
Các quan tâm về các loại logic khác nhau giải thích rằng logic không phải là được nghiên cứu trong chân không. Trong khi logic thường có vẻ tự cung cấp sự thúc đẩy chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lý do mà chúng ta quan tâm đến logic được đặt ra một cách rõ ràng.
Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như sau:

• Đánh tráo chủ đề
• Lợi dụng cảm tính và đám đông
• Làm lạc hướng vấn đề
• Qui nạp sai
• Nhập nhằng đánh lận con đen
• Phi logic
• Các nhầm lẫn khác

Nhóm 1. Đánh tráo chủ đề

1. Công kích cá nhân (ad hominem). Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.

Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.”
2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.

3. Lợi dụng nặc danh. Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho biết chính anh từng hoạt động cho địch.”

4. Lợi dụng tác phong. Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.

5. Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”

6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!

Nhóm 2. Lợi dụng cảm tính và đám đông

7. Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”

8. Lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay để bàn rồi đấy.”

9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!)

10. Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có lương tri.

11. Dựa vào quần chúng (ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”

Nhóm 3. Làm lạc hướng vấn đề

12. Lí lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”

13. Lí lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân chủ”.

14. Lí luận lươn trạch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á phiện”. Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay bao giờ.”

15. Mệnh đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”

16. Đơn giản hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”

Nhóm 4. Qui nạp sai

17. Khái quát hóa vội vã
. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”

18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”

19. Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”

20. Lí lẽ quanh co. Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau.

21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”

22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”

23. Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.”

24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.”

25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”

Nhóm 5. Nguyên nhân giả tạo

26. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”

27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)

28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các hãng xưởng.

29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.

30. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.

31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”

Nhóm 6. Phi logic (non sequitur) và nhần lẫn trong tam đoạn luận

32. Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”

33. Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi không ở New South Wales”.

34. Nhét chữ vào miệng người khác. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng ta?”

35. Ngụy biện tứ ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.

36. Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.

Nhóm 7. Các nhầm lẫn khác

37. Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.

38. Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”

39. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm ngoái.”

40. Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.

41. Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”

42. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao, cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.

43. Lạm dụng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”

Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự nhiên.”

44. Ngụy biện “anh cũng vậy. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”

45. Lạm dụng thống kê. Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác.

Nhận xét

Có thể nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm chung là (a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để đi đến một kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kì nổi tiếng về ngụy biện.

Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức.

Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kì kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.

Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều quái gở về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin sai lạc, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho người ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.

Để không trở thành những nô lệ, cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên lạc, như là một niềm tin cho hành động. Cần phải dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần phải thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.

Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.

Theo dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân (thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có khi hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất hiện quá nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập khuôn trở thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này là những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi chính thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kì quặc kiểu “anh/chị không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,” “anh chê ‘quốc gia’, vậy anh phải là cộng sản,” “anh khen Việt Nam, vậy anh là cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kỳ 75’, vậy anh là cộng sản,” hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là cộng sản đi tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó là một lối phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một cách cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí tuệ, hay lười biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay phát triển vấn đề xa hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia có/không này không thể đem đến một đáp số cho một vấn đề nào cả.
Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.

Giáo Sư Nguyễn văn Tuấn - Nguỵ biện

Các cách nói ngụy biện thông dụng người Việt

1. Giới thiệu
Ngụy biện (fallacy) là các cách lập luận sai, vi phạm các quy tắc logic trong suy luận để giành phần lợi trong tranh luận, trong đối thoại và từ đó có thể biến sai thành đúng, biến đúng thành sai. 
2. Các ví dụ ngụy biện hay gặp
- Ví dụ 1: "CÓ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO ĐẤT NƯỚC ĐÂU MÀ TO MỒM THẾ"- câu nói hay gặp này phạm lỗi ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem) và ngụy biện "anh cũng vậy" (Tu Quoque fallacy).
Việc anh A, anh B làm cái gì, không làm được cái gì không liên quan đến tính logic điều anh ta đang tranh luận
Ngụy biện "anh cũng vậy": câu nói này còn hàm ý "anh cũng chả làm được gì mà nói người ta", hàm ý "anh cũng chả hay ho gì, anh cũng bậy bạ vậy".
- Ví dụ 2: "LÀM ĐƯỢC NHƯ NGƯỜI TA ĐI RỒI HÃY NÓI" - Câu nói khá thông dụng của các bạn trẻ khi tranh luận với nhau này rất đáng tiếc lại phạm hai lỗi ngụy biện: lỗi ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem) và lỗi ngụy biện "anh cũng vậy" (Tu Quoque fallacy).
Tấn công cá nhân: Những gì anh A/anh B làm được hay không làm được không dính dáng gì đến tính đúng sai, logic lời anh ta nói cả
Ngụy biện "anh cũng vậy": câu nói này còn hàm ý "anh cũng chả làm được gì mà nói người ta", hàm ý "anh cũng chả hay ho gì, anh cũng bậy bạ vậy"
- Ví dụ 3: "NẾU KHÔNG HÀI LÒNG THÌ CÚT XÉO RA NƯỚC NGOÀI MÀ SINH SỐNG" là câu nói phạm hai lỗi ngụy biện: "ngụy biện cá trích" (Red herring fallacy) và (tạm dịch) "ngụy biện chọc tức, đâm thọt"
Lỗi "ngụy biện cá trích": loại ngụy biện khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ở đây việc anh A/B sống ở trong hay ngoài nước không liên quan đến tính logic vấn đề anh ta nói.
Lỗi ngụy biện "chọc tức, đâm thọt" (needling fallacy): là ngụy biện dùng lời nói bất lịch sự, bề trên ("anh không đồng ý thì đi ra nước ngoài mà sống") ko liên quan câu chuyện để làm đối thủ tức giận. Một ví dụ nữa cho một câu nói hay gặp, và phạm hai lỗi ngụy biện.
- Ví dụ 4: "ĐỪNG CÓ NGỒI ĐÓ MÀ LÀM ANH HÙNG BÀN PHÍM" là câu nói thông dụng, nhưng lại phạm hai lỗi ngụy biện: "tấn công cá nhân" (ad hominem) và ngụy biện "anh cũng vây" (Tu Quoque fallacy).
Lỗi "tấn công cá nhân": cách gọi "anh hùng bàn phím" là mang tính chê bai, tấn công cá nhân và không dính dáng gì đến tính đúng sai, logic lời anh ta nói cả.
Lỗi ngụy biện "anh cũng vậy" (Tu Quoque fallacy): vì gọi là "anh hùng bàn phím" còn có ngụ ý nói "bạn cũng chả làm được gì vậy", "bạn cũng tệ vậy thì còn nói ai".
- Ví dụ 5: Lỗi ngụy biện rơm (straw man)lợi dụng lòng thương hai (ad misericordiam) cùng lúc.
"CHẲNG LẼ CHỈ VÌ TỪNG ĐƯỢC ĐẶT CHO CÁI NICKNAME "BOM PHONE" MÀ NÓ BỊ LIỆT VÀO DANH SÁCH VŨ KHÍ GIẾT NGƯỜI HÀNG LOẠT CẦN PHẢI BỊ LÊN ÁN VÀ LOẠI BỎ"  là câu nói mắc hai lỗi ngụy biện: ngụy biện rơm (straw man) và ngụy biện lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam)
Ngụy biện rơm: ngụy biện khi bóp méo lời người trao đổi để làm luận điểm tấn công họ. Có thể có ai đó gọi BPhone là Bom Phone" (chỉ là cách nói nhại, ý nói nổ quá đáng), nhưng tác giả lại xuyên tạc, trầm trọng lời nói thành "vũ khí giết người". 
Lỗi ngụy biện lợi dụng lòng thương hại: cấu trúc "chẳng lẽ vì ... mà chúng ta nỡ ...": người viết cố ý ví việc đả kích BPhone đã bị trầm trọng thành "vũ khí nguy hiểm", ý nói BPhone bị hàm oan, đáng thương ... để gây sự cảm thông độc giả.
- Ví dụ 6: Lại là lỗi ngụy biện rơm (straw man)lợi dụng lòng thương hai (ad misericordiam) cùng lúc.
"KHI CHƯA RA ĐỜI, CHỉ CẦN BỊ ĐOÁN MÒ, BPHONE ĐÃ Bị NÉM ĐÁ THIẾU ĐIỀU NẾU NHƯ KHÔNG ĐỦ CAN ĐẢM VÀ BẢN LĨNH THÌ CHA MẸ CỦA NÓ ĐÃ PHẢI VÔ BỆNH VIỆN PHỤ SẢN MÀ PHÁ THAI" (câu nói cũng trích từ bài viết báo Thanh Niên trên) cũng phạm hai lỗi ngụy biện: ngụy biện rơm và lợi dụng lòng thương hại.
Lỗi ngụy biện rơm: cường điệu hóa, chế diễu hóa hoặc thô tục hóa những nhận định đàng hoàng về BPhone thành những từ "đoán mò", "ném đá".
Lỗi lợi dụng lòng thương hại: đưa hình ảnh "sản phụ phải nạo phá thai" vào để làm động lòng trắc ẩn của người đọc. Một lần nữa, một câu nói - hai ngụy biện.
- Ví dụ 7: "CON LẠY CÁC THÁNH" - "LẠY ÔNG" - "PHÁN NHƯ THÁNH" là các cách nói hay gặp, câu chữ rất ngắn, chỉ vài từ nhưng chúng lại phạm hai lỗi ngụy biện nghiêm trọng: ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem) và "ngụy biện chế diễu" (appeal to ridicule).
Tấn công cá nhân: tấn công, sỉ nhục cá nhân người trao đổi (vốn không liên quan chủ đề đang tranh luận) để hạ thấp giá trị bản thân họ, hạ thấp giá trị lời nói của họ. Ở đây cách gọi "thánh", "ông" là hàm ý chê bai, tấn công cá nhân.
Ngụy biện chế diễu: ngụy biện khi gọi lời người trao đổi là nhảm nhí, là tầm bậy để hạ thấp giá trị các lời nói đó. Ở đây "phán", hay "con xin lạy" là chế diễu cách nói chuyện đàng hoàng của đối phương để hạ thấp giá trị lời nó của họ.
- Ví dụ 8: Hai lỗi ngụy biện "Khái quát hóa vội vã" và "Lạm dụng chữ nghĩa" cùng lúc.
CHỈ CÓ NHỮNG NGƯỜI CHÂN LẤM TAY BÙN TỪ NHỎ MỚI LÀ NGƯỜI CẦN CÙ CHĂM CHỈ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC, dùng thuật ngụy biện "khái quát hóa vội vã" (Overgeneralization hay Hasty Generalization) và "lạm dụng chữ nghĩa".
Khái quát hóa vội vã: người nói chỉ dùng ví dụ cho vài trường hợp nhỏ để khái quát hóa cho cộng đồng. Ở câu nói trên, không phải người "chăm chỉ xây dựng đất nước" nào cũng là người xuất thân "chân lắm tay bùn".
Rồi thế nào là "chăm chỉ xây dựng đất nước", là "chân lắm tay bùn", vì sao dùng hình ảnh đó trong câu nói trên? Trả lời: đó chính là ngụy biện "lạm dụng chữ nghĩa", loại ngụy biện dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu.
- Ví dụ 9: (tương tự ví dụ 8) LÀM SAO MÀ CÁC TRÍ THỨC ĐƯỢC ĐÀO TẠO Ở NƯỚC NGOÀI LẠI CÓ LÒNG YÊU NƯỚC NỒNG NÀN NHƯ NHỮNG NGƯỜI CẢ ĐỜI CHỈ SỐNG VỚI MẢNH ĐẤT NÀY. Câu này cũng dùng ngụy biện "khái quát hóa vội vã""lạm dụng chữ nghĩa".
Khái quát hóa vội vã: người nói chỉ dùng ví dụ cho vài trường hợp nhỏ để khái quát hóa cho cộng đồng. Ở câu nói trên, không phải người sống cả đời trong nước lại yêu nước hơn người đi xa ở nước ngoài. Thực tế là nhiều người càng đi xa, càng trăn trở và quan tâm về đất nước hơn.
"Yêu nước nồng nàn" là gì? Đây chính là ngụy biện "lạm dụng chữ nghĩa": dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu.
- Ví dụ 10: ngụy biện kết luận vội vã (jumping to conclusions)
"GIA ĐÌNH HAI CON, VỢ CHỒNG HẠNH PHÚC"
loại ngụy biện đưa ra vài dữ kiện, nhận định không đầy đủ và đi đến kết luận vội vã, thiếu logic, thiếu chính xác.
Ở đây, vợ chồng hai con thì chưa chắc gì gia đình họ sẽ hạnh phúc, nên kết luận đó là vội vã.
- Ví dụ 11: ngụy biện hai sai thành đúng (two wrongs make a right)
NƯỚC NÀO MÀ KHÔNG CÓ THAM NHŨNG
"A: VN tham nhũng ghê quá
B: Nước nào mà không có tham nhũng"
Câu nói của B phạm lỗi ngụy biện khá thông dụng: "hai sai thành đúng" Lỗi ngụy biện này sử dụng khi người trao đổi đưa ra một sự vật sai tương tự để biện hộ, hay giảm nhẹ, hay làm lạc hướng cho cái sai của sự vật đang xét đến.
Lưu ý đại đa số ngụy biện thông dụng "Anh cũng vậy" (Tu Quoque fallacy) cũng phạm lỗi "Hai sai thành đúng", nhưng chúng không đồng nhất nhau.
- Ví dụ 12: ngụy biện đứt đoạn và ngụy biện kết luận ẩu (jumping to conclusions)
TRUYỆN MẦM ĐÁ CỦA TRẠNG QUỲNH phạm hai lỗi ngụy biện này.
- Ví dụ 13: "LO CÀY CUỐC LÀM GIÀU ĐI, ĐỪNG ĐI BÀN CHUYÊN THIÊN HẠ, QUỐC GIA. BIẾT GÌ MÀ BÀN?"
Mỗi câu trên đều phạm vài lỗi ngụy biện.
"Biết gì mà bàn": ngụy biện tấn công cá nhân ad hominem, cũng có thể liệt vào ngụy biện chế diễu, chọc tức (needling fallacy).
"Lo cày cuốc làm giàu đi, đừng đi bàn chuyện thiên hạ, quốc gia": ngụy biện anh cũng vậy (Tu Quoque fallacy), vì ám chỉ anh cũng tệ vậy, lo thân anh còn chưa xong, nói gì đến chuyện người khác. Ngoài ra có thể còn liệt kê vào lỗi "ngụy biện cá trích" (red herring), đưa sự vật không liên quan làm lạc hướng câu chuyện đang nói: chuyện tui làm giàu hay không kệ tui, chả liên quan gì đến tính đúng sai vấn đề đang bàn cả.
- Ví dụ 14: ngụy biện lợi dụng nặc danh (anonymous authority)
Trích báo Một Thế Giới: MỘT NGƯỜI VIỆT KỂ VỚI ANH BẠN NGƯỜI NHẬT CHUYỆN MẤY HÔM NAY XÔN XAO VIỆC ÔNG NGUYỄN TỬ QUẢNG CHO RA "SIÊU PHẢM" ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH MANG TÊN BPHONE... VỊ KHÁCH NHẬT HỎI: "THẾ ANH ĐÃ MUA BPHONE CHƯA? ANH SẼ MUA CHỨ? ANH PHẢI BẢO THÊM NHỮNG NGƯỜI VIỆT MÀ ANH QUEN MUA ĐI, NẾU KHÔNG ÔNG NGUYỄN TỬ QUẢNG SẼ NGUY
Toàn bộ đoạn văn trên đã dùng ngụy biện lợi dụng nặc danh : ngụy biện khi một ai đó trích dẫn nguồn thông tin mơ hồ hay lời nói của một người nặc danh (anonymous), vốn không thể kiểm chứng, không xác tính, để biện minh hay dẫn chứng cho luận điểm của anh ta. Trong ví dụ trên, người Nhật đó là người nào? Liệu có khả năng người viết bài này bịa ra câu chuyện đó, hoặc trích dẫn lại từ một câu chuyện không có thật hay không...
- Ví dụ 15: Ngụy biện so sánh ẩu faulty analogy (nôm na "đánh tráo khái niệm" trong cách nói người Việt)
Lời TS, Viện trưởng Khuất Thu Hồng nói về việc chỉ trích cô ca sĩ LQ cho con tè trên túi nôn máy bay: "(CHỬI LỆ QUYÊN THẾ) KHÁC NÀO KÊU ẦM LÊN LÀ SAO NƯỚC ĐÁI CỦA HOA HẬU LẠI KHAI THẾ - CỨ LÀM NHƯ HOA HẬU THÌ KHÔNG CÓ QUYỀN ĐÁI KHAI" - luận điểm trên phạm lỗi ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy). Ngụy biện này ý rằng, hai sự việc chỉ giống nhau một khía cạnh nhỏ, còn khác nhau hoàn toàn các khía cạnh khác nên so sánh chúng với nhau là ngụy biện.
Ở đây việc "lên án LQ cho con cô ta tè vào túi nôn trên máy bay" khác hoàn toàn việc "lên án hoa hậu không có quyền đái khai", việc đầu là logic, có lý còn việc kia là không thể chấp nhận được, do đó không thể so sánh chúng với nhau như vậy. (Chúng chỉ giống nhau là chuyện đi tè của hai đối tượng, hoa hậu và em bé, còn khác nhau hoàn toàn về ngữ cảnh, độ tuổi, không gian, thời gian, mức độ ý thức, độ riêng tư ..v..v.. của hai sự việc).
Ngụy biện so sánh ẩu này rất gần với thuật ngữ "đánh tráo khái niệm" mà người Việt hay dùng. Hai sự việc - hai khái niệm không đồng nhất, so sánh chúng chính là đánh tráo khái niệm hai sự việc, hai khái niệm này với nhau.
- Ví dụ 16: ngụy biện lợi dụng nặc danh (anonymous authority), ngụy biện lạm dụng thống kê (statistical fallacy) ngụy biện lạm dụng số đông (ad populum).
"CÓ MỘT THỐNG KÊ TRÊN TOÀN CẦU CHO BIẾT RẰNG: HƠN 97% NGƯỜI LUÔN MỒM CHỬI CHẾ ĐỘ LÀ NHỮNG KẺ THẤT BẠI TRONG CÔNG VIỆC, SỰ NGHIỆP HAY CẢM THẤY KHÔNG HÀI LÒNG VỀ CUỘC SỐNG HIỆN TẠI CỦA MÌNH"
Câu nói trên phạm ít nhất hai lỗi ngụy biện, ngụy biện lợi dụng nặc danh (anonymous authority)ngụy biện lạm dụng thống kê (statistical fallacy). Một ngụy biện khác có thể tính đến là ngụy biện lạm dụng số đông (ad populum).
Ngụy biện lợi dụng nặc danh: đưa ra một thông tin mà không chỉ rõ nó nguồn tin từ đâu, ai nghiên cứu, khi nào. Cách nói vậy không khả tín, không xác thực.
Ngụy biện thống kê (statistical fallacy): cách trích dẫn con số ấn tượng 97% của một nguồn thông tin nặc danh chính là ví dụ của ngụy biện lợi dụng thống kê. Nó đánh vào tâm lý tin vào con số thống kê của người đọc. Độ xác thực của thống kê này như thế nào? Ở đâu ra? Ai thực hiện nó? Khi nào? Nội dung thiết kế thống kê? Phương pháp? Tần suất lẫy mẫu của nó thế nào ...? (Cần vô cùng cẩn thận khi ai đó đưa ra con số thống kê khi trao đổi, các bạn nhé)
Lưu ý, con số 97% còn biểu thị cho số đông, nên câu nói trên còn có thể liệt kê vào ngụy biện lợi dụng số đông (ad populum), ngụy biện cho rằng một luận điểm nào đó được số đông ủng hộ sẽ đúng. Cũng có thể coi nó là trường hợp ngụy biện con, sinh ra từ cách dùng ngụy biện lạm dụng thống kê nói trên.
- Ví dụ 17: tương tự ví dụ 15, cũng là ngụy biện so sánh ẩu faulty analogy (nôm na "đánh tráo khái niệm" trong cách nói người Việt)
Lời bà Tôn Nữ Thị Ninh,: "TRONG GIA ĐÌNH CHÚNG TÔI CÓ NHỮNG ĐỨA CON, CHÁU HỖN LÁO, BƯỚNG BỈNH THÌ ĐỂ CHÚNG TÔI ĐÓNG CỬA LẠI TRỪNG TRỊ CHÚNG NÓ, DĨ NHIÊN LÀ TRỪNG TRỊ THEO CÁCH CỦA CHÚNG TÔI. CÁC ANH HÀNG XÓM ĐỪNG CÓ MÀ GÕ CỬA ĐÒI XEN VÀO CHUYỆN RIÊNG CỦA GIA ĐÌNH CHÚNG TÔI" phạm lỗi ngụy biện "so sánh ẩu" (faulty analogy) và nói theo ngôn ngữ Việt là đánh tráo khái niệm. Nhắc lại, ngụy biện này ý rằng, hai sự việc chỉ giống nhau một khía cạnh nhỏ, còn khác nhau hoàn toàn các khía cạnh khác nên so sánh chúng với nhau là ngụy biện.
Việc bà Ninh so sánh việc nhà nước VN xử lý công dân y hệt như việc ba mẹ dạy dỗ con cái trong một gia đình, và ám chỉ anh hàng xóm (nước láng giềng) không được can thiệp là một so sánh ẩu và sai. Mối quan hệ nhà nước - công dân, vốn dựa trên các quy định pháp luật, các giao kết ràng buộc mang tính pháp lý, ước khế xã hội và nó khác hoàn toàn mối quan hệ ba mẹ - con cái trong gia đình, vốn máu mủ và tình yêu thương thiêng liêng.
Hàng xóm - gia đình là một mối quan hệ xã hội, cũng khác quan hệ một nước với các nước lân bang vốn là mối quan hệ bang giao quốc tế, dựa trên các luật chơi quốc tế ... Bà Ninh còn nói hàng xóm ko có quyền can thiệp chuyện cha mẹ dạy con cái là sai. Cha mẹ mà đánh con cái quá đáng, bạo hành trẻ em, hàng xóm phát hiện hoàn toàn có thể báo nhà chức trách xử phạt, thậm chí phạt tù bậc cha mẹ như vậy
Ngụy biện so sánh sai ẩu ở câu nói trên cũng chính là đánh tráo khái niệm, biến mối quan hệ nhà nước - công dân thành mối quan hệ ba mẹ - con cái trong gia đình.  
- Ví dụ 18: ngụy biện lý luận lươn trạch (Argument From Adverse Consequences)
THỰC THI PHÁP LUẬT THÌ KHÔNG ĐƯỢC TẠO RA TIỀN LỆ, NGÀY NAY CÁC BẠN ĐẶT BÌNH NƯỚC, NGÀY MAI LÀ MộT QUÁN NƯỚC,  RỒI DẦN DẦN SẼ LÀ CÁI CHỢ CHĂNG? CHƯA KỂ, BẠN ĐẶT ĐƯỢC THÌ NGƯỜI BÊN CẠNH CŨNG ĐẶT ĐƯỢC, VÀ CẢ PHỐ CŨNG SẼ LÀM THEO, LÚC ĐÓ AI SẼ CHỊU TRÁCH NHIỆM?
Mỗi câu nói trên đều phạm lỗi ngụy biện lý luận lươn trạch (Argument From Adverse Consequences), loại ngụy biện này cho rằng một nhận định phải sai, vì nếu nó đúng thì các sự kiện xấu khác (bad things) sẽ xảy ra sau đó. Ngụy biện này là ví dụ của một cách suy diễn tùy tiện, làm trầm trọng hóa vấn đề. Ngày nay đặt bình nước, rồi suy diễn cho rằng ngày mai sẽ là một quán nước, rồi thành cái chợ ... chính là cách nói lý luận luơn trạch như vậy. -"Chưa kể, bạn đặt được thì người bên cạnh cũng đặt được, và cả phố cũng sẽ làm theo, lúc đó ai sẽ chịu trách nhiệm?"- cũng là lý luận lươn trạch như trên.
Lưu ý: lý luận lươn trạch cũng là một ngụy biện thông dụng người Việt.
- Ví dụ 19: ngụy biện lợi dụng đám đông (ad populum) ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa (appeal to emotion)
 1400 TỶ ĐỂ XÂY DỰNG TƯỢNG ĐÀI NHẰM ĐÁP ỨNG NGUYỆN VỌNG VÀ TÌNH CẢM CỦA ĐỒNG BÀO TÂY BẮC VỚI BÁC HỒ, phạm hai lỗi ngụy biện: ngụy biện lợi dụng đám đông ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa.
Ngụy biện lợi dụng đám đông: ngụy biện này nói rằng một lý lẽ được đám đông ủng hộ thì nó đúng. Ông Quyến đã dùng đám đông nhân dân Tây Bắc (cũng là một cách nói bừa thiếu chứng cứ) để biện hộ cho việc xây dựng này. Có thể thấy ngụy biện lợi dụng đám đông này được sử dụng rất sâu rộng bởi các chính trị gia tại Việt Nam.
Ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa (appeal to emotion hoặc emotional appeal fallacy): ngụy biện khi kẻ tranh luận dùng các từ ngữ cảm tính để đánh vào cảm xúc, tâm lý của người đối thoại hay khán giả để giành được sự đồng thuận cho luận điểm anh ta. Câu nói "(đáp ứng) nguyện vọng và tình cảm nhân dân Tây Bắc với Bác Hồ" chính là dùng ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa trên.
- Ví dụ 20: ngụy biện lợi dụng quyền lực (ad verecundiam) ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa (hay lợi dụng cảm xúc (emotional appeal fallacy))
"XÂY TƯỢNG TỐN KÉM, BÁC SẼ KHÔNG AN LÒNG" là một câu nói ngắn nhưng phạm hai lỗi ngụy biện trên.
Ngụy biện lợi dụng quyền lực (ad verecundiam): ngụy biện khi ai đó dùng danh tiếng hay uy tín những nhân vật nổi tiếng (trong trường hợp này là cụ Hồ) thay vì tính logic của luận điểm để tìm sự ủng hộ cho lời nói anh ta. 
Ngụy biện lạm dụng chữ nghĩa (hay lợi dụng cảm xúc): "bác sẽ không an lòng" là cách nói không có bằng chứng, không logic và chính là lạm dụng cảm xúc mà thôi.
- Ví dụ 21: Một câu nói, bốn lỗi ngụy biện cùng lúc: ngụy biện lợi dụng cảm xúc (emotional appeal fallacy), ngụy biện cá trích (red herring fallacy), ngụy biên rơm (straw man) ngụy biện kết luận ẩu (jumping to conclusions)
"TÔI XEM CLIP CẬU BÉ 14 TUỔI LÊN TIẾNG VỀ GIÁO DỤC VIỆT NAM MÀ KHÔNG KHỎI THẤY BUỒN. KHÔNG PHẢI VÌ CẬU BÉ NÓI KHÔNG CÓ LÍ, TÔI BUỒN VÌ NHỮNG ĐỨA TRẺ ĐANG BỊ CUỐN VÀO THỨ “VĂN HÓA CHỬI” CỦA NGƯỜI LỚN.", phạm cùng lúc bốn lỗi ngụy biện trên. Cụ thể:
Ngụy biện lợi dụng cảm xúc (emotional appeal fallacy): ngụy biện khi dùng những từ ngữ cảm tính, các giá trị đạo đức hầu như không có tính logic vào trong tranh luận, để tác động vào suy nghĩ, cảm xúc người đọc, lấy được sự ủng hộ cho lời nói của mình. "Tôi cảm thấy buồn" chính là dùng những từ ngữ cảm tính (buồn, thất vọng ...) để tác động, lay động suy nghĩ người đọc, vốn không liên quan gì đến logic vấn đề đang bàn. Người đọc sẽ nghĩ, ừm, có vấn đề nghiêm trọng đây, mới khiến anh ta buồn vậy ...bla bla ...
Ngụy biện rơm (straw man): ngụy biện khi hạ thấp, bóp méo, suy diễn sai lời phát biểu đối phương đề giành phần lợi cho luận điểm của mình. Ở đây phát biểu Tường Minh lịch sự, thưa gửi, có trên có dưới, và đã từ tốn xin phép dùng một tính từ "thối nát" để mô tả thực trạng giáo dục VN. Gán ghép, chụp mũ, bóp méo lời nói đó, trong ngữ cảnh đó thành "chửi" là quá đáng. Cần phải khẳng định, lời em Tường Minh là một nhận xét, đánh giá cụ thể về GD VN, được trình bày từ tốn, có phép tắc cư xử đàng hoàng.
Ngụy biện cá trích (red herring): ngụy biện khi đẩy câu chuyện, lái vấn đề bàn luận sang chủ đề khác không liên quan. Sau khi bóp méo lời nói em Tường Minh thành "chửi", câu nói trên đẩy vấn đề lạc hướng sang việc "có những cậu bé nhiễm "văn hóa chửi" của người lớn". Việc các em bé nào đó có nhiễm văn hóa chửi của người lớn hay không là một vấn đề không liên quan đến tính đúng/sai trong luận điểm nhận xét về giáo dục của em Tường Minh này.
Ngụy biện kết luận ẩu (jumping to conclusions): ngụy biện khi chỉ đưa ra vài ví dụ, dẫn chứng không đầy đủ, rồi đi đến kết luận thiếu chính xác. Ở đây việc ám chỉ rằng em Tường Minh bị nhiễm văn hóa chửi người lớn cũng là một kết luận ẩu, vì chỉ từ ngữ cảnh câu nói chuyện của cậu ta là không đủ để có kết luận đó. Mặt khác, khẳng định em Tường Minh trong clip nói chuyện từ tốn, thưa gửi đàng hoàng, có phép tắc, văn hóa hẳn hoi.
- Ví dụ 22: ngụy biện lạm dụng tác phong (fallacies of appearance and manner)
NẾU ĐÓ LÀ SUY NGHĨ THẬT CỦA CẬU BÉ, THÌ NHỮNG NGƯỜI LỚN BÌNH TĨNH VÀ CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI TRẺ CON CẦN NÓI CHO CẬU HIỂU NÓI THẾ LÀ VỘI VÃ, LÀ KHÔNG ĐƯỢC. VÌ CÒN QUÁ NHIỀU ĐIỀU CẬU CHƯA ĐỦ HIỂU ĐỂ MÀ NÓI VỚI NỘI DUNG ẤY, THÁI ĐỘ ẤY, phạm lỗi ngụy biện lạm dụng tác phong, một biến thể của ngụy biện tấn công cá nhân.
Ngụy biện lạm dụng tác phong (fallacies of appearance and manner) là ngụy biện khi một ai đó lạm dụng tuổi tác, chức vụ, thành tích và danh xưng ... để hạ thấp người trao đổi, hạ thấp luận điểm họ và dành phần thắng cho mình.  Đức Hiển tự cho rằng nhận định về giáo dục em Tường Minh là sai, rồi lợi dụng độ tuổi nhỏ của em Tường Minh, lợi dụng vai vế tuổi tác lớn hơn của mình để hạ thấp lời em nói, ý bảo người lớn cần dạy bảo em lại... Câu nói trên có thể xem là tấn công cá nhân ad hominem em Tường Minh nhưng kín kẽ hơn, có vẻ trí thức hơn (lạm dụng tác phong) mà thôi.
Ví dụ 23: ngụy biện anh cũng vậy (tu quoque fallacy) NGƯỜI LÀM CHÍNH TRỊ CHẮC CHẮN PHẢI BIẾT ĐỐI MẶT VỚI DƯ LUẬN. VỀ PHÍA DƯ LUẬN, TÔINGHĨ RẰNG TRƯỚC KHI PHÊ BÌNH CHÍNH QUYỀN CŨNG NÊN ĐẶT MÌNH VÀO VÍ TRÍ CỦA HỌXEM MÌNH THỰC SỰ CÓ THỂ LÀM TỐT HƠN HAY KHÔNG" phạm lỗi ngụy biện anh cũng vậy (Tu Quoque fallacy), ngụy biện đẩy vấn đề bị công kích sang người đối diện, hàm ý bảo anh cũng vậy thì đừng nói ai.
Hàm ý lời khuyên của NBC: nếu anh (dư luận) không làm tốt hơn họ, không bằng họ (họ = chính quyền) thì đừng nên (hạn chế) phê bình.
Câu nói của NBC là một hình thức biến thể cao cấp ngụy biện anh cũng vậy, và xuất hiện ở hình thức một lời khuyên (tai hại!). GS ngụy biện có khác!

- Ví dụ 24: ngụy biện lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam - appeal to pity) và ngụy biện cá trích (red herrings)
A: ÔNG NGUYỄN BÁ THANH THAM NHŨNG, ĐỒNG LÕA GIẤU ĐẤT GIẢI TÒA ĐỀN BÙ CHO DÂN NGHÈO Ở ĐÀ NẴNG
B: ỔNG CHẾT RỒI, ĐỂ ỔNG YÊN.

Câu nói của B phạm hai lỗi ngụy biện trên: 
Ngụy biện lợi dụng lòng thương hại: ngụy biện đánh vào cảm giác, tâm lý thương hại, trắc ẩn người đối thoại, để dành phân lợi cho luận điểm của mình. Việc bảo rằng ông Bá Thanh chết rồi thì không nên bơi móc quá khứ tham nhũng chính là lợi dụng sự thương hại như vậy. 
Ngụy biện cá trích: lái vấn đề sang một hướng khác không liên quan, để phân tán sự chú ý hoặc để dừng luận điểm người đối thoại. B dùng việc ông Thanh mất đi, nói "để ông yên", chính là để ngăn chặn luận điểm của A bàn về tham nhũng ông Thanh.
- Ví dụ 25: ngụy biện lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam - appeal to pity), ngụy biện rơm (straw man), ngụy biện gây cảm giác tội lỗi (appeal to shame) và ngụy biện cá trích (red herrings)
A: ÔNG NGUYỄN BÁ THANH THAM NHŨNG, ĐỒNG LÕA GIẤU ĐẤT GIẢI TÒA ĐỀN BÙ CHO DÂN NGHÈO Ở ĐÀ NẴNG
B: BẠN KHÔNG THẤY XẨU HỔ KHI BƯƠI MÓC QUÁ KHỨ MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT Ư

Ngụy biện lợi dụng lòng thương hại (appeal to pity): ngụy biện đánh vào cảm giác, tâm lý thương hại, trắc ẩn người đối thoại, để dành phân lợi cho luận điểm của mình. B đưa cái chết ông Bá Thanh vào để đánh vào tâm lý người đối thoại, gợi lòng trắc ẩn của họ.
Ngụy biện gây cảm giác tội lỗi (appeal to shame): ngụy biện khi cố ý gây cho người đối thoại, hay độc giả có cảm giác tội lỗi về luận điểm này, để dành phần lợi cho mình nhưng thật ra lời buộc tội chỉ đánh vào tâm ly, cảm xúc chứ không hề liên quan logic vấn đề đang bàn. B đã đi xa hơn, khi buộc tội A, làm cho A có cảm giác tâm lý có lỗi khi nói về việc tham nhũng của ông Bá Thanh.
Ngụy biện rơm (straw man): bóp mép, hạ thấp lời người nói. B dùng từ "bươi móc" chính là bóp méo lời nói đàng hoàng của A về ông Bá Thanh.
Ngụy biện cá trích (red herrings): lái vấn đề sang ý khác để đánh lạc hướng, hay dừng luận điểm người đối thoại. B đã sử dụng hàng loạt nguy biện, cũng chỉ là để ngừng luận điểm của A về ông Bá Thanh.
Đây là một ví dụ hiếm có và rất hữu ích, vì một câu nói ngắn mà sử dụng bốn ngụy biện kín kẽ cùng lúc.
- Ví dụ 26: ngụy biện burden of proof (nghĩa vụ chứng minh hay luận điệu ngược ngạo) 
+ HPS: "Có một thống kê trên toàn cầu cho biết rằng: hơn 97% người luôn mồm chửi chế độ là những kẻ thất bại trong công việc, sự nghiệp hay cảm thấy không hài lòng về cuộc sống hiện tại của mình"
+ Trọng Hiền: "Con số 97% ở đâu ra? Tôi nghi ngờ nó"
+ HPS: "Bạn hãy chứng minh con số tôi đưa ra là sai"


Cách trả lời của HPS phạm lỗi Burden of Proof , dịch là "nghĩa vụ chứng minh", hay tài liệu GS NVT gọi là "luận điệu ngược ngạo" . Đây là cách ngụy biện của người phát biểu, khi anh ta chuyển gánh nặng chứng minh hay tìm bằng chứng lời mình nói cho người đối thoại, trong khi đáng ra anh ta phải chứng minh nó. Trong ví dụ này, HPS đưa ra con số 97%, anh ta phải chứng minh hay đưa bằng chứng về nó, chứ không phải người đối thoại.

- Ví dụ 27: ngụy biện cắt xén thông tin (ngoài ngữ cảnh) - Quoting out of context fallacy
Tháng 4/2014, trong khi báo the The Strait Times đưa tin rằng trong 219 passport được khảo sát toàn thế giới về mức độ được chào đón (được miễn visa khi vào nước khác), passport VN xếp thứ 81 trên 93 nhóm. Thế nhưng báo VNExpress lấp liếm, cắt trích sai thông tin gốc về thứ hạng VN và có ý dối trá về việc này. Họ nói passport VN đứng thứ 81, nhưng không nói là 81/93, mà hàm ý cho người đọc nói là VN xếp thứ 81 trên 219 nước (và gọi là xếp hạng trung bình).
Quoting out of context hay cắt xén thông tin là một ngụy biện phổ quát mà báo chí nhà nước VN hay dùng để định hướng dư luận và các dư luận viên hay facebooker không đàng hoàng dùng nó để tấn công luận điểm và cá nhân người khác.
Ví dụ 28: ngụy biện dụng bạo lực (ad baculum hoặc appeal to force)
 A: VĂC XIN Q VẪN AN TOÀN, NÊN CHÍCH
 B: TÔI KHÔNG ĐỒNG Ý, VÀI TÀI LIỆU VÀ THỰC TẾ CHO THẤY VẮC XIN Q KHÔNG AN TOÀN
 A: CẢNH CÁO, BẠN MÀ VÀO STATUS PHÁN TẦM BẬY LÀ CUI BLOCK, ĐUỔI CỔ KHỎI NHÀ

Ở đoạn trên, A đã dùng ngụy biện dụng bạo lực (ad baculum  hay appeal to force), ngụy biện mà kẻ tranh luận dùng sự đe dọa, ám chỉ đến những điều không hay xảy ra với người đối thoại để làm họ chùn bước, và từ đó phải chấp nhận quan điểm của hắn một cách bị ép buộc. Ở đây A đã dùng chiêu thức hù dọa block B, để làm B phải chùn bước và từ đó chấp nhận luận điểm của A. 
Ngoài ra việc A quy chụp lời B nói là "phán tầm bậy" có thể quy vào ngụy biện rơm (straw man). Ngụy biện dụng bạo lực rất hay được dùng trong trao đổi giữa người lớn và trẻ em trong gia đình, hay trong môi trường mối quan hệ bất bình đẳng như giữa sếp và nhân viên..
- Ví dụ 29: ngụy biện hãy nghĩ cho trẻ em (think of children fallacy)
"KHI NÀO LỚN LÊN EM SẼ HIỂU" 
Câu nói phổ dụng các chàng trai hay xài để trả lời các em gái trên, dùng các ngụy biện: 
1- ngụy biện nghĩ cho trẻ em (thinking of children fallacy ), một dạng đặc biệt của ngụy biện lạm dụng cảm xúc (appeal to emotion). Đây là mẹo dùng để tránh né, kết thúc một cuộc tranh luận, hoặc bằng dùng các từ ngữ đánh vào cảm xúc người đối thoại, để dừng trao đổi (nghĩ về trẻ em đi các vị :V ), hoặc đưa ra một quan điểm không trả lời được (unanswerable) nào đó, để người đối thoại tắc lại và không thể tiếp tục câu chuyện. Ở đây, thế nào là "đủ lớn", và có thật là cần lớn mới hiểu chuyện đó hay không? (Unanswerable)
2- ngụy biện lạm dụng tác phong (xem ví dụ 22): dùng tuổi tác nhỏ của cô gái để ám chỉ cô ta chưa đủ "trình" để trao đổi câu chuyện. Rất may đây chỉ là lỗi nhỏ, chỉ là mẹo để dừng câu chuyện, không phải tấn công cá nhân (ad hominem) cô gái ấy.
- Ví dụ 30: ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy - đánh tráo khái niệm)ngụy biện chế diễu (appeal to ridiculous).
(trích) "MẤY THÁNG TRƯỚC THẤY BẠN BÈ TRÊN PHÂY NHIỀU NGƯỜI RA MẶT ỦNG HỘ EM NGUYỄN MAI TRUNG TUẤN Ở THẠNH HOÁ TẠT AXIT VÀO ANH TRUNG TÁ CÔNG AN ĐỘI CƯỠNG CHẾ, GIỜ THÌ CHẮC CHẢ CÒN AI NHỚ. CÁC BẠN Í ĐANG BẬN SỤC SÔI ĐÒI XỬ LÝ MẤY THẰNG TẠT AXIT NỮ SINH, KIẾN NGHỊ SỬA LUẬT NÂNG KHUNG LÊN TỬ HÌNH VÌ TÍNH MAN RỢ,ĐÊ HÈN, DÃ MAN CỦA 2 THẰNG SÁT THỦ KIA. CHẮC TẠI CHÚNG NÓ TẠT KHÔNG ĐƯỢC DUYÊN DÁNG NHƯ EM TUẤN" (hết trích).. 
Đoạn văn trên sử dụng hai thủ thuật ngụy biện, ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy - đánh tráo khái niệm)ngụy biện chế giễu (appeal to ridiculous).
1- ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy): ngụy biện này ý rằng, hai sự việc chỉ giống nhau một khía cạnh nhỏ, còn khác nhau hoàn toàn các khía cạnh khác nên so sánh chúng với nhau là ngụy biện. Ở đây so sánh sự việc em Trung Tuấn tạt axit vào người cưỡng chế và vụ lập mưu trả thù tàn độc người yêu bằng axit là vô cùng khập khiễng. Vụ việc em Trung Tuấn có nhiều tình tiết làm người theo dõi khách quan phẫn nộ và lo lắng cho em Tuấn vì, 1- em Tuấn chỉ mới 15 tuổi, gây hành vi ấy trong tình trạng bị ức chế, khi gia đình em đang bị cưỡng chế tài sản, 2- có nhiều tình tiết cho thấy bản kiểm định vết thương đầy khuất tất, vi phạm luật tố tụng hình sự để cố nhào nặn ra mức độ thương tật của công an viên lên hơn 30%, đủ để dưa em vào tù (xem thêm tại Tuổi trẻ). Việc hai kẻ rắp tâm tạt axit trả thù người yêu cũ mang tính chất hoàn toàn khác, mưu đồ hại người, có chủ đích thấp kém của người dã trưởng thành, vì một mục tiêu đê hèn. Chung Nguyễn cố ý so sánh hai sự việc vô cùng khác biệt trên, là phép so sánh ẩu (liên kết, đồng nhất hai sự việc để đánh tráo khái niệm).
2- ngụy biện chế giễu (appeal to ridiculous): "Chắc tại chúng nó tạt không được duyên dáng như em Tuấn" chính là cách nói chế giễu và một phần có cả so sánh ẩu trong đó, để đánh vào tâm lý người đọc, để gièm pha hành động của em Tuấn và một lần nữa đồng nhất hai sự việc ấy với nhau.
- Ví dụ 31: ngụy biện gièm pha, gây chán ghét (appeal to spite)
 (trích) ĐỂ TÔI NÓI CÁC BẠN NGHE, ANH THANH NIÊN KHÔNG ĐỘI MŨ BẢO HIỂM, SỬ DỤNG XE TỰ CHẾ VÀ BÁN HÀNG RONG KHÔNG PHÉP! ANH ẤY SẼ CÓ THỂ PHI XE TỰ CHẾ ẤY VÀO CON EM BẠN, HAY VA QUẸT ĐỂ ĐẨY CHÍNH CÁC BẠN VÀO GẦM XE TẢI CHẾT TỐT! (hết trích) dùng thuật ngụy biện ghèm qua (gây chán ghét appeal to spite).
Ở thủ thuật ngụy biện này, kẻ ngụy biện sẽ dùng các từ ngữ hay cách nói chuyện để đánh vào tâm lý người đối thoại (hoặc độc giả), chứ không phải logic của vấn đề, để họ bỗng có tâm lý chán ghét (vô cớ) một nhân vật, đối tượng nào đó, và từ đó sẽ chấp nhận luận điểm sai trái của kẻ ngụy biện về vấn đề đang bàn.

Trong ví dụ này, HPS đầu tiên giới thiệu về anh bán hàng rong không đội mũ bảo hiểm, đi xe tự chế bla bla ... rồi từ đó bỗng vẻ ra một viễn cảnh giật gân, rùng rợn (trích) "Anh ấy sẽ có thể phi xe tự chế ấy vào con em bạn, hay va quẹt để đẩy chính các bạn vào gầm xe tải chết tốt!" (hết trích) - chính là để độc giả bỗng có một ấn tượng xấu, chán ghét anh bán hàng rong, để rồi từ đó thuyết phục độc giả rằng anh bán hàng rong bị CA đánh là đúng, không có gì đáng nói cả. Cách làm độc giả nghĩ xấu về anh bán hàng rong vô cớ như vậy, chính là appeal to spite.
Ngụy biện appeal to spite thường áp dụng personal attack (nói xấu người khác) tương tự như ngụy biện ad hominem, nhưng appeal to spite không phải là ngụy biện ad hominem (tấn công cá nhân), vốn chỉ dùng cho trường hợp người đối thoại A tấn công cá nhân người đối thoại B mà không liên quan chủ đề tranh luận.
Ngụy biện gièm pha, gây chán ghét (appeal to spite) được sử dụng rất nhiều bởi các dư luận viên để định hướng dư luận, hay như trong thói quen rỉ tai nói xấu sau lưng người khác để dành phần lợi cho mình của người Việt.
- Ví dụ 32: ngụy biện tâng bốc (appeal to flattery) ngụy biện gièm pha, gây chán ghét (appeal to spite)
 (Trích) TRƯỚC HẾT TÔI KHEN TRÌNH ĐỘ VÕ THUẬT CỦA ANH CÔNG AN, GÌ CHỨ THẰNG LÁI XE TRÔNG LÙN LÙN BẨN BẨN NHƯNG TÓC XOĂN DA ĐEN TRŨI, BẮP ĐÙI NÓ TO NHƯ TRỤ ĐƯỜNG SẮT CÁT LINH - HÀ ĐÔNG, THẰNG NÀY KHÔNG NẶNG NGÓT TẠ MỚI LÀ LẠ. ANH QUẬT NGÃ NÓ BẰNG MỘT ĐÒN KHIẾN TÔI TÂM PHỤC KHẨU PHỤC, HOÀN TOÀN IÊN TÂM VỀ NĂNG LỰC CỦA CÁC ĐỒNG CHÍ CÔNG AN!. (hết trích)
Ở đoạn văn trên, Chung Nguyễn (Phú) đã sử dụng hai ngụy biện, ngụy biện tâng bốc (appeal to flattery)ngụy biện gièm pha gây chán ghét (appeal to spite) cùng lúc.
1- ngụy biện tâng bốc (appeal to flattery) là kiểu ngụy biện khi một ai đó cố ý tâng bốc một nhân vật, đối tượng nào đó lên quá mức, quá sự thật, để đánh vào tâm lý người trao đổi, độc giả, để họ nhìn nhận sự việc liên quan đến nhân vật, đối tượng đó một cách lệch lạc, từ đó chấp nhận quan điểm thiếu logic của kẻ ngụy biện. CN khen anh công an này, nào là trình độ võ thuật cao, đòn đánh đẹp khiến hắn khâm phục ...etc chính là để đánh vào tâm lý độc giả, để họ cũng thích thú và có cảm tình với anh CA đánh dân, để họ xem hành động đó là đáng khen (trong khi điều cần làm là lên án anh công này này đã dùng vũ lực quá mức, gây thương tổn trầm trọng anh bán hàng rong).
2- ngụy biện gièm pha, gây chán ghét (appeal to spite - xem lại ví dụ 31): Chung Nguyễn mô tả anh bán hàng rong một cách tệ mạc - "thằng lái xe trông lùn lùn bẩn bẩn nhưng tóc xoăn da đen trũi, bắp đùi nó to như trụ đường sắt Cát Linh - Hà Đông," - chính là ngụy biện gièm pha, hướng độc giả xem thường, hạ thấp anh bán hàng rong.
Ngụy biện tâng bốc (appeal to flattery) thật ra được dùng thịnh hành trong cuộc sống, ví dụ những câu mật ngọt nịnh đầm của chàng trai dành cho các cô gái, như lời người bán hàng (sale) với khách hàng về sản phẩm của họ đang rao bán, như báo chí VN tung hô các nhân vật lãnh đạo quá đáng (để định hướng suy nghĩ tôn sùng, yêu quý của dân chúng với các nhà lãnh đạo đó).
Dư luận viên thường hay dùng hai cặp ngụy biện, ngụy biện tâng bốc (appeal to flattery) ngụy biện gièm pha (appeal to spite) song hành với nhau, để nâng người này lên và đạp người khác xuống cùng lúc cho mục đích định hướng dư luận hiểu sai, nghĩ sai về một vấn đề nào đó của chúng. Câu nói trên của Chung Nguyễn là một ví dụ điển hình như vậy.

Hãy tìm cái sai ngụy biện của mấy dòng toán trên đây (*)

Ngụy Biện – Rhetoric

Cấu trúc của chứng minh:
Chứng minh gồm ba phần liên quan chặt chẽ với nhau : luận đề, luận cứ và luận chứng.
Luận đề: Luận đề là phán đoán mà tính chân thực của nó phải chứng minh. Luận đề là thành phần chủ yếu của chứng minh và trả lời cho câu hỏi : Chứng minh cái gì ?
Luận cứ: Luận cứ là những phán đoán được dùng làm căn cứ để chứng minh cho luận đề. Luận cứ chính là  những tiền đề lôgíc  của chứng minh và  trả lời cho câu hỏi : Dùng cái gì để chứng minh?
Luận chứng: Luận chứng là cách thức tổ chức sắp xếp các luận cứ theo những qui tắc và qui  luật lôgíc nhằm xác lập mối liên  hệ tất yếu giữa luận cứ và  luận đề.
1. Các qui tắc của chứng minh:
1.1 Các qui tắc đối với luận đề.
Qui tắc 1: Luận đề phải chân thực: Nếu luận đề không chân thực thì không thể nào chứng minh được. Ví dụ :Hãy chứng minh rằng : “Loài người được nặn ra từ đất sét”. Luận đề không thể chứng minh được, vì nó không chân thực.
Qui tắc 2: Luận đề phải phải rõ ràng, chính xác: Sẽ không thể chứng minh được, nếu luận đề không được xác định rõ ràng. Ví dụ: Hãy  chứng minh rằng : “Giai cấp công nhân là  giai  cấp bị bóc lột”. Luận đề này  không  thể chứng minh được, vì  nó  khá  mơ hồ : Giai cấp công nhân dưới chế độ nào.
Qui  tắc 3: Luận đề phải đuợc giữ nguyên  trong  suốt quá trình  chứng minh. Giữ nguyên luận đề nhằm thực hiện nhiệm vụ của chứng minh. Nếu luận đề bị thay đổi thì nhiệm vụ chứng minh không hoàn thành, tức là luận đề được xác định ban đầu thì không chứng minh một luận đề khác.
1.2 Các qui tắc đối với luận cứ.
Qui tắc 1: Luận cứ phải là những phán đoán chân thực. Tính  chân  thực của luận cứ là  yếu tố bảo đảm cho tính chân thực của luận đề. Vì vậy, không thể khẳng định tính chân thực của luận đề dựa trên cơ sở những luận cứ giả dối.
Qui  tắc 2: Luận cứ phải là  những phán đoán có tính chân thực được chứng minh độc lập với luận đề.Luận đề chỉ được chứng minh khi lấy tính chân thực của luận cứ làm cơ sở. Nếu tính chân thực của luận cứ lại được rút ra từ luận đề thì  như thế là chẳng  chứng  minh  được  gì  cả.  Lỗi  lôgíc  này  gọi  là  lỗi  “chứng  minh  vòng quanh”
Ví dụ: Trong  “Chống Đuy rinh”, Ăng ghen chỉ cho chúng ta thấy ông Đuy rinh đã “chứng minh vòng quanh ”:Ông muốn chứng minh rằng : “Thời gian là có bước khỏi đầu” bằng luận cứ : “Vì  chuỗi thời gian vừa qua là đếm được”. Nhưng luận cứ này  của ông Đuy rinh lại được rút ra từ luận đề : “Chuỗi thời gian vừa qua là đếm được” vì “Thời gian là có bước khởi đầu”
Qui tắc 3: Luận cứ phải là lý do đầy đủ của luận đề. Giữa các luận cứ phải có mối liên hệ trực tiếp và tất yếu đối với luận đề. Các  luận cứ không chỉ chân thực mà  còn  phải không thiếu, không thừa, bảo đảm cho luận đề được rút ra một cách tất yếu khách quan nhờ vào các lập luận logic.
1.3 Các qui tắc đối với luận chứng.
Qui tắc 1: Luận chứng phải tuân theo các qui tắc, qui luật lôgíc. Vi  phạm các qui tắc, qui luật lôgíc thì  kết luận không được rút ra một cách tất yếu từ tiền đề, tức là không chứng minh được luận đề.
Qui tắc 2: Luận chứng phải bảo đảm tính hệ thống. Các  luận cứ phải được sắp xếp, tổ chức chặt chẽ, bảo  đảm cho  phép chứng minh có sức thuyết phục cao.
Qui tắc 3: Luận chứng phải bảo đảm tính nhất quán – phi mâu thuẫn. Nếu trong phép chứng minh có chứa những luận cứ mâu thuẫn với nhau trực tiếp hoặc gián tiếp, thì phép chứng minh ấy chứa mâu thuẫn lôgíc, không thuyết phục.
2. Phân loại chứng minh
2.1 Chứng minh trực tiếp
2.2 Chứng minh gián tiếp: Chứng minh gián tiếp là chứng minh trong đó tính chân thực của luận đề rút ra từ tính không chân thực của phản luận đề. Có  2  loại chứng minh gián tiếp là  :  Chứng minh phản chứng và chứng minh loại trừ.
2.2.1 BÁC BỎ
Nếu như chứng minh có 3 bộ phận : Luận đề, luận cứ và luận chứng thì bác  bỏ cũng có 3 hình  thức : Bác bỏ luận đề, bác bỏ luận cứ và  bác  bỏ luận chứng.
Bác bỏ luận đề: Bác bỏ luận đề có hai cách :
Cách 1 : Bác bỏ luận đề thông qua việc vạch ra tính giả dối của hệ quả rút ra từ luận đề
Cách 2 : Bác bỏ luận đề thông qua chứng minh phản luận đề.
Muốn bác bỏ luận đề, ta chỉ cần chứng minh cho tính đúng đắn của phản luận đề, do đó theo luật mâu thuẫn, luận đề phải sai
Bác bỏ luận cứ: Bác bỏ luận cứ là chỉ ra tính không chân thực, không đầy đủ của luận cứ, luận cứ không chân thực không đầy đủ thì luận đề không thể đứng vững, luận đề cũng bị bác bỏ.
Chuyện vui :
Thỉnh thoảng, mẹ nhờ con gái nhổ tóc sâu. Một hôm, bé thỏ thẻ : “Mẹ ơi, sao tóc mẹ bạc nhiều thế ?”
Mẹ âu yếm trách :
– Tóc mẹ bạc nhiều chứng tỏ con của mẹ hư lắm !
Đức bé ngây thơ hỏi lại :
-Ủa, vậy chắc mẹ hư lắm hả mẹ. Con thấy tóc bà ngoại bạc gần hết rồi !?
Bác bỏ luận chứng: Bác bỏ luận chứng là vạch ra những sai lầm, vi phạm các qui tắc, qui luật lôgíc trong quá trình chứng minh
qui tắc của tam đoạn luận.”
“vi phạm qui tắc lôgíc, cả hai đều mắc lỗi “bốn thuật ngữ”. Nên cách luận chứng trên là không thể tin cậy.”
2.2.2 NGỤY BIỆN
1-Định nghĩa: 
Ngụy biện là  lối lập luận quanh co, vi phạm luật lôgíc nhằm làm cho người khác hiểu sai sự thật . Đối với nhà ngụy biện thì mục đích của họ không phải là vạch ra chân lý, mà là che giấu sự thật. Họ luôn luôn muốn thay thế sự chứng minh đúng đắn bằng lòng tin chất phác của người khác vào lý lẽ giả dối của họ.
VD:
Một anh học trò đến hàng cơm mượn một cái  vạc rồi đem bán mất. Bị người chủ đòi, anh ta bèn đi kiếm hai con cò đưa đến khất, xin để cho vài bữa nữa. Nhưng rồi mãi mãi vẫn chẳng thấy anh ta trả, nhà hàng đành phải kiện lên quan. Quan cho đòi người học trò đến hỏi. Anh ta thưa rằng
-Tôi mượn bác  có  một vạc mà đã trả đến hai cò rồi. Bác ấy còn đòi gì nữa?
Nhà hàng cãi :
-Nguyên vạc của tôi là vạc đồng kia mà.
Người học trò liền đáp : – Thì cò của tôi đâu phải là cò ở trong nhà !
Anh học trò đã ngụy biện bằng cách đánh tráo khái niệm “cái vạc” (cái chảo lớn) với “con vạc” (một thứ chim chân cao thuộc loại c ò) và “đồng” (ruộng) với “đồng” (kim loại), làm cho chủ nhà hàng lúng túng.
2 – Các hình thức ngụy biện
2.1. Ngụy biện đối với luận đề.
Ví dụ :
Một người tự kiểm điểm về những sai phạm của mình, nhưng suốt từ đầu đến cuối của bản tự kiểm điểm, anh ta chỉ trình bày hoàn cảnh khách quan và những khó khăn mọi mặt của bản thân, của gia đình. Vậy là tên luận đề thì “tự kiểm điểm về sai phảm của bản thân” nh ưng thực tế luận đề lại đ ược đổi thành “kiểm điểm” hoàn cảnh khách quan và “kiểm điểm” khó khăn về mọi mặt của gia đình, của bản thân.
Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn thấy kiểu ngụy biện đánh tráo luận đề như: bản kiểm điểm tình hình sản xuất kinh doanh của một đ ơn vị lại trở thành bản báo cáo thành tích.
Luận chứng cho tính khoa học của một chủ trương thì lại ra sức ca ngợi người đề ra chủ trương đó v.v… Ngụy biện bằng cách đánh tráo luận đề dễ bị phát hiện, nhưng những kẻ ngụy biện vẫn không ngần ngại sử dụng hình thức này
2.2. Ngụy biện đối với luận cứ: Ngụy biện đối với luận cứ th ường được biểu hiện ở các dạng sau : a) Sử dụng luận cứ không chân thực : Luận cứ do bịa đặt : Kẻ ngụy biện bịa đặt ra luận cứ để che lấp sự thật, biện hộ cho h ành vi sai trái của mình. Ví dụ : Nhân viên kiểm tra chất vấn kẻ bị tình nghi là thủ phạm của vụ án (thực ra hẳn chính là thủ phạm) như sau : – Đêm qua khi xảy ra vụ án, lúc 10 giờ, anh ở đâu ? Tên thủ phạm cố tình chạy tội bằng cách bịa ra chứng cứ giả để đánh lừa cơ quan điều tra : – Lúc đó tôi đang ở nhà một người bạn gái. Luận cứ sai sự thật Kẻ ngụy biện sử dụng những luận cứ hoàn toàn không đúng hoặc chỉ đúng một phần của sự thật. Ví dụ : Để qua mắt cơ quan thanh tra, m ột cơ sở kinh doanh nọ đã đưa ra những hóa đơn, chứng từ không hoàn toàn đúng với sự thật.
a/ Ngụy biện do sử dụng luận cứ không chân thực mà chúng ta thường thấy hàng ngày là những hành vi “nói dối”, “lừa bịp”, v.v…
b) Sử dụng những luận cứ chưa được chứng minh: Sử dụng dư luận, tin đồn làm luận cứ : Trường hợp này, kẻ ngụy biện không sử dụng các luận cứ là những luận điểm, những sự kiện đã được chứng minh, mà lại căn cứ vào dư luận, vào tin đồn để biện hộ, để qui kết. Dư luận tin đồn không thể được sử dụng làm luận cứ, bởi vì tính chân thật của chúng không xác định, ch ưa được chứng minh.
Ví dụ: Theo dư luận thì anh ta là m ột con người không trung thực, không trong sáng, có nhiều động cơ mờ ám. Vì vậy không thể để anh ta tiếp tục công việc này.
Đây là lối ngụy biện ta thường thấy khi lý lẽ không đủ sức thuyết phục, kẻ ngụy biện tìm cách lấy dư luận để làm luận cứ. Thứ “vũ khí” này không mấy “tối tân” nhưng lại tỏ ra rất lợi hại. Tr ước các cuộc bầu cử ở ph ương Tây, các ứng củ viên thường mở các chiến dịch bôi nhọ, tạo d ư luận không tốt, nhằm hạ gục đối phương. Dùng ý kiến của số đông (đa số) để làm luận cứ : Sự thật không phải bao giờ cũng thuộc về số đông. Kẻ ngụy biện lại lấy ý kiến của đa số để thay thế cho sự thật.
Tại một kỳ thi người ta phát hiện có đề thi sai, một người đã biện hộ : “Đề thi không có gì phải bàn cãi, nó hoàn toàn đúng vì đã được thông qua một tập thể hội đồng”. Đây là lối giải thích ngụy biện, vì không phải bao giờ đề thi đ ược sự xem xét của một tập thể hội đồng cũng hoàn toàn đúng
Có 85% ý 102 của tập thể khẳng định rằng biện pháp kỹ kiến thuật này đem lại hiệu quả cao. Lối ngụy biện trên đây là ở chỗ : lấy ý kiến của đa số để khẳng định hiệu quả của một biện pháp kỹ thuật, m à đúng ra phải lấy các tiêu chuẩn kinh tế – kỹ thuật để xác định hiệu quả của biện pháp kỹ thuật đó
c) Sử dụng ý kiến, lời nói của người có uy tín để làm luận cứ: Ý kiến, lời nói của ng ười có uy tín không phải bao giờ cũng chân thật, đúng đắn. Kẻ ngụy biện đã lợi dụng sự tin yêu, mến mộ, khâm phục của công chúng đối với người có uy tín, để làm cho công chúng tin vào ý ki ến, lời nói của người đó thay cho sự thật
Ví dụ : Ông A, ông X, bà Y đã nói, tất đúng (vì ông A, ông X, bà Y làn có uy tín)
Lối ngụy biện này thể hiện ở chỗ người ta đã dựa vào “giá trị” của người phát biểu để thay cho những chứng cứ khách quan, xác đáng.
2.3 Ngụy biện đối với luận chứng: Là thủ thuật vi phạm các qui tắc, qui luật lôgíc một c ách tinh vi trong quá trình lập luận, làm cho người khác tin rằng kết luận của nhà ngụy biện đưa ra là đúng sự thật. Trong hình thức ngụy biện đối với luận chứng, nhà ngụy biện xuất phát từ những luận cứ chân thực, kết luận rút ra cũng có thể l à chân thực. Tuy vậy, tính chân thực của kết luận không phải đ ược rút ra một cách tất yếu từ các lập luận và từ các luận cứ (tiền đề) chân thực của nó. Vì vậy, đây là hình thức ngụy biện tinh vi, khó phát hiện nhất, làm cho đối phương lúng túng trong quá trình tranh luận.
Ngụy biện đối với luận chứng th ường được biểu hiện ở các dạng sau
a/Đánh tráo khái niệm : Nhà ngụy biện đánh tráo khái niệm bằng cách lợi dụng ngôn ngữ, lợi dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để đánh tráo nghĩa của từ; lợi dụng hiện tượng chuyển loại từ trong ngôn ngữ để tráo từ loại của từ v.v…
Ví dụ : Lao động là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội, bất luận thời đại nào. Học tâm lý học cũng là lao động. Vậy suy ra rằng : học tâm lý là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội, bất luận thời đại nào’. Sự ngụy biện trên đây xuất phát từ khái niệm “lao động”, khái niệm này được dùng với hai nghĩa khác nhau. Ở tiền đề đầu tiên, khái niệm “lao động” được hiểu là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của xã hội. Ở tiền đề thứ hai, khái niệm “lao động” lại được hiểu là một dạng lao động cụ thể của con người : hoạt động nhận thức
b/ Đánh tráo hiện tượng với bản chất, nguyên nhân với kết quả : Ví dụ : “Định luật 3 Niu-tơn nói rằng hai vật tác động vào nhau đều gây ra những lực có cùng cường độ nhưng ngược chiều nhau. Nhưng khi xe đạp đâm vào ô tô thì xe đạp cong vành, vậy “lực xe đạp tác động vào ôtô bé hơn lực ôtô tác động vào xe đạp”
Trong toán học, nhà ngụy biện cố ý không tuân thủ các điều kiện khi triển khai các công thức, biến đổi các biểu thức v.v…
c/ Đánh tráo vật qui chiếu: Thủ thuật đánh tráo vật qui chiếu làm cho người khác nhìn nhận sự vật theo một qui chiếu khác và do đó không phân biệt được phải trái, đúng sai. Ví dụ : Phép ngụy biện : “Người che mặt” của Evbulid diễn ra như sau:
Người ta dẫn đến Elếchtra một ng ười bị trùm kín mặt, và hỏi : – Anh có biết người bị che mặt này không ? – Không biết. – Orếch đấy. Thế là anh không biết Orếch là người anh của anh mà anh ko biết.
d/ Luận chứng không đúng : – Vi phạm các qui tắc của tam đoạn luận : Ví dụ :
“Vợ tôi là một phụ nữ xinh đẹp, hoa hậu thế giới cũng l à một phụ nữ xinh đẹp. Vậy hoa hậu thế giới chính l à vợ tôi”. Ngụy biện trên đây đã vi phạm qui tắc : thuật ngữ giữa “phụ nữ xinh đẹp” có ngoại diên không đầy đủ trong cả hai tiền đề.
e/ Luận chứng vòng quanh:
Luận chứng vòng quanh là lối luận chứng mà kết luận được rút ra từ tiền đề nhưng bản thân tiền đề lại được suy ra từ kết luận (tính chân t hật của luận cứ không được chứng minh độc lập với luận đề).
Ví dụ : Một du khách đến thăm một thầy ph ù thủy ở Congo, thấy trong phòng ông ta có m ột cái hộp giấy đựng rất nhiều ong. Thầy phù thủy cho biết : “Nếu ông là thù thì lũ ong đã đốt ông rồi. Tuần trước có một kẻ xấu vào đây, liền bị ong đốt cho phải bỏ chạy”. – Hắn ta đã nói gì với ông “ Du khách hỏi. – Chưa kịp nói gì cả. – Vậy làm sao ông biết hắn là kẻ xấu ? – Vì ong đã đốt hắn. (Dẫn theo [9], tr.178) Đúng là lập luận vòng quanh : Ong thì đốt kẻ xấu và kẻ xấu thì bị ong đốt.





Logic học hình thức: 4 Quy tắc Logic cơ bản

 (Hay quy tắc cơ bản trong suy luận của con người).

1. Quy tắc đồng nhất: sự vật là chính nó.
Nếu một sự vật là chính nó, hiển nhiên nó không phải là thứ gì khác.
Ví dụ : Bạn gái là bạn gái, bạn gái không phải mẹ mình

2. Quy tắc bài trung: giữa tồn tại và không tồn tại không có hình thái trung gian nào.
Ví dụ : Con chó là đã hình thành, không tồn tại dạng đang hình thành con chó, và nếu đang hình thành nó lại được gọi là 1 tên khác ví dụ : Bào thai chó.

3. Quy tắc lý do đầy đủ: có một lý do đầy đủ cho mọi chuyện.
Quy tắc này còn có thể được gọi là “quy tắc nhân quả”. Nội dung của nó là bất kỳ thứ gì tồn tại trong vũ trụ vật chất đều chứa đựng lời giải cho sự tồn tại của chúng.
Một sự vật được xem là nguyên nhân của sự vật khác vì nó (a) giải thích sự tồn tại của sự vật kia, hoặc (b) giải thích vì sao sự vật kia tồn tại theo cách cụ thể nào đó – tức là giải thích “cách” thức tồn tại của nó.
Ví dụ : Quả trứng là do con gà đẻ ra chứ không thể tự nhiên có quả trứng.

4. Quy tắc mâu thuẫn: không có đối tượng nào có thể vừa tồn tại vừa không tồn tại cùng lúc trong cùng một phương diện.
Quy tắc này được xem là cách diễn đạt đầy đủ hơn của quy tắc đồng nhất. Nếu X là X (quy tắc đồng nhất), nó không thể cùng lúc không phải là X (quy tắc mâu thuẫn). Cụm từ “trong cùng một phương diện” ở phát biểu trên nói đến cách thức tồn tại đang bàn đến. Sẽ không có mâu thuẫn nào nếu thứ gì đó vừa mang một trạng thái vừa cùng lúc không mang trạng thái đó trên những phương diện khác nhau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

3 câu chuyện suy ngẫm.

Nguồn : Internet . 1. Ngủ nhờ  Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra vào một ngày mùa đông năm 1966 ở nước Mỹ. Jack quyết định ...