Nguồn : Internet
.
1.
Tách trà
Nan-in, một thiền sư thời Minh Trị
Thiên Hoàng (1868-1912), tiếp một giáo sư đại học đến để hỏi về Thiền.
Nan-in rót trà. Thiền sư rót đầy tách của giáo sư, và cứ tiếp tục rót.
Nan-in rót trà. Thiền sư rót đầy tách của giáo sư, và cứ tiếp tục rót.
Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài
cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Tràn ra ngoài rồi, không thêm được nữa!”
“Như là tách trà này,” Nan-in nói,
“ông đầy ý kiến và phỏng đoán. Làm sao tôi có thể chỉ Thiền cho ông nếu ông
không đổ sạch tách của ông trước?”
2.
Nhặt được
kim cương giữa lối bùn
Thiền sư Gudo là thầy của Thiên
hoàng. Dù vậy, ngài thường đi xa một mình như là một hành khất lang thang. Ngày
nọ trên đường đến Edo, trung tâm văn hóa chính trị của Nhật thời đó, Gudo đến
gần một làng nhỏ tên Takenada. Trời đã tối và mưa rất lớn. Gudo ướt sũng cả
người. Đôi dép rơm của ngài đã rã nát. Đến một căn nhà gần làng ngài thấy có
bốn năm đôi dép trên cửa sổ và quyết định mua vài đôi khô.
Một người đàn bà mang dép ra cho ngài và, thấy ngài ướt sũng, bèn mời ngài vào nhà chị trú qua đêm. Gudo nhận lời, cám ơn chị. Ngài vào nhà, tụng một bài kinh trước bàn thờ gia đình. Sau đó ngài được giới thiệu đến mẹ và các con của chị. Thấy cả nhà có vẻ trầm uất, Gudo hỏi có chuyện gì không ổn.
Một người đàn bà mang dép ra cho ngài và, thấy ngài ướt sũng, bèn mời ngài vào nhà chị trú qua đêm. Gudo nhận lời, cám ơn chị. Ngài vào nhà, tụng một bài kinh trước bàn thờ gia đình. Sau đó ngài được giới thiệu đến mẹ và các con của chị. Thấy cả nhà có vẻ trầm uất, Gudo hỏi có chuyện gì không ổn.
“Chồng con là người mê cờ bạc và say
sưa,” chị nói. “Khi anh ấy thắng, anh uống say và trở nên dữ dằn. Khi thua, anh
vay tiền của người khác. Đôi khi say quá mức, anh không về nhà luôn. Con làm gì
được bây giờ?”
“Tôi sẽ giúp anh ấy,” Gudo nói. “Tôi
có tiền đây. Chị mua dùm tôi môt bình rượu lớn và ít đồ ăn. Xong rồi chị có thể
đi nghỉ. Tôi sẽ thiền định trước bàn thờ.”
Khi anh chồng về nhà lúc nửa đêm,
say mèm, anh rống: ‘Ê, vợ, tôi đây. Có gì cho tôi ăn không?”
“Tôi có chút ít cho anh,” Gudo nói.
“Tôi bị kẹt mưa và vợ anh rất tử tế, hỏi tôi ở lại đây qua đêm. Để trả ơn tôi
đã mua một ít rượu và cá, vậy anh ăn luôn một thể.”
Anh chồng vui vẻ. Uống một hơi hết
hủ rượu và nằm lăn xuống sàn. Gudo ngồi thiền cạnh anh ta.
Đến sáng anh chồng thức dậy và quên mất mọi sự đêm hôm trước. “Ông là ai? Ông tới từ đâu?” anh ta hỏi Gudo, người vẫn đang ngồi thiền.
Đến sáng anh chồng thức dậy và quên mất mọi sự đêm hôm trước. “Ông là ai? Ông tới từ đâu?” anh ta hỏi Gudo, người vẫn đang ngồi thiền.
“Tôi là Gudo ở Kyoto và tôi đang
trên đường đi Edo,” thiền sư trả lời.
Anh chồng thấy rất xấu hổ. Anh lính
quýnh xin lỗi vị thầy của Thiên hoàng.
Gudo mỉm cười. “Mọi sự trên đời đều
vô thường,” ngài giải thích. “Cuộc đời rất ngắn. Nếu anh cứ tiếp tục đánh bạc
và say sưa, anh sẽ chẳng còn tí thời gian nào để làm được việcgì khác, và anh
sẽ làm gia đình anh đau khổ nữa.”
Đầu óc của người chồng bỗng thức
tỉnh như từ trong một giấc mơ. “Thầy nói rất phải,” anh nói. “Làm sao con có
thể trả ơn thầy cho những lời dạy vi diệu này! Để con tiễn thầy đi một đoạn và
mang đồ cho thầy.”
“Được, nếu anh muốn vậy,” Gudo đồng
ý .
Hai người ra đi. Được ba dặm, Gudo
bảo anh chồng đi về. “Thêm năm dặm nữa thôi,” anh kèo nài. Họ đi tiếp.
“Anh về được rồi,” Gudo đề nghị.
“Mười dặm nữa,” anh chồng nói.
“Về đi,” Gudo nói khi đã xong mười
dặm.
“Con sẽ theo thầy cả đời,” anh chồng
tuyên bố.
Các thiền sư Nhật ngày nay đều phát
sinh từ dòng của một thiền sư nổi tiếng kế vị Gudo. Đó là thền sư Mu-nan, người
đàn ông không bao giờ quay lại.
3.
Vậy à
Thiền sư Hakuin được láng giềng ca
tụng là sống một cuộc đời tinh khiết.
Gần nơi thiền sư ở có một cô gái đẹp con của ông bà chủ tiệm thực phẩm. Đột nhiên bố mẹ cô gái khám phá là cô đang có thai.
Gần nơi thiền sư ở có một cô gái đẹp con của ông bà chủ tiệm thực phẩm. Đột nhiên bố mẹ cô gái khám phá là cô đang có thai.
Bố mẹ cô rất giận. Cô chẳng thú nhận
ai là bố đứa bé, nhưng sau nhiều áp lực, cuối cùng cô khai tên thiền sư Hakuin.
Cực kỳ giận dữ, bố mẹ cô đến gặp
thiền sư. “Vậy à.” thiền sư chỉ nói vậy.
Sau khi đứa bé chào đời, nó được
mang đến cho Hakuin. Đến giờ này thiền sư đã hoàn toàn mất hết tăm tiếng, nhưng
ngài chẳng thấy phiền toái gì, và ngài lo cho đứa bé rất tốt. Thiền sư xin hàng
xóm sữa và các thứ mà đứa bé cần.
Một năm sau cô gái mẹ đứa bé chịu
hết nổi. Cô thú thật với bố mẹ rằng bố thật của đứa bé là một cậu làm việc
trong chợ cá.
Bố mẹ cô gái đi gặp Hakuin ngay và
xin lỗi, năn nỉ kể lể dài dòng, và xin đứa bé lại.
Hakuin bằng lòng. Và khi giao đứa bé
lại, thiền sư chỉ nói “Vậy à.”
4.
Vâng lời
Các buổi thuyết giảng của thiền sư
Bankei thu hút không chỉ thiền sinh mà đủ mọi hạng người của mọi giáo phái.
Thiền sư chẳng bao giờ nhắc đến kinh kệ hay dùng các lý luận khoa bảng, mà chỉ
nói trực tiếp từ quả tim đến thẳng quả tim của người nghe.
Một nhà sư của giáo phái Nichiren bực tức vì đám đông đến nghe thiền sư Bankei và vì một số tín đồ của nhà sư đã bỏ sư mà đi nghe Bankei giảng. Vị sư Nichiren tự ái, đi đến chùa, nhất định phải tranh luận với Bankei.
Một nhà sư của giáo phái Nichiren bực tức vì đám đông đến nghe thiền sư Bankei và vì một số tín đồ của nhà sư đã bỏ sư mà đi nghe Bankei giảng. Vị sư Nichiren tự ái, đi đến chùa, nhất định phải tranh luận với Bankei.
“Ê, thiền sư!” vị sư Nichiren gọi.
“Đợi một tí. Ai kính trọng ông sẽ vâng theo lởi ông, nhưng người như tôi không
kính trọng ông. Ông có thể làm tôi vâng lời ông không?”
“Đến bên cạnh tôi và tôi sẽ chỉ cho
ông,” Bankei nói.
Nhà sư Nichiren hãnh diện bước qua
đám đông đến cạnh thiền sư.
Bankei smiled. “Qua bên trái tôi.”
Vị sư làm theo.
“Không,” Bankei nói, “chúng ta nói
chuyện dễ hơn nếu anh đứng bên phải. Bước qua đây.”
Nhà sư hãnh diện bước sang bên phải.
“Anh thấy không” Bankei nhận xét,
“anh đang vâng lời tôi và tôi nghĩ rằng anh là một người rất hiền dịu. Bây giờ,
anh ngồi xuống đây và nghe.”
5.
Nếu yêu, hãy
yêu công khai
Hai mươi nhà sư và một ni cô tên
Eshun học thiền với một thiền sư.
Eshun rất đẹp dù là đầu của ni cô đã
cạo và áo cà sa rất thường. Vài vị sư thầm yêu nàng. Một vị viết cho nàng một
lá thư tỏ tình, xin được gặp riêng nàng.
Eshun không trả lời. Ngày hôm sau thiền sư giảng bài cho cả lớp, và khi thầy giảng xong, Eshun đứng dậy. Nhìn người đã viết thơ tỏ tình cho mình, Eshun nói: “Nếu thực sự anh yêu tôi rất nhiều, hãy đến đây và ôm tôi.”
Eshun không trả lời. Ngày hôm sau thiền sư giảng bài cho cả lớp, và khi thầy giảng xong, Eshun đứng dậy. Nhìn người đã viết thơ tỏ tình cho mình, Eshun nói: “Nếu thực sự anh yêu tôi rất nhiều, hãy đến đây và ôm tôi.”
6.
Không có
từ tâm
Một người phụ nữ ở Trung Quốc đã cấp
dưỡng một vị sư hơn 20 năm. Bà đã làm một chòi nhỏ cho sư và lo việc ăn uống
khi sư thiền định. Cuối cùng bà thắc mắc là không biết vị sư đã tiến bộ được gì
trong suốt bao nhiêu năm.
Để tìm câu trả lời, bà nhờ một cô gái đầy ham muốn giúp một tay. “Vào ôm ông,” bà bảo cô gái, “rồi hỏi đột ngột: ‘Làm gì bây giờ?’ ”
Để tìm câu trả lời, bà nhờ một cô gái đầy ham muốn giúp một tay. “Vào ôm ông,” bà bảo cô gái, “rồi hỏi đột ngột: ‘Làm gì bây giờ?’ ”
Cô gái vào gặp sư và, chẳng nề hà
gì, đến vuốt ve sư, hỏi sư phải làm thế nào về việc đó.
“Một cây mọc trên tảng đá trong mùa
đông,” vị sư trả lời đầy thi vị. “Chẳng nơi đâu có hơi ấm.”
Cô gái trở về và báo cáo lại điều sư
nói.
“Nghĩ đến việc tôi nuôi ông này cả
20 năm!” bà than một cách giận dữ. “Ông ta chẳng tỏ vẻ gì quan tâm đến nhu cầu
của cô, chẳng hề muốn giải thích tình trạng của cô. Ông ta không cần phải đáp
lại ham muốn, nhưng ít ra ông ta cũng phải tỏ lộ được một tí từ tâm.”
Bà liền đi ngay đến chòi của vị sư
và đốt nó.
7.
Thông báo
Vào ngày cuối cùng của đời mình,
thiền sư Tanzan viết 60 bưu thiếp, nhờ một người trợ lý gởi đi. Rồi thiền sư
qua đời.
Các tờ bưu thiếp viết:
Các tờ bưu thiếp viết:
Tôi đang rời xa thế giới này.
Đây là thông báo cuối cùng của tôi.
Đây là thông báo cuối cùng của tôi.
Tanzan
27 tháng 7 năm 1892
27 tháng 7 năm 1892
8.
Sóng Lớn
Vào đầu thời Minh Trị Thiên Hoàng có
một võ sĩ đánh vật tên là O-nami, tức là Sóng Lớn.
O-nami rất mạnh và giỏi về nghệ
thuật đánh vật. Trong những trận đấu riêng, O-nami thắng cả thầy của mình,
nhưng khi ra trước đám đông O-nami lại quá rụt rè đến nỗi chính học trò của anh
cũng vật anh được.
O-name nghĩ là mình nên tìm một thiền sư giúp đở. Hakuju, một thiền sư lang thang, đang dừng chân tại một chùa gần đó, nên O-nami đến gặp và kể về khó khăn lớn của mình.
O-name nghĩ là mình nên tìm một thiền sư giúp đở. Hakuju, một thiền sư lang thang, đang dừng chân tại một chùa gần đó, nên O-nami đến gặp và kể về khó khăn lớn của mình.
“Sóng Lớn là tên của anh,” thiền sư
tư vấn, “vậy thì ở lại chùa tối nay. Tưởng tượng anh là những ngọn sóng lớn đó.
Anh không còn là võ sĩ đánh vật hay sợ nữa. Anh là những đợt sóng vĩ đại quét
sạch tất cả những gì đứng trước mặt, nuốt sạch tất cả những gì sóng đi qua.
Tưởng tượng thế và anh sẽ là võ sĩ đánh vật siêu đẳng nhất nước.”
Vị thầy lui về. O-nami ngồi thiền cố
gắng tưởng tượng mình là sóng. Anh nghĩ đến rất nhiều chuyện. Rồi dần dần cảm
giác là sóng tăng thêm. Càng về đêm những lọn sóng càng lớn hơn. Sóng cuốn trôi
những cánh hoa trong các lọ hoa. Ngay cả tượng Phật trên bàn thờ cũng bị ngập
nước. Trước khi trời hừng đông, cả ngôi chùa chẳng còn là gì nữa ngoại trừ sóng
lên sóng xuống của đại dương.
Sáng ra vị thầy thấy O-nami vẫn còn
thiền định, với nét cười thoáng hiện trên mặt. Thiền sư vỗ vai chàng võ sĩ.
“Bây giờ chẳng còn điều gì có thể làm phiền anh,” thầy nói. “Anh là những đợt
sóng đó. Anh sẽ quét sạch mọi thứ trước mặt anh.”
Ngày đó O-nami thi đấu và thắng. Từ
đấy, không còn ai ở Nhật có thể thắng O-nami.
9.
Không trộm
được mặt trăng
Thiền sư Ryokan sống cuộc đời đơn
giản nhất trong một căn chòi nhỏ dưới chân núi. Buổi tối nọ một tên trộm vào
chòi chỉ để khám phá ra là chẳng có gì trong đó để trộm.
Ryokan trở về, bắt gặp tên trộm, “Có lẽ anh đã đi một quãng đường dài để thăm tôi,” thiền sư nói với tên trộm, “và anh không nên về không. Vậy hãy nhận áo quần của tôi làm quà tặng.”
Ryokan trở về, bắt gặp tên trộm, “Có lẽ anh đã đi một quãng đường dài để thăm tôi,” thiền sư nói với tên trộm, “và anh không nên về không. Vậy hãy nhận áo quần của tôi làm quà tặng.”
Tên trộm sửng sốt. Hắn nhận áo quần
và lẩn đi.
Ryokan ngồi trần truồng, ngắm trăng.
“Tội nghiệp,” thiền sư nghĩ thầm, “Ước gì mình có thể cho anh ta mặt trăng đẹp
đẻ này.”
10.
Bài thơ cuối
cùng của Hoshin
Thiền sư Hoshin sống ở Trung quốc
nhiều năm. Sau đó thiền sư trở về vùng tây bắc Nhật, dạy học trò. Khi thiền sư
đã rất già, ông kể một câu chuyện ông đã nghe ở Trung quốc. Câu chuyện thế này:
Vào ngày 25 tháng 12 năm nọ, Tokufu, rất già, nói với đệ tử: “Thầy không sống tới sang năm, vậy các con nên tử tế với thầy năm nay.”
Vào ngày 25 tháng 12 năm nọ, Tokufu, rất già, nói với đệ tử: “Thầy không sống tới sang năm, vậy các con nên tử tế với thầy năm nay.”
Các đệ tử nghĩ là thiền sư nói đùa,
nhưng vì thiền sư là vị thầy tốt bụng nên các đệ tử luân phiên chăm sóc cho
thầy mỗi ngày như ngày lễ.
Đến ngày cuối năm, Tokufu nói: “Các
con đã tốt với thầy. Thầy sẽ rời các con chiều mai, khi tuyết đã ngừng.”
Các đệ tử cười, và cho rằng thầy đã
già nên nói năng lẩm cẩm, bởi vì đêm rất trong và chẳng có tí tuyết nào. Nhưng
vào nửa đêm, tuyết bắt đầu rơi, và sáng hôm sau các đệ tử chẳng thấy thầy đâu cả.
Họ vào phòng thiền. Thầy đã qua đời ở đó.
Hoshin kể chuyện này và nói với các
đệ tử: “Thiền sư không cần phải đoán trước việc ra đi, nhưng thiền sư nào thực
sự muốn tiên đoán, ông ta có thể làm được.”
“Thầy làm được không?” ai đó hỏi.
“Được,” thầy sẽ cho các con thấy
thầy làm được gì 7 ngày sau.
Chẳng đệ tử nào tin thiền sư, và đa
số quên đã luôn cuộc trò chuyện khi thiền sư họp họ lại lần sau đó.
“Bảy ngày trước,” thiền sư nói,
“Thầy nói là thầy sẽ rời các con. Theo lệ thường là nên viết một bài thơ từ
biệt, nhưng thầy không phải là thi sĩ cũng không giỏi thư pháp. Một trò nào có
có thể ghi lại những lời cuối cùng của thầy.”
Các đệ tử cho là thiền sư nói đùa,
nhưng một người cũng bắt đầu viết.
“Sẵn sàng chưa?” thiền sư hỏi.
“Dạ, thầy,” người viết trả lời.
Rồi Hoshin đọc:
Tôi đến từ sự sáng
Và về lại sự sáng
Gì đây?
Và về lại sự sáng
Gì đây?
Bài thơ thiếu một câu như lệ thường
thơ bốn câu, vì vậy người học trò hỏi: “Thầy, mình còn thiếu một câu.”
Hoshin, với tiếng rống của một sư tử
chiến thắng, hét “Kaa!” và từ trần.
11.
Chuyện đời
Shunkai
Gian nhân tuyệt sắc Shunkai, còn có
tên là Suzu, bị bắt phải lấy chồng khi còn rất trẻ. Sau đó, khi cuộc hôn nhân
chấm dứt, nàng đi học đại học, và học triết.
Thấy Shunkai là phải yêu nàng. Hơn nữa, đi đâu nàng cũng yêu. Tình yêu đến với nàng ở đại học, sau đó, khi triết lý không thỏa mãn nàng, nàng vào thăm một ngôi chùa để học Thiền, và thiền sinh si mê nàng. Cả đời nàng thấm ướt tình yêu.
Thấy Shunkai là phải yêu nàng. Hơn nữa, đi đâu nàng cũng yêu. Tình yêu đến với nàng ở đại học, sau đó, khi triết lý không thỏa mãn nàng, nàng vào thăm một ngôi chùa để học Thiền, và thiền sinh si mê nàng. Cả đời nàng thấm ướt tình yêu.
Cuối cùng, ở Kyoto nàng trở thành
một thiền sinh thật sự. Các bạn thiền sinh nam ở chùa Kennin đều ca ngợi sự
thành tâm của nàng. Một người trong số thiền sinh nam có tâm ý tốt và giúp
nàng trong việc thực tập thiền.
Vị thầy trụ trì chùa Kennin là
Mokurai, có nghĩa là Sấm Lặng, rất khó khăn. Thầy giữ gìn lề luật nghiêm nghặt
và muốn các học trò cũng như thế. Trong nước Nhật của thời đại mới, nhiệt tâm
nào các vị sư đã mất về Phật học các vị hình như tìm lại được về các bà vợ.
Thầy Mokurai phải lấy chổi đuổi các bà đi khi thấy bà nào trong chùa. Nhưng
thầy đuổi nhiều chừng nào, các bà ùa vào lại nhiều chừng nấy.
Trong chùa này, bà vợ của sư trưởng tràng ghen với cố gắng và sắc đẹp của Shunkai. Nghe các học trò ca ngợi sự tập Thiền nghiêm chỉnh của Shunkai, bà khó chịu không yên. Cuối cùng bà phao tin đồn về Shunkai và người thiền sinh đang giúp đở cô. Hậu quả là anh ta và Shunkai bị đuổi ra khỏi chùa.
Trong chùa này, bà vợ của sư trưởng tràng ghen với cố gắng và sắc đẹp của Shunkai. Nghe các học trò ca ngợi sự tập Thiền nghiêm chỉnh của Shunkai, bà khó chịu không yên. Cuối cùng bà phao tin đồn về Shunkai và người thiền sinh đang giúp đở cô. Hậu quả là anh ta và Shunkai bị đuổi ra khỏi chùa.
“Tôi có thể là đã lầm lỗi trong tình
yêu,” Shunkai nghĩ, “nhưng bà này cũng không thể ở trong chùa nếu bạn của tôi
bị đối xử bất công.”
Đêm đó, Shunkai mang một thùng dầu
lửa, đốt rụi ngôi chùa 500 tuổi. Sáng ra cảnh sát bắt nàng.
Một luật sư trẻ thích nàng và cố để
giảm án cho nàng. “Đừng giúp tôi,” nàng bảo anh ta. “Có thể là tôi sẽ quyết
định làm cái gì đó, lại mang tôi vào tù nữa.”
Cuối cùng, sau khi ở đầy đủ bản án 7
năm , Shunkai được thả khỏi nhà tù, nơi một vị quản giáo 60 tuổi đã yêu cô.
Nhưng bây giờ mọi người nhìn nàng là “tội phạm”. Chẳng ai muốn liên hệ với nàng. Ngay cả các thiền nhân, những người đáng lý ra là tin vào sự giác ngộ ở đời này với thân thể này, cũng tránh xa nàng. Thiền, Shunkai khám phá ra, là một chuyện nhưng các thiền nhân lại là một chuyện khác. Thân nhân nàng cũng không dính dấp với nàng. Nàng lâm bệnh, nghèo, và yếu.
Nhưng bây giờ mọi người nhìn nàng là “tội phạm”. Chẳng ai muốn liên hệ với nàng. Ngay cả các thiền nhân, những người đáng lý ra là tin vào sự giác ngộ ở đời này với thân thể này, cũng tránh xa nàng. Thiền, Shunkai khám phá ra, là một chuyện nhưng các thiền nhân lại là một chuyện khác. Thân nhân nàng cũng không dính dấp với nàng. Nàng lâm bệnh, nghèo, và yếu.
Nàng gặp một vị sư vị sư Tịnh độ
tông dạy nàng hồng danh Đức Quán Thế Âm, và nhờ đó nàng tìm được an ủi và bình
an trong tâm. Nàng qua đời khi còn rất đẹp và chưa đến 30 tuổi.
Nàng viết câu chuyện về đời nàng
trong một nỗ lực hoài công để kiếm sống, và kể lại một phần cho một nhà văn nữ.
Vì vậy câu chuyện đời nàng đến với độc giả Nhật. Những người đã xua đuổi nàng,
mạ lị nàng, ghét bỏ nàng, giờ đây đọc về cuộc đời nàng với những dòng nước mắt
ăn năn.
12.
Ông Tàu
vui tính
Ai đi trong các Phố Tàu ở Mỹ đều
thấy ảnh tượng một ông mập mang một bao vải. Thương nhân Trung Hoa gọi ông ấy
là Ông Tàu Vui Tính hay Ông Phật Cười.
Ông Hotei này sống thời nhà Đường. Ông chẳng muốn ai gọi mình là thiền sư hoặc tụ tập học trò đông đúc quanh mình. Thay vì vậy, ông đi đọc đường phố với một bao lớn trong đó ông mang các món quà như kẹo, trái cây, bánh ngọt. Đây là quà ông cho các em bé thường chơi đùa với ông. Ông tạo ra lớp vườn trẻ trên đường phố.
Ông Hotei này sống thời nhà Đường. Ông chẳng muốn ai gọi mình là thiền sư hoặc tụ tập học trò đông đúc quanh mình. Thay vì vậy, ông đi đọc đường phố với một bao lớn trong đó ông mang các món quà như kẹo, trái cây, bánh ngọt. Đây là quà ông cho các em bé thường chơi đùa với ông. Ông tạo ra lớp vườn trẻ trên đường phố.
Lúc nào gặp một thiền nhân ông cũng
xòe tay và nói: “Cho tôi một xu.”
Có một lần ông đang sửa soạn
chơi/làm-việc, một thiền sư khác đi ngang và hỏi: “Yếu tính của thiền là gì?”
Hotei vất ngay bao vải xuống đất,
trả lời thầm lặng.
“Vậy,” vị thiền sư hỏi tiếp, “thế
nào là đạt được Thiền?”
Ông Tàu Vui Tính lập tức xách bao
mang lên vai và đi tiếp.
13.
Một vị Phật
Ở Tokyo vào thời Minh Trị Thiên
Hoàng, có hai vị thầy với tính cách hoàn toàn khác nhau. Unsho là vị thầy Chân
Ngôn Tông, giữ mọi lề luật của nhà Phật rất kỹ lưỡng. Ông không bao giờ uống
rượu, và không bao giờ ăn gì sau 11 giờ sáng. Vị thầy kia là Tanzan, một giáo
sư triết tại Đại Học Hoàng Gia, chẳng bao giờ giữ lề luật gì. Khi muốn ăn là
ăn, khi muốn ngủ ngày là ngủ.
Ngày nọ Unsho đến thăm Tanzan lúc Tanzan đang uống rượu. Phật tử không được cho ngay cả một giọt rượu chạm lưỡi mình.
Ngày nọ Unsho đến thăm Tanzan lúc Tanzan đang uống rượu. Phật tử không được cho ngay cả một giọt rượu chạm lưỡi mình.
“Ê, anh ơi, uống một ly nhé.”
“Tôi không bao giờ uống rượu!” Unsho
nhấn mạnh nghiêm trọng.
“Người không uống thì không phải là
người,” Tanzan nói.
“Anh nói tôi không là người chỉ vì
tôi không mê uống rượu!” Unsho nói giận dữ. “Nếu tôi không là người thì tôi là
gì?”
“Một vị Phật,” Tanzan trả lời.
14.
Đường bùn
Tanzan và Ekido đi chung với nhau
trên con đường bùn lầy. Mưa đang rơi nặng hạt.
Đến một khúc quanh, họ gặp một cô
gái xinh xắn mặc Kimono và mang đai lưng, không vượt qua ngã tư được.
“Đi, cô em,” Tanzan nói ngay. Bế cô gái trên đôi tay, thiền sư mang cô qua vũng bùn.
“Đi, cô em,” Tanzan nói ngay. Bế cô gái trên đôi tay, thiền sư mang cô qua vũng bùn.
Ekido chẳng hề nói một lời nào nữa,
cho đến tối khi họ sắp đến chùa tạm nghỉ. Ekido không còn nhịn được. “Người tu
hành chúng ta không kề cận phụ nữ,” Ekido nói với Tanzan, “nhất là các cô gái
trẻ và đẹp. Nguy hiểm. Sao thầy làm vậy?”
“Thầy bỏ cô ấy xuống đằng đó rồi,”
Tanzan nói. “Con còn bế cô ấy sao?”
15.
Shoun và mẹ
Shoun là một vị thầy về thiền Tào
Động. Khi còn là học trò, bố của Shoun qua đời, Shoun phải chăm sóc mẹ.
Mỗi khi vào phòng thiền, Shoun luôn
luôn mang mẹ đi theo. Vì có mẹ đi theo, mỗi khi Shoun viếng một tu viện, ông
không thể sống chung với các vị sư khác. Vì vậy Shoun xây một nhà nhỏ để lo cho
mẹ. Shoun chép lại kinh sách, và thi ca nhà Phật, và nhờ đó nhận được ít tiền
mua thực phẩm.
Khi Shoun mua cá cho mẹ, người ta chế giễu ông, vì người tu hành không được ăn cá. Nhưng Shoun không màng. Tuy nhiên, mẹ của Shoun thì buồn, thấy con mình bị cười chê. Cuối cùng bà nói với Shoun: “Mẹ nghĩ là mẹ sẽ thành ni cô. Mẹ cũng có thể ăn chay được.” Bà thành ni cô, và mẹ con nghiên cứu chung với nhau.
Khi Shoun mua cá cho mẹ, người ta chế giễu ông, vì người tu hành không được ăn cá. Nhưng Shoun không màng. Tuy nhiên, mẹ của Shoun thì buồn, thấy con mình bị cười chê. Cuối cùng bà nói với Shoun: “Mẹ nghĩ là mẹ sẽ thành ni cô. Mẹ cũng có thể ăn chay được.” Bà thành ni cô, và mẹ con nghiên cứu chung với nhau.
Shoun yêu nhạc và là nhạc sĩ giỏi về
đàn hạc, Mẹ shoun cũng chơi đàn hạc. Những đêm trăng tròn hai mẹ con chơi đàn
với nhau.
Có một đêm một cô gái trẻ đi ngang
nhà và nghe nhạc. Cảm xúc quá, cô bèn mời Shoun đến nhà cô đêm hôm sau và đánh
đàn. Shoun đồng ý. Vài ngày sau Shoun gặp lại cô ấy ngoài phố và cám ơn lòng
hiếu khách của cô. Mọi người cười chê, vì Shoun đã đến nhà một cô gái làng
chơi.
Ngày nọ Shoun đi thuyết giảng ở một
chùa xa. Vài tháng sau ông trở về nhà và biết mẹ vừa chết. Các bạn không biết
tìm ông ở đâu, nên tang lễ đã bắt đầu.
Shoun bước lên, dùng gậy gõ vào quan
tài. “Mẹ, con đã về đây,” ông nói.
“Mẹ mừng con đã về,” ông trả lời thế
cho mẹ.
“Vâng, con cũng mừng,” Shoun trả
lời. Rồi ông nói mới mọi người quanh ông: “Lễ tang đã xong. Các bạn có thể hỏa
táng.”
Khi Shoun đã rất già, ông biết ngày
cuối đã gần kề. Một buổi sáng, ông gọi các đệ tử lại quanh ông, nói cho họ biết
ông sẽ ra đi vào lúc trưa. Thắp nhang trước ảnh mẹ và thầy cũ, ông viết một bài
thơ:
Năm mươi sáu năm gắng sống tử tế
Đi đường tôi trong thế giới này
Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết
Trời trong xanh một mảnh trăng đầy
Đi đường tôi trong thế giới này
Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết
Trời trong xanh một mảnh trăng đầy
Các đệ tử đứng quanh ông, tụng kinh,
và Shoun ra đi khi kinh còn đang tụng.
16.
Không xa
Phật vị
Một sinh viên đại học thăm thiền sư
Gasan và hỏi ông: “Đã bao giờ thầy đọc Thánh Kinh Thiên chúa giáo chưa?”
“Chưa, đọc cho tôi nghe đi,” Gasan nói.
“Chưa, đọc cho tôi nghe đi,” Gasan nói.
Người sinh viên mở Thánh Kinh và đọc
phúc âm Thánh Matthew: “Và tại sao lại lo áo quần? Hãy xem các bông huệ ngoài
đồng mọc thế nào. Chúng không làm việc, không dệt vải, nhưng tôi nói thật với
các bạn ngay cả vua Solomon trong tất cả vinh quang của mình cũng không mặc đẹp
như các bông hoa đó… Đừng lo đến ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo cho nó.”
Gasan nói, “Ai nói những lời này,
tôi xem đó là một người đã giác ngộ.”
Người sinh viên đọc tiếp: “Xin và
bạn sẽ được, tìm và bạn sẽ thấy, gõ cửa và cửa sẽ mở cho bạn. Bởi vì ai xin thì
sẽ nhận, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa sẽ được mở cửa.”
Gasan nói: “Tuyệt vời. Ai mà nói
điều này thì không xa Phật vị.”
17.
Dạy kiểu
hà tiện
Một bác sĩ trẻ ở Tokyo tên Kusuda
gặp một người bạn học chung ở đại học đang học thiền. Chàng bác sĩ trẻ hỏi
thiền là gì.
“Tôi không thể nói với anh nó là
gì,” người bạn trả lời, “nhưng tôi chắc một điều là, nếu anh hiểu thiền, anh sẽ
không sợ chết.”
“Được,” Kusuda nói. “Thôi sẽ thử. Làm sao tôi tìm được một vị thầy?”
“Được,” Kusuda nói. “Thôi sẽ thử. Làm sao tôi tìm được một vị thầy?”
“Đến gặp thiền sư Nan-in,” người bạn
nói.
Kusuda đến thăm Nan-in. Anh ta mang
theo một con dao 2 tấc rưỡi để thử xem thiền sư có sợ chết không.
Khi Nan-in thấy Kusuda ông nói to:
“Chào, bạn quý. Khỏe không? Lâu quá không gặp.”
Kusuda lấy làm lạ, mới trả lời:
“Chúng ta chưa gặp nhau bao giờ!”
“Phải rồi,” Nan-in trả lời. “Tôi
nhầm anh với một người bác sĩ khác đang học thiền ở đây.”
Với phút đầu tiên như vậy, Kusuda
mất cơ hội thử thiền sư, vì vậy bất đắc dĩ anh mới hỏi thiền sư cho học thiền.
Nan-in nói: “Thiền không phải là
việc khó. Nếu anh là bác sĩ, hãy chữa bệnh với lòng nhân ái.”
Kusuda thăm Nan-in ba lần. Mỗi lần
Nan-in đều bảo một điều duy nhất. “Bác sĩ không nên tốn thời giờ ở đây. Đi về
và chăm sóc bệnh nhân.”
Kusuda vẫn không rõ là tại sao các
lời dạy như thế có thể làm người ta hết sợ chết. Vì vậy trong lần thăm thứ tư,
anh phàn nàn: “Bạn tôi nói khi người ta học thiền người ta hết sợ chết. Mỗi lần
tôi đến đây thầy chỉ bảo tôi lo cho bệnh nhân của tôi. Chuyện đó tôi biết rồi.
Nếu thiền của thầy chỉ có vậy, tôi sẽ không đến đây học thầy nữa.”
Nan-in mỉm cười và vỗ vai chàng bác sĩ. “Tôi đã quá khắt khe với anh. Để tôi chỉ cho anh một công án.” Thiền sư nói cho Kusuda nghe công án Không của Thiền sư Joshu, là công án đầu tiên để làm sáng tỏ trí óc trong sách Vô Môn Quan.
Nan-in mỉm cười và vỗ vai chàng bác sĩ. “Tôi đã quá khắt khe với anh. Để tôi chỉ cho anh một công án.” Thiền sư nói cho Kusuda nghe công án Không của Thiền sư Joshu, là công án đầu tiên để làm sáng tỏ trí óc trong sách Vô Môn Quan.
Kusuda suy nghĩ về công án Không
trong hai năm. Cuối cùng chàng cảm thấy tâm mình đã vững chải. Nhưng thiền sư
bình phẩm: “Anh vẫn chưa vào bên trong.”
Kusuda tiếp tục tập trung tư tưởng
thêm một năm rưỡi nữa. Tâm của chàng trở nên tĩnh lặng. Các vấn đề tan biến.
“Không” trở thành chân lý. Anh chăm sóc cho bệnh nhân rất tử tế và, dù là không
biết chuyện đó, anh đã thoát khỏi lo âu về sống hay chết.
Và khi anh đến thăm Nan-in, vị thầy
chỉ mỉm cười.
18.
Một dụ ngôn
Phật nói một dụ ngôn trong kinh:
Một người đàn ông đi ngang cánh đồng
và gặp con cọp. Anh ta chạy, cọp đuổi theo. Chạy đến một vực sâu, anh nắm rễ
của một dây leo và nhảy xuống vực. Con cọp đứng trên vực đợi anh. Run rẩy, anh
ta nhìn xuống đáy vực, một con cọp khác đang đợi dưới đáy để ăn anh. Chỉ có sợi
dây leo đang giữ anh lại.
Hai con chuột, một trắng một đen, đang gặm sợi dây leo. Anh thấy một quả dâu chín mọng gần anh. Một tay nắm sợi dây leo, tay kia anh hái trái dâu. Ngọt ơi là ngọt!
Hai con chuột, một trắng một đen, đang gặm sợi dây leo. Anh thấy một quả dâu chín mọng gần anh. Một tay nắm sợi dây leo, tay kia anh hái trái dâu. Ngọt ơi là ngọt!
19.
Nguyên Lý
Đầu Tiên
Nếu đến chùa Obaku ở Kyoto ta sẽ
thấy một dòng chữ khắc “Nguyên Lý Đầu Tiên”. Các chữ này lớn lạ thường, và
những người rành thư pháp luôn luôn thán phục chúng như là những tác phẩm hàng
đầu. Các chữ này do Kosen viết hai trăm năm về trước.
Lúc viết, thiền sư viết trên giấy, sau đó các nghệ nhân làm bản khắc lớn hơn bằng gỗ. Trong khi thiền sư viết, có một người đệ tử bạo gan ở bên cạnh, vị này đã hòa nhiều lít mực cho thiền sư để viết mấy chữ này và luôn luôn phê bình thư pháp của thiền sư.
Lúc viết, thiền sư viết trên giấy, sau đó các nghệ nhân làm bản khắc lớn hơn bằng gỗ. Trong khi thiền sư viết, có một người đệ tử bạo gan ở bên cạnh, vị này đã hòa nhiều lít mực cho thiền sư để viết mấy chữ này và luôn luôn phê bình thư pháp của thiền sư.
“Chưa được,” vị đệ tử nói với Kosen
sau lần viết đầu.
“Cái này thì sao?”
“Nghèo nàn. Dở hơn cái trước,” vị đệ
tử nói.
Kosen kiên nhẫn viết hết tờ này đến
tờ khác cho đến khi 84 chữ “Nguyên Lý Đầu Tiên” đã được viết, mà vị đệ tử vẫn
chưa đồng ý.
Rồi, khi vị đệ tử bước ra ngoài một
lúc, Kosen nghĩ: “Đây là cơ hội để mình thoát được con mắt sắc bén của hắn,” và
thiền sư viết vội vã, với tâm trống rỗng mọi tạp niệm. “Nguyên Lý Đầu Tiên.”
“Một tác phẩm tuyệt vời,” vị đệ tử
tuyên bố.
20.
Lời khuyên
của mẹ
Jiun, một thiền sư thời Sứ Quân, là
một học giả tiếng phạn Sanskrit nổi tiếng đời Tokugawa. Khi còn trẻ, Jiun
thường thuyết giảng cho các thiền sư khác.
Mẹ Jiun nghe điều này và viết cho chàng một lá thơ:
Mẹ Jiun nghe điều này và viết cho chàng một lá thơ:
“Con, mẹ không nghĩ là con muốn theo
Phật vì con muốn trở thành một quyển tự điển sống cho mọi người. Chẳng có giới
hạn nào cho thông tin và lý giải, vinh quang và danh dự cả. Mẹ mong con bỏ hết
các việc thuyết giảng này. Vào tu trong một thiền am nhỏ tại một góc núi xa.
Dùng thời gian để thiền và nhờ đó mà có thể giác ngộ.”
21.
Tiếng vỗ của
một bàn tay
Mokurai, Tiếng Sấm Tĩnh Lặng, là
thiền sư trụ trì chùa Kennin. Sư có một đệ tử nhỏ tên Toyo mới 12 tuổi. Toyo
thấy các đệ tử đàn anh vào phòng thầy mỗi sáng và tối để nhận giáo huấn trong
lớp riêng một thầy một trò và được hướng dẫn cá nhân về cách dùng công án để
chận tâm trí không đi lang thang.
Toyo cũng muốn được vào lớp riêng.
Toyo cũng muốn được vào lớp riêng.
Mokurai nói, “Đợi một thời gian đã.
Con còn nhỏ.”
Nhưng Toyo nằng nặc xin, vì vậy cuối
cùng thầy cũng đồng ý.
Chiều tối, cậu bé Toyo đến đúng giờ,
trước cửa phòng thầy Mokurai dùng làm lớp riêng. Cậu đánh một tiếng cồng báo
hiệu đã có mặt, gập mình chào lễ phép ba lần ngoài cửa, và bước vào ngồi yên
lặng một cách lễ độ trước mặt thầy,
“Con có thể nghe âm thanh của hai
bàn tay khi hai tay vỗ vào nhau,” Mokurai nói. “Bây giờ chỉ cho thầy tiếng vỗ
của một bàn tay.”
Toyo cúi chào và về phòng để suy
nghĩ vể câu hỏi. Từ cửa sổ cậu có thể nghe nhạc của các cô geishas. “A, tôi có
rồi!” cậy bé tuyên bố.
Sáng hôm sau, khi thầy hỏi cậu trình
bày tiếng vỗ của một bàn tay, Toyo làm tiếng nhạc của geishas.
“Không, không,” Modurai nói. “Không
bao giờ được. Đó không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Con chẳng hiểu gì cả.’
Nghĩ là nhạc của geishas cắt đứt
dòng suy tưởng, Toyo chuyển chỗ ở đến một nơi yên lặng hơn. Cậu bé thiền định.
“Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?” Cậu bé nghe tiếng nước nhỏ giọt. “Tôi có
rồi,” Toyo nghĩ.
Khi Toyo đến gặp thầy sau đó, cậu bé
bắt chước tiếng nước nhỏ giọt.
“Cái gì vậy?” Mokurai hỏi. “Đó là
tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Cố thêm đi.”
Hoài công Toyo thiền định để nghe
tiếng vỗ của một bàn tay. Cậu nghe tiếng thở dài của gió. Nhưng tiếng đó cũng
bị thầy gạt bỏ.
Cậu nghe tiếng kêu của một con chim
cú. Nhưng tiếng cú cũng bị chối từ.
Tiếng vỗ của một bàn tay cũng không
phải là tiếng ve kêu.
Hơn mười lần Toyo vào thăm Mokurai
với những loại tiếng khác nhau. Tất cả đều trật. Cả một năm, cậu bé suy nghĩ
tiếng gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay.
Cuối cùng Toyo vào được thiền định
thật sự và vượt lên trên tất cả mọi âm thanh . “Tôi chẳng còn tìm được tiếng
nào nữa,” sau này cậu bé giải thích, “vì vậy tôi đạt được âm thanh im lặng.”
Toyo đã đạt được tiếng vỗ của một
bàn tay.
22.
Trái tim tôi
cháy như lửa
Soyen Shaku, thiền sư đầu tiên đến
Mỹ, nói: “Tim tôi cháy như lửa nhưng mắt tôi lạnh như tro chết.” Thiền sư có
những quy luật thực hành mỗi ngày trong đời, như sau:
• Mỗi buổi sáng trước khi thay áo quần, đốt nhang và ngồi thiền.
• Mỗi buổi sáng trước khi thay áo quần, đốt nhang và ngồi thiền.
• Đi ngủ đúng giờ mỗi ngày. Ăn đúng
giờ. Ăn vừa đủ, không bao giờ đến mức thỏa mãn.
• Tiếp khách với thái độ y như lúc
chỉ một mình. Lúc một mình, giữ thái độ y như lúc tiếp khách.
• Cẩn trọng trong lời nói, và nói
điều gì thì thực hành điều ấy.
• Khi cơ hội đến, đừng để nó vuột
mất, nhưng luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động.
• Đừng ân hận về dĩ vãng. Nhìn về
tương lai.
• Có thái độ không biết sợ của một
anh hùng và quả tim yêu ái của một em bé.
• Khi đi ngủ, ngủ như là giấc ngủ
cuối trong đời. Khi thức dậy, rời khỏi giường tức thì như là vất đi một đôi
giày cũ.
23.
Eshun ra đi
Khi Thiền cô Eshun đã quá 60 và sắp
sửa rời khỏi thế giới này, cô bảo vài vị sư sắp một đống củi giữa sân.
Ngồi ngay ngắn giữa đài hỏa táng, cô bảo họ đốt lửa chung quanh.
Ngồi ngay ngắn giữa đài hỏa táng, cô bảo họ đốt lửa chung quanh.
“Cô ơi!” một vị sư la lớn, “nóng
không cô?”
“Chuyện đó chỉ có mấy người ngu như
cậu mới quan tâm,” Eshun trả lời.
Ngọn lửa bốc cao, và ni cô qua đời.
24.
Tụng kinh
Một nông dân nhờ một vị sư Thiên
Thai tụng kinh cho vợ đã qua đời. Sau khi tụng xong, người nông dân hỏi: “Thầy
nghĩ là vợ tôi có được phúc đức nhờ tụng kinh không?”
“Không những chỉ là vợ anh, mà tất cả sinh linh đều hưởng lợi nhờ tụng kinh,” sư trả lời.
“Không những chỉ là vợ anh, mà tất cả sinh linh đều hưởng lợi nhờ tụng kinh,” sư trả lời.
“Nếu thầy nói tất cả mọi sinh linh
đều có lợi,” người nông dân nói, “vợ tôi rất yếu và những người khác sẽ ăn hiếp
cô ấy, lấy đi phước đức của cô ấy. Vậy thầy làm ơn tụng kinh chỉ cho cô ấy
thôi.”
Vị sư giải thích là người Phật tử
muốn dâng cúng và cầu phước đức đến mọi sinh linh.
“Đó là lời dạy rất hay,” người nông
dân kết thúc, “nhưng làm ơn cho một ngọai lệ. Tôi có anh chàng láng giềng thô
lổ và dữ dằn với tôi. Làm ơn dẹp hắn ra ngoài mọi sinh linh khác.”
25.
Ba ngày nữa
Suiwo, đệ tử của Hakuin, là một vị
thầy rất giỏi. Vào một kỳ mở lớp riêng một thầy một trò (zazen) trong mùa hè,
một đệ tử từ một hải đảo miền nam nước Nhật đến gặp thầy.
Suiwo cho cậu một công án: “Nghe
tiếng vỗ của một bàn tay.”
Người đệ tử ở đó 3 năm nhưng không
giải được. Một đêm nọ, nước mắt dàn dụa, cậu vào gặp Suiwo. “Con phải về nam,
nhục nhã và xấu hổ” cậu nói, “Con không giải được công án này.”
“Đợi một tuần nữa và thiền liên
tục,” Suiwo khuyên. Nhưng giác ngộ vẫn không đến được với cậu đệ tử. “Thử thêm
một tuần nữa,” Suiwo nói. Người đệ tử vâng lời, nhưng cũng chỉ hoài công.
“Thêm một tuần nữa.” Nhưng lại cũng
vô ích. Tuyệt vọng, người đệ tử năn nỉ xin về, nhưng Suiwo yêu cầu cậu thiền
năm ngày nữa. Cũng chẳng có kết quả gì. Rồi Suiwo nói: “Thiền thêm 3 ngày nữa,
nếu con không đạt được giác ngộ, thì con nên tự tử là hơn.”
Vào ngày thứ hai, cậu đệ tử giác
ngộ.
26.
Đổi tranh
luận lấy chỗ ngủ
Bất kỳ vị sư hành hương nào có thể
thắng một tranh luận về Phật pháp với các sư sống trong một ngôi chùa đều có
quyền ngủ lại trong chùa. Nếu thua, vị sư sẽ phải đi tiếp.
Trong một ngôi chùa ở vùng bắc nước Nhật có hai vị sư anh em đang sống với nhau. Người anh học rộng, nhưng người em thì dốt và chỉ có một mắt.
Trong một ngôi chùa ở vùng bắc nước Nhật có hai vị sư anh em đang sống với nhau. Người anh học rộng, nhưng người em thì dốt và chỉ có một mắt.
Một vị sư hành hương đến và xin ngủ
nhờ, xin được tranh luận về giáo pháp cao thâm. Sư anh đã mệt vì phải học cả
ngày hôm ấy, bảo sư em ra đấu thế. Sư anh cẩn thận dặn dò: “Đi ra và yêu cầu
một cuộc đối thoại thầm lặng.”
Sư em và sư khách vào chánh điện và
ngồi xuống.
Một lúc sau vị sư hành hương đứng
dậy, vào gặp sư anh và nói: “Em của thầy quá hay. Đã thắng tôi.”
“Kể lại cho tôi nghe cuộc đối
thoại,” sư anh hỏi.
“Vâng,” vị sư hành hương nói, “trước
hết tôi giơ một ngón tay, biểu hiện Phật, người giác ngộ. Em thầy giơ lên 2
ngón, nói về Phật và Phật pháp. Tôi giơ ba ngón tay, biểu hiện Phật, Pháp và
Tăng, sống an hòa với nhau. Rồi em thầy đưa nắm đấm vào mặt tôi, ý nói cả ba
đều là một. Cho nên anh ấy thắng và tôi không có quyền ngủ lại đây.” Nói vậy
rồi, sư hành hương ra đi.
“Anh chàng đó đâu rồi?” sư em chạy
vào hỏi anh.
“Anh nghe là em thắng cuộc tranh
luận rồi.”
“Thắng cái gì! Em phải đập cho hắn
một trận.”
“Nói cho anh nghe đề tài tranh luận
thế nào,” sư anh hỏi.
“Sao, mới thấy em hắn đã giơ lên một
ngón tay, sỉ nhục em, ý nói là em chỉ có một mắt. Vì hắn là người lạ, em nghĩ
là em nên lịch sự với hắn một tí nên em giơ hai ngón tay, chúc mừng hắn có hai
mắt. Nhưng anh chàng bất lịch sự lại giơ ba ngón tay, ý nói cả hai người
chúng ta chỉ có 3 con mắt. Vì vậy em nổi nóng và bắt đầu đấm hắn, nhưng hắn bỏ
chạy cho nên hết đối thoại!”
27.
Giọng nói
của hạnh phúc
Sau khi thiền sư Bankei qua đời, một
người mù sống gần chùa của thiền sư nói với một người bạn: “Bởi vì tôi mù, tôi
không thể quan sát sắc mặt người ta, nên tôi phải xét tư cách của họ qua giọng
nói. Thường thì khi tôi nghe một người chúc mừng người khác về chuyện vui hay
thành công nào đó, tôi cũng nghe một âm bí mật của ganh tị. Khi chia buồn với
người khác về mất mát của họ, tôi cũng nghe thích thú và thỏa mãn, cứ như là
người chia buồn thật sự vui vì có cái gì đó để lại cho họ hưởng trong thế giới
riêng của họ.
“Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi
thì giọng nói của Bankei luôn luôn thành thật. Khi thiền sư bày tỏ hạnh phúc,
tôi chẳng nghe gì khác ngoài hạnh phúc, và khi thiền sư bày tỏ buồn rầu, tôi
chẳng nghe gì khác ngoài buồn rầu.”
28.
Mở kho tàng
của bạn
Daiju đến thăm thiền sư Baso ở Trung
Quốc. Baso hỏi: “Anh tìm gì?”
“Giác ngộ,” Daiju trả lời.
“Anh có kho tàng riêng của anh. Tại
sao tìm bên ngoài?” Baso hỏi.
Daiju thắc mắc: “Kho tàng của tôi ở
đâu?”
Baso trả lời: ‘Cái anh đang tìm là
kho tàng của anh.”
Daiju mừng rỡ! Kể từ đó Daiju luôn
luôn nói với bạn bè: “Mở kho tàng của anh và dùng nó.”
29.
Không nước,
không trăng
Khi ni cô Chiyono học Thiền với thầy
Bukko của chùa Engaku, cô không gặt được thành quả gì từ thiền định trong một
thời gian dài.
Cuối cùng, trong một đêm trăng, ni
cô đang xách nước trong một cái gàu cũ bọc tre. Tre bị găy và đáy gàu rớt ra,
và ngay lúc đó tâm trí của Chiyono được giải phóng.
Để kỷ niệm, ni cô làm một bài thơ:
Bằng cách này cách kia tôi cố giữ
cái gàu cũ
Từ lúc thanh tre đã yếu và gần gãy
Cho đến khi đáy gàu rơi ra.
Không còn nước trong gàu!
Không còn trăng trong nước!
Từ lúc thanh tre đã yếu và gần gãy
Cho đến khi đáy gàu rơi ra.
Không còn nước trong gàu!
Không còn trăng trong nước!
30.
Danh thiếp
Keichu, vị thiền sư lớn thời Minh
Trị Thiên Hoàng, là sư trụ trì chùa Tofuku, một đại tự ở Kyoto. Ngày nọ, thống
đốc Kyoto đến thăm thiền sư lần đầu tiên.
Người trợ lý thống đốc trình danh
thiếp của thống đốc, có ghi: “Kitagaki, Thống Đốc Kyoto.
“Tôi không có chuyện gì để nói với
một anh chàng như vậy,” Keichu nói với người trợ lý. “Bảo ông ta đi về đi.”
Người trợ lý mang tấm danh thiếp trở lại với lời xin lỗi. “Đó là lỗi của tôi,”
thống đốc viết, với dòng bút chì xóa cụm từ Thống Đốc Kyoto. “Hỏi thầy anh lần
nữa.”
“Ô, Katagaki hả?” thiền sư reo lên
khi thấy tấm danh thiếp. “Thầy muốn gặp anh ấy.”
31.
Mọi thứ
đều nhất
Khi thiền sư Banzan đang đi ngang
một khu chợ, thiền sư nghe một mẩu đối thoại giữa anh hàng thịt và khách hàng.
“Cho tôi miếng thịt ngon nhất anh
có,” người khách hàng nói.
“Trong tiệm tôi mọi thứ đều nhất,”
anh hàng thịt trả lời. “Chị chẳng tìm ở đây được miếng thịt nào mà không nhất.”
Nghe những lời này, Banzan tức thì
giác ngộ.
32.
Phân giờ
tấc ngọc
Một lãnh chúa hỏi Takuan, một thiền sư, làm thế nào để dùng thời gian. Lãnh chúa cảm thấy ngày của mình quá dài, ở trong khách sảnh cả ngày và ngồi cứng ngắc để nhận lễ viếng từ những người khác.
Takuan viết tám chữ Hán và trao cho
lãnh chúa:
Không hai hôm nay
Phân giờ tấc ngọc
Phân giờ tấc ngọc
(Hôm nay không đến hai lần
Mỗi phút là một viên ngọc vô giá)
Mỗi phút là một viên ngọc vô giá)
33.
Bàn tay
của Mokusen
Mokusen Hiki sống trong một ngôi
chùa ở tỉnh Tamba. Một trong những thiền sinh của Mokusen phàn nàn về tính hà
tiện của vợ anh ta.
Mokusen đến thăm bà vợ và đưa nắm tay ra trước mặt chị.
Mokusen đến thăm bà vợ và đưa nắm tay ra trước mặt chị.
“Thầy có ý gì vậy?” chị ta hỏi với
ngạc nhiên.
“Giả sử nắm tay tôi cứ như thế này
hoài. Chị gọi nó là gì?” thiền sư hỏi.
“Tật nguyền,” chị trả lời.
Rồi thiền sư mở thẳng bàn tay trước
mặt chị và hỏi: “Nếu nó cứ như thế này hoài. Thì sao?”
“Cũng tật nguyền,” chị nói.
“Nếu chị hiểu được bao nhiêu đó,”
Mokusen kết thúc, “chị là một người vợ tốt.” Rồi thiền sư ra về.
Sau lần viếng thăm của thiền sư, chị
vợ giúp anh chồng phân phát cũng như dành dụm.
34.
Một nụ cười
trong cả một đời
Mokugen được xem là không bao giờ
cười, cho đến ngày cuối cùng trước khi chết. Khi giờ chết đã gần kề, thiền sư
nói với các đệ tử: “Các con đã học với thầy hơn 10 năm. Hãy cho thầy thấy cách
các con biểu hiện Thiền. Ai trình bày được điều đó rõ ràng nhất sẽ là người kế
vị thầy và nhận y bát của thầy.”
Mọi người nhìn khuôn mặt nghiêm trọng của Mokugen, nhưng không ai trả lời.
Mọi người nhìn khuôn mặt nghiêm trọng của Mokugen, nhưng không ai trả lời.
Encho, một đệ tử đã theo thầy nhiều
năm, bước đến bên giường. Encho đẩy chén thuốc đến trước vài phân. Đây là câu
trả lời của Encho cho câu hỏi của thầy.
Khuôn mặt của thầy càng thêm nghiêm
trọng. “Con chỉ hiểu vậy thôi sao?” thầy hỏi.
Encho với tay và đẩy chén thuốc
ngược lại chỗ cũ.
Một nụ cười đẹp nở trên mặt Mokugen.
“Thằng nhóc này,” thầy nói với Encho. “Con ở với thầy mười năm và vẫn chưa thấy
cả người của thầy. Lấy y bát của thầy đi. Nó là của con.”
35.
Thiền từng
phút
Thiền sinh học với thầy tối thiểu là
hai năm trước khi được cho dạy người khác. Tenno vừa xong chương trình tập sự
và mới thành thầy dạy. Tenno đến thăm Nan-in. Trời mưa nên Tenno mang guốc gỗ và
dù. Sau khi chào hỏi, Nan-in nói: “Chắc thầy để guốc và dù ở trong căn phòng
đằng trước. Tôi muốn biết thầy để dù ở phía bên phải hay bên trái đôi guốc.”
Tenno, lúng túng, không có câu trả lời. Chàng nhân ra là chàng đã không thể hành thiền trong từng phút. Tenno trở thành học trò của Nan-in, và học thêm sáu năm nữa để đạt được Thiền từng phút.
Tenno, lúng túng, không có câu trả lời. Chàng nhân ra là chàng đã không thể hành thiền trong từng phút. Tenno trở thành học trò của Nan-in, và học thêm sáu năm nữa để đạt được Thiền từng phút.
36.
Mưa hoa
Tu-bồ-đề là đệ tử của Phật Thích Ca.
Sư có thể hiểu được uy lực của Không, quan điểm rằng không có gì hiện hữu ngoại
trừ trong liên hệ chủ quan và khách quan của nó.
Ngày nọ Tu-bồ-đề đang ngồi dưới gốc cây, trong trạng thái hoàn toàn của Không, hoa bắt đầu rơi quanh ông.
Ngày nọ Tu-bồ-đề đang ngồi dưới gốc cây, trong trạng thái hoàn toàn của Không, hoa bắt đầu rơi quanh ông.
“Chúng tôi ca ngợi ngài về đàm luận
của ngài về Không,” các vị Phạm thiên thì thầm với ông.
“Nhưng tôi đâu có đàm luận gì về
Không,” Tu-bồ-đề nói.
“Ngài đã chẳng đàm luận gì về Không,
chúng tôi đã chẳng nghe gì về Không,” các Phạm thiên trả lời. “Đó chính là
Không.” Và hoa rơi trên Tu-bồ-đề như mưa.
37.
Ấn hành
kinh sách
Tetsugen, một người sùng mộ Thiền ở
Nhật, quyết định sẽ ấn hành kinh sách, vào thời kinh sách chỉ có bằng tiếng
Hán. Sách phải in với những khối khắc gỗ, bảy ngàn bản in một lần, tốn rất
nhiều công sức.
Tetsugen bắt đầu đi khắp nơi và quyên góp tiền bạc. Vài người ủng hộ cho vài trăm đồng vàng, nhưng thường thì Tetsugen chỉ nhận được vài xu lẻ. Ông cám ơn mỗi người bố thí với lòng tri ân như nhau. Sau mười năm Tetsugen đã có đủ tiền để bắt đầu in.
Tetsugen bắt đầu đi khắp nơi và quyên góp tiền bạc. Vài người ủng hộ cho vài trăm đồng vàng, nhưng thường thì Tetsugen chỉ nhận được vài xu lẻ. Ông cám ơn mỗi người bố thí với lòng tri ân như nhau. Sau mười năm Tetsugen đã có đủ tiền để bắt đầu in.
Nhưng vào lúc đó Sông Uji gây lụt
lội. Nạn đói theo sau. Tetsugen dùng tiền đã quyên góp cho sách để giúp mọi
người khỏi chết đói. Rồi ông lại bắt đầu quyên góp tiền.
Bảy năm sau một trận dịch lan khắp
nước. Tetsugen lại dùng tiền quyên góp, để giúp mọi người.
Ông lại quyên góp tiền lần thứ ba,
và sau 20 năm ước mơ của ông thành hiện thực. Những khối gỗ khắc in những bản
kinh đầu tiên ngày nay còn trưng bày trong tu viện Obaku ở Kyoto.
Người Nhật dạy con cái họ là
Tetsugen in ba bộ kinh, và hai bộ đầu vô hình vượt trội hơn cả bộ cuối cùng.
38.
Sự nghiệp
của Gisho
Gisho được truyền giới ni cô khi cô
chỉ mới 10 tuổi. Cô được huấn luyện cũng như các sư nam. Khi cô được 16 tuổi,
cô đi khắp nơi tim học với mọi thiền sư.
Cô học với Unzan ba năm, sáu năm với
Gukei, nhưng không nắm được trí tuệ sáng suốt. Cuối cùng cô đến với thiền sư
Inzan.
Inzan chẳng đối xử với cô khác với các thiền sinh nam tí nào. Thiền sư la mắng cô như sấm động. Ông trói buộc ni cô đủ cách để đánh thức bản chất bên trong của ni cô.
Inzan chẳng đối xử với cô khác với các thiền sinh nam tí nào. Thiền sư la mắng cô như sấm động. Ông trói buộc ni cô đủ cách để đánh thức bản chất bên trong của ni cô.
Gisho học với thiền sư Inzan mười ba
năm, rồi ni cô tìm được cái cô đang tìm.
Để ca ngợi ni cô, Inzan làm một bài
thơ:
Ni cô này học mười ba năm với tôi
Chiều tối cô quán chiếu công án thâm sâu
Sáng ra lại vùi đầu vào công án khác
Ni cô Hoa Tetsuma đã hơn tất cả, trừ Gisho.
Và kể từ Mujaku chẳng ai thật như Gisho!
Nhưng vẫn còn nhiều cửa cô phải đi qua
Cô còn phải chịu nhiều đấm từ bàn tay sắt của tôi
Chiều tối cô quán chiếu công án thâm sâu
Sáng ra lại vùi đầu vào công án khác
Ni cô Hoa Tetsuma đã hơn tất cả, trừ Gisho.
Và kể từ Mujaku chẳng ai thật như Gisho!
Nhưng vẫn còn nhiều cửa cô phải đi qua
Cô còn phải chịu nhiều đấm từ bàn tay sắt của tôi
Sau khi Gisho đã giác ngộ, ni cô đến
tỉnh Banshu, lập thiền viện và dạy hai trăm ni cô khác cho đến khi cô qua đời
vào tháng 8 năm nọ.
39.
Ngủ ngày
Thiền sư Soyen Shaku qua đời năm sáu
mươi mốt tuổi. Làm tròn sự nghiệp đời mình, thiền sư để lại một giáo huấn phong
phú hơn hẳn giáo huấn của nhiều thiền sư khác. Học trò của thiền sư thường ngủ
ngày giữa mùa hè, và dù là thiền sư bỏ qua việc này, thiền sư vẫn không bao giờ
phí phạm một giây phút.
Khi mới 12 tuổi, Soyen đã học triết
lý thiền Thiên Thai.
Vào một ngày hè, trời nóng bức đến
nỗi cậu bé Soyen duỗi thẳng chân và ngủ trong khi thầy mình ra ngoài. Ba tiếng
đồng hồ trôi qua, cậu bé Soyen bỗng nhiên tỉnh giấc, nghe thầy đang bước vào,
nhưng trễ quá rồi. Cậu đang nằm dài ra đó, chắn ngang cửa.
“Thầy xin lỗi, thầy xin lỗi,” thầy
của Soyen thì thầm, bước rón rén qua người Soyen, như thể Soyen là một người
khách quý. Kể từ đó, Soyen không bao giờ ngủ trưa nữa.
40.
Trong cõi
mộng
“Thầy của chúng tôi thường ngủ
trưa,” một học trò của Soyen Shaku kể lại. “Đám con nit tụi tôi hỏi tại sao
thầy ngủ trưa và thầy nói: ‘Thầy vào cõi mộng để gặp các bậc thánh hiền như
Khổng Tử làm. Khi Khổng Tử ngủ, ngài mơ đến các thánh nhân xa xưa và sau đó kể
lại cho học trò.’
Ngày nọ trời rất nóng cho nên vài đứa chúng tôi ngủ trưa. Thầy mắng tụi tôi. ‘Tụi con đến cõi mộng để gặp các thánh nhân xa xưa như Khổng Tử làm,’ chúng tôi giải thích. ‘Vậy các thánh nhân nói gì?’ Thầy tra vấn. Một đứa trong bọn chúng tôi trả lời: ‘Tụi con đến cõi mộng và gặp các thánh nhân và hỏi họ có phải thầy của chúng con đến đây mỗi trưa, nhưng họ nói là họ chẳng bao giờ thấy ai như vậy cả.’”
Ngày nọ trời rất nóng cho nên vài đứa chúng tôi ngủ trưa. Thầy mắng tụi tôi. ‘Tụi con đến cõi mộng để gặp các thánh nhân xa xưa như Khổng Tử làm,’ chúng tôi giải thích. ‘Vậy các thánh nhân nói gì?’ Thầy tra vấn. Một đứa trong bọn chúng tôi trả lời: ‘Tụi con đến cõi mộng và gặp các thánh nhân và hỏi họ có phải thầy của chúng con đến đây mỗi trưa, nhưng họ nói là họ chẳng bao giờ thấy ai như vậy cả.’”
41.
Thiền của
Joshu
Joshu bắt đầu học Thiền lúc 60 tuổi
và tiếp tục cho đến 80, lúc ngài đạt Thiền.
Joshu dạy Thiền từ năm 80 cho đến 120 tuổi.
Joshu dạy Thiền từ năm 80 cho đến 120 tuổi.
Một ngày nọ môt đệ tử hỏi Joshu:
“Nếu con không có gì trong tâm hết, con phải làm gì?”
Joshu trả lời: “Ném nó ra.”
“Nhưng con không có gì hết, làm sao
mà ném ra được?” người đệ tử hỏi tiếp.
“Vậy thì,” Joshu nói, “khiêng nó
ra.”
42.
Câu trả lời
của người chết
Khi Mamiya, sau này là một giảng sư
nổi tiếng, đến gặp thầy để nhận giáo huấn riêng, Mamiya được giao công án giải
thích tiếng vỗ của một bàn tay.
Mamiya tập trung suy nghĩ vào điều
gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay. “Con không tập luyện chuyên cần đủ,”
thầy bảo Mamiya. “Con cứ bị vướng mắc vào thức ăn, tài sản, và cái tiếng đó .
Con chết đi còn hơn. Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề.”
Lần kế tiếp Mamiya vào gặp thầy và lại bị hỏi chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay. Mamiya tức thì ngã lăn ra như là chết rồi.
Lần kế tiếp Mamiya vào gặp thầy và lại bị hỏi chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay. Mamiya tức thì ngã lăn ra như là chết rồi.
“Đúng là con chết rồi,” thầy quan
sát. “Nhưng vể tiếng vỗ đó thì sao?”
“Con vẫn chưa giải được,” Mamiya trả
lời, ngước nhìn lên .
“Người chết không nói,” thầy bảo.
“Đi ra!”
43.
Thiền trong
đời gã ăn mày
Tosui là một Thiền sư nổi tiếng vào
thời của ngài. Tosui đã trụ trì vài chùa và dạy ở nhiều tỉnh.
Chùa cuối cùng Tosui viếng thăm thu
hút nhiều môn sinh đến nỗi Tosui nói với họ là ngài sẽ bỏ việc giảng dạy vĩnh
viễn. Tosui khuyên họ ra về và đi đâu tùy ý. Sau đó chẳng còn ai biết tông tích
ngài ở đâu.
Ba năm sau một đệ tử của Tosui khám phá ra ngài đang sống với vài người hành khất dưới một gầm cầu ở Tokyo. Người đệ tử lập tức nài nĩ Tosui dạy mình.
Ba năm sau một đệ tử của Tosui khám phá ra ngài đang sống với vài người hành khất dưới một gầm cầu ở Tokyo. Người đệ tử lập tức nài nĩ Tosui dạy mình.
“Nếu cậu có thể làm như tôi làm, dù
chỉ đôi ba ngày, thì tôi có thể dạy,” Tosui trả lời.
Vậy người đệ tử mặc áo quần như hành
khất và theo Tosui cả ngày. Đến đêm một người trong đám ăn mày chết. Tosui và
người đệ tử khiêng xác nửa đêm và chôn xác trên sườn núi. Rồi họ trở về lại chỗ
ở dưới gầm cầu.
Tosui ngủ ngon lành, nhưng người đệ
tử không ngủ được. Đến sáng Tosui nói: “Chúng ta không phải đi xin đồ ăn hôm
nay. Ông bạn vừa chết của mình đã để lại ít thức ăn đằng kia.” Nhưng người đệ
tử chẳng ăn nổi miếng nào.
“Tôi đã nói là cậu không làm như tôi
được,” Tosui kết luận. “Đi đi và đừng làm phiền tôi nữa.”
44.
Kẻ cướp
thành môn đệ
Một buổi tối khi Shichiri Kojun đang
tụng kinh, một tên cướp cầm một thanh gươm bén vào nhà, đòi tiền, nếu không thì
chết.
Shichiri bảo tên cướp: “Đừng làm rộn
tôi. Anh có thể tìm tiền trong hộc tủ đó.” Rồi thiền sư tiếp tục tụng kinh.
Một lúc sau thiền sư ngừng và gọi: “Đừng lấy hết tiền. Tôi cần một ít để đóng thuế ngày mai.”
Một lúc sau thiền sư ngừng và gọi: “Đừng lấy hết tiền. Tôi cần một ít để đóng thuế ngày mai.”
Kẻ gian lấy gần hết số tiền và sửa
soạn ra về. “Cám ơn khi nhận được quà,” Shichiri nói thêm. Chàng cướp cám ơn
thiền sư rồi đi mất.
Vài ngày sau chàng cướp bị bắt và
thú tội, ngoài các tội khác, còn có tội với Shichiri. Khi được gọi ra làm
chứng, Schichiri nói: “Anh này chẳng phải là trộm cướp, ít ra là đối với tôi.
Tôi cho anh ta tiền và anh ta cám ơn tôi về việc đó.”
Sau khi mãn hạn tù, anh chàng này
đến gặp Shichiri và thành đệ tử của Thiền sư.
45.
Đúng và Sai
Khi Bankei mở mùa an cư kiết hạ, đệ
tử từ nhiều nơi trên đất Nhật về tham dự. Trong một buổi thiền định, một đệ tử
bị bắt gặp đang ăn cắp. Vấn đề được bẩm báo lên Bankei, với yêu cầu là người đệ
tử ăn cắp bị đuổi. Bankei lờ vụ này.
Sau đó đệ tử này lại bị bắt gặp ăn cắp như vậy, và một lần nữa Bankei lờ vấn đề. Chuyện này làm các đệ tử khác tức giận; họ viết một thỉnh nguyện thư yêu cầu kẻ cắp bị đuổi, nói rằng nếu không thì họ sẽ rời bỏ, tất cả cùng một lúc.
Sau đó đệ tử này lại bị bắt gặp ăn cắp như vậy, và một lần nữa Bankei lờ vấn đề. Chuyện này làm các đệ tử khác tức giận; họ viết một thỉnh nguyện thư yêu cầu kẻ cắp bị đuổi, nói rằng nếu không thì họ sẽ rời bỏ, tất cả cùng một lúc.
Sau khi đọc lá thơ, Bankei gọi mọi
người đến. “Các anh em rất thông thái,” thiền sư nói với họ. “Anh em biết cái
gì đúng và cái gì không đúng. Anh em có thể theo học nơi khác nếu muốn, nhưng
người anh em khốn khó này chẳng biết đúng sai. Ai sẽ dạy anh ta nếu tôi không
dạy? Tôi sẽ giữ anh ta lại đây dù là tất cả các anh em rời bỏ.”
Một suối lệ chảy dàn dụa trên mặt
người đệ tử ăn cắp. Tất cả mọi ham muốn trộm cắp đã tan biến.
46.
Cỏ cây giác
ngộ thế nào?
Vào thời Kamakura, Shinkan học Thiên
Thai Tông sáu năm, sau đó học Thiền 7 năm; rồi thiền sư qua Trung Quốc và
nghiên cứu Thiền 13 năm nữa.
Khi thiền sư trở về Nhật nhiều người muốn gặp thiền sư và hỏi các câu bí hiểm. Nhưng Shinkan rất ít tiếp khách, và khi tiếp khách, thiền sư rất ít khi trả lời câu hỏi của họ.
Khi thiền sư trở về Nhật nhiều người muốn gặp thiền sư và hỏi các câu bí hiểm. Nhưng Shinkan rất ít tiếp khách, và khi tiếp khách, thiền sư rất ít khi trả lời câu hỏi của họ.
Ngày nọ có một người 50 tuổi đang
học về giác ngộ, nói với Shinkan, “Tôi đã học tư tưởng của Tông Thiên Thai từ
lúc còn nhỏ, nhưng một điều tôi không hiểu nổi. Thiên Thai cho rằng ngay cả cỏ
cây cũng sẽ giác ngộ. Đối với tôi đây là điều rất lạ.”
“Bàn luận cỏ cây giác ngộ thế nào
thì được ích gì?” Shinkan hỏi. “Câu hỏi là anh làm thế nào để có thể giác ngộ.
Anh có bao giờ nghĩ đến chuyện đó không?”
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ như vậy cả,”
ông già kinh ngạc.
“Vậy thì về nhà và nghĩ đến nó,”
Shinkan kết thúc.
47.
Hoa sĩ
tham lam
Gessen là một thiền sư họa sĩ. Trước
khi vẽ hay sơn một bức tranh, thiền sư luôn luôn yêu cầu trả tiền trước, và giá
của thiền sư rất cao. Thiền sư có tiếng là “Họa sĩ tham lam.”
Một nàng ca kỹ hỏi thiền sư vẽ tranh. “Cô có thể trả bao nhiêu?” Gessen hỏi.
Một nàng ca kỹ hỏi thiền sư vẽ tranh. “Cô có thể trả bao nhiêu?” Gessen hỏi.
“Bất cứ giá nào ông tính,” cô gái
trả lời, “nhưng tôi muốn ông vẽ trước mặt tôi.”
Rồi ngày nọ nàng ca kỹ gọi Gessen.
Cô đang mở tiệc khoản đãi thân chủ của cô.
Gessen vẽ rất đẹp. Khi đã xong,
thiền sư đòi giá cao nhất cho thời gian làm việc của mình.
Thiền sư được trả tiền. Rồi nàng ca kỹ quay về hướng thân chủ của cô và nói: “Anh chàng họa sĩ này chỉ muốn tiền. Tranh của ông ta thì được nhưng đầu của ông ta bẩn thỉu; tiền có thể làm đầu óc ông ta đầy bùn. Tranh vẽ từ cái đầu bẩn thỉu như vậy không đáng để trưng bày. Chỉ đáng để làm đẹp váy lót của tôi.”
Thiền sư được trả tiền. Rồi nàng ca kỹ quay về hướng thân chủ của cô và nói: “Anh chàng họa sĩ này chỉ muốn tiền. Tranh của ông ta thì được nhưng đầu của ông ta bẩn thỉu; tiền có thể làm đầu óc ông ta đầy bùn. Tranh vẽ từ cái đầu bẩn thỉu như vậy không đáng để trưng bày. Chỉ đáng để làm đẹp váy lót của tôi.”
Nàng cởi váy, rồi bảo Gessen vẽ một
bức tranh khác trên mặt sau của váy lót của nàng.
“Cô trả bao nhiêu?” Gessen hỏi.
“Ô bao nhiêu cũng được,” cô gái nói.
Gessen ra một giá rất cao, vẽ bức
tranh theo cách yêu cầu, rồi ra về.
Sau này người ta biết được Gessen có
những lý do này để cần tiền:
Tỉnh của Gessen thường bị nạn đói.
Người giàu không giúp người nghèo, vì vậy Gessen có một nhà kho bí mật, chẳng
ai biết. Thiền sư giữ đầy gạo trong kho, chuẩn bị cho những khi khẩn cấp.
Từ làng của thiền sư đến Đền Thờ Tổ
Quốc đường xá rất xấu và nhiều khách lữ hành khốn đốn khi đi đường. Thiền sư
muốn làm một con đường tốt hơn.
Thầy của Gessen đã qua đời mà không
thực hiện được giấc mơ xây một ngôi chùa. Thiền sư muốn hoàn thành ý nguyện cho
thầy.
Sau khi Gessen đã hoàn thành ba ước
nguyện này, thiền sư vất cọ, vất đồ nghề vẽ, và rút lên núi ở, không bao giờ vẽ
nữa.
48.
Tỉ lệ
chính xác
Sen no Rikya, một trà sư, muốn treo
một lẳng hoa trên cột nhà. Thầy nhờ một người thợ mộc giúp, chỉ cho anh ta treo
cao hơn hay thấp hơn một tí, nhích qua bên phải hay bên trái, cho đến khi thầy
tìm được đúng chỗ. “Chỗ đó đó,” cuối cùng Sen no Rikya nói.
Anh thợ mộc, muốn thử thầy, bèn đánh dấu chỗ đó rồi giả vờ quên mất. “Chỗ này phải không? Có lẽ, nó là chỗ này?” anh thợ mộc cứ hỏi, chỉ vào vài chỗ khác nhau trên cột.
Anh thợ mộc, muốn thử thầy, bèn đánh dấu chỗ đó rồi giả vờ quên mất. “Chỗ này phải không? Có lẽ, nó là chỗ này?” anh thợ mộc cứ hỏi, chỉ vào vài chỗ khác nhau trên cột.
Nhưng cảm quan về tỉ lệ của thầy
chính xác đến nỗi chỉ đến khi anh thợ mộc chỉ đúng vào điểm đã đánh dấu thì
thầy mới chấp nhận.
49.
Phật mũi đen
Một ni cô đang đi tìm giác ngộ, làm
một bức tượng Phật và dát vàng lên tượng. Bất kỳ đi đâu cô cũng mang tượng Phật
vàng này theo.
Nhiều năm trôi qua, vẫn còn mang
tượng Phật, ni cô đến sống trong một ngôi chùa nhỏ ở một xứ có rất nhiều Phật,
mỗi vị Phật có đền thờ riêng.
Ni cô muốn thắp nhang trước tượng Phật vàng của cô. Không thích hương thơm của nhang mình đi lạc qua chỗ người khác, cô chế ra một cái phểu lớn, chuyển khói nhang đến tượng Phật của cô mà thôi. Điều này làm mũi của tượng Phật vàng bị nám đen, nhìn rất xấu.
Ni cô muốn thắp nhang trước tượng Phật vàng của cô. Không thích hương thơm của nhang mình đi lạc qua chỗ người khác, cô chế ra một cái phểu lớn, chuyển khói nhang đến tượng Phật của cô mà thôi. Điều này làm mũi của tượng Phật vàng bị nám đen, nhìn rất xấu.
50.
Ryonen đắc
ngộ
Ni cô Ryonen sinh năm 1797. Cô là
cháu của Shingen, một võ tướng nổi tiếng của Nhật. Thiên tài thi phú và sắc đẹp
khuynh thành của cô tuyệt đến mức mới 17 tuổi cô đã thành người hầu cận của
hoàng hậu. Dù còn trẻ thế, danh vọng đang chờ đợi cô.
Hoàng hậu yêu quý chết bất thần và
mọi giấc mơ của Ryonen tiêu tán. Cô thấy rất rõ tính vô thường của đời sống
trong thế giới này. Vì vậy cô muốn học thiền.
Tuy nhiên, thân nhân của cô không đồng ý và ép cô lập gia đình. Với lời hứa hẹn là cô có thể đi tu sau khi đã sinh ba đứa con, Ryonen đồng ý. Cô làm tròn điều kiện này trước khi đầy 25 tuổi. Chồng cô và mọi người thân chẳng thể cản cô được nữa. Cô cạo đầu, lấy tên là Ryonen, có nghĩa là đạt ngộ sáng lạn, và bắt đầu hành hương.
Tuy nhiên, thân nhân của cô không đồng ý và ép cô lập gia đình. Với lời hứa hẹn là cô có thể đi tu sau khi đã sinh ba đứa con, Ryonen đồng ý. Cô làm tròn điều kiện này trước khi đầy 25 tuổi. Chồng cô và mọi người thân chẳng thể cản cô được nữa. Cô cạo đầu, lấy tên là Ryonen, có nghĩa là đạt ngộ sáng lạn, và bắt đầu hành hương.
Cô đến thành phố Edo và xin thiền sư
Tetsugya nhận làm đệ tử. Nhưng chỉ liếc mắt qua một tí là thiền sư đã từ chối,
vì cô quá đẹp.
Ryonen đến gặp một thầy khác, Hakuo.
Hakuo cũng từ chối với cùng lý do, nói là sắc đẹp của cô chỉ gây rắc rối.
Ryonen lấy một thanh sắt nóng ép vào
mặt. Chỉ trong một lúc là sắc đẹp của cô đã tiêu tán vĩnh viễn.
Hakuo bèn nhận cô làm đệ tử.
Để kỷ niệm chuyện này, Ryonen viết
một bài thơ trên mặt sau của một tấm gương nhỏ:
Phục vụ Hoàng Hậu, ta đốt hương xông
thơm quần áo lụa là
Nay khất thực không nhà, ta đốt mặt để vào thiền viện.”
Nay khất thực không nhà, ta đốt mặt để vào thiền viện.”
Khi sắp sửa lìa đời, cô viết một bài
thơ khác:
Sáu mươi sáu lần đôi mắt này đã
chứng kiến mùa thu thay đổi.
Ta đã nói đủ về ánh trăng,
Đừng hỏi nữa.
Hãy chỉ lắng nghe tiếng nói của thông và tuyết tùng khi gió lặng.
Ta đã nói đủ về ánh trăng,
Đừng hỏi nữa.
Hãy chỉ lắng nghe tiếng nói của thông và tuyết tùng khi gió lặng.
51.
Miso chua
Sư nấu bếp tại Dairyo, tu viện của
thiền sư Bankei, quyết định là sư sẽ chăm sóc kỹ càng sức khỏe của lão sư phụ
của mình và sẽ chỉ cho sư phụ ăn Miso tươi, làm từ đậu nành, lúa mì và men đánh
nhuyễn và để lên men. Bankei, thấy là mình được phục vụ miso tốt hơn miso của
các đệ tử, liền hỏi: “Ai là người nấu ăn hôm nay?”
Dairyo được gọi đến gặp thầy. Bankei nghe trình là theo tuổi tác và địa vị của thầy, Bankei chỉ nên ăn miso tươi. Cho nên Bankei nói với sư nấu ăn: “Vậy chú nghĩ là thầy không nên ăn gì hết.” Nói xong, Bankei bước vào phòng riêng và khóa cửa.
Dairyo được gọi đến gặp thầy. Bankei nghe trình là theo tuổi tác và địa vị của thầy, Bankei chỉ nên ăn miso tươi. Cho nên Bankei nói với sư nấu ăn: “Vậy chú nghĩ là thầy không nên ăn gì hết.” Nói xong, Bankei bước vào phòng riêng và khóa cửa.
Dairyo, ngồi ngoài cửa, xin lỗi
thầy. Bankei không trả lời. Cả bảy ngày, Dairyo ngồi bên ngoài và Bankei ở bên
trong.
Cuối cùng, trong tuyệt vọng một đệ
tử nói thật to cho Bankei: “Thầy có thể không sao, lão sư phụ, nhưng anh chàng
đệ tử này phải ăn. Hắn không thể nhịn ăn mãi được!”
Đến lúc đó Bankei mở cửa. Thầy mỉm
cười. Thầy nói với Dairyo: “Thầy nhất quyết ăn cùng loại thức ăn như những đệ
tử thấp nhất của thầy. Khi chú trở thành sư phụ, thầy không muốn chú quên
chuyện này.”
52.
Ánh sáng của
con có thể tắt
Một học trò Tông Thiên Thai, một tông phái triết lý Phật giáo, đến thiền viện của Gasan học thiền. Vài năm sau cậu ra đi, Gasan cảnh báo cậu: “Học về sự thật bằng phỏng đoán thì lợi ích cũng chỉ như lượm lặt tài liệu giảng huấn. Nhưng nhớ rằng nếu con không thiền quán thường trực, ánh sáng chân lý của con có thể tắt.
53.
Người cho
nên cám ơn
Lúc Seisetsu giảng dạy tại chùa
Engaku ở Kamakura, thiền sư cần phòng ốc rộng hơn, vì nơi giảng dạy của thầy đã
quá chật. Umezu Seibei, một thương gia ở Edo, quyết định là sẽ tặng 500 đồng
vàng, gọi là ryo, vào việc xây trường rộng thêm. Umeza mang tiền đến cho thiền
sư.
Seisetsu nói: “Tốt lắm. Tôi sẽ
nhận.”
Umezu trao bao vàng cho Seisetsu, nhưng
không hài lòng với thái độ của thiền sư. Một người có thể sống cả năm với chỉ 3
ryo, nhưng thương gia này không nhận được cả một tiếng cám ơn.
“Trong bao đó có 500 ryo,” Umezu
nhắc khéo.
“Anh đã nói cho tôi biết rồi,”
Seisetsu trả lời.
“Dù tôi là một thương gia giàu có,
500 ryo vẫn là rất nhiều tiền,” Umezu nói.
“Anh muốn tôi cám ơn anh?” Seisetsi
hỏi.
“Thầy nên làm vậy,” Umezu trả lời.
“Tại sao tôi nên cám ơn?” Seisetsu
thắc mắc. “Người cho nên cám ơn.”
54.
Di chúc
Ikkyu, một thiền sư nổi tiếng thời Ashikaga,
là con của Thiên hoàng. Khi thiền sư còn nhỏ, mẹ của thiền sư rời bỏ cung điện
và vào chùa học thiền. Bởi vậy hoàng tử Ikkyu thành thiền sinh. Khi mẹ của
Ikkyu qua đời, bà để lại cho thầy một lá thơ, viết rằng:
Gởi Ikkyu:
Mẹ đã xong việc ở đời này và bây giờ
mẹ trở lại với Vĩnh Hằng. Mẹ mong con thành một thiền sinh giỏi và sẽ đạt được
Phật tánh. Con sẽ biết là mẹ ở trong địa ngục hay không và mẹ có luôn ở cùng
con không.
Nếu con thành một người hiểu được rằng Phật và đệ tử của ngài là Bồ Đề Đạt Ma là tôi tớ của con, con có thể ngưng học và đi cứu nhân độ thế. Phật giảng 49 năm và trong khoảng thời gian đó thấy chẳng phải nói một chữ nào. Con nên biết tại sao. Nhưng nếu con không biết nhưng muốn biết, tránh suy nghĩ vô ích.
Nếu con thành một người hiểu được rằng Phật và đệ tử của ngài là Bồ Đề Đạt Ma là tôi tớ của con, con có thể ngưng học và đi cứu nhân độ thế. Phật giảng 49 năm và trong khoảng thời gian đó thấy chẳng phải nói một chữ nào. Con nên biết tại sao. Nhưng nếu con không biết nhưng muốn biết, tránh suy nghĩ vô ích.
Mẹ,
Không sinh, không chết.
Ngày 1 tháng 9
Tái bút: Giáo pháp của Phật là cốt
để giác ngộ người khác. Nếu con lệ thuộc vào bất cứ pháp môn nào, con cũng chỉ
là một côn trùng dốt nát. Có đến 80 nghìn quyến sách về Phật học và nếu con
phải đọc hết các sách này mà vẫn không thấy được tánh thật của con, con sẽ
không hiểu được lá thơ này. Đây là di chúc của mẹ.
55.
Trà sư và kẻ
sát nhân
Taiko, một tướng quân ở Nhật vào
thời Tokugawa, học trà đạo gọi là Cha-no-yu, với trà sư Sen no Rikyu, một vị
thầy về loại nghệ thuật diễn tả an lạc này.
Cận tướng của Taiko là Kato xem sự say mê trà đạo của chủ là bê trễ công việc quốc gia, nên Kato quyết định phải giết Sen no Rikyu. Hắn giả vờ viếng thăm trà sư và được mời vào uống trà.
Cận tướng của Taiko là Kato xem sự say mê trà đạo của chủ là bê trễ công việc quốc gia, nên Kato quyết định phải giết Sen no Rikyu. Hắn giả vờ viếng thăm trà sư và được mời vào uống trà.
Trà sư, rất thành thạo trong nghệ
thuật của thầy, liếc mắt qua là biết ngay ý định của viên võ tướng, nên trà sư
mời Kato để kiếm ở ngoài trước khi vào phòng cho nghi lễ trà đạo, giải thích
rằng trà đạo chính là biểu hiện của an bình.
Kata không nghe theo. “Tôi là võ
tướng,” hắn nói. “Tôi luôn luôn mang kiếm theo người. Trà đạo hay không trà
đạo, tôi giữ kiếm với tôi.”
“Được. Cứ mang kiếm vào và uống
trà,” Sen no Rikyu bằng lòng.
Ấm nước đang sôi trên bếp than. Đột
nhiên Sen no Rikyu nghiêng ấm nước. Hơi nước bốc xì xèo, khói và tro bay đầy
phòng. Viên võ tướng giật mình chạy ra ngoài.
Trà sư xin lỗi. “Đó là lỗi của tôi.
Vào lại và uống tí trà. Kiếm của anh bị dính đầy tro, tôi có nó đây, sẽ chùi nó
sạch sẽ và trả lại cho anh.”
Trong thế kẹt này, chàng võ tướng
biết là mình không thể giết trà sư được, hắn bèn bỏ luôn ý định đó.
56.
Đường thật
Trước khi Ninakawa qua đời thiền sư
Ikkyu đến thăm ông. “Tôi dẫn độ cho anh nhé?” Ikkyu hỏi.
Ninikawa trả lời: “Tôi đến đây một
mình và tôi đi một mình. Thiền sư giúp tôi được gì?”
Ikkyu nói: “Nếu anh nghĩ là anh thật
có đến và đi, đó là ảo tưởng của anh. Để tôi chỉ cho anh con đường trên đó
chẳng có đến, chẳng có đi.”
Với các lời giảng, Ikkyu đã chỉ ra
con đường rõ ràng đến nỗi Ninakawa mỉm cười và từ trần.
57.
Cửa thiên
đàng
Một chiến binh tên Nobushige đến gặp
Hakuin, và hỏi: “Có thiên đàng và địa ngục không?”
“Anh là ai?” Hakuin hỏi.
“Anh là ai?” Hakuin hỏi.
“Tôi là một hiệp sĩ đạo,” người
chiến binh trả lời.
“Anh, chiến sĩ!” Hakuin kêu lên.
“Vua chúa nào dùng anh làm cận vệ? Mặt anh nhìn như mặt ăn mày.”
Nobushige quá giận và bắt đầu rút
kiếm ra, nhưng Hakuin tiếp tục: “Anh cũng có kiếm nữa! Kiếm của anh chắc là quá
cùn để chặt đầu tôi.”
Trong khi Noshibughe rút kiếm Hakuin
nói: “Đây cửa địa ngục đang mở.”
Nghe những lời này, chàng hiệp sĩ
đạo nhận ra kỷ luật của thiền sư, bỏ kiếm lại vào bao và gập người chào.
“Đây cửa thiên đàng đang mở,” Hakuin
nói.
58.
Bắt ông
Phật đá
Một thương gia mang 50 cuộn bông gòn
trên vai, ngừng để tránh nắng dưới mái một căn chòi trong đó đứng một tượng
Phật lớn bằng đá. Rồi anh ta ngủ thiếp đi, và khi anh tỉnh dậy hàng hóa của anh
đã biến mất. Anh lập tức trình báo với cảnh sát.
Một quan tòa tên O-oka mở cuộc điều tra. “Chắc ông Phật đá này ăn trộm,” quan tòa kết luận. “Ông ta lẽ ra là phải lo lắng cho mọi người, nhưng đã không làm tròn nhiệm vụ. Bắt hắn.”
Một quan tòa tên O-oka mở cuộc điều tra. “Chắc ông Phật đá này ăn trộm,” quan tòa kết luận. “Ông ta lẽ ra là phải lo lắng cho mọi người, nhưng đã không làm tròn nhiệm vụ. Bắt hắn.”
Cảnh sát bắt tượng Phật đá và khiêng
tượng về tòa. Một đám đông ồn ào chạy theo tượng, tò mò muốn biết quan tòa sẽ
ra hình phạt thế nào.
Khi O-oka ra ngồi ghế xử, ông mắng
đám đông ồn áo. “Quí vị có quyền gì mà ra trước tòa cười giỡn thế này? Quí vị
khinh thường tòa án và đáng bị phạt vạ và phạt tù.”
Mọi người lật đật xin lỗi. “Tôi sẽ
phải phạt tiền quí vị,” quan tòa nói, “nhưng tôi sẽ bỏ qua nếu mỗi người mang
đến cho tòa một cuộn bông gòn trong vòng ba ngày. Người nào không làm sẽ bị
bắt.”
Một trong những cuộn bông mọi người
nộp được người thương gia nhận ra ngay là cuộn bông của anh ta, nhờ đó tìm ra
người ăn trộm ngay. Người thương gia tìm lại được hàng hóa, và tòa trả các cuộn
bông lại cho mọi người.
59.
Chiến binh
của nhân loại
Có lần một sư đoàn quân đội Nhật tập
trận, và một số sĩ quân thấy cần phải lập bộ chỉ huy trong thiền viện của
Gasan.
Gasan bảo đầu bếp: “Cho các sĩ quan
các món đơn giản như chúng ta ăn.”
Các sĩ quan tức giận, bởi vì họ quen
được ưu đãi. Một sĩ quan đến gặp Gasan và nói: “Ông nghĩ chúng tôi là ai? Chúng
tôi la chiến binh, hy sinh mạng sống cho tổ quốc. Tại sao ông không đối xử với
chúng tôi tương xứng?”
Gasan trả lời cứng rắn: “Anh nghĩ
chúng tôi là ai? Chúng tôi là chiến binh của nhân loại, nhắm vào cứu vớt tất cả
mọi sinh linh.”
60.
Đường hầm
Zenkai, con trai của một người hiệp
sĩ đạo, đến Edo và được nhận vào làm hầu cận cho một quan chức lớn. Zenkai yêu
vợ viên quan này và bị khám phá. Để tự bảo vệ, Zenkai giết viên quan. Rồi bỏ
trốn cùng với vợ ông ta.
Cả hai sau đó trở thành ăn trộm.
Nhưng người đàn bà quá tham lam đến nỗi Zenkai dần dần ghê tởm bà ta. Cuối
cùng, Zenkai rời bà ta và đi thật xa, đến thành phố Buzen, nơi Zenkai trở thành
một vị sư khất thực.
Để chuộc lại tội lỗi quá khứ, Zenkai quyết định làm một việc thiện nào đó trong đời. Biết có một con đường nguy hiểm băng qua đỉnh núi làm nhiều người chết và mang thương tật, Zenkai quyết định đào một đường hầm xuyên núi tại đó.
Để chuộc lại tội lỗi quá khứ, Zenkai quyết định làm một việc thiện nào đó trong đời. Biết có một con đường nguy hiểm băng qua đỉnh núi làm nhiều người chết và mang thương tật, Zenkai quyết định đào một đường hầm xuyên núi tại đó.
Ban ngày khất thực, ban đêm Zenkai
đào đường hầm. Sau 30 năm, đường hầm dài 2280 feet (695 m), cao 20 feet (6,1m),
và rộng 30 feet (9,15m).
Hai năm trước ngày hoàn thành, người
con trai của vị quan Zenkai đã giết, nay là một kiếm sĩ tài giỏi, tìm ra được
Zenkai và đến để giết thiền sư trả thù cha.
“Tôi sẽ tình nguyện trao mạng cho
cậu,” Zenkai nói. “Chỉ để tôi làm xong việc này đã. Ngày nào xong, cậu có thể
giết tôi.”
Vậy cậu con đợi ngày đó đến. Vài
tháng trôi qua và Zendai vẫn tiếp tục đào. Cậu con chán ngồi không chẳng làm gì
và bắt đầu phụ Zenkai đào. Khi đã giúp Zenkai được một năm, cậu con bắt đầu
ngưỡng mộ ý chí và tính cách của Zendai.
Cuối cùng đường hầm hoàn thành và
mọi người có thể dùng nó và đi lại an toàn.
“Bây giờ chặt đầu tôi đi,” Zendai
nói. “Việc của tôi đã xong.”
“Làm sao tôi chặt đầu của thầy của
tôi được?” cậu trai trẻ hỏi với đôi mắt đẫm lệ.
61.
Gudo và
Thiên hoàng
Thiên hoàng Goyozei học Thiền với
Gudo. Thiên hoàng hỏi: “Trong Thiền, tâm này là Phật. Phải không?
Gudo trả lời: “Nếu bần tăng nói
‘đúng’, hoàng thượng sẽ nghĩ là hoàng thượng hiểu trong khi không hiểu. Nếu bần
tăng nói ‘sai’, bần tăng có thể nói ngược lại với điều hoàng thượng đã hiểu rất
rõ.”
Một hôm khác Thiên hoàng hỏi Gudo::
“Người giác ngộ đi đâu khi chết?”
Gudo trả lời: “Bần tăng không biết.”
“Tại sao thầy không biết?” Thiên
hoàng hỏi.
“Tại vì bần tăng chưa chết,” Gudo
trả lời.
Thiên hoàng ngại hỏi thêm về những
điều mà trí óc Thiên hoàng không hiểu nổi. Nên Gudo vỗ tay xuống sàn như là để
đánh thức Thiên hoàng, và Thiên hoàng giác ngộ!
Sau khi giác ngộ Thiên hoàng càng
tôn trọng Thiền và sư già Gudo hơn trước, ngay cả cho phép Gudo đội mũ trong
cung trong mùa đông. Khi Gudo quá 80 tuổi, thiền sư thường ngủ gục trong khi
giảng bài, và Thiên hoàng chỉ lặng lẽ lui sang phòng khác để người thầy yêu quý
hưởng được giấc nghỉ cơ thể già lão của thầy đòi hỏi
62.
Trong bàn
tay định mệnh
Một Hiệp Sĩ Đạo thượng thừa tên
Nobunaga quyết định tấn công quân địch dù quân số của ông chỉ bằng một phần
mười số quân bên địch. Ông biết rằng ông sẽ thắng, nhưng quân của ông thì rất
nghi ngại.
Trên đường đi ông ghé vào một đền thờ Thần đạo và nói với lính của của ông: “Sau khi ta viếng đền ta sẽ thẩy đồng bạc cắc. Nếu là đầu, chúng ta sẽ thắng; nếu là đuôi, chúng ta thua. Định mệnh nắm chúng ta trong tay ngài.”
Trên đường đi ông ghé vào một đền thờ Thần đạo và nói với lính của của ông: “Sau khi ta viếng đền ta sẽ thẩy đồng bạc cắc. Nếu là đầu, chúng ta sẽ thắng; nếu là đuôi, chúng ta thua. Định mệnh nắm chúng ta trong tay ngài.”
Nobunaga vào đền thờ và cầu nguyện
thầm lặng. Rồi ông bước ra và thẩy đồng bạc. Đầu hiện ra. Lính của ông hăng
chiến đấu đến mức họ thắng trận chiến thật dễ dàng.
“Không ai có thể thay đổi bàn tay
định mệnh,” người hầu cận của Nobunaga nói với ông sau cuộc chiến.
“Đúng vậy, không ai có thể,”
Nobunhaga nói, cho anh hầu cận thấy đồng bạc cắc với cả hai mặt đều là “đầu”.
63.
Sát sinh
Một ngày nọ Gasan giảng cho các đệ
tử: “Những người khuyên không sát sinh và muốn tha mạng cho mọi sinh linh đều
đúng. Bảo vệ ngay cả thú vật và côn trùng là điều thiện. Nhưng những người giết
thời gian thì sao, hay những người hủy hoại tài sản, và những người phá hoại
nền kinh tế chính trị? Chúng ta không bỏ qua được. Hơn nữa, người thuyết giảng
mà không giác ngộ thì sao? Hắn đang giết Phật pháp.”
64.
Mồ hôi
của Kasan
Kasan được mời chủ trì tang lễ cho
một vị lãnh chúa đầu tỉnh.
Kasan chưa bao giờ gặp giới lãnh
chúa và quí tộc trước đó, nên thiền sư rất hồi hộp. Khi buổi lễ bắt đầu, Kasan
đổ mồ hôi.
Sau đó, khi đã về, Kasan họp các đệ tử lại. Kasan thú thật là chưa đủ khả năng làm thầy bởi vì thiền sư đã không thể có được cùng một thái độ trong thế giới danh vọng cũng như trong một ngôi chùa hẻo lánh. Rồi Kasan từ chức và thành học trò của một thiền sư khác. Tám năm sau, đã giác ngộ, Kasan trở về với các đệ tử cũ.
Sau đó, khi đã về, Kasan họp các đệ tử lại. Kasan thú thật là chưa đủ khả năng làm thầy bởi vì thiền sư đã không thể có được cùng một thái độ trong thế giới danh vọng cũng như trong một ngôi chùa hẻo lánh. Rồi Kasan từ chức và thành học trò của một thiền sư khác. Tám năm sau, đã giác ngộ, Kasan trở về với các đệ tử cũ.
65.
Trừ ma
Một người vợ trẻ bị bệnh và gần
chết. “Em yêu anh quá,” nàng nói với chồng, “Em không muốn rời anh. Đừng bỏ em
mà theo một người đàn bà nào khác. Nếu anh theo người khác, em sẽ làm ma trở về
và hành anh mãi.”
Sau đó không lâu người vợ qua đời. Anh chồng giữ lời ước cuối cùng của vợ được 3 tháng đầu, nhưng anh gặp một người phụ nữ khác và yêu cô. Họ đính hôn để chuẩn bị kết hôn.
Sau đó không lâu người vợ qua đời. Anh chồng giữ lời ước cuối cùng của vợ được 3 tháng đầu, nhưng anh gặp một người phụ nữ khác và yêu cô. Họ đính hôn để chuẩn bị kết hôn.
Ngay sau khi đính hôn một con ma
hiện ra hàng đêm với anh chồng, phàn nàn là anh không giữ lời hứa. Con ma này
lại rất tinh khôn. Nàng ta biết nói cho anh chồng biết chuyện gì đã xảy ra giữa
anh chồng và cô người yêu mới. Khi nào anh ta cho hôn thê một món quà, con ma
cũng tả được từng chi tiết của món quà. Con ma còn lập lại các cuộc nói chuyện,
và việc này làm anh chồng bức xúc đến nỗi không ngủ được. Có người khuyên anh
kể sự việc cho một thiền sư ở gần làng. Cuối cùng, tuyệt vọng quá, anh chàng
tội nghiệp này đành đến gặp thiền sư nhờ giúp đở.
“Bà vợ cũ của anh thành ma và biết
mọi chuyện anh biết,” thiền sư bàn luận. “Bất cứ điều gì anh làm hay nói, bất
cứ cái gì anh tặng người yêu, bà ấy biết. Bà ấy phải là một con ma rất khôn
ngoan. Thật là anh nên cảm phục một con ma như vậy. Lần tới khi bà ấy hiện ra,
anh điều đình với bà ấy. Nói với bà ấy rằng bà ấy biết quá nhiều và anh không
thể dấu bà ấy điều gì, và nếu bà ấy có thể trả lời một câu hỏi của anh, anh hứa
là sẽ hủy bỏ hôn ước và sống độc thân.”
“Tôi phải hỏi câu hỏi nào?” anh
chồng thắc mắc.
Thiền sư trả lời: “Bốc một nắm đậu
nành và hỏi bà ấy có bao nhiêu hạt đậu nành trong tay anh. Nếu bà ấy không trả
lời được, thì bà ấy chỉ là một hình ảnh của óc tưởng tượng của anh và anh sẽ
không còn rắc rối nữa.”
Ngày hôm sau, khi con ma hiện ra,
anh chồng nịnh và nói bà biết hết mọi sự.
“Đúng vậy,” con ma nói, “và tôi biết
anh đến gặp thiền sư hôm nay.”
“Và vì bà biết quá nhiều,” anh chồng
yêu cầu, “nói cho tôi biết tôi đang nắm bao nhiêu hạt đậu nành trong bàn tay
này!”
Chẳng còn con ma nào nữa để trả lời.
66.
Bầy con của
Thiên hoàng
Yamaoka Tesshu là thầy của Thiên
hoàng. Yamaoka còn là một kiếm sư và là một thiền sư thâm hậu.
Nhà của thiền sư là nơi ở của những người lang thang. Thiền sư chỉ có một bộ đồ, vì những người này làm thiền sư nghèo mãi.
Nhà của thiền sư là nơi ở của những người lang thang. Thiền sư chỉ có một bộ đồ, vì những người này làm thiền sư nghèo mãi.
Thiên hoàng, thấy áo thiền sư đã sờn
rách quá, cho thiền sư tiền để mua áo mới. Lần tới thiền sư đến, ông lại mang
cái áo cũ.
“Vậy bộ áo mới đâu rồi, Yamaoka?”
Thiên hoàng hỏi.
“Tôi mua áo quần cho đám con của bệ
hạ rồi,” Yamaoka giải thích.
67.
Con làm gì
vậy! Thầy nói gì vậy!
Thời tân tiến này có rất nhiều lảm
nhảm vô nghĩa về thầy và trò, và việc trò thừa kế giáo pháp của thầy, cho thầy
quyền chuyển giáo pháp đến đệ tử tin cẩn. Dĩ nhiên là Thiền nên được chuyển tay
cách này, từ tâm đến tâm, và khi xưa xảy ra như thế. Im lặng và khiêm tốn trị
vì, thay vì chuyên nghiệp và đòi hỏi. Người tiếp nhận giáo pháp cách đó dấu
chuyện đó trong lòng đôi khi cả 20 năm. Cho đến khi có một người khác, do chính
nhu cầu của anh ta, khám phá ra là có một sư phụ ngay bên cạnh mình, lúc đó
việc giáo pháp đã được thừa kế mới có người biết, và ngay cả những lúc đó, câu
chuyện xảy ra một cách tự nhiên và giáo pháp toàn quyền tự định đường đi của
nó. Không bao giờ một người thầy tuyên bố “Tôi là truyền nhân của
vị-này-vị-nọ.” Những tuyên bố như vậy chính là bằng chứng ngược lại.
Thiền sư Mu-nan chỉ có một truyền nhân. Tên của anh ta là Shoju. Sau khi Shoju đã hoàn tất Thiền học, Mu-nan gọi Shoju vào phòng. “Thầy già rồi,” Mu-nan nói, “và theo thầy biết, Shoju, con là người duy nhất sẽ tiếp tục gánh vác giáo pháp này. Đây là một quyển sách. Nó đã được truyền tay từ sư phụ đến sư phụ cả 7 đời. Thầy cũng đã thêm nhiều điểm vào đó, theo hiểu biết của thầy. Quyến sách rất có giá trị, và thầy trao nó lại cho con làm biểu tượng cho sự thừa kế của con.”
Thiền sư Mu-nan chỉ có một truyền nhân. Tên của anh ta là Shoju. Sau khi Shoju đã hoàn tất Thiền học, Mu-nan gọi Shoju vào phòng. “Thầy già rồi,” Mu-nan nói, “và theo thầy biết, Shoju, con là người duy nhất sẽ tiếp tục gánh vác giáo pháp này. Đây là một quyển sách. Nó đã được truyền tay từ sư phụ đến sư phụ cả 7 đời. Thầy cũng đã thêm nhiều điểm vào đó, theo hiểu biết của thầy. Quyến sách rất có giá trị, và thầy trao nó lại cho con làm biểu tượng cho sự thừa kế của con.”
“Nếu quyến sách quan trọng như vậy,
thầy nên giữ nó,” Shoju trả lời. “Con đã nhận Thiền của thầy không từ ngữ và
con hài lòng với nó như vậy.”
“Thầy biết vậy,” Mu-nan nói. “Dù vậy
thì quyển cách này cũng đã được cả 7 đời sư phụ mang nó, vậy con có thể giữ nó
như là một biểu tượng là con đã tiếp nhận giáo pháp. Đây nè.”
Lúc đó hai người đang nói chuyện
trước một lò than. Ngay khi quyển sách vừa chạm tay, Shoju ném nó ngay vào đống
than hừng hực. Shoju chẳng tha thiết gì đến việc sở hữu.
Mu-nan, người chưa bao giờ nổi giận
trước đó, la: “Con làm gì vậy!”
Shoju la lại: “Thầy nói gì vậy!
68.
Một nốt
Thiền
Sau khi Kakua viếng thăm Thiên
hoàng, thiền sư biến mất và chẳng ai biết được tông tích. Kakua là người Nhật
đầu tiên học Thiền ở Trung quốc, nhưng vì thiền sư chẳng tỏ lộ một tí gì, ngoại
trừ một nốt nhạc, người ta không hề nhớ đến thiền sư như là người đã mang Thiền
vào nước Nhật.
Kakua viếng thăm Trung quốc và học
được giáo pháp chân thật. Thiền sư không đi xa nhiều khi ở Trung quốc. Thiền sư
sống trong một góc núi hẻo lánh, thiền định thường xuyên. Khi nào có người tìm
thấy thiền sư và xin thiền sư dạy, thiền sư nói vài chữ, rồi di chuyển đến một
góc núi khác nơi người ta khó tìm thấy hơn.
Khi Kakua trở về Nhật, Thiên hoàng
nghe về thiền sư và hỏi thiền sư giảng Thiền để soi sáng cho Thiên hoàng và
quần thần.
Kakua đứng tĩnh lặng trước Thiên
hoàng. Rồi thiền sư lấy một ống sáo từ trong vạt áo, và thổi một nốt ngắn. Cúi
chào lễ độ, thiền sư đi mất.
69.
Ăn tội
Ngày nọ có trục trặc gì đó mà việc
nấu ăn tối cho thiền sư Tào Động Fugai và các đệ tử bị trễ. Người đầu bếp hấp
tấp cầm lưỡi hái chạy ra vườn cắt một mớ rau, băm nhỏ, rồi nấu canh, không biết
là vì vội vàng mà anh ta đã băm luôn một phần của con rắn bị cắt trong vườn.
Các đệ tử của Fugai nghĩ là họ chưa bao giờ được ăn canh ngon như vậy. Nhưng khi thiền sư thấy một đầu rắn trong chén của mình, thiền sư gọi đầu bếp lên. “Cái gì đây?” giơ cao đầu rắn.
Các đệ tử của Fugai nghĩ là họ chưa bao giờ được ăn canh ngon như vậy. Nhưng khi thiền sư thấy một đầu rắn trong chén của mình, thiền sư gọi đầu bếp lên. “Cái gì đây?” giơ cao đầu rắn.
“Ồ, dạ, cám ơn thầy,” người đầu bếp
trả lời, lấy đầu rắn và ăn nó rất nhanh.
70.
Cái quí giá
nhất trên thế giới
Sozan, một thiền sư Trung quốc, được
một người học trò hỏi: “Cái gì quí giá nhất trên thế giới?”
Thiền sư trả lời: “Đầu của con mèo
chết.”
“Tại sao đầu của con mèo chết là cái
quí giá nhất trên thế giới?” người học trò thắc mắc.
Sozen trả lời: “Bởi vì chẳng ai có
thể định giá nó được.”
71.
Học im lặng
Học trò tông Thiên Thai từng học
tĩnh tâm trước khi Thiền du nhập vào Nhật. Bốn cậu học trò Thiên Thai, là bạn
thân với nhau, cùng hứa là sẽ giữ bảy ngày lặng im.
Ngày đầu tiên mọi người đều im lặng. Cuộc tĩnh tâm khởi sự tốt, nhưng đến đêm các cây đèn dầu bắt đầu yếu dần, một cậu không chịu nổi bèn gọi người giúp việc: “Chỉnh mấy cây đèn lại.”
Ngày đầu tiên mọi người đều im lặng. Cuộc tĩnh tâm khởi sự tốt, nhưng đến đêm các cây đèn dầu bắt đầu yếu dần, một cậu không chịu nổi bèn gọi người giúp việc: “Chỉnh mấy cây đèn lại.”
Cậu thứ nhì ngạc nhiên nghe cậu kia
nói. “Chúng ta không được nói tiếng nào,” cậu ta nói.
“Hai cậu ngu quá đỗi. Tại sao các
cậu nói?” câu thứ ba hỏi.
“Tớ là người duy nhất không nói,”
cậu thứ tư kết luận.
72.
Lãnh chúa
đầu đặc
Hai thiền sư, Daigu và Gudo, được
mời đến thăm một lãnh chúa. Đến nơi, Gudo nói với lãnh chúa: “Chúa quân bản
tính rất thông thái và có một năng kiếu bẩm sinh để học Thiền.”
“Nhảm nhí,” Daigu nói. “Tại sao anh
nịnh anh chàng đầu đặc này? Anh này có thể là lãnh chúa, nhưng chẳng biết tí gì
về Thiền cả.”
Vậy, thay vì xây một ngôi chùa cho
Gudo, vị lãnh chúa xây chùa cho Daigu và học Thiền với Daigu.
73.
Mười Truyền
Nhân
Thiền sinh có lời tuyên thệ là nếu
họ bị chết dưới tay thầy họ vẫn quyết tâm học Thiền. Thường là họ cắt ngón tay
và dùng máu để thề. Theo thời gian, lời thề này trở thành hình thức mà thôi, và
chính vì lý do đó mà người học trò chết dưới tay Ekido đã được xem như là tử
vì đạo.
Ekido đã trở thành một người thầy nghiêm khắc. Học trò rất sợ. Một học trò đang làm nhiệm vụ đánh chiêng để báo giờ, bị trật nhịp khi mắt của anh ta bị lôi cuốn theo một cô gái đẹp đang đi qua trước cổng chùa.
Ekido đã trở thành một người thầy nghiêm khắc. Học trò rất sợ. Một học trò đang làm nhiệm vụ đánh chiêng để báo giờ, bị trật nhịp khi mắt của anh ta bị lôi cuốn theo một cô gái đẹp đang đi qua trước cổng chùa.
Vào ngay lúc đó Ekido đang đứng sau
lưng người học trò, dùng roi đánh người học trò và sự chấn động bất ngờ giết
chết anh học trò.
Người giám hộ của người học trò,
nghe tin, đến gặp Ekido. Biết là thiền sư không có lỗi, người giám hộ ca ngợi
thiền sư về giáo dục nghiêm khắc. Ekido vẫn giữ thái độ như là người học trò
vẫn còn sống.
Sau khi chuyện này xảy ra, Ekido đã
đào tạo được hơn 10 truyền nhân giác ngộ, một con số bất thường.
74.
Hối cải
thực sự
Ryokan tận hiến cả đời mình để tu
học Thiền. Ngày nọ thiền sư nghe là người cháu trai đang tiêu tiền cho một cô ca
kỹ. Vì người cháu đã thay thế Ryokan để quản lý tài sản gia đình và gia tài này
đang có nguy cơ bị tiêu tán, người nhà phải nhờ Ryoken nhúng tay vào.
Ryokan phải đi một quãng đường rất xa để thăm người cháu thiền sư đã nhiều năm không gặp. Người cháu có vẻ rất vui được gặp lại chú và mời chú ở lại qua đêm.
Ryokan phải đi một quãng đường rất xa để thăm người cháu thiền sư đã nhiều năm không gặp. Người cháu có vẻ rất vui được gặp lại chú và mời chú ở lại qua đêm.
Cả đêm Ryokan ngồi thiền định. Vào
lúc ra đi buổi sáng, thiền sư nói với người cháu: “Chú chắc là già rồi, tay chú
run lắm. Cháu có thể giúp chú buộc giây giày của chú được không?”
Người cháu hăng hái giúp. “Cám ơn
cháu,” Ryokan kết thúc, “cháu thấy không, người ta mỗi ngày mỗi già và yếu đi.
Hãy tự chăm sóc cháu tử tế.” Rồi Ryokan ra đi, chẳng hề nói một lời đến các
phàn nàn của người nhà. Nhưng, từ buổi sáng hôm đó, sự hoang phí của người cháu
chấm dứt.
75.
Tính nóng
Một thiền sinh đến than phiền với
Bankei: “Thưa thầy, con có tính nóng không trị được. Làm sao để con sửa nó.”
“Con có một cái thật lạ,” Bankei trả lời. “Đưa cho thầy coi cái con có.”
“Con có một cái thật lạ,” Bankei trả lời. “Đưa cho thầy coi cái con có.”
“Ngay bây giờ thì con không đưa cho
thầy coi được,” thiền sinh trả lời.
“Khi nào thì con cho thầy coi được?”
Bankei hỏi.
“Nó đến bất chợt,” thiền sinh trả
lời.
“Vậy thì,” Bankei kết luận, “nó nhất
định không phải bản tính thật của con. Nếu nó là bản tính thật, thì con có thể
cho thầy coi bất kỳ lúc nào. Khi con sinh ra con không có nó, và cha mẹ con
không cho con cái đó. Hãy nghĩ lại xem.”
76.
Tâm đá
Hogen, một thiền sư Trung quốc, sống
một mình trong một ngôi chùa nhỏ ở nhà quê. Một ngày nọ bốn vị sư đi đường ghé
qua và xin đốt một đông lửa trong sân chùa để sưởi ấm.
Trong khi họ đang đốt lửa, Hogen nghe họ tranh luận về tính chủ quan và khách quan. Hogen nhập bọn và nói: “Đây là một viên đá lớn. Các bạn nghĩ là nó ở trong tâm mình hay ở ngoài tâm mình?”
Trong khi họ đang đốt lửa, Hogen nghe họ tranh luận về tính chủ quan và khách quan. Hogen nhập bọn và nói: “Đây là một viên đá lớn. Các bạn nghĩ là nó ở trong tâm mình hay ở ngoài tâm mình?”
Một trong bốn vị sư trả lời: “Theo
quan điểm Phật giáo, mọi thứ đều là dự phóng của tâm, cho nên tôi nghĩ là viên
đá ở trong tâm tôi.”
“Đầu của anh chắc phải cảm thấy nặng
lắm,” Hogen nhận xét, “nếu anh mang viên đá như vậy trong tâm anh.”
77.
Không bám
bụi
Zengetsu, một thiền sư Trung quốc
đời Đường, viết lời khuyên sau đây cho các đệ tử:
Sống trong thế gian nhưng không bám
bụi đất thế gian là đường thật của Thiền.
Khi thấy một việc thiện của người nào thì hãy cố học theo gương đó. Nghe thấy lỗi lầm của ai thì tự bảo là không bắt chước.
Khi thấy một việc thiện của người nào thì hãy cố học theo gương đó. Nghe thấy lỗi lầm của ai thì tự bảo là không bắt chước.
Dù đang ở trong phòng tối, hành động
như đang đối diện một vị khách quí. Bộc lộ cảm xúc, nhưng không bộc lộ hơn là
bản tính thật của mình.
Nghèo khó là kho báu. Đừng bao giờ
đổi nghèo khó lấy một đời sống dễ dàng.
Một người có thể nhìn như một người
điên, nhưng không điên. Có thể là anh ta chỉ bảo vệ cẩn thận sự thông thái của
mình.
Đức hạnh là hoa trái của tự kỹ luật
và chẳng rơi từ trời xuống như mưa hay tuyết.
Khiêm tốn là nền tảng của tất cả mọi
đức hạnh. Hãy để láng giềng khám phá ra bạn trước khi bạn tự trưng bày bạn cho
họ.
Một trái tim cao thượng không bao
giờ xấn tới trước. Lời nói của nó là ngọc quí, it khi trưng bày, và có giá trị
rất lớn.
Đối với một thiền sinh thành thật,
mỗi ngày là một ngày ân phúc. Thời gian trôi qua nhưng thiền sinh không bao giờ
trễ nãi. Cả vinh quang cũng như nhục nhã đều không làm thiền sinh bị xao động.
Khắt khe với chính mình, nhưng không
với người khác. Đừng bàn luận đúng hay sai.
Vài điều, dù là đúng, vẫn bị xem là
sai nhiều thế hệ. Vì giá trị của phẩm hạnh có thể được nhận ra sau nhiều thế kỷ,
nên chẳng cần ham được nhận biết tức thì.
Sống với nhân và để luật lớn của vũ
trụ lo quả. Sống mỗi ngày trong thiền định an bình.
78.
Thịnh vượng
thật
Một người giàu nhờ Sengai viết vài
chữ cho thịnh vượng của gia đình ông ta, để gia đình có thể xem đó như báu vật
truyền từ đời này sang đời kia.
Sengai lấy một tờ giấy lớn là viết: “Cha chết, con chết, cháu chết.”
Sengai lấy một tờ giấy lớn là viết: “Cha chết, con chết, cháu chết.”
Ông nhà giàu nổi giận. “Tôi hỏi thầy
viết vài chữ cho hạnh phúc gia đình tôi! Tại sao thầy làm chuyện giễu thế này?”
“Đâu có chuyện giễu,” Sengai giải
thích. “Nếu trước khi anh chết mà con anh chết, anh sẽ rất đau khổ. Nếu cháu
anh chết trước khi con anh chết, cả anh và con anh sẽ rất đau lòng. Nếu gia
đình anh, từ đời này sang đời kia, chết theo thứ tự tôi viết, đó sẽ là dòng tự
nhiên của cuộc đời. Tôi gọi đó là thịnh vượng thật.”
79.
Lư hương
Một phụ nữ ở Nagasaki tên Kame là
một trong số rất ít nghệ nhân làm lư hương ở Nhật. Mỗi lư hương là một tác phẩm
nghệ thuật, chỉ đặt trong phòng trà, trước bàn thờ gia đình.
Trước Kame, bố của chị đã là một nghệ nhân như vậy, và Kame rất mê uống rượu. Chị cũng hút thuốc và giao tiếp với đàn ông thường xuyên. Khi nào có được ít tiền, chị làm tiệc mời nghệ sĩ, thi sĩ, thợ mộc, lao động, đàn ông đủ mọi ngành nghề chính cũng như nghề tay trái. Nhờ giao thiệp với đàn ông, Kame triển khai các thiết kế nghệ thuật của chị.
Trước Kame, bố của chị đã là một nghệ nhân như vậy, và Kame rất mê uống rượu. Chị cũng hút thuốc và giao tiếp với đàn ông thường xuyên. Khi nào có được ít tiền, chị làm tiệc mời nghệ sĩ, thi sĩ, thợ mộc, lao động, đàn ông đủ mọi ngành nghề chính cũng như nghề tay trái. Nhờ giao thiệp với đàn ông, Kame triển khai các thiết kế nghệ thuật của chị.
Kame làm việc rất chậm, nhưng khi
một tác phẩm đã xong nó luôn luôn là một đại tác phẩm. Các lư hương của chị
được qúy trọng trong các gia đình mà phụ nữ không bao giờ uống rượu, hút thuốc,
hay giap tiếp tự do với đàn ông.
Có một lần thì trưởng thành phố
Nagasaki nhờ chị làm một lư hương cho ông. Chị trì hoãn cả nửa năm. Rồi thị
trưởng được thăng chức vào một chức vụ tại một thành phố khác, đến thăm chị.
Ông hối chị khởi sự làm lư hương cho ông.
Cuối cùng cũng tìm ra hứng khởi,
Kame làm lư hương. Sau khi hoàn tất, chị đặt nó trên bàn. Ngắm nghía thật lâu
và cẩn thận. Chị hút thuốc và uống rượu trước nó như là trước mặt bạn bè. Chỉ
quan sát nó cả ngày.
Cuối cùng, cầm cái búa, chị đập nó
thành từng mảnh vụn. Chị thấy nó không được hoàn toàn như tâm chị đòi hỏi.
80.
Phép lạ thật
Khi Bankei đang giảng thuyết tại
chùa Ryumon, một sư Chân Tông, tin rằng có thể được cứu độ nhờ niệm phật Adiđà
liên tục, ganh tị với Bankei vì đông người nghe Bankei và muốn cãi nhau với
thiền sư.
Bankei đang giảng bài nửa chừng thì vị sư này xuất hiện, và làm rộn đến nỗi Bankei phải ngưng giảng và hỏi điều gì gây ồn ào.
Bankei đang giảng bài nửa chừng thì vị sư này xuất hiện, và làm rộn đến nỗi Bankei phải ngưng giảng và hỏi điều gì gây ồn ào.
“Tổ sư của tông chúng tôi,” vị sư
nói, “có những quyền lực mầu nhiệm đến nỗi tổ cầm cây cọ đứng bên này sông,
người phụ tá cầm tờ giấy đứng bên kia sông, và tổ viết thánh hiệu Adiđà trên tờ
giấy, xuyên qua không gian. Ông có làm được phép lạ như thế không?
Bankei trả lời nhẹ nhàng: “Có lẽ con
chồn của ông có thể làm xảo thuật đó, nhưng đó không phải cung cách của Thiền.
Phép lạ của tôi là khi tôi đói tôi ăn, và khi tôi khát tôi uống.”
71. Ngủ đi
Gasan đang ngồi bên giường thầy của
mình, Tekisui, ba ngày trước khi thầy qua đời. Tekisui đã chọn Gasan làm truyền
nhân.
Một ngôi chùa đã bị cháy gần đây và Gasan đang bận rộn xây chùa lại. Tekisui hỏi Gasan: “Khi xây xong chùa rồi con sẽ làm gì?”
Một ngôi chùa đã bị cháy gần đây và Gasan đang bận rộn xây chùa lại. Tekisui hỏi Gasan: “Khi xây xong chùa rồi con sẽ làm gì?”
“Khi thầy khỏe lại, tụi con muốn
thầy giảng ở đó,” Gasan nói.
“Nếu như thầy không sống đến lúc đó
thì sao?”
“Thì con sẽ tìm một người khác,”
Gasan trả lời.
“Nếu con không tìm được người khác
thì sao?” Tekisui tiếp tục.
Gasan trả lời lớn tiếng: “Đừng hỏi
điên vậy nữa. Thầy ngủ đi.”
81.
Chẳng có gì
hiện hữu
Yamaoka Tesshu, lúc còn là một thiền
sinh trẻ, thăm hết thiền sư này đến thiền sư nọ. Chàng đến thăm Dokuon ở chùa
Shokoku.
Muốn chứng tỏ là mình đã ngộ, Yamaoka nói: “Tâm, Phật, và mọi sinh linh, rốt cuộc, đều không hiện hữu. Bản chất thật của mọi hiện tượng là không. Không có đạt đạo, không có ảo ảnh, không có thánh nhân, không có phàm phu. Không có bố thí, không có nhận bố thí.”
Muốn chứng tỏ là mình đã ngộ, Yamaoka nói: “Tâm, Phật, và mọi sinh linh, rốt cuộc, đều không hiện hữu. Bản chất thật của mọi hiện tượng là không. Không có đạt đạo, không có ảo ảnh, không có thánh nhân, không có phàm phu. Không có bố thí, không có nhận bố thí.”
Dokuon, đang hồi hút thuốc yên lặng,
chẳng nói gì. Đột nhiên Dokuon lấy ống píp tre đánh Yamaoka. Chàng thiền sinh
tức giận.
“Nếu không có gì hiện hữu,” Dokuon
thắc mắc, “vậy thì cơn giận này đến từ đâu?”
82.
Không làm,
không ăn
Hyakujo, thiền sư người Trung quốc,
thường làm việc lao động với các học trò ngay cả khi cả đã tám mươi, dọn vườn,
cắt cỏ, tỉa cây.
Các học trò lo lắng thấy vị thầy già làm việc cực quá, nhưng họ biết thầy chẳng nghe lời khuyên của họ mà nghỉ ngơi, nên họ dấu đồ nghề làm vườn.
Các học trò lo lắng thấy vị thầy già làm việc cực quá, nhưng họ biết thầy chẳng nghe lời khuyên của họ mà nghỉ ngơi, nên họ dấu đồ nghề làm vườn.
Ngày đó sư phụ chẳng ăn. Ngày kế
tiếp thầy cũng chẳng ăn, và ngày kế tiếp cũng vậy. “Có lẽ thầy giận mình đã dấu
đồ nghề,” các học trò đoán, “Mình phải trả lại thôi.”
Ngày họ trả lại đồ nghề, thầy làm
việc và ăn như trước đó. Tối đó thầy dạy học trò: “Không làm, không ăn
83.
Bạn thật
Ngày xưa lâu lắm rồi ở Trung quốc có
hai người bạn, một người đàn hay và một người nghe hay.
Khi người đàn về núi cao, người nghe nói: “Tôi có thể thấy núi cao trước mặt ta.”
Khi người đàn về núi cao, người nghe nói: “Tôi có thể thấy núi cao trước mặt ta.”
Khi người đàn về nước, người nghe
nói: “Đây là dòng nước chảy!”
Nhưng người nghe gặp bạo bệnh mà
chết. Người đàn cắt đứt dây đàn và không bao giờ đàn nữa. Từ đó trở đi, cắt đứt
dây đàn là biểu tượng của tình bạn thắm thiết.
84.
Giờ chết
Thiền sư Ikkyu rất thông minh lúc
còn nhỏ. Thầy của Ikkyu có một tách trà quý, đồ cổ hiếm có. Ikkyu lỡ làm vỡ
tách này và rất bối rối. Nghe tiếng chân thầy, Ikkyu dấu chiếc tách sau lưng.
Khi thầy đến, Ikkyu hỏi: “Tại sao người ta phải chết?”
“Đó là tự nhiên,” vị thầy già giải
thích. “Tất cả mọi thứ đều chết và chỉ có một thời gian để sống.”
Ikkyu, đưa cái tách vỡ ra, và thêm:
“Giờ chết của cái tách của thầy đã đến.”
85.
Phật sống và
thợ làm bồn tắm
Các thiền sư cho giáo huấn cá nhân
trong một phòng kín. Không ai vào phòng được khi thầy và trò đang ở trong đó.
Mokurai, thiền sư của thiền viện
Kennin ở Kyoto, thích nói chuyện với các doanh nhân, nhà báo, cũng như với đệ
tử của mình. Có một anh thợ làm bồn tắm gần như là thất học. Anh ta hay hỏi
Mokurai một mớ các câu hỏi khùng điên, uống trà, rồi đi.
Ngày nọ khi anh thợ làm bồn tắm đang
ở đó Mokurai muốn giáo huấn cá nhân cho một đệ tử, nên thiền sư bảo anh thợ
sang phòng khác đợi.
“Tôi biết thầy là một vị Phật sống,”
anh ta phản đối. “Ngay cả các ông Phật đá trong chùa không bao giờ từ chối bao
nhiêu người đến trước các vị. Vậy tại sao tôi lại bị mời ra?”
Mohurai phải đi ra khỏi phòng để gặp
học trò.
86.
Ba loại
đệ tử
Một thiền sư tên Gettan sống vào
cuối đời sứ quân Tokugawa. Thiền sư thường nói: “Có ba loại đệ tử: Loại truyền
Thiền cho người khác, loại giữ gìn chùa chiền và bàn thờ, và rồi có phường giá
áo túi cơm.”
Gasan diễn tả cùng một y’ tưởng. Khi
Gasan đang học với Tekisui, vị thầy này rất khắc nghiệt. Đôi khi thiền sư đánh
Gasan. Các đệ tử khác không chịu lối dạy thế này và nghỉ học. Gasan ở lại với
thầy, nói rằng: “Đệ tử dở dựa oai thầy. Đệ tử trung bình ái mộ sự hiền dịu của
thầy. Đệ tử giỏi lớn mạnh trong kỹ luật của thầy.”
87.
Làm sao để
viết một bài thơ Tàu
Một thi sĩ nổi tiếng của Nhật được
hỏi làm thế nào để làm một bài thơ Tàu.
“Thơ Tàu thường có 4 hàng,” thi sĩ giải thích. “Hàng đầu là câu đầu tiên; hàng thứ nhì là tiếp tục của câu đầu; hàng thứ ba bỏ chủ đề này và bắt đầu chủ đề mới; và hàng thứ tư liên kết ba hàng đầu với nhau. Một bài hát phổ thông của Nhật minh họa điều này:
“Thơ Tàu thường có 4 hàng,” thi sĩ giải thích. “Hàng đầu là câu đầu tiên; hàng thứ nhì là tiếp tục của câu đầu; hàng thứ ba bỏ chủ đề này và bắt đầu chủ đề mới; và hàng thứ tư liên kết ba hàng đầu với nhau. Một bài hát phổ thông của Nhật minh họa điều này:
Hai tiểu thơ nhà bán lụa ở Kyoto
Cô chị hai mươi em mười tám
Chiến binh giết người bằng gươm dáo
Hai cô giết người bằng đôi mắt
Cô chị hai mươi em mười tám
Chiến binh giết người bằng gươm dáo
Hai cô giết người bằng đôi mắt
88.
Đối thoại
thiền
Thiền sư thường dạy học trò biểu lộ
chính mình. Có hai thiền viện, mỗi thiền viện có một thiền sinh nhỏ. Một em,
mỗi sáng đi mua rau, gặp em kia trên đường đi.
“Bạn đi đâu đó?” một em hỏi.
“Bạn đi đâu đó?” một em hỏi.
“Tôi đi nơi nào chân tôi đi,” em kia
trả lời.
Câu trả lời làm em này bối rối, nên em về hỏi thầy giúp đở. “Sáng mai,” thầy bảo em, “khi con gặp bạn, hỏi câu hỏi đó lại. Nó sẽ trả lời y như cũ, rồi con hỏi nó: ‘Nếu bạn không có chân, thì bạn đang đi đâu?’ Vậy sẽ chỉnh được nó.”
Câu trả lời làm em này bối rối, nên em về hỏi thầy giúp đở. “Sáng mai,” thầy bảo em, “khi con gặp bạn, hỏi câu hỏi đó lại. Nó sẽ trả lời y như cũ, rồi con hỏi nó: ‘Nếu bạn không có chân, thì bạn đang đi đâu?’ Vậy sẽ chỉnh được nó.”
Hai bé lại gặp nhau sáng hôm sau.
“Bạn đang đí đâu dó?” em thứ nhất
hỏi.
“Tôi đi nơi nào gió thổi đi,” em kia
trả lời.
Câu trả lời này lại làm em choáng
váng. Em mang thất bại về hỏi thầy.
“Hỏi nó đang đi đâu nếu không có
gió,” thầy chỉ.
Hôm sau hai bé gặp nhau lần thứ ba.
“Bạn đang đi đâu dó?” em thứ nhất
hỏi.
“Tôi đang đến chợ mua rau,” em kia
trả lời.
90.
Cú
đầu lần cuối
Tangen đã học với Sengai từ hồi còn
bé. Lúc lên 20 Tangen muốn rời thầy và thăm viếng các thầy khác để học đối
chiếu. Nhưng Sengai không cho phép. Mỗi lần tangent nhắc đến chuyện đó, Sengai
lại cho Tangen một cái cú đầu.
Cuối cùng Tangen hỏi một sư huynh xin thầy hộ. Sư huỵnh làm được và cho tangent biết: “Xong rồi. Anh đã sắp xếp để em bắt đầu cuộc hành hương ngay lập tức.”
Tangen đến găp Sengai để cám ơn thầy đã cho phép. Sư phụ trả lời Tangen bằng một cái cú đầu.
Cuối cùng Tangen hỏi một sư huynh xin thầy hộ. Sư huỵnh làm được và cho tangent biết: “Xong rồi. Anh đã sắp xếp để em bắt đầu cuộc hành hương ngay lập tức.”
Tangen đến găp Sengai để cám ơn thầy đã cho phép. Sư phụ trả lời Tangen bằng một cái cú đầu.
Khi Tangen kể lại chuyện cho sư
huynh, sư huynh nói: “Chuyện gì vậy? Thầy không thể cho phép xong rồi thay đổi
ý kiến. Anh sẽ nói với thầy như vậy.” Và sư huynh đến gặp thầy.
“Thầy đâu có hủy phép,” Sengai nói.
“Thầy chỉ muốn cho nó cái cú đầu cuối cùng, vì khi nó trở về nó sẽ giác ngộ và
thầy không thể la mắng nó nữa.”
91.
Mùi vị của
thanh kiếm của Banzo
Matajuro Yagyu là con của một kiếm
sĩ nổi tiếng. Cha của Matajuro tin rằng con mình quá tầm thường để có thể thành
đại kiếm sĩ, nên từ con.
Vì vậy Matajuro lên núi Mount Furata và tìm gặp kiếm sĩ lừng danh Banzo. Nhưng Banzo xác nhận sự định giá của người cha. “Cậu muốn học kiếm đạo của tôi?” Banzo hỏi. “Cậu không thể làm tròn các yêu cầu được đâu.”
“Nhưng nếu con tập luyện chăm chỉ thì cần bao nhiêu năm để thành cao thủ?” cậu nhỏ kiên trì.
Vì vậy Matajuro lên núi Mount Furata và tìm gặp kiếm sĩ lừng danh Banzo. Nhưng Banzo xác nhận sự định giá của người cha. “Cậu muốn học kiếm đạo của tôi?” Banzo hỏi. “Cậu không thể làm tròn các yêu cầu được đâu.”
“Nhưng nếu con tập luyện chăm chỉ thì cần bao nhiêu năm để thành cao thủ?” cậu nhỏ kiên trì.
“Cả đời cậu,” Banzo trả lời.
“Con không đợi lâu thế được,”
Matajuro giải thích. “Con sẵn sàng chịu đựng mọi cực khổ, nếu thầy bằng lòng
dạy con. Nếu con trở thành người đầy tớ trung tín của thầy, thì sẽ tốn bao
lâu?”
“Ô, có thể là 10 năm.” Banzo lùi
bước.
“Cha của con đã già rồi, và con sẽ
phải lo cho cha sớm thôi,” Matajuro tiếp tục. “Nếu con làm việc cực nhọc hơn
rất nhiều, thì sẽ tốn bao lâu?”
“Ô, có thể là 30 năm,” Banzo nói.
“Sao vậy?” Matajuro hỏi. “Lúc đầu
thầy nói 10 năm và bây giờ lên 30 năm. Con sẽ chịu bất kì cực khổ nào để thuần
thục kiếm thuật trong thời gian ngắn nhất!”
“À,” Banzo nói, ‘trong trường hợp đó
cậu sẽ phải ở với tôi đến 70 năm. Một người hấp tấp đòi kết quả như cậu ít khi
học nhanh được.”
“Vâng được,” cậu nhỏ tuyên bố, cuối
cùng cậu cũng hiểu là cậu đang bị mắng vì thiếu kiên nhẫn, “con đồng ý.”
Matajuro được ra lệnh không bao giờ
được nhắc đến kiếm thuật và không bao giờ được sờ đến thanh kiếm. Cậu nấu ăn
cho sư phụ, rửa chén, dọn giường, dọn dẹp sân, chăm sóc vườn, làm tất cả mà
không nói một lời về kiếm thuật.
Ba năm trôi qua. Matajuro vẫn tiếp
tục lao động. Nghĩ đến tương lai, cậu buồn. Cậu chưa được ngay cả bắt đầu để
tập môn nghệ thuật mà cậu đã hiến dâng cả đời mình.
Nhưng một ngày nọ Banzo lén bò đến
sau lưng Matajuro và cho cậu một đập dữ dội với thanh kiếm gỗ.
Ngày hôm sau, khi Matajuro đang nấu
cơm, Banzo lại nhảy đến tấn công bất ngờ.
Từ ngày đó, ngày cũng như đêm,
Matajuro phải lo chống đỡ các cú tấn công bất ngờ. Chẳng có lúc nào Matajuro
lại không nghĩ đến mùi vị của thanh kiếm của Banzo.
Cậu học nhanh đến nỗi cậu mang nụ
cười đến trên mặt của sư phụ. Matajuro trở thành kiếm sĩ vĩ đại nhất trong nước
Nhật.
92.
Thiền khơi
lửa
Hakuin thường kể cho các đệ tử
chuyện về một lão bà chủ một tiệm trà, ca ngợi sức thông hiểu Thiền của bà. Các
đệ tử không tin lời thầy và đến tiệm trà để xem thực hư.
Mỗi khi thấy họ đến, lão bà biết ngay là họ đến để uống trà hay tò mò về hiểu biết Thiền của bà. Nếu đến để uống trà, bà sẽ phục vụ tử tế. Nếu đến vì tò mò, bà sẽ gọi họ ra sau bức bình phong. Ngay lúc họ bước vào, bà sẽ dùng cây khơi lửa đánh họ.
Mỗi khi thấy họ đến, lão bà biết ngay là họ đến để uống trà hay tò mò về hiểu biết Thiền của bà. Nếu đến để uống trà, bà sẽ phục vụ tử tế. Nếu đến vì tò mò, bà sẽ gọi họ ra sau bức bình phong. Ngay lúc họ bước vào, bà sẽ dùng cây khơi lửa đánh họ.
9 phần 10 số đệ tử không thoát khỏi
ăn đòn của bà.
93.
Thiền của
người kể truyện
Encho là người kể truyện rất nổi
tiếng. Những truyện tình anh kể làm rung động con tim của người nghe. Khi anh
kể truyện chiến tranh, người nghe có cảm tưởng như là họ đang ở trên bãi chiến
trường.
Ngày nọ Encho gặp Yamaoka Tesshu, một người thường sắp đạt đỉnh cao của Thiền. “Tôi hiểu,” Yamaoka nói “anh là người kể truyện hay nhất trong nước ta và anh làm người ta khóc hay cười khi anh muốn. Vậy hãy kể cho tôi nghe truyện Cậu Đào mà tôi yêu thích. Hồi còn bé tôi hay nằm ngủ bên cạnh mẹ, và mẹ hay kể cho tôi huyền thoại đó. Vào khoảng giữa truyện tôi hay thiếp ngủ. Hãy kể cho tôi như là mẹ tôi kể.”
Encho không dám thử. Anh xin một tí thời gian để nghiên cứu. Vài tháng sau anh đến gặp Yamaoka và nói: “Cho tôi cơ hội để kể truyện cho anh.”
Ngày nọ Encho gặp Yamaoka Tesshu, một người thường sắp đạt đỉnh cao của Thiền. “Tôi hiểu,” Yamaoka nói “anh là người kể truyện hay nhất trong nước ta và anh làm người ta khóc hay cười khi anh muốn. Vậy hãy kể cho tôi nghe truyện Cậu Đào mà tôi yêu thích. Hồi còn bé tôi hay nằm ngủ bên cạnh mẹ, và mẹ hay kể cho tôi huyền thoại đó. Vào khoảng giữa truyện tôi hay thiếp ngủ. Hãy kể cho tôi như là mẹ tôi kể.”
Encho không dám thử. Anh xin một tí thời gian để nghiên cứu. Vài tháng sau anh đến gặp Yamaoka và nói: “Cho tôi cơ hội để kể truyện cho anh.”
“Để khi khác đi,” Yamaoka trả lời.
Encho rất thất vọng. Anh nghiên cứu
thêm và thử lại lần nữa. Yamaoka từ chối anh nhiều lần. Khi Encho bắt đầu nói
Yamaoka liền chận lại và nói: “Anh chưa giống mẹ tôi.”
Encho tốn mất 5 năm để có thể kể cho
Yamaoka chuyện huyền thoại như mẹ Yamaoka đã kể cho anh.
Bằng cách này, Yamaoka đã truyền
Thiền cho Encho.
94.
Đi chơi đêm
Nhiều thiền sinh đang học thiền với
thiền sư Sengai. Có một cậu thường thức dậy nửa đêm, leo tường ra ngoài, và vào
thành phố du hí.
Sengai, kiểm tra phòng ngủ, khám phá cậu này vắng mặt đêm nọ và còn khám phá ra cái ghế cao cậu dùng để leo qua tường. Sengai chuyển cái ghế đi nơi khác và đứng vào thế cái ghế.
Khi chàng lãng tử trở về, không biết Sengai là cái ghế, đạp chân ngay trên đầu của thầy và nhảy xuống đất. Khám phá ra mình vừa mới làm gì, cậu thất kinh.
Sengai, kiểm tra phòng ngủ, khám phá cậu này vắng mặt đêm nọ và còn khám phá ra cái ghế cao cậu dùng để leo qua tường. Sengai chuyển cái ghế đi nơi khác và đứng vào thế cái ghế.
Khi chàng lãng tử trở về, không biết Sengai là cái ghế, đạp chân ngay trên đầu của thầy và nhảy xuống đất. Khám phá ra mình vừa mới làm gì, cậu thất kinh.
Sengai nói: “Sáng sớm trời rất lạnh.
Coi chừng bị cảm.
Cậu thiền sinh không bao giờ lẻn đi
chơi đêm nữa.
95.
Lá
thư cho người sắp chết
Bassui viết lá thơ sau đây cho một
đệ tử sắp chết”
“Thể tính của tâm của con không hề được sinh ra, nên nó không bao giờ chết. Nó không phải là hiện hữu–hiện hữu có thế hư mất. Nó không phải là hư không—hư không chỉ là một khoảng trống. Nó không có sắc màu và hình thái. Nó không hưởng thụ khoái lạc và không đau đớn với khổ nạn.
“Thầy biết con bệnh nặng. Là một thiền sinh sinh giỏi, con đang đối diện bệnh tật thẳng mặt. Con không biết chính xác là ai đang đau khổ, nhưng hãy tự hỏi mình: Cái gì là thế tính của tâm này? Quán chiếu điều này thôi. Con chẳng cần gì hơn nữa. Đừng ham muốn gì. Tận cùng của con là vô tận, là một hoa tuyết tan trong không khí trong lành.”
“Thể tính của tâm của con không hề được sinh ra, nên nó không bao giờ chết. Nó không phải là hiện hữu–hiện hữu có thế hư mất. Nó không phải là hư không—hư không chỉ là một khoảng trống. Nó không có sắc màu và hình thái. Nó không hưởng thụ khoái lạc và không đau đớn với khổ nạn.
“Thầy biết con bệnh nặng. Là một thiền sinh sinh giỏi, con đang đối diện bệnh tật thẳng mặt. Con không biết chính xác là ai đang đau khổ, nhưng hãy tự hỏi mình: Cái gì là thế tính của tâm này? Quán chiếu điều này thôi. Con chẳng cần gì hơn nữa. Đừng ham muốn gì. Tận cùng của con là vô tận, là một hoa tuyết tan trong không khí trong lành.”
96.
Một
giọt nước
Một thiền sư tên Gisan bảo một đệ tử
trẻ mang đến cho thiền sư một gàu nước để làm nguội bớt nước trong bồn tắm của
thầy.
Cậu đệ tử mang nước đến, và sau khi làm nguội bồn tắm, đổ ra đất tí nước còn lại trong gàu. “Đồ ngu!” thiền sư mắng cậu đệ tử. “Tại sao con không dùng nước đó để tưới cây? Con có quyền gì mà phí phạm dù chỉ một giọt nước trong chùa này?”
Cậu học trò trẻ đạt được Thiền ngay lúc đó. Cậu đổi tên thành Tekisui, có nghĩa là một giọt nước.
Cậu đệ tử mang nước đến, và sau khi làm nguội bồn tắm, đổ ra đất tí nước còn lại trong gàu. “Đồ ngu!” thiền sư mắng cậu đệ tử. “Tại sao con không dùng nước đó để tưới cây? Con có quyền gì mà phí phạm dù chỉ một giọt nước trong chùa này?”
Cậu học trò trẻ đạt được Thiền ngay lúc đó. Cậu đổi tên thành Tekisui, có nghĩa là một giọt nước.
97.
Dạy
điều rốt ráo
Thời xưa ở Nhật, người ta dùng lồng
đèn làm bằng tre và giấy và đèn cầy bên trong. Một người mù đến thăm bạn vào
một đêm nọ và được người bạn đưa cho một lồng đèn để mang về.
“Tôi không cần lồng đèn,” anh mù nói. “Tối hay sáng cũng vậy với tôi thôi.”
“Tôi không cần lồng đèn,” anh mù nói. “Tối hay sáng cũng vậy với tôi thôi.”
“Tôi biết anh không cần lồng đèn để
thấy đường,” bạn của anh trả lời, “nhưng nếu anh không có đèn, người ta có thể
đụng anh. Anh phải cầm lấy.”
Anh mù cầm lồng đèn đi, chỉ được một quãng ngắn là đã có ai đó đâm đầu vào anh. “Nhìn đường mà đi!” anh mù mắng người lạ. “Anh không thấy cái lồng đèn này sao?”
Anh mù cầm lồng đèn đi, chỉ được một quãng ngắn là đã có ai đó đâm đầu vào anh. “Nhìn đường mà đi!” anh mù mắng người lạ. “Anh không thấy cái lồng đèn này sao?”
“Cây đèn cầy của anh cháy hết rồi,
người anh em ơi,” người lạ trả lời.
98.
Vô Chấp
Kitano Gempo, trụ trì chùa Eihei,
mất năm 1933 khi sư 92 tuổi. Sư đã cố gắng cả đời để không vướng mắc vào điều
gì. Năm 20 tuổi, là khất sĩ, sư gặp một một khách lữ hành hút thuốc. Hai người
đang đi xuống một dốc núi với nhau, họ nghỉ dưới một tàn cây. Người khách lữ
hành mời Kitano hút thuốc, Kitano nhận, vì quá đói lúc đó.
“Hút thuốc thật là khoan khoái,” Kitano bình phẩm. Người kia cho Kitano một ống píp dư và ít thuốc và hai người chia tay.
“Hút thuốc thật là khoan khoái,” Kitano bình phẩm. Người kia cho Kitano một ống píp dư và ít thuốc và hai người chia tay.
Kitano cảm nhận: “Những thứ khoan
khoái như thế có thể làm xáo trộn thiền định. Trước khi đi qúa xa, ta phải
ngưng ngay.” Vậy Kitano vất đi mấy thứ đồ hút.
Vào năm 23 tuổi Kitano học Kinh
Dịch, nguyên lý sâu thẳm nhất về vũ trụ. Lúc đó là mùa đông và Kitano cần quần
áo ấm. Sư viết thơ cho sư phụ ở cách đó cả trăm dặm, nói với sư phụ cái sư cần,
và trao lá thơ cho một khách lữ hành nhờ chuyển. Gần cả mùa đông trôi qua và
chẳng có hồi âm lẫn quần áo ấm. Vì vậy Kitano bốc quẻ Dịch, có dạy trong Kinh
Dịch, để biết là lá thơ sư gởi có thất lạc không. Sư bói là lá thơ đã thất lạc.
Một lá thơ sư nhận được của sư phụ sau đó chẳng nhắc gì về áo quần cả.
“Nếu ta có thể bói Dịch đúng đến như
vậy, ta có thể lơ là thiền định,” Kitano cảm nhận. Vì vậy Kitano bỏ môn học
tuyệt diệu này và không bao giờ dùng đến quyền lực của Kinh Dịch nữa.
Lúc 28 tuổi Kitano học thư pháp
Trung quốc và thi ca. Sư trở thành điêu luyện trong các nghệ thuật này đến nỗi
sư phụ của sư ca ngợi sư. Kitano suy nghĩ: “Nếu ta không ngừng bây giờ, ta sẽ
thành một thi sĩ, không là Thiền sư.” Vì vậy sư không bao giờ làm thơ nữa.
99.
Dấm
của Tosui
Tosui là vị Thiền sư đã xa rời hình
thức trịnh trọng của chùa chiền để sống dưới gầm cầu với một đám ăn mày. Khi
Tosui đã rất già, một người bạn giúp thiền sư kiếm sống mà không phải ăn xin.
Người bạn chỉ Tosui cách gom cơm lại để làm dấm. Tosui làm dấm cho đến khi
chết.
Thời Tosui đang làm dấm, một người trong đám ăn mày cho thiền sư một tấm ảnh Phật. Tosui treo tấm ảnh trên tường trong căn chòi của thầy và gắn một tấm biển bên cạnh. Tấm biển ghi: “Ông Phật Adiđà ơi: Phòng này rất chật. Tôi có thể để ông ở đây như người tạm trú. Nhưng ông đừng nghĩ là tôi đang xin được vãng sinh trong cõi cực lạc của ông nhé.”
Thời Tosui đang làm dấm, một người trong đám ăn mày cho thiền sư một tấm ảnh Phật. Tosui treo tấm ảnh trên tường trong căn chòi của thầy và gắn một tấm biển bên cạnh. Tấm biển ghi: “Ông Phật Adiđà ơi: Phòng này rất chật. Tôi có thể để ông ở đây như người tạm trú. Nhưng ông đừng nghĩ là tôi đang xin được vãng sinh trong cõi cực lạc của ông nhé.”
100.
Chùa tĩnh lặng
Shoichi là một thiền sư chột mắt,
chói lòa với giác ngộ. Thiền sư dạy đệ tử trong chùa Tofuku.
Cả ngày cả đêm ngôi chùa đứng yên trong tĩnh lặng. Không một tiếng động.
Cả ngày cả đêm ngôi chùa đứng yên trong tĩnh lặng. Không một tiếng động.
Ngay cả tụng kinh cũng bị thiền sư
cấm. Đệ tử của thầy chẳng làm gì ngoại trừ thiền định.
Khi thiền sư qua đời, một cụ già
hàng xóm nghe tiếng chuông và tiếng tụng kinh. Vậy là lão bà biết Shoichi đã
viên tịch.
101.
Thiền của
Phật
Đức Phật nói: “Thầy xem địa vị của
vua chúa như bụi đất. Thầy thấy vàng ngọc như gạch sỏi. Thầy nhìn xiêm y lụa là
như giẻ rách. Thầy coi vô lượng thế giới của vũ trụ như hạt trái cây, và hồ vĩ
đại nhất của Ấn Độ như giọt dầu trên bàn chân. Thầy nhận xét mọi giáo huấn của
thế giới như ảo ảnh của ảo thuật gia. Thầy chiêm nghiệm ý niệm tối thượng về
giải thoát như chiếc áo thêu vàng trong mộng, và xem thánh đạo của các đấng
giác ngộ như hoa trong mắt. Thầy thấy thiền định là cột trụ của quả núi, Niết
bàn là ác mộng của ban ngày. Thầy nhìn phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn
lượn của con rồng, và sự lên xuống của các niềm tin như vết tích còn lại của
bốn mùa.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét