Nguồn
: Internet
.
Tác giả : Lep Tolstoi
Tác giả : Lep Tolstoi
Lời
Giới Thiệu
Lep Tolstoi (1828 - 1910) là một
trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi
tiếng: Truyện kể về Xevaxtopol, Luyxerno, Chiến tranh và Hòa bình, Anna
Carenina, Cái chết của Ivan Illitr, Phục sinh,
v.v... 1 Lenin đã gọi Tolstoi là "tấm gương soi của cách mạng Nga". Trong Anna Carenina, chúng ta sẽ thấy lại bức tranh xã hội chân thực và sinh động của cả một giai đoạn lịch sử nước Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau giải phóng nông nô. Ngòi bút nghệ thuật điêu luyện, nghiêm khắc vạch trần bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến chuyên chế sa hoàng Nga; những tư tưởng, nguyện vọng, ưu điểm, nhược điểm của nông dân cùng phong trào cách mạng của họ đã gián tiếp vang dội vào cuốn tiểu thuyết. Chính chủ nghĩa hiện thực phê phán của Tolstoi, cây bút biết gắn liền nghệ thuật với thời đại để phản ánh đấu tranh xã hội, đã khiến Lenin viết nhiều bài phê bình nổi tiếng về Tolstoi, đặt nền móng cho khoa phê bình văn học Mác - Lenin.
v.v... 1 Lenin đã gọi Tolstoi là "tấm gương soi của cách mạng Nga". Trong Anna Carenina, chúng ta sẽ thấy lại bức tranh xã hội chân thực và sinh động của cả một giai đoạn lịch sử nước Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau giải phóng nông nô. Ngòi bút nghệ thuật điêu luyện, nghiêm khắc vạch trần bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến chuyên chế sa hoàng Nga; những tư tưởng, nguyện vọng, ưu điểm, nhược điểm của nông dân cùng phong trào cách mạng của họ đã gián tiếp vang dội vào cuốn tiểu thuyết. Chính chủ nghĩa hiện thực phê phán của Tolstoi, cây bút biết gắn liền nghệ thuật với thời đại để phản ánh đấu tranh xã hội, đã khiến Lenin viết nhiều bài phê bình nổi tiếng về Tolstoi, đặt nền móng cho khoa phê bình văn học Mác - Lenin.
° ° °
Bốn năm sau khi viết xong Chiến
tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên
của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina.
Cũng như nhiều nhà văn hồi đó,
Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở
Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là
ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt
chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng
tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt,
mới.
Nhân đọc truyện viết dở dang của
Puskin: Những người khách họp mặt trong biệt thự, Tolstoi nảy ra ý định viết
Anna Carenina. Và ông dựa vào con gái Puskin là Mari Alecxandrovna Gactun làm
nguyên mẫu, để tả vẻ mặt, dáng người nhân vật Anna. Bắt tay vào làm, nhà văn
thực ra chỉ định phóng bút viết, chưa thấy hết tầm to lớn của cuốn truyện, dần
dần sau này trong quá trình viết, nó mới đòi hỏi nhiều tâm sức. Ông cũng ngừng
bút nhiều lần vì bận giúp vận động cứu tế nạn dân hạn hán, hoặc bận viết cuốn
Bàn về giáo dục quốc gia để tranh cãi về phương pháp giáo dục với các nhà giáo
ở Moxcva; ông lại nhiều lần chán nản, muốn bỏ dở cuốn truyện, vì thấy mình viết
không hay.
Đây là quãng đời sống êm ấm trong
gia đình, với tình hình tư tưởng ổn định và công việc sáng tác phong phú nhất
của nhà văn trong môi trường quý tộc tại trại ấp ở Iátxnaia Poliana. Hồi trẻ,
ông tòng quân tại Capcadơ và dự cuộc chiến tranh Nga - Thổ ở Crưm. Nhờ đó, ông
nhìn thấu bộ mặt trái của chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường và đồng
thời cũng thấy rõ tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước thật sự của binh lính và
thuỷ thủ bình thường. Lòng cảm phục sự vĩ đại của dân tộc Nga và căm ghét chế
độ nông nô khiến ông từ đó bắt đầu chú ý tới vấn đề dân cày. Ông đi du lịch
nhiều nước châu Âu như Đức, Pháp, Thụy Sĩ, ý, Bỉ, Anh, và nhận ra nhiều thối
nát của chế độ tư bản. Nếu Tolstoi còn tìm thấy trong các tác phẩm của
Voltaire, Diderot, Jean Jacques Rousseau, chút tính chất tiến bộ nào đó trong
thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản thay thế chế độ phong kiến mọt ruỗng của thế kỷ
XVII và XVIII ở Pháp, thì qua thực tế xã hội các nước Tây Âu nửa sau thế kỷ
XIX, ông đã tận mắt chứng kiến những hiện tượng thụt lùi, phản động, bắt đầu lộ
rõ không sao che giấu của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Trở về nước,
Tolstoi lần nữa hiểu thêm bộ mặt xấu xa của thực tế xã hội Nga hồi đó. Ông bắt
đầu nghiên cứu cách dạy học cho bình dân, viết sách giáo khoa, và trong một năm
1862, đã mở tới 21 trường học cho người lớn và trẻ em.
Trước đó, khi còn ở Peterburg.
Tolstoi có quen nhóm văn sĩ tiến bộ trong tạp chí Người đương thời như
Trernưsevxki, Turghenev, Gontrarov, Necraxov, Oxtrovxki, và cũng có quen cả
những nhà nghệ thuật vị nghệ thuật như Drudinin, Botkin và Amencov. Nhưng với
cả hai nhóm chống chọi nhau đó, Tolstoi đều không cùng chung quan điểm và vẫn
giữ ý kiến riêng về đời sống và nghệ thuật.
Tất cả các sự việc nhà văn theo dõi
và trải qua trong xã hội thượng lưu ở Moxcva và Peterburg khi còn là chàng
thanh niên ưa chơi bời phóng đãng, mọi hiểu biết và suy nghĩ về nông dân Nga
khi trở về trông nom trại ấp, mọi tìm tòi và mong muốn về một chế độ xã hội
thích hợp với các quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức riêng, tự rút ra khi
nghiên cứu triết học, khoa học, văn học và tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng
hồi đó ở trong và ngoài nước, mọi kinh nghiệm già giặn gom góp sau hàng chục
năm sáng tạo nghệ thuật, tất cả vốn liếng dư dật và nhiều mặt đó đủ giúp
Tolstoi viết xong cuốn tiểu thuyết lớn Anna Carenina này.
Thông qua cuộc ngoại tình éo le,
chấm dứt bằng cái chết tội lỗi và bi thảm của Anna Carenina, cuộc sống gia đình
lục đục của Oblonxki, mối tình trắc trở nhưng hạnh phúc của Levin, cùng đời
sống tình cảm phức tạp của nhiều nhân vật khác, như Betxi Tverxcaia, Lidia
Ivanovna, Lida Mercalova, Xapho Stond, nhà văn đã đặt ra vấn đề tình yêu và hôn
nhân như một sự việc cá nhân và xã hội. Những việc và người được tả tỉ mỉ, thực
và động, trình bày cho ta thấy các quan niệm khác nhau về tình yêu, hôn nhân,
dẫn đến các việc làm và kết quả khác nhau như thế nào, các nguồn gốc xã hội sâu
xa nào quyết định tính chất tốt, xấu của mối tình trai gái trong chế độ phong
kiến và tư bản, cuối cùng thực chất của hạnh phúc cùng đạo đức yêu đương theo
nhà văn hiểu là ở đâu? Nhân dịp này, Tolstoi phơi trần nhiều mặt xấu xa của đời
sống quý phái, từ lối sống xa hoa, lười biếng, vợ chồng lừa dối nhau, bạn bè
ghen ghét, xảo trá, đến thói quen sĩ diện hão, giả nhân giả nghĩa, tranh giành
địa vị, bon chen luồn cúi, nhu nhược, phá sản của tầng lớp quý tộc.
Bên cạnh chủ đề trên, nhà văn còn
đưa ra nhiều vấn đề xã hội khác, có tầm quan trọng lớn hơn nhiều, chủ yếu bằng
cách thông qua nhân vật Levin: Đó là các vấn đề lý tưởng xã hội, các ý kiến về
dân tộc, về nông dân, về tổ chức xã hội, cơ cấu kinh tế, giáo dục, chính trị,
về mọi sự thay đổi ảnh hưởng quyết định đến đời sống nhân dân, về triết học,
nghệ thuật và cả về hòa bình, chiến tranh... Tóm lại, tất cả những vấn đề thời
sự nóng bỏng mà bất cứ người Nga nào thời đó, ít nhiều biết suy nghĩ về vận
mệnh nước nhà, đều phải lo lắng tới.
Nhiều vấn đề cấp thiết nêu lên đó
chưa được giải quyết và kết luận, hoặc được giải quyết và kết luận theo lập
trường riêng không ít sai trái của nhà văn, nhưng mọi vấn đề được đặt ra đã là
một phát hiện có giá trị lớn lao, phản ánh đúng đắn các mâu thuẫn xã hội chính
trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của nước Nga gia trưởng cũ bắt đầu tan
rã mau chóng trước sự xâm nhập, chèn ép của chủ nghĩa tư bản. Nhiều lý lẽ chính
của "học thuyết Tolstoi" về vần đề chế độ tư hữu, đạo đức tư sản, lợi
nhuận, chính quyền chuyên chế và quân phiệt, nghệ thuật và tôn giáo, mà sau này
tác giả sẽ trình bày trong các cuốn sách lý luận, như Nghệ thuật là gì?, Sám
hối, Tôn giáo của tôi, Làm gì... đã bắt đầu được trực tiếp hoặc gián tiếp vạch
ra trong cuốn tiểu thuyết này.
V.I. Lenin nhận xét về Tolstoi như
sau: "Một mặt thì chỉ trích thẳng tay chế độ bóc lột của tư bản, tố cáo
những hành vi bạo ngược của chính phủ, tố cáo các trò hề của công lý và của
hành chính nhà nước, vạch trần hết tính chất sâu sắc của các mâu thuẫn giữa
tình trạng của cải ngày càng tăng thêm, văn minh đạt nhiều thành quả và tình
trạng cùng khổ, man rợ và đau thương của quần chúng công nhân cũng ngày càng
tăng thêm; mặt khác lại là người hiền từ đứng ra khuyên răn "không nên
dùng bạo lực chống lại điều ác"... Tolstoi vĩ đại là ở chỗ ông đã nói lên
được những tư tưởng và những tâm trạng đã được hình thành trong hàng triệu nông
dân Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga" 2.
Những suy nghĩ của nhà văn về đời
sống hàng ngày, cũng như những tìm tòi để trả lời các vấn đề xã hội lớn của
thời đại đặt ra, được thể hiện bằng nghệ thuật viết truyện cao tay. Với sức làm
việc trung bình mười hai, mười ba giờ một ngày, từ ý định đầu tiên chỉ là tả
"một người vợ phụ bạc", qua nhiều lần bỏ dở, sửa chữa, thay đổi hoàn
toàn so với bản thảo thứ nhất, tiểu thuyết Anna Carenina viết xong vào tháng 7
năm 1877. Cuốn truyện vượt ra ngoài khuôn khổ một tấn thảm kịch ngoại tình và
trở thành tấm gương phản chiếu một giai đoạn lịch sử Nga, sau cải cách nông nô,
vào giữa những năm 70 của thế kỷ XIX, với mọi mâu thuẫn xã hội nóng bỏng và
phức tạp nhất.
° ° °
Trên trang mở đầu cuốn truyện, có
ghi một đề từ: "Việc báo oán thuộc về ta, chính ta lại ra ân đền bù
lại", với ngụ ý: chúng ta không có quyền phán xét người đời, quyền đó
thuộc về Chúa. Câu này gói ghém ý nghĩa khe khắt về luật pháp vô tình của Chúa
Trời, nhưng mặt khác tỏ rõ tất cả lòng nhân đạo, rộng lượng của nhà văn với
nhân vật chính. Ông muốn che chở Anna trước dư luận bất công của một xã hội ưa
sống giả dối, quen chà đạp con người; ông không cho nó được quyền xét xử, vì
chính nó là nguồn gốc gây ra tội lỗi. Và nếu Anna là tội nhân xúc phạm vào đạo
đức, trật tự phong kiến thì đồng thời cũng là nạn nhân của lối sống giả nhân
giả nghĩa. Nói vậy, không phải Anna hoàn toàn không có trách nhiệm về việc mình
làm. Trong cái chết oan khiên của nàng đã mang ý nghĩa tính hậu quả không tránh
khỏi của việc làm tội lỗi, về sự tự trừng phạt.
Sau nhân vật Tachiana của Puskin,
Anna là một hình ảnh phụ nữ mới, tiến bộ trong văn học cổ điển Nga, đã gắng
giải phóng cá tính con người, vùng vẫy thoát khỏi áp bức và nhục nhã của phong
kiến quý tộc. Cùng với Trernưsevxki, Turghenev, Necraxov, tác giả Anna Carenina
góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, những người bị áp bức tàn nhẫn nhất. Mặc
dầu chủ nghĩa xã hội của Trernưsevxki là không tưởng, ông vẫn cho việc giải
phóng phụ nữ không phải chỉ ở mặt tình yêu, mà còn ở trên nhiều khía cạnh khác:
đàn bà phải ngang hàng với đàn ông về mọi công việc xã hội, có quyền lao động
hữu ích, hưởng thụ vật chất và chỉ có độc lập về kinh tế như vậy mới có tự do
về tinh thần. Tầm tư tưởng, Tolstoi về vấn đề này có phần hẹp hơn so với nhà
cách mạng dân chủ. Ông chỉ đánh giá cao vai trò người đàn bà trong gia đình.
Thái độ đó được thể hiện ở nhân vật Natasa trong Chiến tranh và Hòa bình, nay
lại thể hiện trong Anna Carenina, với các nhân vật Doli, Kitti. Còn với Anna, ý
định đầu tiên của nhà văn là phải phê phán nghiêm khắc người đàn bà bội bạc đã
phá hoại nền móng gia đình. Nhưng vì đòi hỏi hiện thực và chống lại trật tự
phong kiến, nhà văn thẳng thắn đã buộc phải thay đổi thái độ với nhân vật chính
trong quá trình sáng tác: cuối cùng ông đã bào chữa cho Anna, nạn nhân của sự
đè nén, trói buộc lạc hậu.
Anna, người sứ giả hạnh phúc đi dàn
hòa cho gia đình xích mích của Doli, nhưng trớ trêu thay, ở đó nàng gặp Vronxki
và cũng từ đó bắt đầu sự tan vỡ của chính gia đình nàng. Anna lấy Carenin không
phải vì tình yêu, mà chỉ do sự sắp đặt của bà cô đã tìm được cho mình một ông
cháu rể môn đăng hộ đối, đủ tiền tài danh vọng. Carenin yêu chiều vợ theo thói
quen vợ chồng, nhưng tâm hồn căn cỗi, tình cảm khô khan, lối sống tẻ nhạt khuôn
sáo, tính nết giả dối, ưa sĩ diện, hám hư danh, cộng với đầu óc thông minh lạnh
lẽo đượm màu sắc giễu cợt đáng ghét của ông (nhất là với đàn bà mà chưa bao giờ
ông thực tâm coi trọng), tất cả tạo cho Anna cuộc sống gia đình yên ổn nhưng
buồn tẻ, sang trọng nhưng u uất. Nàng cố tự lừa dối để sống cạnh người chồng
nhạt nhẽo ngót chục năm trời, với bề ngoài như mọi sự trên đời đều tốt đẹp! Thực
ra, Carenin không hề đem hạnh phúc đến cho người vợ xinh đẹp, hồn hậu, thậm chí
còn chà đạp lên sức sống tự nhiên ở nàng. Và đã đến lúc tính cách chân thực, sự
cuồng nhiệt, khao khát được yêu, được sống tự do của Anna không thể kìm hãm nữa
và chỉ cần thoáng gặp Vronxki, một người trái ngược hẳn với chồng, là nàng lập
tức lao đầu vào tình yêu, như thiêu thân mê ánh lửa, không tính toán, mặc kệ cả
lễ giáo và dư luận xã hội thượng lưu. Cái hạnh phúc hợp pháp đúng với giáo lý
nền đạo đức chính thống, đáng ghen tị trước con mắt bạn đồng liêu, mà Karenin
tưởng rất vững chắc, phút chốc hóa đồ mã sụp đổ tan tành, vì không được xây
dựng bằng nguyên liệu tình cảm thực sự, Anna yêu say đắm, công khai, như để trả
thù chồng, đền bù lại tất cả đè nén tình cảm, yêu thương giả dối mà nàng phải
chịu đựng trong cuộc hôn nhân bế tắc. Tấn bi kịch cũng bắt đầu từ đấy: nàng
muốn tự do và thẳng thắn yêu, nhưng vấp phải trở ngại lớn là Carenin và xã hội
thượng lưu; nàng rất ghét giả dối nhưng rồi buộc phải giam mình vào vòng dối trá.
Anna là người vợ xấu số, nhưng lại
là người mẹ rất yêu con. Chính mâu thuẫn này làm nàng chịu nhiều cay đắng, đau
khổ khi hưởng hạnh phúc tình yêu mới. Nàng đành xa lìa đứa con trai rứt ruột để
đi với Vronxki và biết ngay người yêu cũng không sao hiểu hết nỗi lòng người mẹ
xót xa. Mánh khoé của Carenin và luật lệ xã hội chia rẽ mẹ con nàng, dồn nàng
vào bước đường cùng hoặc phải hy sinh quyền sống yêu thương thực sự, hoặc phải
cắt đứt tình mẹ con. Lần gặp gỡ con trai khi ở nước ngoài về, vừa vui sướng vừa
đau đớn tuyệt vọng, tỏ rõ thêm bộ mặt tinh thần đằm thắm của nàng và tình cảnh
đáng thương của đứa trẻ thiếu tình mẹ. Những giờ phút yêu đương vui sướng nhất
cũng chỉ là vui gượng bề ngoài, không hề trọn vẹn, vì lòng nàng luôn giằng xé
giữa hai người: giữa con trai Xerioja và người tình Vronxki, nàng chỉ có quyền
chọn lấy một.
Thực ra, nếu Anna muốn, nàng vẫn có
thể thu xếp ổn thoả. Chính ông chồng chẳng đã đưa ra trước một cách dàn xếp rất
hợp với đạo đức và thói quen của xã hội thượng lưu đấy ư? Ông sẵn sàng làm ngơ
(nếu chưa phải hoàn toàn thừa nhận) trước sự ngoại tình, với điều kiện dễ dàng
chỉ cần vợ giữ cho kín đáo và đừng đòi ly dị, miễn sao bề ngoài gìn giữ được
danh giá ông, gìn giữ được nếp nhà và tục lệ nhà vua cùng đạo Chúa! Đó chẳng
phải sự việc thường thấy trong cảnh gia đình rắc rối của bao tổ ấm quý tộc đó
ư? Những Betxi Tverxcaia, Xapho Stond, Lida Mercalova không hề áy náy, buồn rầu
trong nếp sống quen dối trá, cứ đàng hoàng đi lại với tình nhân ở ngay giữa nhà
chồng, lấy đó làm thú vui chơi lấp lỗ trống cho cuộc sống rỗng tuếch, bê tha,
tiêu biểu của giới quý phái đó sao. Nhưng với tính tình trung hậu, nồng nhiệt,
thẳng thắn, Anna đã cao thượng hơn họ. Nàng cương quyết gạt bỏ ý định bỉ ổi và
hèn nhát của chồng. Tuy vẫn luyến tiếc địa vị xã hội mình, Anna vẫn cảm thấy lẻ
loi trong xã hội đó; nó chỉ thừa nhận thông dâm, ngoại tình, còn kết tội mọi
mối tình chân thực, chính đáng. Sau bao năm sống ngột ngạt trong không khí đạo
đức giả dối, nàng muốn xé toang màn đen dối trá ông chồng định che phủ lên đời
nàng và vị đại thần phu nhân đó đã đòi ly dị, ngang nhiên bỏ chồng bỏ con đi
theo người tình trước mắt mọi người. ở đây, việc làm này có ý nghĩa như một sự
nổi loạn, một sự khiêu khích chính xã hội nàng xuất thân. Và tất nhiên nó sẽ
không dung tha, nó sẽ cấm cửa từ bỏ nàng như đứa con hoang. Các họ hàng, bè bạn
thân nhất như Varia, Bétxy cũng không dám tiếp nàng, mụ Cataxova thì chửi cạnh
khoé. Nếu Anna có gan chống chọi, giày xéo lên mọi lễ nghi, sĩ diện của bọn
cành vàng lá ngọc thì chúng cũng không thương xót gì mà không phỉ nhổ trước khi
nàng kịp tự mình cắt đứt hẳn với chúng.
Mối tình Anna với Vronxki sẽ được
coi là đứng đắn, thật sự tiến bộ nếu nàng quả quyết đến cùng làm tròn việc tự
giải phóng. Nhưng không, Anna không làm được như vậy. Nàng đã có gan bỏ chồng
xa con, xa luôn cả cuộc sống tù túng, giả dối. Trong cuộc tình duyên mới mẻ và
hoàn cảnh sống đã thay đổi, đáng lẽ nàng phải tìm thấy lẽ sống mới chính đáng,
cao quý hơn, phải xây dựng đứng đắn cho mối tình hai người được bền vững và bắt
tay vào làm công việc gì có ích cho gia đình và xã hội, nâng cao ý nghĩa cuộc
sống. Nhưng rồi mục đích duy nhất của Anna vẫn chỉ là đem tất cả cuộc đời phó
mặc cho số mệnh nổi trôi theo mối tình phiêu lưu, lãng mạn, tầm thường. Nàng tự
buông thả trong cuộc sống nhàn rỗi, đi rong chơi nước ngoài, làm duyên làm dáng
với người chung quanh, thậm chí không yêu thương chăm sóc cả đứa con gái mới đẻ
để gìn giữ sắc đẹp và chiều theo mọi ý thích của người tình, tính toán giằng co
trong việc ly hôn, do dự không dám cắt đứt hẳn với xã hội cũ. Tình yêu ngày
càng trở nên ích kỷ. Nàng bắt đầu so sánh, đòi hỏi, oán giận, ghen tuông. Nàng
chạnh nghĩ nỗi lòng đau khổ phải xa con để dằn vặt người tình, chỉ muốn hoàn
toàn độc chiếm tất cả tư tưởng, tình cảm, thời gian của chàng, để chỉ có mỗi
việc là yêu quý, chiều chuộng nàng. Với tâm lý đó, nếu mất Vronxki là nàng sẽ
mất hết. Vì tự đem cả đời mình phụ thuộc vào Vronxki, như cái bóng có được nhờ
dập theo cái hình, tự tước đi quyền lợi và khả năng sống tự do, độc lập, cho nên
nàng có ảo tưởng buộc người tình phải hoàn toàn nô lệ mình, để cân bằng giá trị
với mất mát của nàng. Cái tình trở thành cái nợ, yêu thương biến thành hờn oán.
Nàng không hề làm công việc gì có ích cho đời sống riêng và chung, càng chui
đầu vào mối tình hẹp hòi, không ngừng đòi thoả mãn tình cảm và dục vọng thì
càng trở nên xấu tính, nhỏ nhen, vị kỷ.
Mối tình có thể nói bắt nguồn từ một
mong ước cao thượng, bằng việc làm can đảm, cuối cùng cũng trở thành tầm
thường, hèn kém, không hơn gì cuộc hôn nhân đầu tiên với Carenin: Nàng vẫn
không vượt khỏi vòng tiêu cực, thoái hóa của bản chất giai cấp xuất thân và
hoàn cảnh sinh sống. Đó là tấn bi kịch của xung đột bên trong con người nàng,
nó điển hình cho mâu thuẫn bên trong của lớp người trung thực, muốn tiến lên
giành hạnh phúc nhưng không đủ sức chống lại trở ngại chính là xã hội thượng
lưu hồi đó.
Trong lần suýt chết vì sinh nở, Anna
đã có lúc cảm động vì chồng tha thứ. Nhưng phút yếu lòng đó chỉ thoảng qua và
nàng không thể nào làm lành với cuộc sống giả dối: ngay sau đó, nàng lại căm
ghét Carenin như thường. Mặt khác, nàng cũng không bao giờ yên ổn trong mối
tình mới và cảm thấy lẻ loi cả với Vronxki. Nàng lo sợ cho mối tình, luôn bị đe
doạ có cái gì đáng sợ trong đó. Nàng nghĩ đến cái chết, thấy chỉ có nó mới giải
thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Nàng như sợi dây căng thẳng chỉ chờ đứt phựt. Cảm
giác định mệnh có tính chất bi thảm và việc đoán trước một tai họa không tránh
khỏi luôn ám ảnh nàng. Nàng không hiểu nổi lực lượng gieo họa phúc đó nảy sinh
từ đâu, nên không thể có cách nào chống chọi lại. Nàng đã mất chồng, mất con và
mất cả chỗ đứng trong xã hội. Nàng không có lý tưởng sống nào khác ngoài tình
yêu với Vronxki mà bây giờ, theo nàng, nó đã trở nên mong manh, nhạt nhẽo, hết
hy vọng. Cuộc đời dang dở dẫn nàng đến ngõ cụt hết lối thoát, ngoài lối thoát
cuối cùng là cái chết. Hơn nữa, nàng phải trả thù, phải vạch một vết nhơ lên
cái trán đạo đức giả dối của nhà thờ và xã hội. Nàng phải làm cho Vronxki vì
nàng mà điêu đứng, hối hận: nếu không trói buộc được Vronxki bằng thể xác thì
nàng sẽ trói buộc chàng bằng một kỷ niệm vĩnh viễn, bằng tiếc thương không gì
xoá được. Và Anna đã chết bằng cái chết thảm khốc. Trong khi huỷ hoại thân
mình, nàng huỷ hoại cả cuộc sống tình cảm của người yêu mà nàng đã độc chiếm, với
hy vọng chàng sẽ không bao giờ còn yêu ai bằng nàng. Đây là sự trừng phạt người
và trừng phạt mình. Cả xã hội thượng lưu lẫn Carenin, Vronxki và cá nhân người
chết phải chịu trách nhiệm về việc này.
Tấn trò ái tình đã hạ màn, cái chết
bất đắc kỳ tử của người đàn bà bạc phận mãi mãi sẽ còn làm cho nhiều người phải
giận, phải thương.
° ° °
Xoay quanh nhân vật Anna, nhà văn
còn vẽ lên một loạt nhận vật khác cũng không kém sắc nét. Trước hết là Carenin.
Ông là người có nhiều ham muốn công danh; bước chân ra khỏi nhà trường, ông
liền đem hết tâm trí, nghị lực giành lấy địa vị xã hội cao sang. Về chính trị
và tín ngưỡng, ông thuộc phe bảo thủ, tỏ ra thông minh, giao thiệp rộng, có
kinh nghiệm tiến thủ trong hoạn trường. Tính nết vốn lạnh nhạt, nay lại chuyên
sống bằng lý trí tàn nhẫn, tâm hồn ông ngày càng khô cằn. Ông là thứ người quan
liêu kiểu mẫu trong cả việc nước lẫn việc nhà, khối óc và trái tim phát triển
không đều, suy tính rất máy móc và xử sự rất bất nhân. Đây là con đẻ của nước
Nga chuyên chế, xa rời đời sống, đối địch với nhân dân. Trong việc công, ông
thực ra chỉ là con rối chuyên nặn ra các thứ giấy tờ vô dụng. Về đời tư, ông
cũng lại tỏ ra là người chồng, người cha hèn kém, mù quáng. Ông chỉ nghĩ đến
mình, không hề nghĩ đến số phận Anna, đến tâm tư tình cảm nàng. Thậm chí ông
còn tự bịt mắt, không dám đi sâu vào đời sống tinh thần của vợ, coi đó là việc
vô ích, không tưởng, nguy hiểm.
Ông lảng tránh và phó mặc cho tôn
giáo. Tất cả cố gắng chỉ là vớt vát sĩ diện, tìm mọi cách che giấu việc Anna ngoại
tình để khỏi ảnh hưởng xấu đến việc thăng quan tiến chức. Chủ nghĩa quan liêu
thấm sâu vào mọi mặt đời sống, cả đến việc dạy con: ông không bắt đầu từ lòng
yêu thương, tìm hiểu đứa trẻ mà chỉ dựa vào mấy trang giáo điều của cuốn lý
luận sư phạm để dạy con một cách máy móc, thô thiển. Ông không hề yêu, không
biết yêu và không thể yêu ai, kể cả vợ con. Ông không có lấy một người bạn
thân. Ông sống lẻ loi, co lại, nghi ngờ, khinh bạch, với trái tim tê liệt. Sự
tàn nhẫn bất lương tỏ rõ nhất trong việc ông từ chối ly hôn Anna, quyết định
giữ nguyên tình trạng cũ, với lý do đầy lòng "mộ đạo" là để Anna có
dịp "hối cải" quay về!
Carenin đánh bạn với nữ bá tước
Lidia Ivanovna. Tuy bề ngoài có vẻ trái ngược với lối sống bê tha, dâm đãng của
Betxi Tverxcaia, nhưng thực chất cuộc sống bên trong bà ta cũng là cảnh cùng
hội cùng thuyền. Người đàn bà tàn xuân đầy thèm muốn xấu xa, đeo mặt nạ đạo
đức, đứng ra gìn giữ phong tục, tín ngưỡng, biến chúng thành thứ tiết hạnh giả
dối, mê tín dị đoan. Tính chất khẩu phật tâm xà của Lidia lộ rõ trong việc
khuyên Carenin không cho Anna gặp lại con trai. Chính xã hội hủ bại giúp cho
bọn vô lại, bịp bợm như Lăngđô thành công. Tên thầy bói này quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống; nó nửa tỉnh nửa mê gạt bỏ việc xin ly hôn
của Anna, đẩy nàng mau tới cái chết. Carenin sợ sự thực như cú sợ ánh sáng.
Ngọn lửa sống hiu hắt trong ông tàn lụi dần, trật tự gia đình sụp đổ, sự nghiệp
công danh bắt đầu thất thế, tất cả chỉ còn là ảo tưởng, về cuối cuốn truyện,
ông thật sự chỉ còn là xác chết biết đi. Và tai hại nhất, mỉa mai nhất là ở chỗ
chính những người như ông lại là thành viên tiêu biểu của xã hội thượng lưu,
những kẻ có quyền thế ở triều đình, những người nắm vận mạng sống còn của cả
một dân tộc.
Tuy không có quan điểm duy vật lịch
sử, chỉ đứng trên lập trường "đạo đức vĩnh viễn không thay đổi", bằng
ngòi bút hiện thực, Tolstoi cũng đã thẳng tay vạch trần đạo đức hủ bại của chế
độ xã hội dựa trên tư hữu, áp bức.
Tuy nhiên, nhà văn không chỉ tả sự
cằn cỗi, nghèo nàn trong tâm hồn Carenin. Trung thành với tư tưởng tôn giáo,
ông cố gắng chứng minh Carenin cũng có thể đổi mới tâm hồn, có thể làm những
việc cao thượng. Đó là cảnh Carenin ở bên giường bệnh Anna, tha thứ cho vợ và
dàn hòa với Vronxki. Ông sung sướng vì đã tha thứ và yêu thương kẻ thù, đúng
như lời Chúa từng răn dạy. Nguồn gốc mọi đau khổ trở thành nguồn gốc của vui vẻ
thảnh thơi trong lòng. Nhưng bên cạnh sức mạnh tinh thần hướng dẫn tâm hồn ông
đó, còn có một sức mạnh khác, sơ đẳng hơn, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ,
điều khiển đời ông: ông thấy mọi người ngạc nhiên nhìn ông, không hiểu ông và
đang chờ đợi ở ông một hành động gì đó. Rõ ràng Tolstoi đã khéo léo chứng minh
một giáo lý cơ bản, cố hữu của đạo Cơ đốc là tha thứ cho kẻ thù. Nhưng thực ra,
vai kịch Carenin sắm trong một lúc đó rất gượng gạo. Vì tha thứ cho kẻ hấp hối
có lẽ còn dễ dàng hơn tiếp tục oán giận. Trên con đường đổi mới tinh thần của
Carenin đã hiện ra một trở lực, đó là sức mạnh thô bạo của xã hội thượng lưu.
Việc tha thứ cho vợ làm ông trở thành người khác thường, vượt lên trên xã hội;
nhưng chung quanh, mọi người vẫn sống như cũ, không thừa nhận "chân
lý" của Kinh Phúc âm, không noi theo giáo lý Cơ đốc, vẫn ăn gian nói dối,
còn có ác ý chế giễu tình cảm ông. Carenin trở thành lẻ loi, nhục nhã. Thế là
ông đành đi đến bước đường cùng: ông đánh bạn với Lidia Ivanovna và hoàn toàn
phá sản về tinh thần. Hình tượng Carenin rất thực vì tuân theo mọi quy luật
phát triển bên trong; và đúng là một người hèn hạ, độc ác như vậy không thể tự
mình đổi mới tinh thần.
Trái hẳn với Carenin, Vronxki là một
người trẻ tuổi, đẹp trai, khỏe mạnh, thẳng thắn, thông minh và nhất là đắm say,
táo bạo. Nhà văn không thể xây dựng nhân vật này cách khác được: vì nếu anh ta
không như thế thì làm sao một người đàn bà tài sắc đầy đủ như Anna lại có thể
mới gặp là yêu ngay? Nhưng các đức tính tốt đó chỉ hợp riêng với mặt tình yêu
kiểu Anna và cũng không sao thay đổi được cuộc đời nàng, cứu nàng thoát khỏi
cái chết tuyệt vọng. Vronxki thực ra vẫn chỉ là người xấu, về mọi mặt tình cảm,
tâm hồn, trí tuệ đều không sánh kịp Anna. Nhà văn tả nhân vật này có khác với
các nhân vật phản diện khác nhưng vẫn khá rõ nét. Vronxki chỉ là người ích kỷ,
sống vô dụng, không có lý tưởng, mục đích gì hết, tóm lại đúng là đứa con đẻ
được nuông chiều của xã hội quý tộc.
Vronxki và Anna đều không giúp đỡ
được gì cho nhau: họ không bù đắp những phần thiếu sót trong bản thân mỗi người
và do đó, dần dần cảm thấy không cần nhau nữa. Chàng công tử bột không hề đếm
xỉa đến luân lý, đạo đức, chỉ biết chơi gái, đánh bạc, đua ngựa, rượu chè đàn
đúm với chúng bạn và thừa tiền, thừa thời giờ thì coi sóc trại ấp, vừa bóc lột
làm giàu vừa ban ơn cải lương cho nông dân, coi đó cũng là thứ "mốt"
mới. Chàng có cách thức riêng đối xử với đời: phải rất thành thực với mọi
người, trung thành với bè bạn, trừ với đàn bà; không được lừa dối ai, nhưng có
thể lừa dối người chồng có vợ đẹp:
sẵn sàng quỵt tiền công thợ may,
nhưng nhất thiết phải trả nợ tiền cờ bạc bịp; có quyền làm nhục người, nhưng
không chịu để người khác làm nhục mình, chàng rất hiếu thắng và có thể hy sinh
cả tính mệnh, tiền tài, sự nghiệp cho tình yêu, nhưng đừng ai xâm phạm đến lối
sống tự do của chàng, dù là anh, là mẹ hay cả Anna nữa. Bọn chàng rất khinh
những người "cổ hủ" còn khư khư ôm mớ lễ giáo "lố bịch".
Họ chế giễu tất cả, từ tính nết
trung thành, trinh tiết của đàn bà, tính tự trọng gìn giữ của đàn ông, đến sự
dạy dỗ con cái, làm việc cần cù. Mọi cái đều sai trái và vô lý, nhưng lại thích
hợp với tính hưởng lạc vị kỷ của mình, nên chàng cho thái độ ấy là tuyệt đối
đúng và yên tâm, kiêu hãnh sống như vậy.
Nhưng Vronxki cũng tỏ ra hơn bọn
thanh niên cùng loại ở vài điểm nhỏ. Thoạt đầu, chàng cũng chỉ coi việc ngoại
tình với Anna là trò tiêu khiển đang được thịnh hành trong giới quý phái. Nhưng
sau đó, chàng đã thật lòng yêu, không nghe theo lời khuyên xấu xa của mẹ và
anh. Chàng rất khổ tâm khi sa vào hoàn cảnh luôn phải dối trá, trái với tính
nết thực thà của mình. Chàng cũng không phải chỉ hợm hĩnh mà còn biết nhìn thấy
thói xấu của mình và của giới thượng lưu. Trong khi đưa một hoàng thân nước
ngoài đi thăm các cảnh đẹp ở Peterburg, chàng nhìn thấy rõ tính tình và lối
sống đáng ngán của một người "rất khỏe, rất sạch nhưng rất ngốc và rất tự
mãn, có thế thôi". Và chàng thấy mình được soi đầy đủ vào tấm gương đó!
Chàng hiểu nhưng không đủ sức thay đổi con người mình.
Lối sống của Vronxki là lối sống địa
chủ lai căng, xa lạ với dân tộc.
Chàng là người Nga sống trên đất
nước Nga, nhưng chung quanh toàn là người và vật từ nước ngoài đem vào. Từ máy
móc làm ruộng, đồ đạc, sách báo đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều mua ở nước
ngoài.
Nào ngựa giống Anh, hầu phòng, vú
nuôi người Pháp, quản lý người Đức, nhà thương kiểu Mỹ, nói chuyện bằng tiếng
Pháp, ăn chơi theo lối Anh. Lối sống sặc mùi tư sản giữa nơi thôn quê phong
kiến chỉ rõ đầu óc sùng bái nước ngoài một cách mù quáng của chủ nhà. Trước con
mắt bà mẹ Doli đông con, lối sống đó như diễn ra trên một sân khấu hào nhoáng,
màu mè. Ngay trong đời sống tâm tình, Vronxki cũng bắt đầu đóng kịch. Chàng hơi
hối hận vì yêu Anna mà mất cả tự do, nhưng vẫn giấu nỗi bực mình dưới lời lẽ
dịu dàng, lịch sự. Đối với chàng, tình yêu vẫn còn màu sắc một chiến thắng và
khi hư vinh đó giảm dần thì chàng bắt đầu chán.
Anna thèm muốn hạnh phúc thật sự.
Nàng yêu tha thiết vì mong đó là con đường thoát khỏi mọi trói buộc giả dối,
độc ác của giới thượng lưu. Nhưng Vronxki không phải là người có thể đánh giá
đúng mong ước đó. Chính Levin, con người chính trực, đã nhận xét Anna là người
đàn bà hiếm có, luyến tiếc cho một tâm hồn, trí tuệ tốt đẹp và lo ngại Vronxki
không hiểu hết nàng. Đúng thế, Vronxki không hiểu nổi Anna vì về mọi mặt của
đời sống tinh thần, chàng đều nghèo nàn, hèn yếu hơn; chàng không có đòi hỏi về
đời sống bên trong đứng đắn, không dám xa rời giới thượng lưu, thậm chí còn đầu
hàng. Chàng đã lấy tình yêu làm vinh quang, thì khi nó mất đi, chàng cũng thiếu
lẽ sống. Chàng đã một lần tự tử hụt vì bị sỉ nhục và bị mất Anna. Sau khi nàng
chết, việc chàng tình nguyện tòng quân đi đánh nhau ở Xerbi hoàn toàn chẳng
phải vì lòng yêu nước hay ý định làm chính trị gì hết, mà chỉ là việc làm tuyệt
vọng, một vụ "tự sát" thứ hai cũng không kém phần "nổi
tiếng" như cái chết của Anna.
° ° °
Cuốn truyện hình như chia làm hai
đường dây nhân vật riêng rẽ:
một bên là Anna, Carenin, Vronxki,
một bên là Kitti, Levin. Thực ra, ngay đến số phận riêng của các nhân vật khác
cũng đều được bố trí theo một hướng thống nhất, để đóng góp vào việc trình bày
và giải quyết vấn đề trung tâm cuốn truyện: tình yêu và hôn nhân, gia đình hạnh
phúc hay bất hạnh. Coznusev, một người sống xa thực tế, chỉ chuyên chúi đầu vào
sách vở và Varenca, một cô gái đức hạnh, mộ đạo, cả hai cuối cùng cũng phải
trải qua thử thách với vấn đề hôn nhân. Từ Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, đến
Xerpukhovxcoe đều luôn bàn đến chuyện gia đình, tuy không phải là chuyện chính.
Rồi các gia đình Xviajxki, Trerbaxki Lvov đều được miêu tả đầy đủ.
Lối sống trụy lạc của Oblonxki làm
gia đình lục đục, làm Doli, một người vợ chỉ biết có chồng và con, phải đau
khổ, ghen tuông. Dưới vẻ bề ngoài đầy đủ, êm ấm, gia đình quý tộc đó đang tan
vỡ hạnh phúc với những túng thiếu, xích mích và chán ghét nhau. Tình yêu khó đi
đôi với tính ích kỷ. Hạnh phúc chỉ đến với những người quên mình mà yêu. Trong
chừng mực nhất định, cặp vợ chồng Levin - Kitti có lẽ đạt tới hạnh phúc đó. Họ
là những người thực thà, chín chắn và tình yêu của họ cũng phải trải qua những
lầm lạc, hối hận, đau khổ. Họ yêu và trọng nhau, trầm lặng nhưng thắm thiết,
vừa không ngừng tìm hiểu nhau và lo lắng đến bổn phận mỗi người. Kitti theo
chồng về quê ở, gắng làm quen với lối sống của chồng và giúp đỡ chồng làm việc.
Nàng hiểu thấu tình máu mủ của Levin, hết lòng săn sóc người anh chồng ốm nặng.
Nhưng quý hơn cả là nàng hiểu tâm hồn chồng, một tâm hồn nàng cho là "tất
cả cho người khác, không nghĩ gì đến mình", nhưng lại đang băn khoăn đi
tìm lẽ sống, tìm chân lý.
Kitti là cô gái dịu dàng, ngây thơ,
đang ao ước tình yêu sẽ đền đáp xứng đáng cho sắc đẹp tươi trẻ mình. Tất cả nỗi
lòng nàng say sưa tin vào một hạnh phúc gia đình tốt đẹp. Vronxki đã phá hoại
lòng tin đó, làm nàng từ đó nhìn đời chỉ thấy toàn xấu xa. Khi dưỡng bệnh ở
suối nước nóng, Kitti gặp Varenca. Thoạt đầu, nàng cho cô bạn mới này là con
người toàn vẹn, sống cuộc đời khác hẳn bọn thanh niên hời hợt.
Nàng khám phá ra một thế giới hoàn
toàn mới mẻ: ngoài cuộc sống bản năng nàng vẫn sống từ trước đến nay, còn cuộc
sống tinh thần khác, cao thượng và kỳ diệu hơn nhiều. Người ta đi vào cuộc sống
đó bằng tôn giáo, khác hẳn thứ tôn giáo quen thuộc từ nhỏ với các buổi lễ ở nhà
thờ hoặc học thuộc lòng Kinh thánh. Thứ tôn giáo này cao siêu, huyền bí hơn,
gắn liền với các tư tưởng, tình cảm cao thượng, quên mình để yêu thương kẻ
khác. Và Kitti đã bị Varenca cảm hoá, bắt chước bạn giúp đỡ kẻ nghèo, săn sóc
người ốm, đọc kinh Phúc âm cho họ nghe. ở đây, Tolstoi muốn đem lòng vị tha bác
ái và đạo đức tự hoàn thiện bản thân để chứng minh rằng chỉ có tôn giáo mới cứu
ta thoát khỏi mọi ràng buộc bản năng của xác thịt và tiến tới cuộc sống tinh
thần cao quý hơn. Nhưng cũng chính ngòi bút hiện thực của nhà văn đã giới thiệu
Varenca là người thế nào? Đó là một cô gái còn rất trẻ nhưng không có tuổi trẻ,
giống đóa hoa đẹp còn nguyên cánh nhưng sớm tàn úa và không hương thơm, nhất là
cô ta thiếu niềm hăng say đậm đà, quyến rũ trước đàn ông. Cô già trước tuổi,
chỉ nghĩ đến bổn phận, không có nổi tiếng cười. Cuộc sống hoàn toàn lý trí đã
giết chết đời sống tình cảm bình thường. Lòng cô yêu thương mọi người không tự
nhiên, luôn phải cố gắng, gượng gạo: nó chỉ che đậy một sự thực là cô không có
khả năng thực tâm yêu thương theo một tình cảm trần thế giữa người với người.
Tất nhiên, với tính yêu đời nồng nàn, Kitti không thể nào trở thành một tiểu
thư Varenca thứ hai được. Hơn nữa, con mắt thông minh của nàng cũng bất chợt
thấy, sau tính tình "cao thượng", cuộc đời "cảm động", lời
lẽ "dịu dàng" của Stan phu nhân là những dấu hiệu giả dối, bịa đặt,
giảo quyệt của bà ta, lấy thú vui từ thiện làm một nguồn an ủi, một đồ trang
sức. Kitti chỉ sống bằng trái tim mà không thể sống bằng nguyên tắc giáo lý như
họ, chỉ thật tâm yêu người mà không thể lên mặt dạy người, cứu người! Nàng sẽ
cứ là nàng, không thể đóng kịch trên sân khấu "thanh cao, thoát tục"
như Stan phu nhân và cũng không thể là một Varenca khô héo, cằn cỗi. Qua lần
thử thách này, cả thân thể lẫn tinh thần Kitti đều khỏe lại và nàng trở về với
cuộc sống thực sự yêu đời, đứng ngoài mọi nguyên tắc giả nhân giả nghĩa.
Trong chương lễ cưới Kitti, người
đọc thấy rõ sự đồng tình của nhà văn với số phận các cô gái, khi ước mơ hạnh
phúc thường bị cuộc sống tàn nhẫn phá vỡ, như các cuộc hôn nhân của nhiều người
khách dự đám cưới lúc họ nhớ lại quá khứ. Doli cảm động ứa nước mắt, tạm quên
cảnh nhà trước mắt và nhớ lại mối tình đầu trong trắng. Bà càng thương cho cảnh
sa chân lỡ bước của Anna. Người đàn bà mang hy vọng và hãi hùng trong lòng,
chấm dứt những ngày trẻ trung để bước về nhà chồng, đi vào một tương lai bí ẩn,
chính mình cũng không rõ cuộc sống rồi sẽ may rủi, tốt xấu ra sao. Đó là điều
đáng thương thường xảy ra cho người đàn bà trong xã hội cũ.
Trong tuần trăng mật, Levin thầm
trách Kitti là nông nổi, hèn mọn, ngoài chuyện nhà cửa, bếp nước, vá may ra thì
không biết để ý đến một công việc gì đứng đắn, như quản lý trại ấp, xem xét
nông dân, chơi nhạc, đọc sách. Nhưng chàng không hiểu vợ mình tự cho phép hưởng
vài phút sung sướng, an nhàn đó là để sửa soạn gánh vác những nhiệm vụ rất nặng
nề: làm chủ gia đình, làm vợ, làm mẹ. Cả cuộc đời Doli cũng hy sinh cho con
cái: bà đem hết tâm sức ra nuôi nấng dạy dỗ, yêu thương chúng. Bà không hiểu
nổi, thậm chí còn kinh ngạc, khiếp sợ khi thấy Anna không tự mình nuôi con và
không dám đẻ nữa, để gìn giữ sắc đẹp, có thời giờ chiều chuộng người tình. Về
mặt tinh thần, người mẹ bình thường đó hơn hẳn bao nhiêu người đàn bà ích kỷ
khác. Cả hai chị em Doli và Kitti đều là những người có nữ tính tốt đẹp, trung
thành với trách nhiệm người vợ, người mẹ. Nhà văn ra sức ca ngợi những con
người đã sinh ra và giữ gìn cuộc sống trên trái đất này.
Tuy nhiên, những nhân vật trên của
Tolstoi có đời sống tinh thần quá eo hẹp. Họ không muốn bước chân ra khỏi
ngưỡng cửa gia đình, không đòi hỏi, lo lắng gì mọi quyền lợi khác. Nhà văn cho
rằng tâm tình mọi người đàn bà đứng đắn chỉ là "thờ chồng nuôi con".
Ông phủ nhận vai trò người đàn bà trong xã hội, mặc dầu vẫn giải quyết vấn đề
gia đình với quan niệm nó là một bộ phận chính hợp thành xã hội.
Dù sao Anna Carenina vẫn là cuốn
tiểu thuyết xã hội, không phải tiểu thuyết "gia đình" kiểu châu Âu.
° ° °
Trong mấy dòng mở đầu cuốn truyện,
có một câu: "Trong gia đình, Oblonxki, mọi việc đều rối bét". Đây là
chiếc chìa khóa mở cho ta thấy mọi mặt đời sống nhân vật và xã hội phản ánh vào
truyện. Mọi gia đình khác của Trerbaxki, Carenin, Levin... cả nông thôn gia
trưởng nước Nga đều rối loạn, vùng vẫy chống chọi sự lấn át của chủ nghĩa tư
bản, giáng xuống đầu họ như một tai vạ không thể tránh thoát.
Quận công phu nhân Trerbaxki lo cho
tương lai Kitti; Doli lo cho gia đình sa sút; Lidia Ivanovna tin vào trò bói
toán... mọi người đều lo sợ, hoang mang trước hiện tại bấp bênh, tương lai mù
mịt. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai dám nhìn thẳng sự thật, cố tìm quên lãng
trong rượu, gái, cờ bạc, bói toán... Chỉ mình Levin ngày đêm canh cánh lo cho
cuộc sống thay đổi. Những địa chủ quý tộc như chàng còn giữ được trại ấp, vẫn
sống theo thói quen cũ, nhưng về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức,
đã cảm thấy bị lối làm ăn sinh sống của chủ nghĩa tư bản tấn công. Tàn dư chế
độ nông nô nhường bước cho thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản
tham lam, vô sỉ với người bạn cùng đường là đói rét, nghèo khổ của nhân dân.
Sức mạnh đồng tiền phá hỏng nhân phẩm, cá tính, quan hệ giữa người và người.
Tất cả những sự việc lịch sử cụ thể
đó gắn liền với cuộc đời và cắt nghĩa mọi tư tưởng, tình cảm, việc làm của
Levin. Đứng trên miếng đất phức tạp của một địa chủ, dựa vào các sự việc mới
xảy ra trong đời sống, Levin luôn suy nghĩ tìm đường giữa xã hội đang đầy rẫy
mâu thuẫn, khủng hoảng trầm trọng, không ngừng tác động vào cuộc sống riêng tư.
Là người thẳng thắn, rất nhạy cảm và phản ứng cũng rất nhanh với mọi thay đổi
trong đời sống xung quanh, chàng luôn bất mãn với hiện thực, luôn lo lắng tìm
hiểu chân lý và hạnh phúc ở đâu? Tất cả chặng đường phát triển về tinh thần của
nhân vật là cuộc đấu tranh nội tâm gay go, phức tạp. Tâm tư chàng luôn bị giày
vò, hết nghi ngờ, hoang mang rồi lại hối hận, tự trách mình. Chàng khao khát và
cố gắng giành lấy cuộc sống sung sướng hơn, tốt đẹp hơn, bằng lao động và đấu
tranh, bằng tình thương yêu và sự suy nghĩ. Chàng thực tâm muốn rời bỏ cuộc
sống ích kỷ, tự tư tự lợi và tìm con đường đi vào gần gũi với nhân dân.
Levin xót xa cho tầng lớp quý tộc
đang chết lụi, khinh ghét bọn con buôn vô học, tham lam, lừa lọc. Những ông lớn
có tiếng mà không có miếng như Oblonxki phải chìa tay đón lấy túi tiền của các
ông chủ mới "phất" như Riabinil. Bán đi khu rừng, Oblonxki là gã quý
tộc không biết thẹn, ưa "sống gấp", thích a dua, buông trôi theo thời
thế, lười biếng, hèn yếu, chỉ quen ăn chơi. Tuy là người thẳng thắn, nhưng ông
ta không có tài năng gì, chuyên cầu cạnh họ hàng, nịnh hót bạn bè, luồn cúi kẻ
giàu sang để cầu chút danh vị, tiền tài. Cảnh hoàng thân Oblonxki, người nối dõi
dòng họ Rurits, ngồi đợi hai giờ liền tại phòng chờ tên tư sản Do thái
Bongarinov để ngửa tay xin việc, đủ nói rõ ông ta đã chôn vùi nốt sĩ diện quý
tộc và cúi đầu trước sức mạnh đồng tiền.
Làm sao Levin không lo lắng trước
những sự việc đó được? Levin thấy rõ xã hội Nga đã rối loạn như thế nào sau
giải phóng nông nô, thấy rõ những người thay mặt cho một trật tự kinh tế mới đã
ló đầu ra. Vấn đề lo lắng nhất của chàng là: nước Nga sẽ phát triển theo con
đường nào?
Giữa các "thành thị" và
"công xã nông thôn", ai sẽ thắng ai? Cơ sở kinh tế nào sẽ được xây
dựng ở nước Nga? Levin tin rằng nước Nga sẽ tránh được nanh vuốt chủ nghĩa tư
bản, các tên Riabinil sẽ biến mất nếu địa chủ biết quản lý trại ấp hợp lý.
Chàng chê trách các quý tộc bán rẻ ruộng đất và cả những người tổ chức lại lối
sản xuất theo kiểu tư bản; chàng muốn tìm ra một hình thức sản xuất kiểu hợp
tác giữa địa chủ và nông dân, điều hòa quyền lợi hai bên.
Vin vào cớ nền kinh tế tự nhiên giữ
vai trò chính và văn minh thành thị từ nước ngoài mang vào đã gây nhiều ảnh
hưởng xấu ở thôn quê, Levin cho rằng nước Nga đứng ngoài quy luật phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm này rất gần với phe dân tuý: họ cũng cho chủ
nghĩa tư bản không có khả năng phát triển ở Nga, tin rằng nông dân và nông thôn
Nga có bản tính riêng biệt xã hội chủ nghĩa"! Qua lời lẽ Levin, nhà văn
chỉ mới phản ánh quan điểm đó như một niềm hy vọng mà thôi, chứ không phải như
một tình hình có thực, vì rõ ràng đồng tiền đã len lỏi vào mọi mặt đời sống, kể
cả kinh tế và nông nghiệp của nước Nga. Nhưng nhà văn cũng không hiểu nổi mối
quan hệ khăng khít giữa đồng tiền và chế độ tư bản. Ông nhắm mắt trước sự thật
là chủ nghĩa tư bản đã được xây dựng trên đất nước Nga vừa mới tạm thời ổn
định. Levin mượn cớ cắt nghĩa tính dân tộc của nông dân Nga để chứng minh cách
suy nghĩ của chàng về đường lối phát triển riêng biệt của xã hội Nga: nào nông
dân lạc hậu, bảo thủ, chống lại mọi đổi mới kỹ thuật, công cụ, bám vào lề thói
làm ăn cũ kỹ. Người Nga có cách làm ruộng riêng và do đó họ mới làm tròn được
nhiệm vụ rải ra trên khắp đất đai rộng lớn, hoang vu của nước Nga. Chàng nhìn
thấy sự bất công giữa địa chủ giàu và nông dân nghèo, nhưng lại cố bảo vệ việc
chiếm hữu ruộng đất. Chàng muốn chủ nghĩa cải lương của mình đứng giữa chủ
nghĩa cộng sản và chế độ tư hữu: vừa quay lại chế độ gia trưởng, vừa tiến lên
hòa hợp giai cấp! Dù có bắt nguồn từ ý muốn nhân đạo nào đó, nội dung quan điểm
trên rõ ràng là không tưởng và phản động. Đó là những lẽ thất bại của Levin khi
tìm tòi các cách cải tạo xã hội và nguyên nhân nỗi lòng chán nản, tuyệt vọng
của chàng. Những cuộc tình duyên, các công việc xã hội, dự định nghệ thuật cuối
cùng đều hỏng cả. Và cái chết luôn có mặt, nó đe doạ, ám ảnh rồi kết liễu cuộc
đời một số người. Tất cả cuốn truyện toát lên không khí bi quan nặng nề. Levin
không biết tìm đâu ra sức mạnh để đưa nhân dân ra khỏi vòng khổ cực. Chàng
tưởng tìm thấy sự yên ổn và lòng yêu đời trong hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia
đình. Nhưng cuộc đời chung quanh đang đầy rẫy mâu thuẫn tàn khốc và lương tâm chàng
trở lại bị giày vò. Chàng tìm cách hướng về "tinh thần", chủ trương
không đấu tranh, nhắm mắt làm ngơ trước thực tế xã hội tư bản và gắng tiếp tục
truyền thống văn hóa cũ, lề lối sinh hoạt dân gian cũ. Chàng phản đối cách
mạng, đi tới cùng đường bế tắc và chuyển những vấn đề xã hội sang vấn đề luân
lý, đạo đức.
Levin day dứt băn khoăn về ý nghĩa
cuộc sống. Chàng là ai? Vì sao chàng sống? Sống để làm gì và sẽ đi đến đâu?
Những câu hỏi đó ngày đêm thúc giục buộc chàng trả lời. Nhiều định kiến cũ phá
sản trước thực tế tàn nhẫn. Đâu là chân lý mới? Những người sống chung quanh
hoặc an phận, hoặc vô tư, hoặc vội vàng tìm ngay một học thuyết nào đó để có
nơi trú ẩn yên ổn cho tư tưởng, khỏi mất công tìm kiếm lôi thôi. Chàng phản đối
các nhà duy vật để đi tìm lẽ phải ở các triết gia duy tâm khác như Platon,
Xpinoza, Cant, Senlin, Hegel, Sôpenhaoơ, nhưng chỉ cần những lý thuyết đó chạm
phải thực tế là lập tức đổ sụp. Chàng hoang mang, chán đời, thấy mình chỉ là
cái bong bóng xà phòng trong không gian và thời gian vô tận. Cho nên cái ông bố
gia đình rất sung sướng đó nhiều lần muốn tự tử, định trốn thoát cuộc sống tinh
thần tắc tị.
Levin chỉ cảm thấy tâm hồn thanh
thoát, giản dị, tự nhiên, thành thực khi được gần gũi thiên nhiên, được làm
việc như người lao động bình thường. Nhà văn có nhiều trang tả thiên nhiên và
lao động rất hay. Chương tả mùa xuân ở nông thôn ngồn ngộn sức sống vươn lên
của cảnh vật và không khí tưng bừng của lao động. Đó không phải là cái đẹp hời
hợt, bàng quan mà là cái đẹp của thiên nhiên trải qua cải tạo bằng lao động
chân tay lành mạnh và có ích của con người.
Chương tả Levin cùng cắt cỏ với nông
dân thật sống động và vui.
Chàng cũng thèm muốn cuộc sống của
cặp vợ chồng nông dân trẻ Ivan Parmenov: hạnh phúc gia đình thực sự là ở trong
lao động, thân thể khỏe mạnh và lòng tín ngưỡng ngây thơ. Nhà văn ca ngợi lao
động chân tay như một thú vui lành mạnh, có ích cho cả thể xác lẫn tinh thần.
Nhưng lao động cho ai? Kết quả sẽ thế nào? Levin cho đó là câu hỏi vô vị, không
cần trả lời vì người nông dân chỉ đơn giản làm việc theo đòi hỏi tự nhiên của
mỗi con người khỏe mạnh và họ không hề bận tâm đến chuyện thành quả lao động
thuộc về ai! Nhưng rồi chàng cũng thấy sự thật chẳng phải như vậy: không phải
ngẫu nhiên mà người thợ làm mướn làm ẩu, lười biếng, phá hỏng nông cụ, súc vật,
hạt giống, đất đai và tìm mọi cách lừa dối chàng. Mọi cố gắng của Levin, coi
nông dân như người bạn đồng tâm đều vô ích: quyền lợi ông chủ không những xa lạ
và không thể hiểu nổi mà còn trái ngược hẳn với quyền lợi của họ. ở đây,
Tolstoi mới nhìn thấy và tô vẽ thêm mặt vui vẻ của lao động, còn mặt khổ nhục
của nó trong xã hội cũ thì phải chờ đến khi viết Phục sinh, nhà văn mới nhìn
thấy. Trái lại, trong bài thơ dài Ai có thể sung sướng và tự do ở nước Nga này,
Necraxov lúc đó đã phản ánh đúng đời sống khổ sở của nông dân, kêu gọi đấu
tranh chống địa chủ và nền chuyên chế nhà vua.
Người thầy dạy Levin cách sống, vạch
cho chàng thấy sự thật, lại không phải là những triết gia xa lạ nào mà chính là
người dân cày chăm chỉ, bình thường làm ăn như bà Matriona, bác Fedor: đó là
cuộc sống không chỉ vì cái dạ dày và đòi hỏi khác của riêng mình, mà còn vì
những người chung quanh, sống "Vì linh hồn mình, sống theo chân lý, theo
luật lệ Chúa". Chân lý đó ở khắp nơi, không cần tìm trong sách vở mà tự
cuộc sống đem lại cho chàng. Trong những giáo lý, đạo đức của nhà thờ Cơ đốc đã
bị hủ hoá, đã trở thành vũ khí mê hoặc và áp bức nhân dân của giai cấp thống
trị, chàng muốn rút ra cái phần nhân đạo, vị tha, bác ái, để đưa thành thứ tôn
giáo mới. ý nghĩa cuộc sống không phải trong sự hưởng thụ của xã hội thượng lưu
đầy tội ác, mà trong việc làm điều thiện của nhân dân. Từ đó Levin rút ra kết
luận: để chống lại điều ác, chỉ cần làm điều thiện là đủ. Và cũng trên hệ tư
tưởng tiêu cực đó mà chàng đã có ý kiến chống lại cuộc chiến tranh Xerbi, không
thừa nhận một dúm người dám tự xưng thay mặt cho tư tưởng, ý chí toàn dân tộc
để đi trả thù và sát hại một dân tộc khác.
Tolstoi được dạy dỗ về tôn giáo
trong không khí nên thơ của những buổi lễ chầu từ hồi nhỏ. Ông cho tôn giáo là
nguồn gốc chính nâng cao tinh thần, hiểu đúng đắn thế nào là thiện, ác. Trên
nền tảng nhất trí về tín ngưỡng, Levin hi vọng sẽ nhất trí với nông dân về tinh
thần.
Con người phải tin ở Chúa Trời, tin
ở điều thiện, không cần lý trí vì chàng hiểu biết được sự thật là nhờ tín
ngưỡng, chứ không phải nhờ lý trí. Cho nên những nông dân bình thường như bác
Fedor hiểu ý nghĩa cuộc sống đầy đủ hơn ai hết: tình cảm, tâm hồn được thay thế
cho lý trí, tín ngưỡng được thay thế cho tri thức. Nhà văn hạ thấp vai trò của
lý trí và hết sức đề cao chân lý vĩnh cửu của tôn giáo. Con mắt nhận xét hiện
thực nghiêm ngặt đã làm ông xa lánh Giáo hội chính thống hợp pháp cùng bộ máy
chính quyền và quân đội của nhà nước phong kiến Nga. Ông đi vào thực tiễn để tìm
chân lý nhưng lại trở về với thứ chủ nghĩa nhân đạo chung chung, duy thiện, đầy
thần bí.
Levin đứng về phía lợi ích nông dân
mà đấu tranh đến mức độ nhất định, nhưng trước sau chàng vẫn chỉ là một địa chủ
không cắt đứt với giai cấp mình. Chàng nhìn thấy tội ác bọn bóc lột nhưng lại
không muốn dùng bạo lực gạt bỏ chúng ra khỏi đời sống, mà chỉ muốn tu nhân tích
đức, hoàn thiện bản thân, làm điều lành. Chàng nhìn thấy sự giãy chết của giai
cấp quý tộc, những tội ác mới của chủ nghĩa tư bản, nỗi bần cùng khổ sở của
nông dân, nhưng cũng lại phủ nhận hết thảy những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật
của phương thức sản xuất mới và muốn bo bo kìm hãm nước Nga giữ nguyên tình
trạng sản xuất riêng lẻ, phân tán lạc hậu, quay lại chế độ gia trưởng, với hy
vọng hão huyền chỉ có nông dân mới cứu vớt được nước Nga. Lối thoát cuối cùng
của chàng là đứng ra thuyết lý về tôn giáo, lý tưởng hóa đạo Cơ đốc. Trong hoàn
cảnh nước Nga hồi đó, khi xã hội bắt đầu xuất hiện những lực lượng dân chủ và
cách mạng, các quan điểm, tư tưởng đó đã đứng về phía phản động; chúng đầu độc
quần chúng bị áp bức không kém gì những thứ kinh tế học tư sản, triết học duy
tâm và tôn giáo mê muội khác. Mâu thuẫn bên trong của Levin chính là mâu thuẫn
trong thế giới quan của Tolstoi. Sau này, ông có tiến bộ hơn nhân vật hồi đó
của mình. Quá trình sáng tạo ra nhân vật có lẽ cũng là quá trình tự tìm hiểu
của nhà văn. Đọc tiểu sử ông, ta tưởng như ông căn cứ vào cuộc đời mình để đẻ
ra nhân vật, rồi sau đó lại dựa vào nhân vật mà suy nghĩ, sống và tiến lên. Chỉ
có nhìn mọi mặt con người Levin cùng những nhân vật khác của cuốn truyện dài
này thì ta mới hiểu được thời đại và những vấn đề mà nhà văn đặt ra cho họ
trong cuộc sống. Như lời của V.I. Lenin đã nhận xét: "Tolstoi đã phản ánh
được mối căm thù chồng chất, mối hoài vọng rốt cuộc cũng đã chín muồi hướng về
một tương lai tốt đẹp hơn, cái ý muốn giải phóng mình khỏi quá khứ - và cũng
lại phản ánh cả sự chưa chín của những ước mơ, sự thiếu giáo dục chính trị, sự
thờ ơ đối với cách mạng" 3.
Với Anna Carenina, chủ nghĩa hiện
thực của Tolstoi cũng như của chung nền văn học Nga hồi đó tiến thêm một bước
đáng kể. Nó đề ra nhiệm vụ lớn cho loại truyện dài là: người viết phải khái
quát được một quãng lịch sử của đời sống xã hội và phải có thái độ vững vàng
trước cái gì là tốt, là xấu, bằng cách phản ánh mọi hiện tượng sinh hoạt. Mỗi
nhân vật ở đây đều có cá tính sâu sắc, có lối cảm nghĩ, cử chỉ, lời nói, thói
quen ưa thích, vui sướng, đau khổ riêng... Mỗi người là một cá nhân riêng lẻ
đồng thời lại là thành viên của một tổ chức gia đình, xã hội chung nhất; mỗi
người phản ánh mỗi mặt đời sống phức tạp, nhiều màu vẻ. Các nhân vật ở đây cũng
không phải là "lắp lại" hoặc "biến hình" của các nhân vật
trong những cuốn truyện trước của Tolstoi. Chúng mở rộng hàng ngũ nhân vật do
nhà văn sáng tạo và mang những bộ mặt riêng, mới mẻ, rõ nét của từng người.
Các sự việc rối loạn xảy ra trong xã
hội Nga vào những năm bước ngoặt lịch sử 1870 đã vang dội vào cốt truyện, vào
cuộc đời từng nhân vật. Số phận Anna đủ nói rõ điều đó. Cõi lòng sóng gió, thấp
thỏm lo sợ của nàng, từ đầu đến cuối, luôn linh cảm trước một thảm họa không
tránh khỏi sẽ xảy ra. Vì mục đích tả tâm trạng đó, nhà văn đưa ra một số hình
ảnh có vẻ tượng trưng, một số lời có vẻ tiên tri (ví dụ: người thợ máy tóc bù
trên đường ray, cơn bão tuyết, cây nến cháy lụi...); những cái đó góp lại nói
lên tâm tình quằn quại, hoang mang của Anna. Levin cũng dao động, bơ vơ giữa
ngã ba đường đời, còn những người khác thì không một ai yên tâm sống. Kịch tính
trong cuốn truyện luôn căng thẳng cũng do ở điểm này.
Tolstoi tự nhận định Anna Carenina
là cuốn "tiểu thuyết dài thực sự" đầu tiên. Mặc dầu nhân vật đông
đúc, sự việc phức tạp, hai nhóm Carenin - Vronxki - Anna và Levin - Kitti tạo
thành hai đường dây chính khác nhau, có vẻ riêng rẽ của cốt truyện, và các
đường dây khác càng phức tạp hơn nhưng bố cục cuốn truyện vẫn chặt chẽ, rành
mạch, cân xứng. Truyện dài nhưng không rườm rà, rất nhiều chương nhưng mỗi
chương đều ngắn gọn, cô đúc; mỗi hình tượng đều có căn cứ bên trong, không tuỳ tiện;
mỗi chi tiết đều dùng thể hiện chủ đề, mỗi phần hòa hợp theo cấu tứ thống nhất.
Kết cấu truyện không xây dựng trên quan hệ bên trong của tư tưởng chủ đề. Về
mặt này, Tolstoi là nhà văn mạnh dạn đổi mới. Ông chống lại mọi quy định cứng
nhắc trước đây, mọi thói quen cũ kỹ chỉ được phép đưa ra một cặp nhân vật trai
gái và một đường dây cốt truyện từ đầu đến cuối trong cách xây dựng truyện dài.
Cuộc sống sinh động so với công thức văn học, thực ra phong phú và phức tạp hơn
nhiều. Để phản ánh cuộc sống được rộng rãi và đầy đủ hơn, Tolstoi tìm ra cách
viết tiểu thuyết mới, với cốt truyện có nhiều cặp nhân vật, dựa vào sự chằng
chịt phức tạp của các đường dây tư tưởng, vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, để phản
ánh biện chứng mọi hiện tượng sinh hoạt và chặng đường phát triển của chúng.
Tất nhiên, ở đây nhiều cách xây dựng cốt truyện khác cũng giúp ích vào việc gắn
bó các đường dây thành một bố cục hoàn chỉnh, thống nhất: Levin quen anh trai
Anna là Oblonxki; Kitti, vợ của Levin lại là em gái Doli, vợ Oblonxki; Vronxki
từng cầu hôn Kitti; Anna cũng lại quen Kitti tại nhà chị dâu Doli; cuối cùng
Levin cũng đã gặp Vronxki và Anna, v.v... tóm lại tất cả đều dần dần quy vào
một mối. Những quen thuộc họ hàng, bè bạn đó, như những nguyên tắc kiến trúc
song song và đối nhau, là điều đáng chú ý trong cách xây dựng truyện, tỏ rõ mối
gắn bó "bên trong" khá chặt chẽ giữa các chủ đề riêng lẻ của cuốn
truyện.
Tolstoi chữa đi chữa lại tới bốn lần
chương viết về sám hối, để không còn sót lại chút dấu vết nào về sự đánh giá
chủ quan của nhà văn với nhân vật. Ông nói, trong bất cứ cuốn truyện nào ông
đều gắng để người đọc không sao biết được tác giả có đồng tình hay không với
bất cứ nhân vật nào đó; chỉ có như vậy, tác phẩm văn học mới gây được ấn tượng
khách quan sâu sắc, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Tolstoi noi theo nguyên tắc này
trong mọi cuốn truyện; chỉ trong số ít trường hợp là nhà văn viết những câu có
ý nghĩa giáo dục trực tiếp hoặc có tính khái quát rộng rãi, sau khi miêu tả sự
việc tỉ mỉ. Ông chỉ muốn kín đáo thể hiện tư tưởng bằng hình tượng thật cụ thể,
thật khách quan; tất nhiên, như thế hoàn toàn không có nghĩa ông thể hiện cuộc
sống một cách lạnh nhạt, vô tình.
Để làm nổi bật các tính cách nhân
vật có nhiều khía cạnh một cách khách quan, nhà văn thường dùng phép so sánh và
đối chiếu.
Ông không vạch thẳng thói xấu
Vronxki mà đem vị hoàng thân nước ngoài ra đối chiếu để chỉ rõ thói xấu đó. ở
nhiều chỗ khác, phép so sánh còn kín đáo hơn. Tính vui vẻ yêu đời của Kitti
khác hẳn vẻ cằn cỗi buồn chán của Varenca. Trái ngược với Levin là cả một loạt
người đủ màu vẻ: nào Oblonxki thèm hưởng lạc, rồi Pet'rixki thích bừa bãi và
bao người khác nữa, những kẻ sống trụy lạc ở thành phố, tất cả họp lại thành
cái nền trên đó nổi bật phẩm chất đạo đức của Levin với lối sống lành mạnh,
giản dị ở thôn quê.
Khi xây dựng nhân vật, ngòi bút
thành thạo Tolstoi biết chú ý tới những hình dáng bề ngoài, với nét thể xác cụ
thể, cố định và cả vẻ tinh thần trừu tượng, thoáng qua. Các chi tiết hình dáng
bề ngoài không những giúp ta hình dung từng người từng người một, không hề lẫn
lộn, mà còn thể hiện hoàn cảnh sống, tính nết, tư tưởng, tình cảm với cả chặng
đường diễn biến bên trong nhân vật. Cặp mắt màu xám và sáng long lanh, hơi u
tối dưới hàng mi dày của Anna, đôi tai "sao mà lại to đến thế kia"
của Carenin và thói quen bẻ khục ngón tay của ông, cái trán bắt đầu hói của
Vronxki... mỗi chi tiết đều gắn liền với nhân vật, cắt nghĩa tính cách nhân
vật, đồng thời có giá trị riêng thể hiện tình cảm, thái độ của người có quan hệ
với nhân vật đó. Con mắt nhận xét chăm chú và sắc sảo của nhà văn nhìn bao quát
và thấu suốt mọi sự vật, từ việc lớn mà đôi mắt bình thường không hiểu nổi đến
cái vụn vặt một người lơ đễnh thường bỏ qua; tất cả cái đó giúp nhà văn
"trình bày" tâm hồn con người với mọi vẻ sâu sắc, cụ thể và bất ngờ
nhất, bằng chất liệu nóng hổi lấy ngay từ cuộc sống thực.
Tuỳ theo cốt truyện dần dần mở ra,
nhà văn lần lượt giới thiệu cuộc đời đã qua của nhân vật, như các đoạn phim
phục hiện; ông cũng thường tả sự phản ứng của người nọ với người kia khi cọ xát
nhau.
Nhưng đặc điểm nổi bật và xuất sắc
nhất của Tolstoi trong việc xây dựng nhân vật là miêu tả tâm lý. Ông nghiên cứu
rất kỹ và nắm chắc mọi quy luật phát triển tâm lý. Một tư tưởng tình cảm của
nhân vật bất ngờ nảy ra từ ấn tượng hoặc sự việc cụ thể nào đó được nhà văn dẫn
dắt, gắn liền với kỷ niệm, ý nghĩ khác. Sợi dây chuyền liên tưởng này xe kết
với nhau, quyện lại và biến thành tư tưởng, tình cảm khác mới hơn, sâu hơn, rồi
lại trở về với xúc động, tâm tư ban đầu ở mức độ cao hơn, mạnh mẽ hơn và cứ thế
nó tiếp tục thay đổi, chuyển hoá, phát triển không ngừng, lẫn lộn hư với thực,
cảm giác với suy tưởng, hiện thực với ước vọng, quá khứ, hiện tại với tương
lai... Một tâm trạng ổn định chỉ rất tương đối, nó chưa kịp giải quyết hết thắc
mắc còn lại đã bắt đầu lo lắng tới băn khoăn mới nảy ra. Tài nghiên cứu con
người của nhà văn không chỉ bó hẹp ở chỗ nêu lên kết quả hợp lý của một chặng
đường diễn biến tâm lý, mà chính ở ngay trong từng bước trên suốt dọc đường
diễn biến đó, với những nét biểu hiện tinh vi, sâu sắc, có khi chỉ thoáng qua
mơ hồ mà không ngừng vận động phức tạp đối lập nhau và thống nhất với nhau,
theo một tốc độ rất nhanh dưới các hình thức muôn hình muôn vẻ, chằng chịt lẫn
nhau.
Trernưsevxki đã gọi chủ nghĩa hiện
thực tâm lý đó là "phép biện chứng về tâm hồn". Để phân tích đời sống
bên trong, nhà văn luôn dùng đến độc thoại nội tâm. Và ông đã dùng ngay lời nói
mang rõ nét riêng biệt của từng tính cách để viết nên những trang độc thoại nội
tâm trộn không lẫn, chúng nói lên được trọn vẹn những phản ứng và vận động bên
trong của từng trạng thái tâm lý. ở đây, ông như nhà đạo diễn giấu mình kín đáo
sau sân khấu, người xem không trông thấy nhưng vẫn cảm thấy bàn tay thành thạo,
tinh tế của người điều khiển luôn có mặt. Cho nên, với lối kể trực tiếp, cụ thể
ngay chính câu chuyện và bề ngoài có vẻ khách quan đó, nhà văn chỉ cần thông
qua những chi tiết nghệ thuật có vẻ rất phụ để chắc chắn và mạnh mẽ tỏ rõ thái
độ với nhân vật, tỏ rõ lý tưởng thẩm mỹ, đạo đức xã hội và khuynh hướng chính
trị của ông.
Nhà văn tả phong cảnh ngoài trời
cũng như đồ đạc trong nhà chính để thể hiện cảm xúc, tâm tư nhân vật được đầy
đủ, nhiều vẻ hơn. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cái biệt thự kiểu ý trước
sau vẫn vậy, nhưng tâm tình Vronxki thay đổi thì vẻ đẹp của nó cũng thay đổi
theo; trước mắt chàng, nó đột nhiên trở nên bẩn thỉu, điêu tàn. Cơn bão tuyết
trong đêm gặp gỡ giữa Anna và Vronxki trên dọc đường xe lửa cũng là cơn giông
tố đang nổi dậy trong cõi lòng vừa vui sướng vừa kinh hoàng của Anna. Nhà văn tả
đồ vật rất ngắn nhưng tả phong cảnh khá kỹ. Ông am hiểu và nhạy cảm trước sức
sống thiên nhiên với nắng mưa, cây cỏ, súc vật, tiếng động, màu sắc, mùi vị
phong phú. Mọi vẻ riêng đời sống bên ngoài đều không thoát khỏi giác quan tinh
tế và sống lại trong truyện với sức mạnh, vẻ đẹp rất mới và thực. Ông không tả
phong cảnh theo kiểu duy mỹ, vì ông cho cái đẹp của thế giới tự nhiên ở chỗ nó
có thực và nhiều vẻ, ở sức sống mạnh mẽ, bồng bột của vạn vật. Ông tả cảnh gắn
liền với người và không sợ tả mọi cảnh thực, kể cả những cảnh xấu. Ông đứng
trên miếng đất của người lao động để nhìn cảnh vật, không cần tô vẽ, làm cho
cái đẹp, cái xấu có thực thành giả. Cho nên ông không ngại tả mùi hoa cúc với
mùi phân đồng ruộng. Người lao động coi thiên nhiên là miếng đất đẻ ra mọi vui
sướng và đau khổ thực sự. Tolstoi suốt đời gắn bó với thiên nhiên, với lao
động, vì chúng mà tự hào và hạnh phúc, càng không thể nào giả dối.
Những súc vật trong truyện cũng rất
sống; chúng cũng vui buồn, sợ hãi, mừng rỡ, suy nghĩ, đồng tình với chủ. Con
chó Laxca nhìn các ông chủ đi săn như oán giận và thầm trách họ mải nói chuyện
đến nỗi bắn trượt; con bò Pava sinh con đẻ cái; con ngựa Lao xao nhận ra chủ,
đang lồng lộn bỗng dịu ngay xuống. Ta có cảm tưởng như chúng chỉ thiếu có điều
là không biết nói, nếu không chúng là người rồi. Động vật và thiên nhiên quả
giữ vai trò đáng kể trong việc phản ánh sinh hoạt, nội tâm và quan hệ của nhân
vật với chung quanh.
Văn Tolstoi kỵ nhất những chữ văn
hoa, mòn sáo, khó hiểu. Ông gắng viết thật giản dị, rõ ràng, không phải chỉ để
người cùng sống trong giới quý tộc thưởng thức, mà cho hàng chục triệu người
bình dân xem và hiểu. Ông cho những chữ thường dùng là những chữ khó dùng nhất
vì nó sáng sủa, cụ thể, hay dở hoặc sai đúng ai nấy đều phân biệt được ngay,
chứ không mơ hồ, rắc rối như những danh từ trừu tượng. Khi tả xã hội thượng
lưu, văn ông thường đượm vẻ châm biếm với cách dùng lời ăn tiếng nói diêm dúa,
kiểu cách, lai căng của họ và làm cho tầm thường đi những chữ mà họ coi là đẹp
đẽ, thiêng liêng. Để chống lại hẳn lối văn bay bướm, ông dùng lối văn nhiều khi
gồ ghề, thô mộc, nó đập rất mạnh vào trí tưởng tượng của người đọc hồi đó đã bị
hư hỏng vì thị hiếu văn chương "lãng mạn" dễ dãi. Ông thích dùng cú
pháp có sức chứng minh, thuyết phục, nên câu văn đâm trúc trắc, rườm rà; cái
ông cần chính là sức mạnh và ý nghĩa, phải như cái chuông, rung và vang trong
mỗi chữ, mỗi câu. Văn Tolstoi còn có một đòi hỏi nữa rất quan trọng là phải
mới, phải lạ, phải gây được những tác động đột ngột, vì ông cho "một nghệ
sĩ chân chính phải nhìn thế giới bằng đôi mắt mới mẻ" và "lý tưởng
chung phải được diễn đạt một cách mới mẻ và bất ngờ". Ông tìm cái đẹp giản
dị, thô mộc và mới lạ đó không phải trong sách vở hoặc trong phòng khách quý
phái mà trong lời nói rất giàu hình ảnh của nông dân. Đây không phải là chuyện
"hình thức", mà là nội dung cụ thể của những quan điểm triết học và
xã hội được thể hiện vào trong nghệ thuật.
Những đối thoại nhân vật cũng không
bao giờ chỉ là cuộc trò chuyện, trao đổi ý kiến mà thôi: nó thay thế nhiều
trang miêu tả tâm lý, đồng thời nói lên quan hệ và ảnh hưởng qua lại giữa các
tính cách, trên trình độ kịch tính khá cao.
ý nghĩa xã hội và tác dụng nhận thức
các vấn đề lớn do cuốn truyện đặt ra chỉ biểu hiện bằng đặc điểm nghệ thuật
riêng biệt như trên. Thời đại rối loạn đó được phản ánh rộng rãi và sâu sắc vào
trong Anna Carenina đầy đủ như một bộ "bách khoa toàn thư về đời sống
Nga", do tác giả đã phân tích tâm lý tinh vi khi miêu tả toàn diện con
người, với tiếng nói văn học rung cảm và bằng bố cục chắc tay.
° ° °
Anna Carenina làm dấy lên cuộc đấu
tranh chính trị và văn học khá gay gắt. Giới phê bình phản động hồi đó hòng
dùng cuốn truyện để đạt mục đích riêng bỉ ổi. Họ bóp méo cuốn truyện, cho là
Tolstoi ca ngợi xã hội quý tộc, là cuốn truyện xây dựng trên nền móng tiếp thu
"di sản truyền thống văn hoá". Họ hết lời khen những trang tả cảnh
sinh hoạt gia đình Tsécbatxki. Từ cuốn truyện, họ rút ra nhận xét vu khống là
đặc tính cố hữu của đàn bà là phục tùng. Họ chống lại những người đòi giải
phóng phụ nữ, cho những người này "bẻ queo thiện tính đàn bà", vì
"đàn bà nói chung không thích chống đối".
Những lý lẽ phản động đó hòng xoá bỏ
hoặc ít nhất hạ thấp phần phản kháng trong nhân vật Anna. Họ cho rằng nàng chỉ
là loại đàn bà sống bằng tình cảm. Họ rất sợ so đọ cuốn truyện với cuộc sống
thực tế của thời đại nên cố ý lờ đi mọi vấn đề xã hội trọng yếu hàng đầu được
nhà văn nêu lên và biến cuốn truyện thành cuốn sử đời tư cá nhân.
Mặt khác, những nhà phê bình thuộc
phe tự do lại cho là Tolstoi "ca tụng đời sống vì đời sống mà không có lý
tưởng cao siêu gì". Họ chê cuốn truyện tầm thường, không có ý nghĩa xã hội
và nội dung chính chỉ là tả tình yêu. Đây là mưu gian hòng đánh lạc hướng người
đọc. Tất nhiên, họ thừa biết cuốn truyện có đầy đủ ý nghĩa xã hội và ý nghĩa
chống đối cả quý tộc lẫn tư sản và rất căm giận nhà văn.
Nhiều nhà văn tiến bộ hoặc có lòng
tốt cũng không hiểu Tolstoi.
Những nhà phê bình thuộc phe dân tuý
chê trách ông, cho cuốn truyện là đáng ghét, là "nghệ thuật phòng
khách", là "sử thi của phong cách quý tộc kiểu mới", là
"nội dung rỗng tuếch", Turghenev cũng hết lời chê bai, cho cuốn
truyện buồn chán, sặc mùi cũ rích, mùi gái già, cả mùi chủ nghĩa Xlav lẫn chủ
nghĩa quý tộc và các thứ mùi vị khác đại loại như vậy! Đó chỉ là nhận xét nông
nổi, hẹp hòi. Necraxov thì làm thơ chế giễu vì không nhìn thấy sự vạch mặt xã
hội thượng lưu trong cuốn truyện. Xantucov Sedrin lo "phe bảo thủ đang đắc
chí" sẽ dùng cuốn truyện làm "lá cờ chính trị". Nỗi lo ngại sau
thành sự thực và các phe phái phản động quả đã lợi dụng nó "phất cờ chính
trị". Còn nhiều nhà phê bình khác cũng bóp méo hoặc chê bai cuốn truyện.
Qua Anna, họ cho "bản tính loài người là vô cùng gian ác", là
"hàng ngàn năm nay con người chưa gạt bỏ được thú tính". Họ không đả
động gì đến những nét xã hội trong tấn bi kịch cuộc đời Anna: mà chỉ bàn các
điểm kích thích sinh vật học. Họ cho Anna, Vronxki, Carenin chỉ tự mình làm tội
mình, hoàn toàn không phải lỗi ở hoàn cảnh xã hội. Họ không tin ở sức mạnh lý
trí của con người, cho không thể hiểu nổi "sự bí mật hoàn cảnh cuộc
sống" và khuyên nên đi tìm lối thoát ở tôn giáo thần bí. Nói chung những
nhà phê bình của những năm 1870 đều không đánh giá đúng tác phẩm. Đó là chưa kể
người Mỹ: họ bỏ bớt những chương viết về các vấn đề xã hội, đem in thành cuốn
tiểu thuyết "lịch sử diễm tình tay ba" rẻ tiền! Chỉ dưới ánh sáng mỹ
học Mác - Lenin, cuối cùng cuốn truyện mới được trả lại đúng chỗ đứng xứng
đáng.
Tolstoi viết: "Mục đích nghệ sĩ
không phải là giải quyết hoàn toàn đúng đắn một vấn đề đặt ra, mà chỉ bắt buộc
người đọc yêu cuộc sống dưới mọi hình thái, mà những hình thái này lại vô tận.
Nếu người ta bảo tôi cần viết cuốn tiểu thuyết chứng minh những tư tưởng xã hội
của tôi là đúng, tôi sẽ không chịu bỏ phí hai giờ để viết quyển truyện như vậy;
nhưng nếu người ta bảo cái tôi viết ra sau hai mươi năm sẽ được những người
hiện giờ còn là trẻ con đọc, họ sẽ vừa khóc vừa cười trong khi đọc, và quyển
truyện sẽ làm họ yêu mến cuộc sống thì tôi sẽ hiến tất cả cuộc đời và sức lực
trí tuệ để làm việc đó". Câu này bộc lộ rõ chỗ yếu và chỗ mạnh của nhà
nghệ sĩ kiêm nhà tư tưởng Tolstoi.
Trong Anna Carenina, ông đã nghiêm
khắc lên án lối sống ăn bám, áp bức nhân dân và có nhiều suy nghĩ sâu sắc về số
phận dân tộc Nga. Nhưng ông không đủ sức chỉ ra hướng đúng đắn giải quyết những
vấn đề to lớn đặt ra trong cuốn truyện và trong cuộc sống ở thời đại đó. Ông đã
giải phóng cho Anna khỏi cuộc sống giả dối, tù túng nhưng rồi lại đưa nàng vào
cõi chết. Bước đường tư tưởng nhân đạo của Levin cuối cùng lại chui vào chủ
nghĩa duy thiện thần bí và phản động. Đúng như V.I Lenin nhận xét: "Những
mâu thuẫn trong tư tưởng của Tolstoi là một tấm gương thực sự phản chiếu những
điều kiện mâu thuẫn trong đó đã diễn ra sự hoạt động lịch sử của nông dân trong
quá trình cuộc cách mạng của chúng ta... Mô tả thời kỳ lịch sử đó trong đời
sống ở Nga, L. Tolstoi đã biết đề ra trong các tác phẩm của mình biết bao vấn
đề to lớn, ông đã có thể đạt tới một nghệ thuật khá mạnh mẽ khiến những tác
phẩm của ông đã chiếm hàng đầu trong văn học thế giới... Trong di sản của nhà
nghệ sĩ thiên tài đó để lại, có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về
tương lai" 4.
Chúa dạy: "Việc báo oán thuộc
về ta, chính ta lại ra ân đền bù lại"
Phần
1 Chương 1
Mọi gia đình sung sướng đều giống
nhau,nhưng mỗi gia đình bất hạnh lại khổ sở theo cách riêng.
Trong gia đình Oblonxki, mọi việc
đều rối bét. Bà vợ khám phá ra việc chồng tằng tịu với cô nữ gia sư người Pháp
dạy trẻ trước đây và nói thẳng với chồng là mình không thể sống chung với ông
nữa. Sự tình kéo dài từ hai hôm nay khiến cho cả vợ chồng, con cái và kẻ ăn
người làm trong nhà đều cảm thấy khổ tâm. Tất cả đều thấy hai người chẳng còn
lý do gì để ăn ở cùng nhau nữa và mối dây ràng buộc họ bây giờ còn lỏng lẻo hơn
cả cái quan hệ giữa những người tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên đường.
Bà vợ không buồn bước ra khỏi phòng; ông chồng vắng nhà đã hai hôm; con cái tha
thẩn khắp nhà như bị bỏ rơi; chị vú nuôi người Anh cãi nhau với bà quản gia, đã
viết thư nhờ một cô bạn thân tìm cho chỗ làm khác; anh đầu bếp ra đi vào bữa ăn
tối qua; cô phụ bếp và anh xà ích thì đòi tính tiền công xá.
Ba hôm sau cuộc cãi lộn, công tước
Xtepan Arcaditr Oblonxki tức Xtiva 5 - như người ta thường gọi trong giới
thượng lưu - thức giấc vào giờ thường lệ, nghĩa là tám giờ sáng, không phải
trong phòng ngủ của vợ, mà trên chiếc đi văng bọc da ở phòng làm việc của mình.
Ông trở nghiêng cái thân hình nặng nề và phì nộn trên lò xo đi văng như muốn
ngủ lại, vòng hai tay ôm lấy gối và áp má vào; rồi bỗng nhiên ông nhỏm lên,
ngồi dậy và mở choàng mắt.
"ừ... ừ... thế nào nhỉ? Ông ta
nghĩ ngợi, cố nhớ lại giấc mơ vừa qua.
Thế nào nhỉ? à, Alabin thết tiệc ở
Darmoxtat; không, không phải Darmoxtat 6 mà là cái quái gì My Mỹ kia. Đúng rồi:
Darmoxtat ở Mỹ.
Alabin thết tiệc trên bàn thuỷ tinh
và... những bàn đó hát bài Kho vàng của tôi 7 và một khúc ca khác du dương hơn.
Có cả những bình pha lê nhỏ mà lại là đàn bà".
Cặp mắt Xtepan Arcaditr bỗng ánh lên
vui thích, và ông say sưa mơ mộng, môi nở một nụ cười. "ồ, khoái thật,
khoái ghê. Trong giấc mơ ấy, còn ối chuyện tuyệt thú, mà chẳng thể diễn đạt
bằng lời cũng như bằng ý; và khi đã thức dậy là không còn biết xác định nó ra
sao nữa". Rồi, bỗng thấy tia sáng chiếu xiên qua từ sau tấm màn cửa bằng
dạ, ông vội đặt chân xuống đất, quờ tìm đôi dép da cừu thêu kim tuyến, món quà
vợ mừng nhân dịp sinh nhật ông năm ngoái; sau đó, theo cái thói quen từ chín
năm nay, ông cứ nằm nguyên, với tay về phía vẫn treo chiếc áo ngủ. Lúc dó ông
mới sực nhớ ra tại sao và thế nào mà mình lại không nằm trong phòng vợ; nụ cười
vụt biến khỏi môi và ông cau mày.
Ông nhớ lại mọi việc đã xảy ra,
miệng lẩm bẩm: "à! Chậc! Chậc!..." Và trong trí tưởng tượng của ông,
lại diễn ra tất cả các chi tiết xung đột với vợ, cái thế bí không lối thoát và
lỗi lầm của chính ông, nó giày vò dữ dội hơn mọi điều khác.
Ông nghĩ bụng: "Không, Doli sẽ
chẳng tha thứ cho mình đâu, Doli không thể tha thứ cho mình được. Và điều ghê
gớm hơn hết là chính mình gây ra tất cả; tất cả đều do mình, vậy mà thực không
phải lỗi tại mình. Tất cả tấn bi kịch là ở đó". Ông vừa than vãn tuyệt
vọng "ối chao", vừa nhớ lại những chi tiết khổ tâm nhất về cuộc cãi
lộn.
Chính cái phút đầu tiên là phút khó
chịu nhất: vừa đi xem hát về, dáng vui vẻ và hể hả, tay cầm một trái lê to làm
quà cho vợ, ông không thấy vợ ở phòng khách; ông ngạc nhiên vì sang phòng làm
việc cũng không thấy; sau cùng, ông gặp vợ ở phòng ngủ, tay cầm lá thư đốn mạt
đã làm vỡ lở hết mọi chuyện.
Cô nàng Doli 7 suốt đời ưu tư và bận
rộn, mà ông vẫn cho chẳng có gì là sắc sảo, lúc đó đang ngồi yên không nhúc
nhích với lá thư trong tay và nhìn ông vừa kinh tởm, tuyệt vọng, vừa giận dữ.
- Cái này là cái gì? Cái gì? - bà
chìa mảnh giấy hỏi chồng.
Điều làm Xtepan Arcaditr khổ tâm hơn
cả mỗi khi nhớ lại cảnh đó - mà ông cứ nhớ lại luôn mới tệ chứ - không phải bản
thân câu chuyện mà chính là cái cung cách ông trả lời vợ. Lúc đó ông lâm vào
cái tình thế vẫn thường xảy đến với những người bỗng dưng vướng vào một chuyện
xấu xa. Ông không biết đường sửa soạn một bộ mặt hợp với hoàn cảnh sau khi tội
lỗi đã bị lộ. Đáng lẽ phải làm ra bộ tức giận, chối phắt, hay thanh minh, xin
lỗi, cùng nữa là cứ dửng dưng (cách nào cũng vẫn tốt hơn) thì ông lại tươi
cười, thản nhiên dễ dãi và lúc ấy vẻ mặt ông thật ngây ngô. Sắc diện đó là vô
tình, hoàn toàn vô tình thôi (Xtepan Arcaditr vốn thích sinh lý học nên cho đó
là "phản xạ não").
Ông không thể tha thứ cho mình về
cái cười đần độn ấy. Vừa thoáng thấy nụ cười đó, Doli giật bắn người như bị một
cơn đau giày vò thể xác. Không nén nổi cơn giận, bà tuôn ra những lời gay gắt
và bỏ chạy khỏi phòng. Từ đó, bà nhất định không nhìn mặt chồng nữa.
"Chính cái cười ngây ngô là
nguyên nhân của mọi chuyện - Xtepan Arcaditr nghĩ bụng - Nhưng biết làm thế
nào? Làm thế nào đây?", ông nhắc đi nhắc lại một cách tuyệt vọng. Và vẫn
không tìm ra câu trả lời.
--------------------------------
1 Về tiểu sử của tác giả, xin xem
lời giới thiệu cuốn Chiến tranh và Hòa bình. Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội,
1961.
2 V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ
thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.124.
3 V.I. Levin: Bàn về văn học nghệ
thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 127.
4 V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ
thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 124, 129, 135.
5 Xtiva là Xtepan gọi theo tiếng
Anh. Thời đó, giới thượng lưu thường gọi nhau bằng tên đã Anh hóa hoặc Pháp hóa
và coi đó là mỹ tục. (Tất cả những chú thích ở dưới trang đều của người dịch).
6 Một tỉnh ở Đức. Vĩ ngữ
"stad" có nghĩa là tỉnh.
7 II mio Tesoro (tiếng ý trong
nguyên bản). Những chữ in nghiêng đều bằng tiếng nước ngoài trong nguyên bản.
8 Doli là tên Daria, gọi theo tiếng
Anh.
Chương
2
Xtepan Arcaditr vốn thật thà với
mình. Ông không thể dối lòng đến mức tin rằng ông đã hối hận về hành động của
mình. Một người đàn ông băm tư tuổi, bảnh bao, đầy dục tình như ông, không thể
hối hận vì đã thôi không yêu vợ, một bà mẹ bảy con nuôi được năm và chỉ kém
mình có một tuổi. Ông chỉ tiếc đã không biết giấu vợ cho khéo hơn. Nhưng ông
cũng nhìn rõ tất cả tầm nghiêm trọng của tình hình. Ông thương Doli, thương các
con và thương cả bản thân mình nữa. Nếu đoán trước được tin đó sẽ làm vợ xúc
động đến thế, có lẽ ông đã biết che đậy sự phụ bạc khéo hơn. Tuy không bao giờ
suy nghĩ cụ thể về chuyện đó, ông vẫn láng máng thấy rằng bà vợ đã đoán biết
ông bạc tình từ lâu, nhưng đành nhắm mắt làm ngơ đấy thôi. Thậm chí ông còn cho
rằng cái người đàn bà tàn tạ, luống tuổi, hết thời xuân sắc ấy, người đàn bà
chẳng có đức tính gì nổi bật và chỉ còn là bà mẹ tốt trong gia đình, đáng lý
phải biết ăn ở cho rộng lượng hơn thì mới hợp lẽ công bằng. Thế mà sự việc lại
xảy ra khác hẳn.
"Ôi phiền quá! Phiền quá!
Xtepan Arcaditr cứ nhắc đi nhắc lại mãi mà vẫn chẳng tìm ra giải pháp. Trước
đây mọi việc đều êm thấm, hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp biết bao! Doli
hài lòng, sung sướng với lũ trẻ, mình không hề làm phiền Doli chút nào, mình để
Doli tuỳ ý trông nom nhà cửa. Kể cũng đáng tiếc là cô ta trước kia lại là cô
giáo dạy con mình, kể cũng hèn hạ tầm thường. Nhưng sao lại có cô gia sư đẹp
đến thế kia chứ! (Ông nhớ lại rõ ràng cặp mắt đen láy, tinh quái và nụ cười của
cô Rolland 1. Tuy nhiên, cả thời gian cô ta ở nhà mình, mình có dám giở trò gì
đâu. ác nhất là cô ta lại... Thật cứ như cố tình ấy! Chao! Nhưng biết làm thế
nào? Làm thế nào đây?" Chẳng có giải đáp nào khác, ngoài câu trả lời chung
cho mọi vấn đề phức tạp và nan giải: đành lần lữa cho qua ngày, đành quên đi
thôi. Không thể tìm được quên lãng trong giấc ngủ, và nếu có thì cũng phải đến
đêm; cũng không thể quay lại với điệu nhạc, lời ca của những phụ - nữ - bình -
pha - lê được nữa; âu là cứ ru mình vào giấc mộng đời cho khuây khoả.
"Rồi sau sẽ hay", Xtepan
Arcaditr nghĩ bụng. Ông đứng dậy, xỏ tay vào chiếc áo ngủ màu xám lót lụa xanh
nhạt, thắt dây lưng, và hít một hơi dài căng lồng ngực vạm vỡ, rồi lại gần cửa
sổ, đôi chân chữ bát bước đi thoăn thoắt, nhẹ nhàng, trái hẳn với tấm thân phì
nộn, kéo rèm cửa lên và lắc chuông rầm rĩ. Người hầu phòng Matvei, một lão bộc
thân tín, lập tức bước vào, tay cầm quần áo, đôi ủng và một bức điện tín. Theo
sau là anh thợ cạo với túi đồ.
- Có giấy tờ gì của toà án không? -
Xtepan Arcaditr hỏi, cầm lấy bức điện và ngồi xuống trước gương.
- ở trên bàn ấy ạ, - Matvei trả lời,
liếc nhìn chủ bằng cặp mắt dò hỏi và đầy vẻ thông cảm; - đợi một lát, - bác nói
tiếp, mỉm cười ranh mãnh.
- Lão chủ hiệu xe thuê vừa cho người
tới đấy ạ.
Xtepan Arcaditr không trả lời và chỉ
đưa mắt nhìn Matvei trong gương, cái nhìn họ trao đổi chứng tỏ họ hiểu nhau
biết chừng nào.
Xtepan như muốn hỏi: "Tại sao
bác lại nói với tôi điều đó? Bác thừa hiểu sự tình ra sao rồi còn gì?".
Matvei thọc tay vào túi áo dài chẽn,
dạng chân ra, và chẳng nói chẳng rằng đưa ánh mắt thân ái nhìn chủ, trên môi
thoáng một nụ cười. Bác nói:
- Tôi đã bảo họ chủ nhật hãy tới và
từ nay đến hôm đó, đừng làm phiền ông vô ích.
Câu nói rõ ràng được chuẩn bị từ
trước.
Xtepan Arcaditr biết Matvei nói giỡn
và muốn ông chú ý đến bác.
Ông mở bức điện tin ra đọc, mặc
nhiên chỉnh lại trong đầu những chữ sai chính tả thường thấy ở các bức điện, vẻ
mặt bỗng sáng lên:
- Matvei này, mai cô Anna Arcadievna
đến đấy, ông nói, tạm ngăn bàn tay bóng nhẫy, mũm mĩm của anh thợ cạo đương rẽ
một đường hồng hồng giữa hai chòm râu má dài loăn xoăn của ông.
- Đội ơn Chúa! - Matvei thốt lên và
câu trả lời tỏ ra bác cũng hiểu rõ như chủ tầm quan trọng của việc này: - Anna
Arcadievna, cô em gái thân yêu của Xtepan Arcaditr, có thể giúp hai vợ chồng
làm lành với nhau.
Matvei hỏi:
- Cô đến một mình hay cùng đi với
chồng kia ạ?
Xtepan Arcaditr không thể trả lời vì
anh thợ cạo đã nắm lấy môi trên ông; ông bèn giơ một ngón tay lên. Matvei gật
đầu một cái trong gương.
- Có một mình thôi ạ. Vậy có phải
sửa soạn căn buồng trên gác không?
- Báo tin đó cho Daria Alecxandrovna
biết đã, rồi bà bảo sao thì làm vậy.
- Báo cho Daria Alecxandrovna? -
Matvei hỏi lại, vẻ nghi ngại.
- Phải. Này, mang cho bà xem bức
điện; bà bảo gì phải nhớ nói lại với tôi đấy.
"Ông định thăm dò đây",
Matvei hiểu ngầm như vậy, nhưng bác chỉ nói gọn lỏn:
- Thưa ông vâng ạ.
Xtepan Arcaditr rửa mặt, chải đầu
xong và sắp mặc quần áo thì Matvei chậm rãi quay lại, đôi ủng khẽ kêu cót két,
tay vẫn cầm bức điện. Lúc đó anh thợ cạo đi rồi.
- Daria Alecxandrovna dặn tôi thưa
với ông là bà sắp đi. Bà bảo:
"Ông ấy (tức là ông đấy ạ), ông
ấy muốn làm thế nào thì làm". - Và Matvei, hai tay đút túi, đầu nghiêng
sang bên, đăm đăm nhìn chủ, chỉ có đôi mắt là nhấp nháy cười.
Xtepan Arcaditr nín lặng. Rồi một nụ
cười hiền hậu, hơi thiểu não, hiện trên khuôn mặt đẹp của ông.
- Làm thế nào bây giờ, Matvei? - ông
hất hàm nói.
- Không sao cả, ông chủ ạ, rồi sẽ ổn
thôi, - Matvei trả lời.
- Có chắc không?
- Thưa ông, chắc chứ ạ.
- Bác chắc thế thật à? Ai đó? -
Xtepan Arcaditr nghe thấy tiếng áo phụ nữ sột soạt sau cửa, liền hỏi.
- Thưa ông, tôi đấy ạ.
Một giọng rắn rỏi và dễ nghe đáp
lại; rồi khuôn mặt nghiêm nghị, rỗ hoa của bác bảo mẫu Matriona Filimonovna
hiện ra ở khung cửa.
- Có chuyện gì đấy, Matriona? -
Xtepan Arcaditr bước về phía bác ta, hỏi.
Mặc dầu Xtepan Arcaditr hoàn toàn có
lỗi với vợ và chính ông cũng biết vậy, nhưng hầu như mọi người trong nhà, kể cả
bác bảo mẫu là người thân tín nhất của Daria Alecxandrovna, vẫn bênh ông.
- Có chuyện gì vậy? - ông hỏi, giọng
rầu rĩ.
- Thưa ông, ông nên đến xin lỗi bà
lần nữa đi. Chúa sẽ phù hộ cho ông. Bà đang đau khổ, trông thương tâm lắm; còn
trong nhà thì mọi việc đều rối bời. Ông phải biết thương các em chứ. Ông hãy
đến xin lỗi bà đi. Chẳng có cách nào khác đâu! Gây đổ vỡ thì phải...
- Nhưng bà chẳng tiếp tôi đâu...
- Như vậy chẳng gì ông cũng làm hết
bổn phận. Chúa lòng lành vô cùng! Ông cầu nguyện đi, ông chủ ạ, ông hãy cầu
nguyện đi!
- Thôi được. Nào! - Xtepan Arcaditr
nói, mặt bỗng đỏ dừ. Ông quay lại bảo Matvei: "Bác giúp tôi mặc quần
áo", và ông cởi áo ngủ, dáng kiên quyết.
Matvei thổi thổi những hạt bụi vô
hình, chìa sẵn cho chủ chiếc sơ mi hồ bột và hỉ hả ra mặt, choàng áo lên cái
thân hình trau chuốt của Xtepan Arcaditr.
Mặc quần áo xong, Xtepan Arcaditr
bơm nước hoa, cài khuy tay áo, quen tay bỏ luôn vào túi chiếc ví, hộp thuốc lá,
bao diêm và chiếc đồng hồ quả quýt có dây chuyền kép đính đồ trang sức, rũ khăn
tay, rồi, cảm thấy sạch sẽ, thơm tho, thoải mái và khoan khoái thể xác, mặc dù
đang ở trong tâm trạng phiền muộn, ông đi thẳng sang phòng ăn, bước chân hơi
run rẩy, nơi món cà phê sáng và thư từ, giấy má đã chờ sẵn.
Ông đọc thư. Có một bức thư làm ông
rất khó chịu: đó là thư của một thương gia đang muốn mua khu rừng trong trang
trại của vợ ông. Nhất thiết phải bán khu rừng đó rồi; nhưng vấn đề chưa thể đặt
ra trước khi vợ chồng hòa thuận trở lại. Điều bực mình nhất là việc dàn hòa này
lại dính đến chuyện tiền nong. Ông khó chịu với ý nghĩ là trường hợp đó có thể
làm ông mất thể diện: tìm cách làm lành với vợ để bán trôi khu rừng.
Đọc xong tập thư, Xtepan Arcaditr
kéo đống giấy má để trên bàn lại, giở nhanh hai tập hồ sơ, lấy chiếc bút chì to
đánh dấu vài chỗ rồi gạt tất cả sang bên, rót cà phê uống; ông vừa điểm tâm vừa
giở tờ báo buổi sáng còn ướt mực và bắt đầu đọc.
Xtepan Arcaditr thường ngày đọc tờ
báo của phái tự do, cũng không lấy gì làm tân tiến lắm, thuộc cái khuynh hướng
mà đa số đang theo. Và mặc dầu chẳng quan tâm đặc biệt gì đến khoa học, nghệ
thuật cũng như chính trị, ông vẫn kiên quyết giữ vững quan điểm của đa số và
của tờ báo về tất cả những vấn đề đó, và chỉ thay đổi ý kiến khi đa số cũng
thay đổi, hoặc, nói đúng hơn, ông chẳng thay đổi gì hết: chính những quan điểm
tự thay đổi lúc nào không biết.
Xtepan Arcaditr không hề lựa chọn
khuynh hướng cũng như quan điểm; tự chúng tìm đến ông; ông chẳng mất công lựa
chọn gì hơn chọn mũ chọn áo: người ta ăn vận thế nào, ông làm theo như vậy.
Nhưng sống trong một xã hội mà mọi người đứng tuổi đều phải có một hoạt động
trí tuệ nào đó, việc có chính kiến đối với ông, cũng cần như đội mũ. Sở dĩ ông
ưng khuynh hướng tự do hơn khuynh hướng bảo thủ mà một số đông trong giới ông
đang theo, đó không phải vì ông thấy nó phải chăng hơn, mà bởi nó phù hợp với lối
sống của ông hơn. Phe tự do nói ở nước Nga, mọi sự đều bí bét: quả vậy, Xtepan
Arcaditr nợ đìa ra và luôn luôn túng tiền. Phe tự do nói hôn nhân là tục lệ lỗi
thời, cần phải cải cách: thực tế, cuộc sống vợ chồng chẳng đem lại hứng thú gì
lắm cho Xtepan Arcaditr, buộc ông phải dối trá, che đậy, và điều đó trái hẳn
với bản chất ông. Phe tự do nói, hay đúng hơn, ngụ ý rằng tôn giáo chỉ là một
trở lực kìm bước đám người vô học trong dân chúng: thì đấy, Xtepan Arcaditr có
bao giờ chịu đựng nổi một buổi lễ chầu, dù ngắn nhất, mà không rấm rứt ở bắp
chân; ông không tài nào hiểu được ý nghĩa của tất cả những bài thuyết giáo hãi
hùng và khoa trương về thế giới bên kia, trong khi người ta vẫn có thể vui chơi
thoả thích ở ngay cái thế giới này. Ngoài ra, Xtepan Arcaditr, vốn thích bông
đùa, thường rất khoái trá mỗi khi có dịp châm chọc những người yên phận rằng:
nếu ta hãnh diện vì dòng giống thì lẽ nào chỉ dừng lại ở thời Ruritr 2 và không
chịu công nhận ông tổ đầu tiên là... con khỉ. Cho nên, khuynh hướng tự do đã trở
thành thói quen của Xtepan Arcaditr, và ông yêu thích tờ báo của mình như điếu
xì gà sau bữa ăn trưa, nó toả một màn sương nhẹ lâng trong đầu.
Ông đọc xã luận, bài báo giải thích
là thời buổi này, thật hoài công mà đi la lối rằng chủ nghĩa cấp tiến đang đe
doạ nuốt chửng mọi yếu tố bảo thủ; rằng chính phủ sắp sửa bắt buộc phải ra tay
bóp nghẹt con mãng xà tinh cách mạng; trái lại "theo ý chúng tôi, nguy cơ
không do con mãng xà tinh cách mạng tưởng tượng gây ra, mà chính là tại các yếu
tố tồn cổ đã ngoan cố kìm hãm đà tiến bộ", v.v... Ông cũng đọc lướt bài
báo thứ hai bàn về vấn đề tài chính, trong đó người ta dẫn ra nào là Bentham 3
nào là Min 4 và xỏ ngọt Bộ Tài chính vài cú. Vốn sắc sảo minh mẫn, ông hiểu
ngay ý nghĩa của từng lời ám chỉ: xuất phát từ đâu, nhằm vào ai và được tung ra
nhân việc gì, ông đều hiểu hết và cũng như mọi lần điều đó đem lại cho ông ít
nhiều thú vị.
Nhưng bữa nay, niềm thích thú bị
giảm đi khi ông nhớ tới lời khuyên của Matriona Filimonovna và tình trạng rối
bời trong gia đình; báo còn loan tin bá tước Boxt đi Vixbadell, tin thị trường
không còn món tóc bạc, tin có người muốn bán xe ngựa nhẹ và tin một thanh niên
tìm việc làm; nhưng những tin tức đó không mang lại cho ông niềm thoả mãn bình
thản và nhạo đời như mọi lần trước.
Đọc báo xong, và uống cạn tách cà
phê thứ hai với chiếc bánh mì trắng nhỏ quệt bơ, ông đứng dậy, rũ những mẩu
bánh vụn vãi trên áo gi lê và ưỡn bộ ngực nở nang, mỉm cười khoan khoái, không
phải vì ông thấy tâm hồn có gì đặc biệt thanh thản... mà là do thức ăn đã tiêu
hóa tốt.
Nụ cười rạng rỡ làm ông sực nhớ lại
tất cả, và ông đâm ra tư lự.
Có tiếng hai đứa trẻ đằng sau cửa
(Xtepan Arcaditr nhận ra tiếng Grisa, con trai út, và Tania, con gái lớn của
ông). Chúng vừa đánh rơi một vật gì.
- Chị đã bảo em đừng có để hành
khách lên mái, - con bé la lên bằng tiếng Anh. - Bây giờ thì phải nhặt lên nào!
Xtepan Arcaditr nghĩ bụng: "Nhà
cửa lung tung, trẻ con bị bỏ mặc chẳng ai trông nom". Và ông lại gần cửa,
lên tiếng gọi hai con. Chúng bỏ chiếc hộp dùng làm tàu hoả và chạy lại với bố.
Tania, con gái cưng của Xtepan
Arcaditr, mạnh dạn bước vào, quàng tay ôm lấy cổ bố vừa đánh đu vừa cười như
mọi lần, khoan khoái hít hít mùi nước hoa quen thuộc toả ra từ hai chòm râu má
của bố. Sau khi hôn bộ mặt bố đỏ bự vì phải cúi xuống và ngời ngợi trìu mến,
đứa bé buông tay ra định chạy, nhưng ông bố giữ con lại.
- Mẹ đang làm gì? - ông vừa hỏi vừa
vuốt ve cái cổ mảnh dẻ của con gái. Rồi quay sang mỉm cười với thằng con trai
út: Chào chú!
Ông không thấy yêu con trai bằng con
gái và luôn luôn gắng không để lộ điều đó; nhưng thằng bé thừa biết và không
buồn đáp lại cái cười gượng của bố.
- Mẹ ấy à? Mẹ dậy rồi ạ, - con bé
trả lời.
Xtepan Arcaditr buông một tiếng thở
dài. Ông nghĩ: "Thế ra, cả đêm nàng không ngủ".
- Mẹ có vui không?
Con bé thừa biết bố mẹ đã cãi nhau,
mẹ nó không thể vui được, bố hẳn phải hiểu rõ, nhưng định đóng kịch nên vờ hỏi
giỡn như vậy. Nó đỏ mặt thay cho bố. Xtepan Arcaditr chợt hiểu ngay và cũng đỏ
mặt.
- Con chả biết, - nó nói. - Mẹ bảo
chúng con không phải học nữa mà đi với cô Hal đến nhà bà.
- Vậy thì đi đi thôi, Tania bé bỏng
của ba. à, khoan đã - ông giữ con lại lần nữa, vuốt ve bàn tay nhỏ xíu mềm mại
của nó...
Ông cầm hộp kẹo để trên lò sưởi từ
hôm qua, chọn lấy hai cái con bé thích nhất: một kẹo sôcôla, một kẹo mứt hoa
quả và đưa cho con.
Con bé giơ chiếc kẹo sôcôla và hỏi:
- Cái này cho Grisa phải không ba?
- ừ, ừ.
Và vuốt ve lần cuối chiếc vai nhỏ
nhắn của con gái xong, ông hôn vào cổ, vào chân tóc rồi cho nó đi ra.
- Xe đánh ra ngoài rồi đấy ạ, -
Matvei vào báo và nói tiếp: - có một bà đến kêu việc.
- Bà ta đến lâu chưa? - Xtepan
Arcaditr hỏi.
- Độ nửa giờ rồi.
- Đã bao lần tôi dặn bác phải báo
ngay kia mà.
- Thì tôi cũng phải để ông dùng xong
cà phê đã chứ, - Matvei nói, giọng lủng bủng và thân mật khiến ông không còn
bụng nào mà giận được.
- Thôi cho người ta vào nhanh lên, -
Oblonxki cau mày nói.
Người đó là vợ viên đại uý tham mưu
Klinin, đến nhờ vả một việc không thể giải quyết được và phi lý nữa; nhưng
Xtepan Arcaditr, theo thói quen, vẫn mời bà ta ngồi và chăm chú nghe từ đầu đến
cuối không hề ngắt lời, chỉ vẽ cụ thể nên xử sự thế nào, nên đến cầu cạnh ai,
và viết hẳn một lá thư bằng lối chữ khoáng đạt, đẹp và rõ ràng của ông, giới
thiệu đến người có thể giúp đỡ bà ta được. Sau khi đưa tiễn vợ viên đại uý,
Xtepan Arcaditr bèn cầm mũ và dừng lại tự hỏi xem có quên gì không. Ông chỉ
quên mỗi một điều mà ông ước ao quên đi được là... vợ ông.
"à, phải!", ông cúi đầu và
bộ mặt đẹp bỗng đượm buồn. Ông tự hỏi:
"Ta nên đến gặp, hay không nên
đến?" Một tiếng nói từ trong lòng bảo ông có đến gặp cũng vô ích, rút cục
chỉ đi đến chỗ giả dối thôi, không thể chắp nối lại tình nghĩa vợ chồng nữa
rồi, bởi vì không ai có thể trả lại cho Doli cái xuân sắc quyến rũ thuở xưa,
cũng như không thể biến ông thành lão già bất lực được. Làm thế chỉ đưa đến giả
tạo và dối trá: mà giả tạo và dối trá thì trái hẳn với bản chất ông.
"Tuy nhiên trước sau, vẫn phải
một lần, không thể cứ thế này mãi được!", ông tự bảo, gắng động viên mình
mạnh hơn. Ông thẳng người lên, lấy điếu thuốc lá, châm lửa hút, kéo hai hơi,
rồi vứt điếu thuốc vào chiếc vỏ xà cừ dùng làm gạt tàn, đi nhanh qua phòng
khách và mở cửa phòng vợ.
--------------------------------
1 Mile Rolland (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
2 Tù trưởng của bộ lạc Varege ở bán
đảo Xcandinavi. Hồi gần cuối thế kỷ thứ IX, đột nhập nước Nga, chinh phục các
bộ lạc giữa Phần Lan và Xlav lập nên đế chế Nga.
3 Jeremie Bentham (1748-1832) nhà
triết học và pháp luật học Anh theo chủ nghĩa thực dụng.
4 James Mill (1773-1836) nhà triết
học Anh, người kế tục Bentham.
Chương
3
Daria Alecxandrovna, mình khoác áo
choàng, mái tóc xưa kia đẹp và dày nay đã lưa thưa, tết bím vắt ra sau gáy,
đang đứng trước tủ quần áo mở toang và lục lọi lựa chọn; xung quanh bề bộn
những đồ dùng. Má bà hóp lại và khuôn mặt gầy càng làm nổi bật cặp mắt to sợ
sệt. Nghe thấy tiếng chồng, bà dừng tay và nhìn ra cửa, cố làm ra vẻ nghiêm
khắc và khinh bỉ nhưng vô hiệu. Bà cảm thấy sợ chồng, sợ cuộc gặp gỡ này. Bà
đang thử làm cái điều bà đã thử hàng chục lần trong ba hôm nay là thu xếp quần
áo của các con và của mình để gửi về nhà mẹ đẻ. Cả lần này nữa, bà cũng không
thể quyết định dứt khoát; nhưng cũng như lần trước, bà lại tự nhủ không thể cứ
thế này mãi, thể nào mình cũng phải làm một cái gì: trừng phạt anh ta, làm anh
ta phải xấu hổ, trả thù về nỗi đau đớn anh ta đã gây ra cho mình, dù chỉ phần
nào thôi. Bà cứ nhắc đi nhắc lại trong bụng là mình sẽ bỏ chồng, nhưng lại cảm
thấy không thể được; không thể được vì bà không thể từ bỏ thói quen coi anh ta
là chồng và yêu thương anh ta.
Hơn nữa, bà hiểu rằng nếu như ở đây,
trong nhà mình, bà nuôi năm đứa con cũng đã thấy vất vả, thì ở chốn kia, nơi bà
định đến với chúng, hẳn còn cực hơn nữa. Trong ba ngày hôm nay, đứa bé nhất đã
ốm vì bị cho ăn canh thiu, còn ba đứa kia hôm qua suýt phải nhịn ăn chiều. Bà
cảm thấy không thể bỏ đi được; nhưng bà cứ tự dối mình và vẫn tiếp tục nhặt
nhạnh quần áo và giả bộ như sắp bỏ đi.
Thoáng thấy chồng, bà thọc hai tay
vào một ngăn tủ như đang tìm vật gì đó và mãi đến khi chồng đã tới sát bên
cạnh, bà mới thèm ngoảnh lại nhìn ông ta một cái. Nhưng mặc dầu muốn tỏ ra
nghiêm nghị và kiên quyết, mặt bà chỉ lộ vẻ bối rối và đau đớn.
- Doli! - Oblonxki nói, giọng dịu
dàng và rụt rè.
Ông ta rụt đầu lại, cố nặn ra một bộ
mặt qụy lụy và thiểu não, song người ông lại roi rói tươi tắn và khỏe mạnh.
Doli ướm nhìn nhanh người đàn ông ngời ngợi vẻ tươi tắn và khỏe mạnh đó.
"Phải, anh ta đang sung sướng và mãn nguyện, bà nghĩ bụng... còn như mình
đây! Cả đến cái tính hồn hậu của anh ta mà mọi người đều quý mến và ca tụng,
mình cũng thấy ghê tởm: mình căm ghét lòng tốt của anh ta!" - Môi bà bặm
lại và bộ mặt tái nhợt, tức tối, rúm ró.
- Ông muốn gì? - bà hỏi nhanh, giọng
khàn khàn khác thường.
- Doli! - ông nhắc lại, giọng run
run. - Hôm nay, Anna đến.
- Thế thì can gì đến tôi? Tôi không
thể tiếp cô ấy được! - bà nói to.
- Dù sao cũng nên tiếp, Doli...
- Ông đi ra đi, ra đi! - Doli hét
lên, không nhìn chồng, dường như tiếng kêu bật ra từ một nỗi đau thể xác.
Xtepan Arcaditr hồi nãy có thể bình
tĩnh khi nghĩ đến vợ, hy vọng mọi sự rồi sẽ "ổn" theo cách nói của
Matvei, ông có thể điềm nhiên đọc báo và uống cà phê; nhưng khi trông thấy bộ
mặt đầy vẻ tiều tụy và đau khổ, khi nghe thấy giọng nói nhẫn nhục và tuyệt
vọng, ông đâm nghẹn ngào, cổ họng se lại và rơm rớm nước mắt.
- Lạy Chúa! Tôi đã làm gì nên tội,
Doli! Nhân danh Chúa!... - Ông không nói tiếp được nữa; một tiếng nấc nghẹn lại
trong cổ.
Bà đóng sập tủ thật mạnh và nhìn
chồng.
- Doli, tôi biết nói gì đây?... Chỉ
một điều thôi: mình hãy tha thứ cho tôi... Mình nghĩ lại xem, chín năm trời ăn
ở với nhau, lẽ nào không thể chuộc lại một phút, một phút...
Doli đưa mắt nhìn xuống và chờ đợi
điều chồng sắp nói, dường như bà đang van xin chồng giải mối nghi ngờ cho mình
bằng cách này hay cách khác.
- Một phút mê muội... - Oblonxki nói
nốt câu và định tiếp tục, nhưng vừa nghe thấy câu đó, môi Doli bỗng mím lại như
bị một cơn đau thể xác hành hạ và những bắp thịt ở má phải bà lại co rúm lại.
- Ông ra đi, ông ra khỏi đây đi! -
bà rít lên the thé. - Đừng có nhắc lại với tôi những chuyện mê muội và đốn mạt
của ông nữa.
Bà định ra khỏi phòng nhưng bỗng lảo
đảo và phải níu vào thành chiếc ghế tựa. Mặt Oblonxki đỏ bừng, môi phồng lên,
mắt đẫm lệ.
- Doli! - Lần này, ông ta vừa nói
vừa nức nở. - Vì lòng yêu kính Chúa, mình hãy nghĩ đến các con, chúng nó, chúng
nó vô tội! Chính tôi là kẻ gây nên tội, mình hãy trừng phạt tôi, mình hãy bảo
tôi phải chuộc lỗi như thế nào. Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì tôi có thể làm
được. Tôi đã gây nên tội, tôi không còn biết tìm chữ gì để nói với mình rằng
tội tôi nặng như thế nào. Nhưng xin mình hãy tha thứ cho tôi, Doli!
Bà ngồi xuống. Oblonxki lắng nghe
nhịp thở nặng nề, hổn hển của vợ và thấy thương vợ vô cùng. Nhiều lần bà định
nói nhưng không thốt nên lời. Ông vẫn chờ đợi.
- Anh nhớ đến các con là để nô đùa
với chúng, còn tôi đây, tôi lo cho chúng và tôi biết rằng bây giờ đời chúng thế
là bỏ đi, - bà nói. Rõ ràng đây là một trong những câu bà thầm nhắc đi nhắc lại
từ ba hôm nay.
Bà đã gọi chồng bằng:
"anh", Oblonxki đưa mắt nhìn vợ tỏ vẻ biết ơn và định cầm lấy tay bà,
nhưng bà ghê tởm né ra.
- Tôi nghĩ đến các con và tôi sẽ làm
mọi việc trên đời để cứu chúng; nhưng chính bản thân tôi cũng không biết làm
thế nào là hợp lẽ hơn:
để chúng xa rời hẳn bố hay ở lại với
một người trụy lạc... phải, một người trụy lạc... Nào, ông hãy nói cho tôi nghe
xem là sau... cái chuyện vừa xảy ra, chúng ta còn có thể chung sống với nhau
được không? Có thể được không? Ông hãy nói tôi nghe, có thể được không?
- bà cất cao giọng nhắc lại, - khi
mà chồng tôi, người cha của các con tôi lại đi tằng tịu với con bé dạy trẻ.
- Nhưng làm thế nào? Làm thế nào
đây? - Oblonxki nói với giọng rầu rĩ, chính ông cũng không hiểu mình nói gì và
đầu mỗi lúc một cúi gằm xuống.
- Đối với tôi, ông là một vật gớm
ghiếc, tởm lợm! - bà nổi nóng hét lên. - Nước mắt ông chỉ là nước lã! Ông chẳng
bao giờ yêu gì tôi, ông là người không có tim, chứ cao quý cái nỗi gì! Ông làm
tôi phát tởm, đối với tôi, ông chỉ là người dưng nước lã, phải, chỉ là người
dưng nước lã mà thôi! - Bà chua xót thốt lên cái tiếng người dưng nước lã, cái
tiếng kinh khủng biết bao đối với bà.
Oblonxki nhìn vợ, vẻ hằn học trên
mặt bà khiến ông sợ hãi và sửng sốt. Ông không hiểu chính việc ông tỏ ra thương
hại vợ đã làm bà tức giận. Doli thấy rõ chồng chỉ thương hại chứ không hề yêu mình.
"Phải, cô ta căm ghét mình. Cô ta sẽ không tha thứ cho mình đâu",
Oblonxki thầm nghĩ.
- Thật đáng sợ, đáng sợ! - ông nói.
Giữa lúc ấy ở phòng bên, một đứa
nhỏ, hẳn vừa bị ngã, khóc oà lên.
Daria Alecxandrovna lắng tai nghe và
nét mặt đột nhiên dịu đi.
Bà định thần lại một lúc, như do dự,
tự hỏi xem mình đang ở đâu, rồi đứng phắt dậy và đi ra cửa.
"Tuy nhiên nàng vẫn yêu con
mình, Oblonxki nghĩ bụng, nhận thấy nét mặt vợ biến đổi khi nghe tiếng đứa bé
khóc... con của tôi; vậy thì làm sao nàng lại đang tâm ghét bỏ mình được?"
- Doli, cho tôi nói câu nữa thôi, - ông vừa nói vừa chạy theo vợ.
- Nếu ông đi theo tôi, tôi sẽ gọi
bọn người làm, gọi bọn trẻ đến! Cho tất cả chúng nó biết ông là đồ thô bỉ! Tôi
đi khỏi đây bây giờ cho ông ở lại với nhân tình của ông.
Bà bước ra, đóng sập cửa lại.
Xtepan Arcaditr thở dài, thấm mồ hôi
trên mặt và lặng lẽ bước ra cửa.
"Matvei bảo mọi việc rồi sẽ ổn,
nhưng ổn là ổn thế nào chứ? Mình thấy chả chắc gì. Ôi thật là tai hại! Mà sao
cô ta lại ăn nói thô tục đến thế! Oblonxki nghĩ thầm, nhớ lại những lời vợ tru
tréo, những tiếng "thô bỉ" và "nhân tình", khéo mà bọn gái
hầu phòng nghe thấy mất thôi! Thật là thô tục ghê gớm!" Xtepan Arcaditr
đứng lại một mình trong giây lát, lau nước mắt, thở dài và dướn thẳng người, đi
ra khỏi phòng.
Hôm đó là thứ sáu; trong phòng ăn,
bác thợ đồng hồ người Đức đang lên dây chiếc đồng hồ quả lắc. Xtepan Arcaditr
sực nhớ tới câu ông nói bỡn con người rất đúng giờ giấc này: "Anh chàng
người Đức này đã được lên dây cót đời mình để làm nghề lên dây cót đồng
hồ" và ông mỉm cười. Xtepan Arcaditr vốn thích những chữ ý nhị. "Có
thể là chuyện đó sẽ "ổn" thực; cái từ ấy hay đấy, ta sẽ dùng lại
nó".
- Matvei! - Ông gọi, - bác với Maria
hãy sửa soạn mọi thứ ở phòng khách cho cô Anna Arcadievna nhé, - ông nói với
bác hầu phòng vừa xuất hiện.
- Thưa ông, vâng ạ.
Xtepan Arcaditr mặc áo choàng lông
và bước ra thềm cửa.
- Ông không ăn chiều ở nhà ạ? -
Matvei vừa tiễn chủ vừa hỏi.
- Còn tuỳ xem. Này, tiền chi các
khoản đây, - Oblonxki nói, rút trong ví ra mười rúp. - Có đủ không?
- Đủ hay không, thì cũng phải bằng
lòng vậy thôi, - Matvei nói, đóng cửa xe và bước lên bậc thềm.
Trong khi ấy, Daria Alecxandrovna dỗ
con nín xong, nghe thấy tiếng bánh xe ngựa lăn, biết chồng đã đi rồi và quay về
buồng mình.
Đó là nơi ẩn náu duy nhất: cứ động
ra khỏi đấy, là những lo lắng về chuyện nhà cửa lại bủa vây lấy bà. Ngay cả vừa
nãy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bà sang buồng lũ trẻ, chị vú nuôi người
Anh và bác Matriona Filimonovna cũng đã hỏi bà về bao việc không thể trì hoãn
được, và chỉ có bà mới trả lời nổi: mặc quần áo gì cho trẻ con để dẫn đi chơi?
Cho chúng uống sữa có được không? Liệu có phải tìm anh bếp khác không?
- Trời! Để tôi yên! - bà bảo họ, và
trở về phòng ngủ, bà lại ngồi vào chỗ cũ lúc nói chuyện với chồng; hai bàn tay
ngón gầy nhẳng, nhẫn đeo đã lỏng tuột, ép chặt vào nhau, bà ôn lại từ đầu đến
cuối cuộc nói chuyện giữa hai người hồi nãy.
Chàng đi rồi! Nhưng chàng đã cắt đứt
với con kia ra sao? Liệu chàng còn tìm gặp nó nữa chăng? Tại sao mình lại không
hỏi chàng điều đó nhỉ? Không, không, hai chúng mình không thể nào cùng chung
sống với nhau được nữa. Dù có ở cùng nhà, mình và anh ta sẽ vẫn là người dưng
nước lã với nhau. Mãi mãi! Người dưng nước lã! Bà cứ một mực nhay đi nhay lại
cái tiếng phũ phàng đó. Tuy nhiên trước kia, ta yêu chàng biết mấy, lạy Chúa,
trước kia ta yêu chàng nhường nào!... Xưa ta yêu chàng nhường nào! Và bây giờ,
phải chăng ta không yêu chàng? Hay có khi ta còn yêu chàng hơn trước nữa cũng
nên? Điều đáng sợ nhất là...", bà bắt đầu ngẫm nghĩ, nhưng không có thì
giờ nghĩ nốt vì Matriona Filimonovna đã ló đầu qua khung cửa.
- Xin bà cho tìm em trai tôi vậy, -
Matriona nói, - ít ra nó cũng có thể nấu bữa chiều hầu bà, kẻo lại giống như
hôm qua và các em sẽ phải nhịn ăn mãi đến tận sáu giờ mất thôi.
- Được, tôi sẽ sai làm ngay bây giờ.
Có người đi lấy sữa tươi chưa?
Thế là Daria Alecxandrovna lại lao
đầu vào những lo lắng thường ngày và dìm nỗi phiền muộn vào đó trong chốc lát.
--------------------------------
1 Đơn vị trọng lượng của Nga bằng
16,38 kg.
2 Coterie (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
3 Tên gọi theo tiếng Anh của
Ecaterina.
Chương
4
Xtepan Arcaditr trước đây học khá vì
ông vốn thông minh; nhưng tính lười nhác và nông nổi khiến ông tốt nghiệp trong
số những người đội sổ. Tuy nhiên, mặc dầu sống phóng túng, thứ bậc kém và trẻ
tuổi, Oblonxki vẫn giữ một chức vị kha khá và lương nhiều: ông là chánh án một
toà án ở Moxcva. Oblonxki có được chức vụ đó là nhờ ông chồng cô em Anna tức
Alecxei Alecxadrovitr Carenin, một trong những quan chức quan trọng nhất của Bộ
trực tiếp chỉ đạo Toà án đó; nhưng ví bằng không có Carenin, thì hàng trăm
người khác, anh chị em họ, bà con, chú bác cũng có thể kiếm cho ông cái địa vị
đó hoặc một địa vị khác tương tự, với số lương sáu nghìn rúp cần thiết cho ông
sinh sống, vì mặc dầu có cái gia sản của vợ, ông làm ăn vẫn cứ lẹt đẹt.
Kể có tới nửa Moxcva và Peterburg là
chỗ thân thuộc và bè bạn của Xtepan Arcaditr. Ông vốn sinh trong giới những
người có quyền lực trên thế gian này. Một phần ba các chính khách của thế hệ
trước là bạn bè của ông thân sinh ra Oblonxki và biết ông từ hồi còn ẵm ngửa;
cái phần ba thứ hai vào loại cậu cậu tớ tớ với ông và quan hệ của ông đối với
cái phần ba thứ ba cũng rất tốt; những người phân phối của cải trên đời, dưới
hình thức việc làm, trang trại, nhượng địa, v.v... tất cả đều là bạn bè của ông
và chả lẽ lại bỏ rơi người thân. Cho nên Oblonxki chẳng phải chật vật gì cũng
vẫn kiếm được một chỗ làm nhiều bổng lộc; ông chỉ việc đừng có khước từ cái gì,
đừng ganh tị mà cũng đừng gây sự với ai, đừng tỏ ra hay động lòng, mà điều này
lại chính là cái xu hướng hồn hậu bẩm sinh của ông. Hẳn ông sẽ coi là chuyện kỳ
khôi nếu người ta từ chối không cho ông cái địa vị và số lương ông đang cần, vả
chăng ông có yêu cầu điều gì khác thường đâu, chỉ đơn giản là cái mà những
người vào lứa tuổi ông đều có thể đạt được, và ông hoàn toàn có khả năng làm
tròn loại công việc đó như ai khác.
Tất cả những người quen biết Xtepan
Arcaditr mến ông không phải chỉ vì tính nết tốt, sự hoạt bát và lòng trung thực
hiển nhiên của ông. Cái bề ngoài quyến rũ, cặp mắt sáng long lanh, đôi lông mày
và mớ tóc đen nhánh, nước da tươi tắn của ông có sức hấp dẫn thể chất với tất
cả những ai gặp ông, khiến họ thấy khoái hoạt hẳn lên. "A, Xtiva!
Oblonxki! Anh ta kia kìa!", họ reo lên và hầu như bao giờ cũng nở một nụ
cười rạng rỡ mỗi khi trông thấy ông. Và cho dù cuộc trò chuyện chẳng mang lại
điều gì đặc biệt thích thú, người ta vẫn không kém hoan hỉ khi gặp lại ông ngày
hôm sau và hôm sau nữa.
Giữ địa vị chánh án trong một toà án
ở Moxcva từ hai năm nay, Xtepan Arcaditr đã chiếm được lòng quý mến và vì nể
của các bạn đồng sự, cấp dưới và cấp trên, của mọi người có quan hệ công việc
với ông. Những đức tính đã đem lại cho ông cái uy tín rộng khắp ấy là:
thứ nhất, thái độ khoan dung rất mực
đối với mọi người, dựa trên ý thức về những khuyết điểm của bản thân; thứ hai,
một đầu óc tự do tuyệt đối, không phải thứ chủ nghĩa tự do người ta thường
huyênh hoang với ông trên báo chí, mà là thứ chủ nghĩa tự do sẵn có từ trong
máu, nó giúp ông đối xử với mọi người nhất loại như nhau không phân biệt địa vị
và hoàn cảnh; thứ ba, và đây là điểm quan trọng nhất, thái độ hoàn toàn dửng
dưng với nghề nghiệp, nó giữ cho ông khỏi say mê hoặc phạm điều vụng dại.
Đến toà án, Xtepan Arcaditr đi về
phòng làm việc, theo sau là gã lính hầu khúm núm mang cặp hồ sơ; ở đó, ông mặc
quần áo quan toà rồi bước vào phòng nghị án. Những vị bồi thẩm và lục sự đứng
dậy hết và vui vẻ, kính cẩn chào. Như thường lệ, Xtepan Arcaditr bước nhanh đến
chỗ mình, bắt tay các thẩm phán và ngồi xuống. Ông nói đùa, trò chuyện với họ
trong giới hạn nghiêm ngặt của thủ tục và khai mạc phiên họp. Không ai duy trì
đúng mức hơn ông cái chừng mực giữa sự phóng túng, giản dị với giọng trịnh
trọng cần thiết phải giữ để thừa hành nghề nghiệp một cách thoải mái. Người thư
ký mang giấy má đến, vui vẻ và kính cẩn như tất cả những ai làm dưới quyền
Xtepan Arcaditr, và nói bằng cái giọng thân mật, phóng túng mà Oblonxki đã khơi
mào:
- Cuối cùng, toà án tỉnh Penđa đã
cung cấp tình hình cho chúng ta. Đây, xin trình ngài những tài liệu ấy...
- A! Ông đã có tình hình rồi đấy ư?
- Xtepan Arcaditr nói, luồn ngón tay vào giữa những tờ giấy. - Vậy thì, thưa
quý vị...
Phiên họp bắt đầu.
"Nếu họ biết, - Oblonxki nghĩ
thầm, đầu nghiêng nghiêng trịnh trọng trong khi nghe đọc bản tường trình, - nếu
họ biết trước đây nửa tiếng đồng hồ, ông chánh án của họ đã mang bộ mặt con nít
phạm lỗi như thế nào!". Và đôi mắt ông cười. Buổi họp phải tiếp tục luôn
một mạch đến tận hai giờ; đến hai giờ, sẽ tạm nghỉ họp để ăn trưa.
Khoảng gần hai giờ, cánh cửa kính
cao của phòng thường mở toang và một người bước vào. Tất cả các vị thẩm phán,
ngồi dưới chân dung đức vua, sau tấm gương của công lý, đều quay nhìn phía cửa
ra vào, khoái chí vì cơ hội giải trí đó; nhưng người mõ toà đã tống ngay kẻ vừa
đột nhập kia ra và đóng cửa lại.
Khi bản tường trình được đọc xong,
Xtepan Arcaditr vươn vai, và theo cái chủ nghĩa tự do đương thời, hút thuốc lá
ngay giữa phòng nghị án trước khi trở về phòng làm việc. Hai ông bạn đồng sự,
vị lão thành Nikitin và nhà quý tộc của nghị viện Grinevitr, cùng ra với ông.
- Sau bữa ăn, chúng ta còn đủ thì
giờ làm nốt, - Xtepan Arcaditr nói.
- Nhất định rồi! - Nikitin trả lời.
- Thằng cha Fomill ấy ắt hẳn là một
tên lưu manh khét tiếng. - Grinevitr nói về một trong những nhân vật có dính
líu đến vụ án họ đang thẩm xét.
Xtepan Arcaditr cau mày, có ý muốn
để mọi người ngầm hiểu là không nên phát biểu một lời phán xét trước như thế và
không trả lời gì.
- Lúc nãy ai vừa vào đấy? - ông hỏi
người mõ toà.
- Bẩm quan lớn, có một người không
được phép mà vẫn cứ lén vào, lúc chúng tôi vừa quay lưng đi. Hắn hỏi quan lớn.
Chúng tôi đã bảo hắn phải chờ cho đến khi bãi toà.
- Vậy hắn đâu?
- Tôi chắc hẳn ra ngoài phòng chờ,
hắn vừa đi bách bộ ở đây. Hắn kia rồi, - người mõ toà vừa nói vừa chỉ một người
đàn ông vạm vỡ, vai rộng, râu quăn, đang chạy phăng phăng lên chiếc cầu thang
bằng đá mòn nhẵn, chiếc mũ da cừu vẫn đội nguyên trên đầu. Một viên chức toà án
đang đi xuống, dáng giảo hoạt, tay cắp cặp, nhìn đôi chân của người trai trẻ ra
vẻ bất bình và đưa mắt dò hỏi Oblonxki.
Xtepan Arcaditr dừng lại ở bậc thang
thứ nhất. Trên cổ áo thêu của bộ đồng phục, nét mặt hớn hở của ông sáng ngời
lên khi nhận ra người vừa tới.
- Chính hắn! Levin đây rồi! - ông
nói, vừa mỉm cười thân ái vừa giễu cợt, vừa nhìn Levin đang bước tới. - Cậu
không sợ phải đến tìm mình trong cái hang hùm này ư? - Xtepan Arcaditr nói,
không chỉ bắt tay mà còn ôm hôn Levin. - Cậu đến đây đã lâu chưa?
- Mình vừa mới tới và mình muốn gặp
cậu quá, Levin trả lời, nhìn quanh có vẻ rụt rè, vừa bực dọc vừa lo ngại.
- Về phòng làm việc của mình đi, -
Xtepan Arcaditr nói, vốn biết cái tính rụt rè vừa tự phụ vừa đa nghi của bạn;
và ông nắm lấy cánh tay Levin kéo đi như kiểu dẫn dắt chàng qua những bước hiểm
nghèo.
Xtepan Arcaditr mình mình cậu cậu
với hầu hết những người quen: từ ông già sáu mươi đến chàng trai hai mươi, từ
đào kép đến bộ trưởng, từ thương gia đến tướng lĩnh... thành thử đa số những
người ông thường mình mình cậu cậu là thuộc hai đầu bậc thang xã hội và hẳn họ
sẽ rất kinh ngạc nếu được biết nhờ Oblonxki mà họ có cái gì tương đồng với
nhau. Ông xưng hô mình mình cậu cậu với tất cả những ai cùng ông uống rượu sâm
banh, mà ông thì cạn cốc sâm banh với khắp thiên hạ; cho nên, trước mặt những
người dưới quyền, khi gặp một trong những người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu
- ông thường gọi đùa một số lớn bạn bè như thế - với sự tế nhị sẵn có, ông luôn
biết tránh cho cấp dưới khỏi có cảm giác khó chịu. Levin không phải là một
người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu, nhưng tự nhiên Oblonxki cảm thấy Levin
cho rằng có lẽ ông không nên phô trương sự thân mật giữa hai người trước mặt
cấp dưới, vì vậy ông vội vàng đưa Levin về phòng làm việc.
Levin gần trạc tuổi với Oblonxki và
sở dĩ chàng mình mình cậu cậu với ông, đó không phải chỉ đơn thuần vì họ đã
cùng uống sâm banh với nhau. Họ chơi với nhau từ hồi nhỏ. Mặc dầu khác biệt về
tính tình và sở thích, họ yêu thương nhau như hai người bạn gắn bó từ lúc ấu
thơ thường yêu nhau. Nhưng, như thường xảy ra giữa những người đã chọn những
lĩnh vực hoạt động khác nhau, tuy về lý lẽ người nọ vẫn tán thành hoạt động của
người kia, song thâm tâm lại miệt thị nó. Người nào cũng nghĩ cuộc đời mình
đang sống mới là cuộc đời chân chính duy nhất còn cuộc đời bạn mình đang sống
chỉ là... ảo giác. Oblonxki không thể kìm được nụ cười châm biếm nhẹ nhàng khi
trông thấy Levin. Biết bao lần ông thấy Levin, từ nông thôn ra, nơi chàng đang
làm "một việc gì" (Xtepan Arcaditr không biết đích xác đó là việc gì
và tuyệt nhiên không quan tâm đến chuyện ấy). Levin đến Moxcva bao giờ cũng
nháo nhác, vội vã, hơi rụt rè và bực dọc về tính rụt rè đó, nhiều khi mang theo
những quan điểm hoàn toàn mới và bất ngờ về mọi sự. Xtepan Arcaditr thường cười
bạn về điều đó và lấy thế làm vui thích. Về phía mình, Levin cũng coi thường
cuộc sống thị thành và nghề nghiệp của bạn mà chàng coi là trò đùa và thường
đưa ra chế giễu. Chỉ khác một điều là Oblonxki xử sự như tất cả mọi người, cười
một cách tự tin và dễ dãi, còn Levin thì nghi ngờ chính bản thân mình và đôi
khi thường cười gượng.
- Bọn mình chờ cậu đã lâu, - Xtepan
Arcaditr nói, khi vào đến phòng làm việc và buông tay bạn, như để tỏ ra không
còn gì nguy hiểm nữa. - Mình rất sung sướng được gặp cậu, - ông nói tiếp - Cậu
có khỏe không? Hiện đang làm gì? Cậu đến lúc nào vậy?
Levin lặng thinh, nhìn bộ mặt lạ lẫm
của hai bạn đồng sự với Oblonxki và nhất là bàn tay anh chàng Grinevitr sang
trọng, ngón búp măng trắng muốt, móng dài vàng vàng và cong cong ở đầu, cùng
những cái cúc to tướng lấp lánh ở cổ tay áo; đôi bàn tay đó dường như thu hút
tất cả sự chú ý của chàng và khiến tâm trí chàng mất cả thoải mái. Oblonxki
nhận ra điều đó ngay và mỉm cười.
- à phải, cho phép tôi giới thiệu
các ngài với nhau, - ông nói. Các bạn đồng sự của tôi: Filip Ivanovitr Nikitin,
Misen Xtanixlavitr Grinevitr, và quay lại phía Levin: một quan cai trị tỉnh
nhỏ, con người mới của hội đồng tự trị địa phương, một lực sĩ một tay nhấc nổi
năm pút 1, một nhà chăn nuôi và một nhà săn bắn, ông bạn Conxtantin
Dimitrievitr Levin của tôi, em trai Xergei Ivanovitr Coznusev.
- Rất hân hạnh, - ông già nhỏ bé
nói.
- Tôi đã có vinh dự được biết lệnh
huynh Xergei Ivanovitr, Grinevitr nói, chìa bàn tay thanh tú để móng dài ra.
Levin sa sầm mặt; chàng lạnh lùng
bắt tay Grinevitr và lập tức quay về phía Oblonxki. Mặc dầu rất mến phục ông
anh cùng mẹ khác cha, nhà văn nổi tiếng khắp nước Nga, chàng không chịu được
khi người ta nói với mình không phải như nói với Conxtantin Levin mà là với em
trai nhà văn Coznưsev trứ danh.
- Không, tôi không ở trong hội đồng
nữa đâu. Tôi đã xích mích với tất cả mọi người và không đến dự các phiên họp
nữa, - chàng quay lại nói với Oblonxki.
- Thế là chuyện chẳng đi đến đâu cả!
- Oblonxki mỉm cười nói. - Nhưng đầu đuôi thế nào? Tại sao vậy?
- Chuyện dài lắm. Mình sẽ kể cho cậu
nghe sau, - Levin nói thế, nhưng chàng lại kể ngay tức khắc. - Nói vắn tắt là
mình tin chắc không thể nào làm việc với hội đồng được, - chàng nói với giọng
của kẻ vừa bị lăng nhục. - Một mặt, đó là một thứ đồ chơi: người ta vui chơi ở
nghị viện; vậy mà mình thì chả còn non trẻ, cũng chưa đến nỗi già nua gì để vui
thú với những thứ đồ chơi, và mặt khác (chàng ngần ngừ), đó là một thứ phe cánh
2 ở tỉnh nhỏ nhằm mục đích kiếm tiền.
Trước kia, có chế độ bảo hộ, có toà
án, bây giờ thì là hội động tự trị, ở đây người ta không ăn hối lộ, nhưng lại
kiếm được những khoản bổng lộc không phải do công sức làm ra, - chàng hăm hở
nói, như thể trong số những người đứng đấy có ai định bác bỏ ý kiến của mình.
- Chà! Chà! Mình thấy cậu đang ở một
giai đoạn mới đấy, cậu hướng về phe bảo thủ mất rồi, - Xtepan Arcaditr nói với
Levin. - Ta sẽ trở lại chuyện đó sau.
- Phải, đúng vậy. Nhưng mình cần gặp
cậu, - Levin nói, hằn học nhìn đôi bàn tay của Grinevitr.
Xtepan Arcaditr thoáng mỉm cười.
- Thế nào, dạo nọ cậu bảo là sẽ
không vận âu phục nữa kia mà! - ông vừa nói vừa ngắm nghía bộ đồ mới của bạn,
rõ ràng vừa ở một cửa hàng may người Pháp ra. - Quả đúng vậy: một giai đoạn
mới...
Levin đột nhiên đỏ mặt, không phải
như kiểu người lớn tuổi, chỉ hời hợt bên ngoài, tự mình không hay, mà như một
chú bé cảm thấy tính nhút nhát làm cho mình đâm lố bịch, và do đó, lại càng đỏ
mặt hơn, tựa hồ sắp phát khóc. Thật khổ tâm khi nhận thấy trên bộ mặt thông
minh và trai tráng ấy một vẻ quá con nít như vậy, đến nỗi Oblonxki phải quay
nhìn đi chỗ khác.
- Phải, vậy chúng ta có thể gặp nhau
ở đâu? Mình có chuyện nhất thiết phải nói với cậu, - Levin nói.
Oblonxki ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Mình đề nghị với cậu thế này: đến
hiệu Gurin ăn trưa, ta sẽ có thể trò chuyện được. Mình còn rỗi cho đến ba giờ.
- Không, - Levin đáp sau một lúc suy
nghĩ. - Mình còn phải đi đằng này.
- Vậy thì ta ăn chiều với nhau nhé.
- Ăn chiều ư? Nhưng câu chuyện mình
nói với cậu chả có gì đặc biệt đâu: chỉ hai câu thôi; ta sẽ nói chuyện sau vậy.
- Được, cậu nói hai câu của cậu cho
mình nghe đi, rồi đến bữa chiều ta sẽ bàn thêm.
- Thế này nhá, - Levin nói. - Vả
lại, cũng chả có gì đặc biệt đâu.
Mặt chàng đột nhiên cau lại, do phải
cố vượt lên thói nhút nhát.
- Gia đình Serbatxki hiện làm gì?
Không có gì thay đổi chứ? - chàng hỏi.
Xtepan Arcaditr từ lâu đã biết Levin
mê cô em vợ mình là Kitti 1 nên thoáng mỉm cười và cặp mắt ông vụt long lanh
vui thích.
- Quả là cậu đã nói với mình có hai
câu thật, nhưng mình không thể trả lời cậu vắn tắt như thế được, bởi vì... Xin
lỗi cậu một lát...
Viên thư ký bước vào, với cái vẻ
thân tình kính cẩn, và cái ý thức khiêm tốn chung của mọi người thư ký tự biết
mình thạo công việc hơn hẳn thủ trưởng; anh ta mang giấy tờ đến cho Oblonxki và
dùng hình thức câu hỏi để giải thích cho ông một chỗ khó xử. Xtepan Arcaditr
không đợi anh ta nói hết, thân mật đặt tay lên tay áo viên thư ký.
- Không, ông cứ làm như tôi đã dặn,
- ông nói, mỉm cười để làm nhẹ bớt lời phán đó, và sau khi cắt nghĩa tóm tắt ý
kiến của mình về vấn đề ấy, ông đẩy chồng giấy ra và bảo: - ông cứ làm như thế
cho, ông Zacari Nikititr ạ.
Viên thư ký ngượng ngập, rút lui.
Trong khi họ nói chuyện, Levin đã hoàn toàn bình tĩnh lại; chàng vẫn đứng tỳ
khuỷu tay vào chiếc ghế tựa, và nét mặt lộ vẻ chăm chú mỉa mai.
- Mình không hiểu, mình không hiểu,
- chàng nói.
- Cậu không hiểu cái gì? - Oblonxki
mỉm cười vui vẻ hỏi và lấy ra một điếu thuốc lá. Ông chờ Levin thốt ra một điều
gì kỳ cục.
- Nhưng mình không hiểu các cậu làm
cái gì thế, - Levin nhún vai nói. - Làm sao mà cậu có thể làm việc đó nghiêm
túc được nhỉ?
- Tại sao?
- Vì... cậu chả có việc gì phải làm
cả.
- Cậu tưởng thế chứ, tụi mình đang
bù đầu vì công việc đấy.
- Toàn chuyện giấy tờ cả thôi; nhưng
cậu có khiếu về mặt ấy đấy, - Levin nói thêm.
- Nghĩa là cậu cho rằng mình còn
thiếu một cái gì phải không?
- Có thể, - Levin nói. - Nhưng dù
sao mình vẫn thán phục cái điệu bộ trịnh trọng của cậu và hãnh diện có được
người bạn là một nhân vật quan trọng đến thế. Với lại cậu chưa trả lời câu hỏi
của mình, - chàng nói tiếp, gắng tự chủ để nhìn thẳng vào mắt Oblonxki.
- Được, được, không chóng thì chầy
thế nào rồi cũng đến lượt cậu cho mà xem. Chừng nào cậu còn có ba ngàn mẫu
trong quận Karazino, bắp thịt còn rắn chắc như bây giờ và tươi tắn như một em
bé gái mười hai tuổi, thì mọi việc đều êm đẹp, nhưng cả cậu nữa, rồi cậu cũng
đến như bọn mình thôi. Còn điều cậu hỏi mình, thì chẳng có gì thay đổi cả,
nhưng có điều đáng tiếc là cậu bẵng đi quá lâu không đến chơi đằng ấy.
- Tại sao, - Levin sợ hãi hỏi.
- Bởi vì... - Oblonxki đáp. - Ta sẽ
nói chuyện đó sau. Cậu về đây có việc gì?
- Điều đó ta cũng sẽ nói chuyện sau,
- Levin nói, mặt đỏ dừ lên.
- Được, mình hiểu rồi, - Xtepan
Arcaditr nói. - Cậu ạ, lẽ ra mình định mời cậu về nhà kia đấy, nhưng vợ mình
lại hơi mệt. Nếu cậu muốn gặp họ, chắc chắn là từ bốn giờ đến năm giờ thế nào
họ cũng có mặt ở vườn thú đấy, Kitti vẫn trượt băng tại đó. Cậu cứ đến đấy,
mình sẽ tới tìm cậu và ta sẽ cùng đi ăn chiều với nhau.
- Tốt lắm, vậy thì lát nữa nhé.
- Coi chừng đấy, mình biết cậu lắm:
cậu có thể quên phắt đi hoặc đùng đùng trở về nông thôn! - Xtepan Arcaditr
cười, nói to với Levin.
- Không, nhất định mình sẽ đến.
Và Levin rời khỏi phòng làm việc,
đúng lúc bước ra khỏi cửa chàng mới sực nhớ là đã quên không chào các bạn đồng
sự của Oblonxki.
- Ông ấy có vẻ cương nghị lắm, -
Grinevitr nói, khi Levin đi khỏi.
- Phải, ông bạn thân mến ạ, - Xtepan
Arcaditr gật đầu nói, - đó là một anh chàng sung sướng! Ba nghìn mẫu ở quận
Karazino! Trước mặt cậu ta có tất cả, con người mới tươi tắn làm sao! Thật
không giống như chúng ta đây...
- Ông thì cũng chả có gì phải phàn
nàn, ông Xtepan Arcaditr ạ.
- Có chứ, mọi việc đều lung tung
beng, - Xtepan Arcaditr vừa nói vừa thở dài.
Chương
5
Khi Oblonxki hỏi chàng đến Moxcva có
việc gì, Levin đỏ mặt rồi lại tự giận mình vì đã đỏ mặt, bởi lẽ chàng không thể
trả lời: "Mình đến xin cưới cô em vợ cậu đấy". Vậy mà, chàng ra đây
chỉ vì cái việc duy nhất ấy.
Hai gia đình Levin và Serbatxki, hai
gia đình quý phái lâu đời ở Moxcva luôn đi lại thân thiết với nhau. Mối quan hệ
đó càng thêm khăng khít trong những năm Levin đi học. Chàng chuẩn bị thi và vào
trường Đại học cùng một lúc với hoàng thân trẻ tuổi Serbatxki, anh của Doli và
Kitti. Thời kỳ đó, Levin rất năng lui tới nhà Serbatxki và mê tất cả nhà. Kể ra
thì cũng thật kỳ dị, nhưng quả là Conxtantin Levin phải lòng tất cả gia đình,
và đặc biệt là phái nữ trong nhà Serbatxki.
Levin không còn giữ được kỷ niệm nào
về mẹ mình, và chàng chỉ có một người chị, thành thử chính ở nhà Serbatxki,
chàng đã làm quen với cái môi trường phong nhã và học thức của những gia đình
quý phái lâu đời, mà vì bố mẹ mất sớm, chàng không được hưởng. Tất cả những
người trong gia đình ấy, và chủ yếu là phái nữ, đối với chàng, dường như có một
vầng hào quang thơ mộng và huyền bí bao quanh, chẳng những chàng không hề nhìn
thấy ở họ một khuyết điểm nào, ngược lại, chính là để có ánh hào quang thơ mộng
đó mà chàng gán cho họ những hoài bão cao cả nhất và tất cả những gì toàn thiện
toàn mỹ có thể có trên đời. Tại sao ba cô tiểu thư trẻ măng kia cứ phải xen kẽ
một ngày nói tiếng Pháp rồi lại một ngày nói tiếng Anh?
Tại sao vào những giờ nào đó, các cô
cứ thay nhau ngồi vào dương cầm, tiếng đàn vẳng lên mãi tận phòng anh trai, nơi
tốp thanh niên đang học tập? Tại sao các giáo sư dạy văn học Pháp, âm nhạc, hội
họa và khiêu vũ cứ diễu đi diễu lại trong nhà? Tại sao, cứ đúng vào một giờ cố
định, ba tiểu thư lại mặc áo choàng xatanh (Doli mặc một cái dài lê thê,
Natalia một cái dài vừa và Kitti một cái ngắn tũn lộ cả đôi chân thon lẳn đi
tất đỏ căng) cùng cô Linong 1 đi xe ngựa đến tận đại lộ Tve? Tại sao các tiểu
thư cứ phải dạo chơi trên đại lộ Tve dưới sự hộ tống của tên hầu đeo phù hiệu
vàng óng trên mũ? Tất cả những điều đó, chàng đều không hiểu nổi, cũng như phần
lớn sự kiện xảy ra trong thế giới huyền bí của họ, nhưng chàng biết chắc tất cả
những gì xảy ra ở đó đều tuyệt diệu và đúng là chàng đã mê cái không khí huyền
bí đang bao quanh họ.
Trong những năm ở trường Đại học,
chàng suýt phải lòng cô chị cả Doli, nhưng người ta đã sớm gả cô cho Oblonxki.
Thế là chàng bắt đầu mê cô em. Chàng lờ mờ cảm thấy mình phải mê một trong mấy
chị em mà không thể xác định dứt khoát là cô nào. Nhưng lại đến lượt Natalia,
ngay sau khi xuất hiện trong giới thượng lưu, đã lấy luôn nhà ngoại giao Lvop.
Khi Levin rời khỏi trường Đại học thì Kitti hãy còn là một cô bé. Chàng
Serbatxki trẻ tuổi gia nhập hải quân, đã bị chết đuối ở biển Ban Tích, và sự
lui tới giữa Levin với gia đình Serbatxki thưa dần, mặc dầu tình bạn của chàng
đối với Oblonxki vẫn thân thiết. Nhưng vào đầu mùa đông năm nay, sau một năm ở
nông thôn, khi Levin đến Moxcva và gặp lại gia đình Serbatxki, chàng chợt hiểu
duyên số đã định mình phải yêu người nào trong ba chị em.
Cứ xét bề ngoài thì đối với chàng,
chẳng có gì đơn giản hơn việc hỏi quận chúa Serbatxki làm vợ: ba mươi hai tuổi,
con nhà gia thế, nói cho đúng là giàu có, xem ra rất có thể người ta sẽ coi
chàng là một đám tốt. Nhưng Levin yêu Kitti và đối với chàng, Kitti dường như
hoàn hảo hết sức về mọi phương diện, một con người vượt hẳn lên trên mọi sự
ngẫu nhiên, còn bản thân chàng thì tự coi mình chẳng ra gì và quá ư phàm tục,
đến nỗi ngay cả trong ý nghĩ, chàng cũng không sao hình dung nổi mọi người và
bản thân Kitti lại có thể coi chàng là xứng đôi với nàng được.
Sau khi sống ở Moxcva hai tháng như
trong giấc mộng, hầu như ngày nào cũng gặp Kitti trong giới xã giao, nơi chàng
đến để tìm gặp nàng, bỗng nhiên Levin cả quyết là chuyện không thể thành được
và trở về trang trại. Chàng tin chắc cha mẹ nàng đánh giá mình chưa đủ điều
kiện là chàng rể xứng với Kitti kiều diễm, và chính Kitti cũng không thể nào
yêu chàng. Dưới mắt cha mẹ Kitti, chàng không có công việc thường xuyên và dứt
khoát nào cả, chẳng có địa vị gì trong giới thượng lưu, trong khi các bạn bè,
vào lúc chàng đã ba mươi hai tuổi đầu, người là đại tá cận vệ, người là giáo sư,
kẻ là giám đốc ngân hàng hay giám đốc hoả xa, hoặc chánh án như Oblonxki; còn
chàng (chàng biết rất rõ những điều người ta có thể nghĩ về mình), chàng chỉ là
anh điền chủ, nuôi bò cái, săn chim dẽ, xây nhà dựng cửa; vậy chàng chỉ là kẻ
bất tài, không làm gì nên thân và trước mắt xã hội, chẳng kiếm được công việc
gì khác ngoài những chuyện dành cho bọn vô tích sự.
Bản thân Kitti, huyền bí và xinh
đẹp, làm sao có thể yêu một anh con trai xấu như vậy (chàng tự cho là xấu
trai), nhất là lại thô sơ và tầm thường đến thế. Hơn nữa, những quan hệ cũ giữa
chàng với Kitti (những quan hệ giữa một người lớn hẳn hoi với một cô bé, hậu
quả tình bạn giữa chàng với anh trai Kitti ), đối với chàng, hình như cũng là
một trở ngại khác cho mối tình. Một gã thanh niên trung thực, mã người chẳng có
gì là ưa nhìn (chàng tự xét mình như thế), có thể khiến người ta muốn đánh bạn
- chàng nghĩ bụng - nhưng muốn được yêu như chàng đã yêu Kitti, thì cần phải
điển trai và nhất là phải...
độc đáo.
Chàng từng nghe nói phụ nữ thường
hay yêu những anh đàn ông xấu xí và kém cỏi, nhưng chàng không tin vì chàng cứ
suy từ bụng mình thì biết, chàng chỉ có thể yêu một người đàn bà đẹp, huyền bí
và độc đáo.
Tuy nhiên, sau hai tháng sống một
mình ở nông thôn, chàng xác định rõ lối sống đó không còn là một cám dỗ tương
tự như hồi còn trẻ măng, cảm giác đó không để chàng yên ổn lấy một phút, chàng
sẽ không thể sống nổi nếu chưa được biết đích xác liệu nàng có thể trở thành vợ
mình hay không, nỗi tuyệt vọng của chàng mới chỉ là do tưởng tượng thôi và chưa
có gì chứng tỏ chàng sẽ bị từ chối. Thế là chàng đáp xe lửa đi Moxcva với quyết
tâm sẽ tỏ tình và sẽ cưới nàng nếu được đồng ý. Hoặc là... nhưng chàng không
dám nghĩ đến những điều sẽ xảy đến với mình, nếu bị cự tuyệt.
--------------------------------
1 Đây là nữ gia sư của các tiểu thư
nhà Serbatxki. ở các nước phương Tây, chữ "cô" để chỉ tất cả những
người đàn bà không chồng, không phân biệt trẻ hay già.
Chương
6
Tới Moxcva bằng chuyến xe lửa sáng,
Levin ghé vào nhà ông anh cùng mẹ khác cha Coznưsev. Sau khi thay quần áo,
chàng đến phòng anh định kể ngay cho ông rõ tại sao chàng đến Moxcva và hỏi ý
kiến ông, nhưng anh chàng không phải chỉ có một mình. Trong phòng còn có một
giáo sư triết học nổi tiếng, từ Kharcov đến, với chủ đích làm sáng tỏ sự hiểu
lầm nảy ra giữa hai người về một luận điểm triết học rất trọng yếu. Ông giáo sư
đang tiến hành một cuộc bút chiến sôi nổi, công kích các nhà duy vật chủ nghĩa
và Xergei Coznưsev rất quan tâm theo dõi cuộc bút chiến. Sau khi đọc bài báo
gần đây nhất của giáo sư, ông gửi thư phản đối giáo sư về một vài điểm: ông
trách giáo sư nhượng bộ phái duy vật nhiều quá. Và vị giáo sư lập tức đến đây
để thanh minh. Đó là một vấn đề thời sự nóng hổi: có ranh giới nào giữa những
hiện tượng tâm lý và sinh lý trong sinh hoạt của con người không và nó ở vào
chỗ nào?
Xergei Ivanovitr tiếp đón em trai
với nụ cười đáng yêu và lạnh lùng thường ngày của ông, và sau khi giới thiệu
chàng với giáo sư, lại tiếp tục câu chuyện.
Người đàn ông nhỏ bé đeo kính, trán
hẹp, ngừng một giây để chào Levin rồi lại tiếp tục chứng minh, chẳng buồn mảy
may để ý đến chàng. Levin ngồi xuống chờ cho giáo sư đi khỏi, nhưng chẳng mấy
chốc chàng bị lôi cuốn ngay vào câu chuyện. Chàng đã đọc những bài báo đó đăng
trên các tạp chí và quan tâm đến chúng như một người nghiên cứu khoa vạn vật ở
trường Đại học quan tâm đến sự phát triển của môn học này, nhưng chưa bao giờ
chàng đem những điều suy diễn khoa học về nguồn gốc con người với tính cách là
động vật, về những phản xạ, về sinh học và xã hội học, đối chiếu với những vấn
đề ngày càng khiến chàng bận tâm: ý nghĩa của sự sống và cái chết.
Lắng nghe cuộc tranh luận, chàng
thấy hai bên đang xác lập mối liên hệ giữa khoa học và những vấn đề có dính líu
đến tâm hồn.
Nhiều lần, họ suýt đề cập đến những
vấn đề này, nhưng cứ mỗi lần mon men gần tới cái điều Levin cho là chủ yếu, họ
lại hấp tấp lảng xa để rồi lại lao vào lĩnh vực những nét phân biệt tinh vi,
những phản bác, trích dẫn, điển cố, dẫn chứng và chàng vất cả lắm mới hiểu họ
đang bàn chuyện gì!
- Tôi không thể thừa nhận, - Xergei
Ivanovitr nói rành rọt, khúc chiết và trang nhã như thường thấy trong ngôn ngữ
của ông, - trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng không thể thừa nhận như Két
rằng tất cả những điều tôi hình dung về thế giới bên ngoài là do cảm giác mà
ra. Khái niệm cơ bản về con người không phải đến với tôi bằng giác quan, vì
chẳng có cơ quan đặc biệt nào để truyền đạt ý niệm đó cả.
- Phải, nhưng cả Vuyếcxt, cả Cnovxc
và cả Pripaxov đều sẽ trả lời rằng ý thức về con người của ông là do sự giao
tiếp của cảm giác, nó chỉ là sản phẩm của cảm giác. Thậm chí, Vuyếcxt còn nói
dứt khoát là hễ không còn cảm giác thì cũng không còn ý thức về con người nữa.
- Ngược lại, tôi cho rằng... -
Xergei Ivanovitr mở đầu.
Nhưng một lần nữa, Levin cảm thấy,
giữa lúc hơi đụng đến vấn đề chủ yếu, họ lại né ra; chàng quyết định hỏi vị
giáo sư:
- Vậy nếu cảm giác của tôi chìm đắm
vào chốn hư vô, nếu thể xác tôi chết đi, thì không thể có cuộc sống nữa chăng?
- chàng hỏi.
Giáo sư có vẻ phật ý và như bị tổn
thương về tinh thần vì câu phá ngang đó: ông đưa mắt nhìn kẻ nói leo, hắn giống
phu kéo thuyền hơn là triết gia, và lại nhìn Xergei Ivanovitr như để hỏi xem
nên trả lời thế nào. Nhưng Xergei Ivanovitr tuyệt nhiên không nghiệt ngã như
giáo sư: trong óc ông có đủ cả câu trả lời giáo sư, lẫn sự thông cảm với cái
quan điểm đơn giản và tự nhiên dẫn đến câu hỏi đó; ông mỉm cười nói:
- Chúng ta không có đủ luận cứ, - vị
giáo sư nhấn mạnh thêm và tiếp tục trình bày luận điểm của mình. - Không, - ông
nói, - tôi cho rằng nếu cảm giác cũng dựa trên ấn tượng như Pripaxov đã nói thì
chính vì thế mà ta càng phải phân biệt rõ ràng hai khái niệm ấy.
Levin không nghe nữa và chờ giáo sư
đi khỏi.
Chương
7
Khi giáo sư đã ra về, Xergei
Ivanovitr quay lại phía cậu em.
- Tôi rất mừng thấy chú lên chơi.
Chú ở đây có lâu không? Công việc trang trại ra sao?
Levin biết ông anh rất ít quan tâm
đến chuyện trang trại và ông hỏi chỉ vì phép lịch sự, cho nên chàng cũng chỉ
nói chuyện bán lúa mì và thu nợ thôi.
Levin có ý nói với anh về dự định
thành lập gia đình và muốn hỏi ý kiến ông; thậm chí chàng còn quyết tâm thế nào
cũng nói. Nhưng khi gặp anh, theo dõi cuộc nói chuyện của ông với giáo sư, rồi
lại nghe ông hỏi thăm tình hình quản lý trang trại với cái giọng vô tình mà
thành ra kẻ cả (của cải của mẹ để lại không chia và chính Levin quản lý toàn
bộ), Levin cảm thấy không thể ngỏ cho anh biết dự định lấy vợ của mình được
nữa. Chàng cảm thấy ông anh sẽ không nhìn nhận vấn đê như chàng mong muốn.
- Công việc của hội đồng tự trị chỗ
chú ra sao? - Xergei Ivanovitr hỏi, ông vốn rất quan tâm đến những thí nghiệm
về hành chính địa phương mà ông cho là rất quan trọng.
- Em hoàn toàn chẳng biết tí gì.
- Sao hả?... Chú là uỷ viên hội đồng
kia mà?
- Không, em không phải là uỷ viên
nữa; em xin từ chức rồi, - Levin đáp, - và em không đi họp nữa.
- Thật đáng tiếc! - Xergei Ivanovitr
cau mày nói.
Để tự bào chữa, Levin bắt đầu kể
những việc người ta thường làm trong các cuộc họp của hội đồng tự trị ở quận
chàng.
- Bao giờ cũng vẫn vậy! - Xergei
Ivanovitr ngắt lời chàng, - người Nga chúng ta bao giờ cũng thế! Có lẽ khả năng
nhìn thấy khuyết điểm của bản thân mình là mặt tốt của tính tình chúng ta,
nhưng chúng ta đã đi quá trớn: ta khoái trá với cái chất châm biếm mà bao giờ
ta cũng có thừa. Tôi chỉ cần nói với chú điều này thôi: nếu người ta cho một
dân tộc khác ở châu Âu, như người Đức, người Anh chẳng hạn, được hưởng cũng
những quyền hạn đó, cũng những chế độ địa phương đó, họ sẽ biến những cái đó
thành tự do, còn chúng ta thì chỉ biết đem ra chế giễu.
- Biết làm thế nào được? - Levin nói
với vẻ mặt phạm lỗi. - Đó là lần thí nghiệm cuối cùng của em. Em đã cống hiến
tất cả sức lực vào đó. Em không thể chịu được nữa, em là kẻ bất tài.
- Chú không phải là kẻ bất tài đâu,
- Xergei Ivanovitr nói, - nhưng chú không nhìn vấn đề với một quan điểm đứng
đắn.
- Có lẽ thế, - Levin đáp, giọng buồn
buồn.
- Chú có biết là chú Nicolai nhà ta
đã trở về chưa?
Nicolai là anh ruột Conxtantin Levin
và em cùng mẹ khác cha với Xergei Ivanovitr. Đó là con người bỏ đi: anh ta
phung phí phần lớn gia sản, đàn đúm với một bọn người kỳ lạ, tư cách chẳng ra
gì và xích mích với anh em ruột.
- Anh bảo sao? - Levin hoảng hốt
thốt lên. - Sao anh biết?
- Procov trông thấy chú ấy ngoài
phố.
- ở Moxcva này ấy à? Anh ấy ở đâu?
Anh có biết không? - Levin đứng dậy như định đi ngay.
- Tôi tiếc là đã nói với chú điều
đó, - Xergei Ivanovitr nói và lắc đầu khi thấy vẻ bối rối của cậu em út. - Tôi
đã cho người đi hỏi xem chú ấy ở đâu và tôi đã nhờ gửi tới tận tay chú ấy lá
hối phiếu nhà Trubin mà tôi trả tiền rồi. Đây là thư chú ấy trả lời.
Và Xergei Ivanovitr lấy ở dưới cái
chặn giấy ra một lá thư, chìa cho em xem.
Levin đọc mảnh giấy đặc sịt một thứ
chữ kỳ quặc và quen thuộc:
"Tôi xin mọi người để cho tôi
được yên thân. Tôi chỉ yêu cầu các ông anh, ông em thân mến của tôi có thế.
Nicolai Levin".
Đọc xong bức thư, Levin cứ đứng
nguyên trước mặt Xergei Ivanovitr, đầu cúi gằm, mảnh giấy trong tay. Trong tâm
hồn chàng, ý muốn tạm quên người anh khốn khổ kia đang vật lộn với ý thức biết
như thế là sai.
- Rõ ràng nó muốn sỉ nhục tôi, -
Xergei Ivanovitr nói, - nhưng nó không đủ sức làm thế, còn tôi, với tất cả tấm
lòng, tôi muốn giúp nó, nhưng biết không thể được.
- Vâng, vâng, - Levin nhắc lại. - Em
hiểu và em tán thành thái độ của anh đối với anh ấy; dù sao em cũng phải đi gặp
anh ấy!
- Tuy tôi muốn can chú là không nên,
nhưng nếu chú muốn, thì chú cứ việc đến, - Xergei Ivanovitr nói. - Về phần tôi,
tôi chả lo: nó không làm anh em mình bất hòa được đâu; nhưng tôi khuyên chú tốt
hơn hết là đừng đến đó. Không giúp gì được cho nó đâu. Nhưng thôi, chú muốn làm
thế nào thì tuỳ.
- Có thể là không giúp nổi anh ấy,
nhưng em cảm thấy, nhất là trong lúc này (nhưng điều đó lại là chuyện khác), em
cảm thấy em sẽ không yên tâm nếu...
- Tôi không hiểu chú ra sao cả, -
Xergei Ivanovitr nói, - tôi chỉ hiểu có một điều, - ông nói thêm: - đó là một
bài học nhục nhằn. Từ khi chú Nicolai nhà ta thành con người như bây giờ, tôi
trở nên rộng lượng hơn đối với cái mà người ta gọi là sự đê mạt... Chú có biết
nó đã làm những gì không?
- Chao! Thật ghê gớm! Ghê gớm! -
Levin nhắc đi nhắc lại.
Sau khi hỏi người hầu phòng của
Xergei Ivanovitr địa chỉ anh trai, Levin định đến đấy ngay, nhưng chàng lại
thay đổi ý kiến, quyết định hoãn cuộc đi thăm đến tối. Muốn cho tâm trí thanh
thản, trước hết chàng cần giải quyết vấn đề đã khiến chàng tới Moxcva. Từ nhà
ông anh, chàng lại thẳng toà án của Oblonxki và sau khi biết nơi gia đình
Serbatxki thường tới vui chơi, chàng đi luôn đến chỗ người ta bảo có thể gặp
được Kitti.
Chương
8
Vào lúc bốn giờ, Levin từ trên chiếc
xe ngựa thuê bước xuống cửa Vườn thú, tim đập thình thình, men theo con đường
nhỏ dẫn tới những trái núi Nga 1 và sân trượt băng; chàng chắc chắn sẽ gặp nàng
ở đó, vì đã trông thấy cỗ xe của gia đình Serbatxki đậu gần cửa.
Trời quang đãng và lạnh. ở gần cửa,
xe ngựa bốn bánh, xe trượt tuyết, xe cho thuê, đỗ thành dãy dài cùng với hàng
rào sen đầm. Một đám đông sang trọng chen chúc ngoài cửa và trên những con
đường nhỏ lách giữa dãy nhà xinh xắn bằng gỗ chạm trổ công phu, ánh nắng lấp
lánh điểm tô những chiếc mũ và những cây bạch dương già cong queo trong vườn,
phủ khắp cành nhánh một lượt tuyết như mặc bộ áo lễ mới, trang trọng.
Vừa đi về phía sân trượt băng, Levin
vừa tự nhủ: "Bình tĩnh, không được rối trí! Mày làm sao thế? Mày muốn gì
nào? Câm ngay đi, đồ ngốc!", chàng thầm nhủ lòng. Nhưng chàng càng gắng
trấn tĩnh bao nhiêu lại càng bồi hồi bấy nhiêu. Một người bạn gặp chàng, gọi,
nhưng Levin cũng không nhận ra anh ta nữa. Chàng đến gần những trái núi Nga từ
đó vẳng lên tiếng cót két của dây xích xe trượt tuyết đang lên xuống ầm ầm
trong tiếng xôn xao nói cười vui vẻ. Chàng đi mấy bước nữa thì thấy sân trượt
băng và lập tức nhận ra nàng giữa đám đông.
Bằng vào niềm vui và nỗi xao xuyến
tràn ngập lòng mình, chàng biết nàng đang ở đó. Nàng đang đứng nói chuyện với
một bà ở đầu kia sân băng; nhìn bề ngoài thì cả y phục lẫn thái độ nàng chẳng
có gì đặc biệt; nhưng đối với Levin, việc nhận ra nàng giữa đám đông cũng dễ
dàng như nhận ra một cây hoa phong lữ thảo giữa bụi tầm ma. Tất cả đều ngập
trong hào quang của nàng. Nàng là một nụ cười chiếu sáng tất cả những gì bao
quanh. "Liệu mình có dám bước xuống sân băng và lại gần nàng không
đây?" - Levin nghĩ thầm. Chàng cảm thấy như nơi Kitti đang đứng là một
thánh đường bất khả xâm nhập và chỉ một ly nữa thì quay gót trở lui vì quá sợ
hãi. Chàng phải cố sức chế ngự bản thân và tự nhủ rằng xung quanh nàng có đủ
hạng người, và cả chàng nữa, chàng cũng có thể được phép trượt băng chứ. Chàng
bước xuống, tránh không nhìn Kitti như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời; nhưng
mặc dầu không nhìn, chàng vẫn cứ trông thấy nàng, như vẫn thấy mặt trời vậy.
Hôm ấy, vào giờ này, trên mặt băng
tập hợp toàn những người cùng một giới, tất cả đều quen biết nhau. ở đó, có
những nhà trượt băng cự phách đang trổ tài, những người mới học đang vịn ghế
bành để tập, cử chỉ lóng ngóng, vụng về, có cả những chú bé và những ông già
trượt băng với mục đích bảo vệ sức khỏe; đối với Levin, hình như tất cả đều là
những kẻ tốt số, sung sướng, vì họ được ở gần bên Kitti.
Vậy mà những người trượt băng lại cứ
vượt qua nàng, đuổi kịp nàng, nói chuyện với nàng thản nhiên như không, và cứ
vui đùa như tuyệt nhiên chẳng lệ thuộc gì vào nàng, cứ việc tận hưởng thời tiết
đẹp và mặt băng trong ngần!
Nicolai Serbatxki, anh họ Kitti, mặc
áo chẽn ngắn và quần ống hẹp, đang ngồi trên ghế dài, chân đi giày trượt băng;
ông ta trông thấy Levin và gọi to:
- Này! Nhà trượt băng giỏi nhất nước
Nga! Anh đến đây lâu chưa?
Sân băng tuyệt lắm, đi giày trượt
vào mau lên!
- Tôi không có giày trượt, - Levin
đáp, sửng sốt thấy mình mạnh dạn và phóng túng đến thế ngay trước mặt Kitti và
tuy không hề nhìn, chàng vẫn không để nàng lọt khỏi tầm mắt một giây. Chàng cảm
thấy mặt trời đang đi về phía mình. Nàng đang ở một đầu sân băng và, đôi chân
nhỏ lút trong giày cao cổ, nàng tiến về phía chàng, vẻ sợ sệt lộ rõ trên nét
mặt. Một chàng trai trẻ vận y phục kiểu Nga, tay vung hết sức mạnh, mình rạp
xuống mặt đất, vượt qua nàng.
Nàng không vững tin ở mình lắm nên
đã rút hai tay ra khỏi chiếc bao tay nhỏ quàng vào cổ bằng một sợi dây và sẵn
sàng bíu lấy bất cứ cái gì; mắt đăm đăm nhìn Levin, mà nàng đã nhận ra, nàng
mỉm cười với chàng và đồng thời mỉm cười cả về vẻ sợ hãi của chàng. Khi đã vượt
qua chỗ ngoặt, nàng mềm mại quay gót lấy đà và tới thẳng chỗ Serbatxki; nàng
nắm lấy tay ông ta và mỉm cười với Levin, gật đầu chào. Nàng còn đẹp hơn chàng
mường tượng nhiều.
Khi nghĩ đến Kitti, Levin có thể
hình dung rõ toàn thân nàng, đặc biệt là mái tóc vàng xinh xắn với vẻ trong
trắng trẻ thơ và hồn hậu, mái tóc vô cùng thanh lịch trên đôi vai cân đối.
Chính vẻ trẻ thơ ấy hòa với cái đẹp mỏng manh của thân hình đàn bà đã tạo nên
sức quyến rũ của Kitti: Levin rất thích điều đó. Nhưng cái điều luôn luôn khiến
chàng ngạc nhiên, gần như sửng sốt, là vẻ nhìn hiền dịu, bình thản, trung thực,
và nhất là nụ cười của nàng, bao giờ nó cũng đưa Levin vào một thế giới huyền
diệu trong đó chàng cảm thấy lòng mình xúc động và dịu lại, y hệt lúc chàng nhớ
đến những ngày thơ ấu.
- Anh ra đã lâu chưa? - Kitti nói,
chìa tay cho chàng. - Cảm ơn anh, - nàng nói thêm, khi chàng nhặt chiếc khăn
tay từ bao tay nàng rơi xuống.
- Tôi ấy à? Không, tôi mới ra hôm
qua, hay nói đúng hơn, hôm nay, - Levin đáp, trong lúc bối rối, không hiểu ra
ngay câu hỏi. - Tôi tính đến thăm cô, - chàng nói, và chợt nhớ chủ đích của
việc muốn gặp nàng, chàng đâm lúng túng và đỏ mặt. - Tôi không biết là cô vẫn
trượt băng mà lại trượt giỏi đến thế.
Nàng chăm chú nhìn chàng, như muốn
tìm hiểu nguyên nhân sự bối rối của chàng.
- Lời khen của anh thật quý hoá. ở
đây, mọi người vẫn truyền tụng anh là nhà trượt băng vô song, - nàng nói, bàn
tay nhỏ nhắn đeo găng đen phủi những nhánh băng nhọn đọng trên bao tay.
- Vâng, trước kia tôi mê trượt băng
lắm; tôi muốn đạt tới trình độ hoàn hảo.
- Hình như anh làm việc gì cũng say
mê, - nàng mỉm cười nói. - Em ao ước được xem anh trượt băng quá. Anh đi giày
trượt vào và ta cùng trượt với nhau đi. "Cùng trượt với nhau! Có thể như
thế được chăng?" - Levin vừa nghĩ vừa nhìn nàng.
- Tôi xong ngay đây, - chàng nói.
Và vội vàng ra đi giày trượt băng.
- Thưa ngài, lâu lắm không thấy
ngài, - người cho thuê giày trượt nói với Levin, vừa giữ chân chàng để vặn cái
ốc ở gót giày. - Từ khi vắng ngài, các vị kia, không ai trượt cừ cả. Thế này đã
được chưa ạ? - bác ta vừa hỏi vừa thắt chặt dây da.
- Được rồi, được rồi, bác làm nhanh lên
cho, -Levin đáp, gắng kìm nụ cười sung sướng bất giác vẫn ngời lên trên mặt
chàng. "Phải, chàng nghĩ thầm, cuộc đời là thế đó, hạnh phúc là thế đó!
cùng với nhau, nàng bảo thế, ta cùng trượt với nhau đi. Mình nói luôn với nàng
bây giờ chăng? Nhưng chính nói ra bây giờ mới đáng sợ vì lúc này mình đang sung
sướng, ít ra cũng sung sướng trong hy vọng...
Còn như... Nhưng cần phải thế! Cần
phải thế! Không được yếu đuối!".
Levin đứng lên, cởi áo ngoài ra, sau
khi đi thử trên mặt băng gồ ghề quanh nhà bát giác cho thuê giày trượt, chàng
lao mình trên sân băng nhẵn lì và lướt đi không chút khó nhọc, dường như việc
tăng, giảm tốc độ hoặc điều khiển hướng đi hoàn toàn là do ý mình. Chàng rụt rè
đến bên Kitti, nhưng một lần nữa, nụ cười của nàng lại làm chàng vững tâm.
Nàng chìa tay cho chàng và hai người
cùng lao đi, vai kề vai, dồn bước gấp hơn: hai người càng trượt nhanh, nàng
càng nắm chặt lấy tay chàng.
- Cùng trượt với anh, em sẽ học mau
hơn; không hiểu sao, em thấy tin ở anh lắm, - nàng nói.
- Tôi cũng thế, tôi cũng tin ở tôi,
khi cô dựa vào tôi, - chàng nói; nhưng lập tức, chàng hốt hoảng vì điều mình
nói và đỏ mặt lên. Và, quả thực, chàng vừa thốt ra câu đó, mặt Kitti đã mất hết
vẻ thanh thản, như thể mặt trời lẩn vào sau đám mây, và Levin nhận ra cái nét
quen thuộc đối với chàng, nó chứng tỏ nàng đang suy nghĩ mông lung lắm: một nếp
nhăn làm cau vầng trán đang bằng phẳng của nàng.
- Cô phật ý ư? à mà tôi chả có quyền
hỏi cô vậy, - chàng vội vàng nói.
- Tại sao lại thế?... Không, có gì
mà phật ý, - nàng lạnh lùng trả lời; và liền sau đó, nàng nói tiếp: - anh chưa
gặp cô Linong à?
- Chưa.
- Anh hãy đến gặp cô ấy đi, cô ấy
mến anh lắm đấy.
"Có chuyện gì vậy? Mình đã xúc
phạm đến nàng chăng? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp tôi!", Levin nghĩ thầm và
hấp tấp đi về phía bà già người Pháp búp tóc bạc trắng đang ngồi trên một chiếc
ghế dài. Bà nhe cả hàm răng giả ra cười, chào đón chàng như một người bạn cũ.
- Phải, người ta ngày một lớn khôn?
- bà ta nói với chàng, vừa đưa mắt chỉ Kitti... - và mỗi tuổi một già. Gấu con
2 đang lớn bổng lên! - bà già người Pháp nói tiếp, nhắc lại câu Levin gọi đùa
ba cô gái là ba chú gấu con, trong chuyện cổ tích Anh.
- Cậu có nhớ dạo ấy cậu vẫn gọi họ
như vậy không?
Chàng đã quên tiệt, vậy mà mười năm
rồi, bà lão vẫn cười về câu nói đùa đó và lấy làm khoái trá.
- Thôi, đi trượt băng đi. Cô Kitti
nhà ta trượt đã khá rồi đấy, có phải không?
Khi Levin theo kịp Kitti, nàng không
còn giữ vẻ nghiêm nghị nữa; cặp mắt nàng lại chân thực và trìu mến, nhưng trong
sự hòa nhã đó Levin thấy như có một cố gắng làm ra bình thản. Điều đó khiến
chàng buồn buồn. Sau khi trao đổi vài câu về bà gia sư già và tính nết kỳ quặc
của bà ta, nàng bèn hỏi về đời sống của chàng.
- Anh ở nông thôn mà không buồn à? -
nàng hỏi.
- ồ! Không, tôi rất bận, - chàng nói
và cảm thấy đang bị nàng gò vào cái giọng thản nhiên mà có lẽ chàng sẽ không
còn đủ sức từ bỏ nữa, cũng như hồi đầu mùa đông này.
- Anh còn ở lại lâu nữa không? -
Kitti hỏi.
- Tôi không biết, - chàng đáp và
không hề nghĩ đến điều mình đang nói. Nhưng chàng tự nhủ nếu cứ chịu bó mình
với giọng bè bạn bình thản đó, chàng ắt sẽ phải trở về không nên công chuyện gì
và quyết định phải vùng lên.
- Thế nào, anh không biết à?
- Không. Cái đó còn tuỳ ở cô, -
chàng nói và lập tức lại hoảng lên vì câu nói của chính mình.
Nàng có nghe thấy câu đó không, hay
là nàng không muốn nghe?
Nàng bước trật một cái, suýt ngã và
vội vã lánh xa Levin. Nàng lại gần cô Linong, nói vài câu với bà và đi về phía
nhà ván, chỗ các bà đang tháo giày trượt.
"Lạy Chúa! Tôi đã làm gì vậy?
Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp, soi sáng cho tôi!". Levin cầu nguyện và cảm
thấy phải vùng vẫy thật mạnh, chàng lượn hết bên này sang bên kia sân băng
thành những vòng tròn tiếp giáp nhau, lúc bên trong, lúc bên ngoài.
Giữa lúc đó, một thanh niên, vô địch
mới về môn trượt băng, ra khỏi quán cà phê, chân đi giày trượt, mồm ngậm thuốc
lá, chạy về phía cầu thang và bắt đầu nhảy xầm xầm từng bước xuống các bậc.
Thoáng một cái, anh ta đã ở chân cầu
thang và tay vẫn để nguyên như cũ, anh ta lao ngay mình trên mặt băng.
- A! Một ngón mới! - Levin tự bảo và
lập tức chàng leo lên cầu thang để bắt chước tay kia.
- Khéo không ngã chết đấy, phải quen
mới được! - Nicolai Serbatxki quát to bảo chàng.
Lên tới trên, Levin đi thử vài bước
trước khi vào cầu thang và bắt đầu xuống, dùng cánh tay giữ thăng bằng trong tư
thế bất bình thường đó. ở bậc cuối cùng, chàng bị vướng chân, nhưng chỉ hơi
chạm tay xuống mặt băng, chàng cố sức dướn mình dậy và lại cười vang tiếp tục
lao đi.
"Một chàng trai cừ thật!",
Kitti nghĩ thầm, lúc đó nàng vừa ra khỏi căn nhà ván cùng cô Linong và nhìn
chàng với nụ cười bình thản, trìu mến, như nhìn một người anh rất thân yêu.
"Có thể là mình đã có lỗi, mình làm một điều gì không tốt chăng? Người ta
bảo thế là điệu. Mình biết người mình yêu không phải là anh ta: nhưng dù sao ở
cạnh anh ấy, mình cũng thấy vui thích, anh ấy dễ thương quá! Tại sao anh ấy lại
nói thế nhỉ?...", nàng ngẫm nghĩ.
Nhìn thấy Kitti đi khỏi và mẹ nàng
đến tìm nàng, Levin dừng lại suy nghĩ, mặt còn đỏ bừng sau cuộc tập dượt mãnh
liệt. Chàng tháo giày trượt băng và đuổi kịp hai mẹ con ở cổng Vườn thú.
- Tốt rất hài lòng được tiếp cậu, -
quận công phu nhân nói. - Chúng tôi vẫn tiếp khách vào thứ năm đấy.
- Tức là hôm nay ạ?
- Chúng tôi sẽ rất vui mừng được
tiếp cậu, - quận công phu nhân khô khan nói.
Cái giọng khô khan đó khiến Kitti
chạnh lòng và nàng thấy cần làm dịu bớt thái độ lạnh lùng của mẹ. Nàng quay về
phía Levin và mỉm cười chào:
- Tạm biệt.
Giữa lúc đó, Xtepan Arcaditr, mũ đội
lệch một bên, vẻ mặt phấn khởi và cặp mắt long lanh, đi vào khu vườn với tư thế
kẻ chiến thắng hoan hỉ. Nhưng khi gặp bà nhạc, ông liền tạo bộ mặt buồn bã và
phạm lỗi để trả lời câu hỏi của bà về sức khỏe Doli. Sau khi nhỏ nhẻ nói chuyện
với quận công phu nhân một lát, vẻ ủ rũ, ông lại dướn người lên và khoác tay
Levin.
- Thế nào, ta đi chứ? - ông hỏi
Levin. - Lúc nào mình cũng nghĩ đến cậu và mình rất sung sướng thấy cậu tới
đây, - ông nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa.
- Nào đi, - Levin đáp, lòng rộn ràng
sung sướng, vẫn giữ nguyên trong trí nhớ lời "tạm biệt" và nụ cười
kèm theo.
- Đến khách sạn "Anh Quốc"
hay "Lầu ẩn Dật"?
- Mình thì đâu cũng thế.
- Vậy thì khách sạn "Anh
Quốc", - Xtepan Arcaditr nói, ông chọn hiệu ăn này vì ông nợ ở đây nhiều
hơn ở "Lầu ẩn Dật" và do đó, ông thấy nếu mình lờ nó đi thì kể cũng
khiếm nhã. - Cậu có xe ngựa đấy không? Tốt lắm, vì mình cho đánh xe về rồi.
Suốt dọc đường, đôi bạn ngồi yên
lặng, Levin cứ tự hỏi vẻ mặt thay đổi của Kitti có nghĩa gì; khi thì chàng tự
thuyết phục là còn có thể hy vọng, khi lại đâm nản và thấy rõ có họa là điên,
mới ôm khư khư lấy mối hy vọng. Tuy nhiên, chàng vẫn cảm thấy như trở thành một
người khác hẳn, từ khi người ta mỉm cười và chào: "tạm biệt".
Xtepan Arcaditr thì ngồi nghĩ đến
thực đơn bữa ăn.
- Mình chắc cậu thích món cá chim
chứ? - ông bảo Levin khi tới nơi.
- Cái gì kia? - Levin hỏi, - cá chim
ư? ừ, mình mê món cá chim lắm.
--------------------------------
1 Một trò chơi của người Nga. Những
người tham gia ngồi xe trượt và trượt trên những ụ đất nhỏ nối tiếp nhau.
2 Tini bear (tiếng Anh trong nguyên
bản).
Chương
9
Khi Levin bước vào tiệm ăn cùng
Oblonxki, chàng không thể không nhận thấy một vẻ đặc biệt, một vẻ rạng rỡ cố
nén trên mặt và khắp toàn thân Xtepan Arcaditr. Oblonxki cởi áo ngoài, và mũ
đội lệch sang bên, đi thẳng vào phòng ăn, sai bảo những gã Tacta quần áo chỉnh
tề, khăn vắt cánh tay, đang tất tả xung quanh ông. Ông quay bên trái, bên phải,
chào người quen gặp ở lối đi, và, cũng như ở mọi nơi khác, những người này đều
tỏ ra mừng rỡ khi thấy ông.
Oblonxki đến quầy rượu, uống một cốc
vôtka với ít cá nướng và nói vài câu với người đàn bà Pháp mặt bự phấn, toàn
thân đầy dải băng, đăng ten, búp tóc giả, ngồi sau quầy, làm mụ ta rũ ra cười
thích chí.
Còn Levin, chàng từ chối không uống,
vì thấy ngứa mắt trước cái mụ người Pháp dường như làm toàn bằng những mớ tóc
giả, phấn bột gạo và dấm xoa mặt 1. Chàng vội lảng xa mụ như lảng xa một nơi xú
uế.
Tâm hồn chàng đang tràn ngập hình
ảnh Kitti, và trong mắt chàng ngời lên nụ cười đắc thắng và hạnh phúc.
- Xin mời quan lớn ngồi đây ạ, chỗ
này sẽ không có ai làm rầy quan lớn cả, - một lão già người Tacta nói, lão ta
tóc vàng, rất khúm núm, vạt áo xoè ra trên cái mông bè bè. - Xin mời quan lớn,
- lão nói với Levin cũng rất lễ độ, để tỏ lòng kính trọng Xtepan Arcaditr.
Trong nháy mắt, lão đã trải khăn bàn
sạch lên trên chiếc bàn tròn có phủ sẵn khăn, kê ở dưới cây đèn vách bằng đồng
đen; lão kéo mấy chiếc ghế nhung lại gần và đứng cạnh Xtepan Arcaditr, tay cầm
bảng món ăn và cắp chiếc khăn, chờ sai bảo.
- Nếu các quan cần phòng riêng thì
hoàng thân Golitxun và một phu nhân sắp sửa ra khỏi một phòng trong chốc lát
đấy ạ. Chúng tôi đã nhận được sò tươi.
- à phải! Sò!
Xtepan Arcaditr chợt có vẻ suy nghĩ.
- Hay ta thay đổi thực đơn chăng,
Levin? - ông vừa nói vừa đặt ngón tay lên bảng món ăn. Và mặt ông lộ vẻ phân
vân nghiêm trọng.
- Sò có ngon không? Liệu hồn nhà anh
đấy!
- Bẩm quan lớn, sò Flenxburg ạ.
Chúng tôi không có sò Ôxtăng.
- Sò Flenxburg cũng được. ít ra cũng
còn tươi đấy chứ?
- Chúng tôi mới nhận được hôm qua ạ.
- Cậu thấy thế nào? Ta bắt đầu bằng
món sò chăng? Hay là ta thay đổi tất cả thực đơn?
- Thế nào cũng được. Mình thì mình
thích xúp bắp cải và kasa 2 hơn. Những món đó không thấy có ở đây.
- Quan lớn muốn dùng xúp nấu à la
riousse 3 ạ? - lão già Tacta nói, cúi xuống Levin như vú nuôi cúi xuống đứa bé.
- Không, mình không nói đùa đâu, cậu
cứ việc chọn món gì cậu ưng. Mình vừa trượt băng xong và đang đói. Đừng tưởng,
Levin nói tiếp, khi thấy mặt Oblonxki có vẻ không bằng lòng, cậu đừng tưởng
mình không biết đánh giá đúng sự lựa chọn của cậu đâu. Mình sẽ thú vị được chén
một bữa thật sang.
- Mình rất mong thế! Cậu muốn nói gì
thì nói, đó vẫn là một trong thứ khoái trên đời, - Xtepan Arcaditr nói. - Vậy
thì, người anh em cho chúng tớ hai tá, à mà không, chừng ấy chả đủ được, ba tá
sò, một xúp rau...
- Pretanière 4, - lão già Tacta tiếp
lời.
Nhưng rõ ràng Xtepan Arcaditr không
muốn để cho lão ta cái thú kể tên các món ăn bằng tiếng Pháp.
- Một xúp rau, anh rõ chứ? Rồi đến
cá chim với nước xốt đặc, rồi...
thịt bò quay, nhưng phải chú ý là
chín tới đấy. Một gà thiến và hoa quả hộp.
Lão già Tacta, chợt nhớ Xtepan
Arcaditr vốn kiểu cách hay đặt cho các món ăn những tên khác với tên trong thực
đơn, nên cứ để ông ta nói, nhưng lão cũng tự dành cho mình cái thú nhắc lại tất
cả thực đơn bằng những tên trong bảng món ăn: "Xúp mùa xuân, Cá chim xốt
Bomarse, Gà mái ghẹ nấu rau thơm, Nộm rau quả 5... rồi tức thì, như có lò xo
điều khiển, lão đặt tấm bảng món ăn có đóng bìa xuống và lấy ra một bảng khác
kê đồ uống chìa cho Xtepan Arcaditr.
- Ta uống gì bây giờ nào?
- Cậu muốn gọi gì thì gọi, mình chỉ
thích làm tí sâm banh, - Levin nói.
- Sao? Ngay từ đầu bữa à? Kể ra thì
tại sao lại không được nhỉ?
Cậu thích nhãn hiệu trắng chứ?
- Loại nhãn hiệu trắng 6, - lão
Tacta đỡ lời.
- Cho chúng tớ thứ ấy nhắm với sò.
Sau sẽ hay.
- Bẩm quan vâng. Các quan ưng dùng
rượu vang gì ạ?
- Rượu vùng Nuy. Không, tốt hơn là
cho chúng tớ vang trắng Sabli thường uống ấy.
- Vâng ạ. Có cần dọn món phó mát của
ngài không đấy ạ?
- ừ, phó mát vùng Parmo ấy, hay là
cậu thích phó mát khác?
- Không, mình thì món nào cũng thế
thôi, - Levin nói, không còn đủ sức để nín cười nữa.
Lão già Tacta đi khỏi, vạt áo phe
phẩy sau lưng. Năm phút sau, lão bưng ra một đĩa sò, vỏ óng ánh màu xà cừ và
chai rượu trong tay.
Xtepan Arcaditr vò nhàu khăn ăn hồ
bột, luồn vào áo gi lê và điềm đạm đặt tay lên bàn, bắt đầu ăn sò.
- Sò cũng không đến nỗi tồi, - ông
nói, tách những con sò mềm ra khỏi vỏ màu xà cừ bằng cái dĩa bạc nhỏ, và ăn hết
con này đến con khác. - Không đến nỗi tồi, - ông nhắc lại, vừa đưa đôi mắt long
lanh ướt, hết nhìn Levin lại đến lão Tacta.
Levin cũng ăn sò, tuy chàng thích
bánh mì trắng và phó mát hơn.
Nhưng chàng thán phục Oblonxki. Ngay
cả lão Tacta, sau khi mở chai, rót rượu vang lấp lánh vào những chiếc cốc mỏng
mảnh và rộng miệng, cũng nhìn Xtepan Arcaditr với nụ cười mãn nguyện ra mặt,
tay sửa lại ngay ngắn chiếc cravat trắng.
- Cậu không thích sò lắm à? - Xtepan
Arcaditr vừa hỏi vừa cạn cốc rượu, - hay là cậu đang có chuyện gì lo lắng? Nói
cho mình nghe nào?
Ông ta muốn Levin phải vui. Nhưng
Levin tuy không buồn, vẫn thấy bứt rứt khó chịu. Với điều mang nặng trong lòng,
chàng thấy không thoải mái trong tiệm ăn này, xung quanh toàn những phòng riêng
người ta chui vào ăn nhậu với các phu nhân, giữa những sự đi lại và náo động
này; tất cả những vật phu trang như đồ đồng đen, gương, đèn hơi, những bồi bàn
người Tacta, đều khiến chàng chướng tai gai mắt. Chàng sợ làm ô uế những gì
đang tràn ngập tâm hồn.
- Mình ấy à? Phải, mình đang có điều
lo nghĩ; và hơn nữa, mọi thứ này khiến mình khó chịu. Cậu không tưởng tượng
được mọi cái đó kỳ dị đến mức nào đối với một anh nhà quê như mình đâu. Thật y
như mấy cái móng tay của cái anh chàng mình gặp ở chỗ cậu...
- ừ, mình nhận thấy là những móng
tay của anh chàng Grinevitr đáng thương ấy làm cậu rất quan tâm, - Xtepan
Arcaditr vừa vười vừa nói.
- Mình biết làm thế nào được, -
Levin đáp. - Cậu hãy gắng một chút tự đặt mình vào địa vị một anh chàng ở nông
thôn xem. ở nông thôn, chúng tôi cố sức biến bàn tay thành một công cụ làm việc
tiện lợi: chúng tôi cắt ngắn móng tay, và thỉnh thoảng lại xắn tay áo lên.
Còn ở đây, người ta lại cố tình để
móng tay mọc càng dài càng tốt và đeo những khuy măngsét to bằng cái đĩa rồi
không thể làm được gì bằng hai bàn tay cả.
Xtepan Arcaditr vui vẻ cười.
- Nhưng điều đó chứng tỏ họ không
cần làm việc bằng tay; chính là trí tuệ họ làm việc...
- Có lẽ... Nhưng, dù sao đi nữa,
mình vẫn thấy điều đó là kỳ dị.
Mình còn thấy điều này nữa, cũng kì
dị, là ở nông thôn, bọn mình gắng ăn cho nhanh để còn làm việc, trong khi cái
đó càng lâu càng tốt; cho nên chúng mình mới ăn sò...
- Tất nhiên, - Xtepan Arcaditr tán
thành. - Nhưng chính đó là mục đích của văn minh. Phải biến tất cả thành thú
vui.
- Nếu như đó là mục đích của văn
minh, thì mình thích là người man rợ hơn.
- Thì cậu đã là người man rợ rồi đó.
Họ hàng Levin nhà cậu, tất cả đều man rợ hết.
Levin thở dài. Chàng càng nghĩ đến
ông anh Nikolai, cảm thấy hổ thẹn và cau mày; nhưng Oblonxki đã chuyển sang
chuyện khác, lái ngay sự chú ý của chàng về một hướng mới.
- Thế nào, tối nay cậu có đến nhà
bọn mình không, mình muốn nói là nhà Serbatxki ấy? - ông nói, gạt những vỏ sò
sần sùi ra, kéo đĩa phó mát lại và đưa cặp mắt long lanh nhìn chàng đầy ý
nghĩa.
- Có, nhất định mình sẽ đến, - Levin
trả lời, - tuy mình cảm thấy hình như quận công phu nhân mời mình không thật
tình cảm lắm.
- Cậu nói gì vậy? Ngốc thế! Đó là
lối kiểu cách của bà ta. Nào, cho chúng tớ món xúp, người anh em!... Đó là lối
kiểu cách đại phu nhân 7 của bà ta thôi, - Xtepan Arcaditr nói. - Mình cũng sẽ
đến, nhưng mình còn phải đi dự buổi tập hát ở nhà nữ bá tước Bonin. Thế mà cậu
còn không tự nhân là man rợ ư? Cắt nghĩa cái việc cậu đột nhiên biến khỏi
Moxcva ra sao đây? Gia đình Serbatxki cứ hỏi mình về tin tức cậu mãi, làm như
mình biết rõ ngọn nguồn ấy! Mình chỉ biết mỗi điều là bao giờ cậu cũng làm cái
mà chẳng ai làm cả.
- Phải, - Levin chậm rãi nói, vẻ bối
rối. - Cậu nói đúng, mình là một kẻ man rợ. Nhưng sự man rợ của mình không phải
ở chỗ mình bỏ đi mà ở chỗ bây giờ quay về... Mình đã trở về.
- ồ! Cậu thật sung sướng! - Xtepan
Ackađich nói tiếp, vừa nhìn thẳng vào mắt Levin.
- Tại sao?
- "Xem tướng ngựa bằng vào dấu
vết. Nhìn mắt người, ắt biết đang yêu", - Xtepan Arcaditr ngâm nga. -
Trước mặt cậu, có tất cả.
- Còn cậu, tất cả đã ở sau lưng cậu rồi
hẳn?
- Không, nhưng cậu, cậu có tương
lai; mình thì chỉ có hiện tại và cái hiện tại ấy, lúc thì trắng lúc lại đen
ngòm.
- Có chuyện gì vậy?
- Mọi việc đều hỏng bét. Nhưng mình
không muốn nói về mình và cũng không thể giãi bày hết mọi chuyện với cậu được,
- Xtepan Arcaditr nói. à, tại sao cậu lại trở về Moxcva?... Này, lại dọn đi! -
ông gọi lão già Tacta.
- Cậu không đoán ra ư? - Levin đáp,
cặp mắt long lanh một ánh nội tâm chằm chằm nhìn Xtepan Arcaditr.
- Có chứ, nhưng mình nói ra trước
thì không phải lối. Chỉ cần nói thế cậu cũng đủ hiểu mình đoán đúng hay không,
- Xtepan Arcaditr nói và nhìn Levin với một nụ cười ranh mãnh.
- Vậy cậu thấy thế nào? - Levin nói
tiếp, giọng run run và cảm thấy tất cả bắp thịt trên mặt mình giật giật. - Cậu
thấy chuyện đó thế nào?
Xtepan Arcaditr đủng đỉnh uống cạn
cốc rượu vang Sabli, mắt vẫn không rời Levin.
- Mình ấy à?... - ông nói. - Mình
không mong muốn gì hơn thế trên đời! Đó là điều tốt đẹp nhất có thể xảy đến!
- Nhưng cậu không lầm đấy chứ? Cậu
biết rõ điều chúng ta đang bàn đấy chứ? - Levin nói tiếp, đôi mắt ngấu nghiến
nhìn kẻ đối chuyện mình. Cậu tin là có thể được ư?
- Phải. Tại sao lại không được chứ?
- Không, cậu có thật sự tin rằng có
thể được không? Cậu hãy nói với mình tất cả những điều cậu nghĩ đi! Thế ngộ nhỡ
mình vấp phải sự từ chối?... Thậm chí, mình còn tin chắc là sẽ như thế...
- Tại sao cậu lại tin là thế? -
Xtepan Arcaditr nói, mỉm cười về sự xúc động của bạn.
- Đôi khi mình có cảm giác ấy. Nếu
thế thì thật kinh khủng: cả đối với mình, cả đối với nàng.
- Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng
chẳng có gì kinh khủng đối với một cô thiếu nữ đâu. Tất cả các cô gái đều tự
hào khi người ta đến hỏi xin cưới mình.
- Đúng, tất cả các cô gái nhưng trừ
nàng.
Xtepan Arcaditr mỉm cười. Ông biết
rất rõ tình cảm Levin. Ông hiểu là đối với chàng, các cô gái chia làm hai loại:
loại thứ nhất gồm tất cả các thiếu nữ, trừ Kitti, các cô gái đó có tất cả các
nhược điểm của con người và là những thiếu nữ rất tầm thường; loại kia thì chỉ
có mình nàng: nàng không hề có nhược điểm nào và hơn hẳn tất cả loài người.
- Khoan đã, cậu lấy nước xốt đi, -
ông nói, ngăn bàn tay Levin đang đẩy đĩa xốt ra.
Levin ngoan ngoãn lấy nước xốt nhưng
không để Xtepan Arcaditr kịp ăn.
- Không, cậu nghe đã, - chàng nói, -
cậu nên hiểu, đối với mình, đây là vấn đề sinh tử. Mình chưa bao giờ nói chuyện
này với ai cả. Và mình chỉ có thể nói với cậu được thôi. Hai đứa mình hoàn toàn
khác nhau: sở thích, ý kiến, tất cả đều ngăn cách chúng mình; nhưng mình biết
cậu mến mình và hiểu mình, và cả mình nữa, mình cũng rất mến cậu. Nhưng lạy
Chúa, cậu hãy hết sức thành thật với mình.
- Mình nói những điều mình nghĩ, -
Xtepan Arcaditr mỉm cười nói.
- Nhưng mình sẽ còn đi xa hơn thế
nữa, vợ mình là người đàn bà hết sức kỳ diệu. - Nhớ đến chuyện xích mích với
vợ, Xtepan Arcaditr thở dài và nín lặng một lát, rồi lại nói tiếp: - Vợ mình có
cái nhìn rất tinh đời, cô ta đọc thấu tận gan ruột mọi người. Hơn thế nữa, cô
ta còn đoán được hậu vận, nhất là những chuyện thuộc về cưới xin. Chẳng hạn, cô
ta đã nói trước là nàng Sakhovxcaia sẽ lấy Brenten... Chẳng ai tin cả, ấy thế
mà lại thành. ấy, vợ mình đứng về phe cậu đấy.
- Sao kia?
- Không những vợ mình có thiện cảm
với cậu, mà cô ta còn nói Kitti nhất định sẽ là vợ cậu nữa kia.
Nghe nói vậy, mặt Levin sáng ngời
lên một nụ cười tưởng như sắp biến thành những giọt nước mắt xúc động.
- Chị ấy bảo thế à! - chàng kêu lên.
- Mình vẫn bảo vợ cậu là một thiên thần mà. Nhưng thôi, ta đừng nói đến chuyện
ấy nữa, - chàng nói và đứng dậy.
- Được, nhưng hãy ngồi xuống đã.
Nhưng Levin không thể ngồi yên chỗ
được. Chàng đi đi lại lại quanh căn phòng hẹp hai ba lần, bước chân chắc nịch,
mắt chấp chới để giấu những giọt nước mắt, và sau đó mới ngồi xuống.
- Cậu nên hiểu mình, - chàng nói, -
đây không phải là tình yêu.
Mình đã yêu, nhưng đây không phải
chuyện như thế. Đó không phải là tình cảm, mà là một sức mạnh bên ngoài xâm
chiếm lấy mình.
Mình bỏ đi vì tin chắc không thể thế
được, một hạnh phúc như vậy không thể có được trên đời; mình đã đấu tranh với
bản thân và thấy rõ không có nàng, mình không sống nổi. Cho nên cần phải có một
quyết định...
- Nhưng tại sao cậu bỏ đi?
- Khoan, khoan đã! Mình có biết bao
ý nghĩ trong đầu, biết bao điều cần hỏi cậu! Cậu nghe đây. Cậu không thể biết
được cậu đã đem lại gì cho mình khi nói ra điều đó đâu. Mình sung sướng đến trở
thành ích kỷ: mình quên hết. Hôm nay mình được biết anh Nicolai...
cậu biết chứ... đang ở đây... và
mình đã quên khuấy anh ấy! Và mình thấy hình như cả anh ấy cũng sung sướng.
Thật cứ như là điên ấy.
Nhưng có điều đáng sợ... cậu đã có
vợ, cậu hẳn biết cảm giác ấy... thật kinh khủng khi ở tuổi chúng ta, với một
quá khứ... không phải một quá khứ yêu thương, mà là quá khứ tội lỗi... chúng ta
bất chợt đến gần một con người trong trắng, thơ ngây... thật gớm ghiếc! Làm sao
tránh khỏi cảm thấy mình không xứng đáng được?
- Thôi đi, lương tâm cậu đâu có mang
nhiều tội lỗi gì cho cam.
- à, dù sao đi nữa, - Levin nói, -
dù sao đi nữa: "Ôn lại cuộc đời một cách kinh tởm, tôi run lên, tôi nguyền
rủa và cay đắng thương cho phận mình...". Phải.
- Biết làm thế nào, sự đời vốn như
vậy, - Xtepan Arcaditr nói.
- Niềm an ủi độc nhất là lời cầu
nguyện này mà mình ưa thích:
Xin Chúa tha thứ cho con, không phải
vì đức độ của con, mà tùy ở lòng lành của Chúa. Chính nàng cũng chỉ có thể tha
thứ cho mình theo cách đó mà thôi.
--------------------------------
1 Poudre de riz và vinaigre de
toilette (tiếng Pháp trong nguyên bản).
2 Một loại thức ăn lỏng nấu bằng lúa
kiều mạch, rất phổ biến ở nông thôn Nga.
3 Trong nguyên bản: à la riousse,
chính là: à la russe (theo lối Nga), lão già Tacta phát âm sai.
4 Nguyên văn pretanière, chính ra
là: Printanière (mùa xuân).
5 Soupe printanière, turbot sauce
Beaumarchais, poularde à l'estragon, macédoine de fruits (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
6 Cachel blane (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
7 Grande dame (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
10
Levin uống cạn cốc rượu và họ ngồi
yên lặng một lúc.
- Mình phải nói với cậu một điều
nữa. Cậu biết Vronxki chứ? - Xtepan Arcaditr hỏi Levin.
- Không. Tại sao cậu lại hỏi mình
điều đó?
- Cho một chai nữa, - Xtepan
Arcaditr bảo lão già Tacta đang rót rượu đầy cốc hai người, lão cứ lăng xăng
bên cạnh họ, nhất là vào lúc người ta chẳng cần gì đến lão.
- Bởi vì đó là một trong những tình
địch của cậu.
- Anh chàng Vronxki đó là ai vậy? - Levin
nói, vẻ mặt trẻ con và phấn khởi mà giây phút trước đó Oblonxki rất ưa, bỗng
trở nên cáu kỉnh.
- Vronxki là một trong những con
trai của bá tước Xyrin Ivanovitr Vronxki và là một mẫu mực ưu tú trong đám
thanh niên quyền quý ở Peterburg. Mình quen hắn ở Tve, hồi mình làm việc ở đó:
hắn đến đấy để tuyển binh. Hắn rất giàu, điển trai, lại là sĩ quan cận vệ; hắn
quen thuộc những kẻ có thế lực, tuy thế hắn vẫn là gã thanh niên trung thực và
đáng yêu. Gọi là một thanh niên tốt cũng chưa đủ. ở đây, mình được biết thêm:
hắn có học thức và thông minh; đó là một người có triển vọng.
Levin cau mày, chẳng nói chẳng rằng.
- Hắn tới đây sau khi cậu đi khỏi ít
lâu, và hình như chết mê chết mệt vì Kitti. Cậu biết là bà mẹ...
- Xin lỗi mình không hiểu gì hết, -
Levin nói, mặt sa sầm. Chàng chợt nhớ đến ông anh Nicolai và tự trách mình đã
quên phắt anh.
- Khoan đã, - Xtepan Arcaditr mỉm
cười nói và với tay về phía Levin. - Mình đã nói với cậu những điều mình biết
và xin nhắc lại là trong vấn đề tế nhị này, theo chỗ mình nhận định, triển vọng
vẫn nghiêng về phía cậu.
Levin ngửa người ra trên ghế tựa;
mặt chàng tái nhợt.
- Nhưng mình khuyên cậu nên thu xếp
chuyện ấy thật sớm đi, - Oblonxki nói tiếp, vừa rót đầy rượu vào cốc Levin.
- Không, cảm ơn, mình không thể uống
được nữa, - Levin nói và đẩy cốc rượu ra. - Mình say mất... Này, thế còn cậu,
chuyện cậu ra sao? - chàng nói tiếp, rõ ràng muốn chuyển sang chuyện khác.
- Một câu nữa thôi: dù sao đi nữa,
mình cũng khuyên cậu nên sớm giải quyết vấn đề đi. Hôm nay thì đừng nói vội, -
Xtepan Arcaditr nói.
Sáng mai, cậu hãy đến hỏi cưới theo
đúng tục lệ và cầu Chúa che chở cho cậu...
- Trước đây, cậu muốn đến chỗ mình
đi săn. Sang xuân, cậu tới nhé, - Levin nói.
Lúc này, trong thâm tâm, chàng thấy
hối hận đã khơi mào câu chuyện này với Xtepan Arcaditr. Tình cảm sâu kín của
chàng bị câu chuyện về mưu toan kình địch của viên sĩ quan thành Peterburg, bị
những lời ủng hộ và khuyên nhủ của Xtepan Arcaditr làm ô uế.
Ông này mỉm cười. Ông hiểu những
điều đang diễn ra trong tâm hồn Levin.
- Thế nào cũng có hôm mình đến, -
ông nói. - Phải, người anh em ạ, đàn bà là cái trục làm xoay tít thò lò tất cả.
Đối với mình cũng thế, mọi việc đều hỏng, hỏng bét. Và lần nào cũng chỉ vì đàn
bà. Cậu hãy thành thật cho mình biết ý kiến của cậu, - ông nói tiếp, một tay
rút điếu xì gà, và tay kia cầm chân cốc rượu sâm banh.
- Về vấn đề gì?
- Thế này nhé. Giả thử cậu đã có vợ,
cậu yêu vợ, nhưng cậu lại để một người đàn bà khác quyến rũ.
- Xin lỗi, nhưng mình thật hoàn toàn
không hiểu sao người ta có thể... cũng như giờ đây, mình vừa ra khỏi bàn ăn,
lại đánh cắp bánh mì trắng khi đi qua hiệu bánh vậy.
Đôi mắt Xtepan Arcaditr càng sáng
hơn thường lệ.
- Tại sao lại không thể như thế? Đôi
khi bánh mì trắng thơm đến nỗi khó mà cưỡng lại sức cám dỗ.
Tuyệt diệu biết bao khi chiến thắng
Những khát khao dung tục tầm thường; Ví như lòng dục khôn dập tắt, Thì vẫn nồng
lạc thú dương gian! 1 Vừa ngâm nga, Xtepan Arcaditr vừa mỉm cười ranh mãnh. Cả
Levin nữa, chàng cũng không nhịn cười được.
- Thôi không đùa nữa, - Oblonxki nói
tiếp. - Cậu nên biết người đàn bà đó là một con người thuỳ mị, dịu dàng, đa
cảm; cô ta nghèo nàn, cô quạnh và đã phải hy sinh tất cả. Giờ đây, việc đã lỡ
rồi, có nên bỏ rơi người ta chăng? Cứ cho rằng cần phải đoạn tuyệt để khỏi tổn
thương đến đời sống gia đình, nhưng ta có quyền thương xót, nghĩ đến tương lai
nàng, làm dịu bớt cảnh ngộ nàng không?
- Mình xin lỗi cậu, nhưng cậu vốn
biết đối với mình, đàn bà chia làm hai loại... hay thật ra không phải thế...
nói đúng hơn là: có những người đàn bà và có... Mình chưa từng thấy những phụ
nữ đồi trụy mà lại có sức quyến rũ; mụ người Pháp bự phấn với những búp tóc
ngồi sau quầy kia, làm mình phát khiếp và tất cả phụ nữ trụy lạc làm mình sợ
như thế.
- Còn đàn bà ngoại tình thì sao?
- à! Xin đủ! Chúa hẳn không bao giơ
thốt ra tiếng đó nếu biết người đời sẽ lạm dụng nó như thế nào! Trong toàn bộ
kinh Phúc âm, người ta chỉ nhớ có mỗi đoạn ấy thôi. Vả chăng, mình không nói
điều mình nghĩ, mà nói điều mình cảm thấy. Mình cảm thấy ghê tởm những người
đàn bà trụy lạc. Cậu sợ nhện, mình lại sợ giống sâu bọ đó. Chắc chắn là cậu
không nghiên cứu loài nhện và cậu không biết thói quen của chúng: mình cũng
vậy.
- Cậu nói thế thì dễ thôi: thật y
như nhân vật của Dickens 2 lấy tay trái ném qua vai phải tất cả những vấn đề
rắc rối. Nhưng phủ định một sự việc đâu phải là câu giải đáp. Làm thế nào? Cậu
hãy nói cho mình nghe phải làm thế nào kia? Vợ anh già đi mà anh thì còn đầy
sức sống. Chưa kịp ngoái lại đằng sau, anh đã cảm thấy không còn có thể yêu vợ
với tấm tình chân thật, mặc dầu anh tôn trọng nàng đến đâu chăng nữa. Và đột
nhiên tình yêu ập đến và thế là đi đứt, đi đứt, - Xtepan Arcaditr nói, giọng
tuyệt vọng.
Levin cười nhạt.
- Phải, thế là mình đi đứt! -
Oblonxki nói tiếp, - làm thế nào đây?
- Đừng có ăn trộm bánh mì trắng.
Xtepan Arcaditr phá lên cười.
- Ôi! Nhà đạo đức! Nhưng cậu nên
hiểu: đây là hai người đàn bà:
một người cứ nằng nặc đòi quyền lợi
của mình và những quyền lợi đó... là tình yêu mà anh không thể nào dâng cho cô
ta được nữa, người kia thì hy sinh tất cả cho anh và không đòi hỏi gì hết. Làm
thế nào? Nên có thái độ xử sự ra sao? Thật là một tấn bi kịch xé lòng.
- Nên cậu muốn mình phát biểu thành
thật, thì xin thưa rằng mình không tin trong chuyện đó có gì là bi thảm cả. Và
lý do là thế này. Theo mình, tình yêu... hai loại ái tình mà Platon 3 định
nghĩa trong bài "Tiệc" 4 của ông, hẳn cậu còn nhớ, hai loại ái tình
đó dùng làm đá thử vàng cho mọi người. Một số người chỉ hiểu được loại ái tình
thứ nhất, một số khác hiểu được loại thứ hai. Và những kẻ nào chỉ hiểu được
loại ái tình không theo kiểu Platon 5 thì không có quyền nói đến chuyện bi
kịch. Thứ ái tình đó không thể gây ra bi kịch nào cả. "Rất cám ơn về cuộc
tiêu khiển, xin đa tạ...", đấy tất cả tấn bi kịch là thế. Và đối với tình
yêu đó, tất cả đều trong sáng và trinh bạch, bởi vì...
Đến đây, Levin chợt nhớ đến những
lỗi lầm và cuộc đấu tranh nội tâm của mình. Và chàng kết luận hoàn toàn bất
ngờ:
- Vả lại, có lẽ chính cậu nói đúng.
Rất có thể... Mình không biết gì về chuyện đó cả, hoàn toàn không biết gì hết.
- Cậu ạ, - Xtepan Arcaditr nói, -
cậu thật là con người thuần nhất.
Đó vừa là ưu điểm vừa là khuyết
điểm. Bản thân cậu chính trực và cậu muốn tất cả cuộc đời cũng phải bao gồm
những sự kiện không pha tạp, vậy mà sự đời đâu có như thế. Cậu khinh miệt công
việc trị dân mang danh nghĩa là hoạt động xã hội, vì cậu muốn mỗi hành động bao
giờ cũng phải phù hợp với một mục đích, điều đó cũng không hề có trên đời. Cậu
còn muốn hoạt động của một con người phải hướng về một mục đích, tình yêu và
cuộc sống vợ chồng phải hòa làm một... tuyệt không có thế đâu. Tất cả cái muôn
màu muôn vẻ, tất cả cái huyền diệu, tất cả cái đẹp của cuộc đời đều do bóng tối
và ánh sáng tạo nên.
Levin thở dài, không trả lời. Chàng
nghĩ đến những lo lắng riêng và không nghe Oblonxki nói. Và đột nhiên cả hai
đều cảm thấy tuy là bạn với nhau, tuy vừa mới cùng ăn, cùng uống với nhau -
điều này lẽ ra phải khiến họ thêm gắn bó - vậy mà mỗi người chỉ nghĩ đến riêng
mình và rất ít bận tâm đến người kia. Oblonxki đã nhiều lần nhận thấy sự xa cách
như vậy sau một bữa ăn đáng lẽ phải làm người ta gần gũi nhau hơn, và ông biết
rõ nên làm gì trong những trường hợp đó.
- Tính tiền! - ông nói to, và đi
sang buồng bên; ở đây, gặp một viên sĩ quan cận vệ vốn là chỗ quen biết, ông
liền bắt chuyện trao đổi về một cô đào hát và người bao cô ta. Cuộc đàm tiếu
khiến Oblonxki nhẹ nhõm và thanh thản hẳn lên: nói chuyện với Levin, ông luôn
luôn phải gắng vận dụng trí tuệ quá nhiều.
Khi lão Tacta trở lại, cầm tờ biên
lai tính tiền lên tới trên hăm sáu rúp, không kể thù lao hầu bàn, Levin, giá
như mọi khi, quê mùa như chàng, hẳn sẽ thất kinh lên dù chỉ phải trả mười bốn
rúp, lần này lại chẳng mảy may để ý đến. Chàng thanh toán tiền và trở về nhà
thay quần áo để đến nhà Serbatxki, nơi sẽ quyết định số phận chàng.
--------------------------------
1 Tiếng Đức trong nguyên bản.
Himmlish ist' s wenn ich bezwungen
Meine irdische Begier;
Aber doch wenn's nicht gelungen,
Halt ich auch recht hubsch Plaisir!
2 Charles Dickens (1812-1870) nhà
văn lớn của Anh, có khuynh hướng hiện thực và xã hội, tác giả David
Copperfield, Chuyện phiêu lưu của Pichuych, Olivo Tuyxt v.v...
3 Platon là nhà triết học cổ Hy Lạp
(429-347 trước Công nguyên), học trò Socrate và thầy học của Aristote. Học
thuyết của ông là biện chứng pháp, cuối cùng chuyển thành thuyết ý niệm, chủ
trương rằng chân lý - đối tượng của khoa học - không phải nằm trong những hiện
tượng riêng biệt và phù phiếm, mà ở trong ý niệm, cái điển hình trong sáng nhất
của mỗi nhóm sinh vật, trên tất cả là ý niệm về điều thiện.
4 Banquet (tiếng Pháp trong nguyên
bản). Đấy là một bài đối thoại của Platon trong đó ông để Socrate nói về tình
yêu, ca ngợi cái đẹp của tâm hồn và cái đẹp hoàn hảo, vĩnh viễn. Trong bài này,
Platon đã phác họa một chân dung Socrate tuyệt vời.
5 Tình yêu phàm tục, tiếng Pháp là
non-platonique. Trong tiếng Pháp chữ Platonique (thuộc về Platon) đã được hiểu
rộng ra là những cái gì lý tưởng.
Chương
11
Tiểu thư Kitti Trerbaxcaia mới mười
tám tuổi. Đây là mùa đông đầu tiên cô tiếp xúc với giới xó giao. Cô đó thành
công trong giới thượng lưu hơn các chị; ngay cả mẹ cô cũng không ngờ tới điều
đó.
Không những mọi chàng trai hay khiêu
vũ trong các buổi dạ hội ở Moxcva đều phải lòng Kitti, mà ngay từ mùa đông đầu
tiên, hai chàng phò mó thật sự đó ra mắt: Levin, và ngay sau khi chàng về quê,
bá tước Vronxki.
Sự xuất hiện của Levin vào đầu mùa
đông, việc chàng năng lui tới nhà Kitti và mối tình lộ liễu của chàng đối với
cô là duyên cớ của những cuộc chuyện trò nghiêm túc đầu tiên giữa cha mẹ Kitti
về vấn đề tương lai cô và của những cuộc cói lộn giữa quận công 1 và phu nhân,
quận công đứng về phía Levin và nói ông không mong muốn gì hơn cho Kitti. Theo
thói quen đặc biệt của các bà thường hay lật lại vấn đề, phu nhân cho rằng
Kitti còn trẻ dại quá, rằng Levin tuyệt nhiên không tỏ vẻ gì là có ý định đứng
đắn, rằng Kitti không yêu anh ta và đưa ra những lý lẽ khác nữa; nhưng bà không
hề nói ra điều chủ yếu: bà hy vọng kiếm cho Kitti một tấm chồng danh giá hơn;
bà không có thiện cảm với Levin và không hiểu nổi chàng. Cho nên khi Levin đột
nhiên biến mất, phu nhân mừng lắm, nói với chồng đầy vẻ đắc thắng: "Mình
xem, tôi nói có đúng không!". Và khi Vronxki bước vào cuộc, bà lại càng
món nguyện và chôn chặt trong đầu cái ý nghĩ là không những việc cưới xin của
Kitti sẽ tốt đẹp mà còn danh giá nữa.
Đối với bà mẹ, không thể có sự so
sánh nào giữa Vronxki và Levin khả dĩ đứng vững được. Điều bà không bằng lòng ở
Levin, là những ý kiến kỳ quái và quyết đoán của anh ta, sự vụng về của anh ta
giữa đám thượng lưu mà bà cho là thói hợm hĩnh, và cuộc đời man rợ mà bà phỏng
đoán anh ta đang sống ở nông thôn giữa đám gia súc và bọn nhà quê. Anh ta còn
làm bà phật ý vì nỗi mặc dầu phải lòng con gái bà, nhưng trong sáu tuần liền
lui tới nhà bà, anh ta vẫn ra vẻ chờ đợi, quan sát, kiểu như sợ ngỏ ý ra thì sẽ
đem lại cho gia đình bà một vinh dự quá ư lớn lao vậy. Anh ta lại không biết
rằng khi lui tới một nhà có con gái đén tuổi lấy chồng, thì phải cho ngoười ta
biết ý đồ của mình chứ! Thế rồi anh ta lại đùng đùng bỏ đi chẳng nói nửa lời.
"May mà hắn cũng chẳng có vẻ gì
quyến rũ cho lắm và Kitti cũng không mê hắn", bà mẹ nghĩ thầm.
Trái lại, Vronxki có thể thoả món
mọi ước muốn của bà: rất giàu, thông minh, xuất thân gia đình quý phái, một sự
nghiệp xán lạn ở triều đình và trong quân đội đang mở ra trước mặt, thêm vào
đó, lại vô cùng tuấn tú, thật không thể mơ ước gì hơn thế nữa.
Vronxki công khai theo đuổi Kitti:
chàng nhảy với cô trong các buổi khiêu vũ, đi lại nhà cô, ý đồ của chàng rõ như
ban ngày. Tuy nhiên, suốt mùa đông, phu nhân đó trải qua bao nỗi lo lắng ghê
gớm.
Bản thân bà lấy chồng từ ba mươi năm
trước, do một bà dì làm mối. Khi chàng phò mó, mà ai nấy đều biết từ trước, đến
xem mặt vợ chưa cưới đồng thời để trình diện, bà dì rất lo nhưng sau đó cho đôi
bên biết là cuộc chạm ngõ đó gây ấn tượng tốt. Rồi đến ngày đó định, chàng rể
đến xin cha mẹ vợ cho cưới và được chấp thuận. Mọi sự đều diễn ra rất trôi
chảy, rất giản đơn. ít ra đó cũng là ý nghĩ của phu nhân. Nhưng đến khi lo cho
các con gái, bà mới hiểu ra rằng cái công việc bề ngoài có vẻ rất giản đơn ấy,
thật khó khăn nhường nào. Biết bao nỗi dằn vặt, suy nghĩ, biết bao món chi
tiêu, biết bao cuộc cói cọ giữa hai ông bà về chuyện hôn nhân của hai cô lớn,
Daria và Natalia!
Bây giờ là lúc cần xếp đặt cho cô
thứ ba có nơi có chốn, bà lại sắp phải trải qua những nỗi lo âu, thấp thỏm như
vậy và lại cói nhau với chồng kịch liệt hơn những lần lo cho các cô lớn! Cũng
như mọi người làm bố, lóo quận công đặc biệt rất dễ động lòng về những gì có
liên quan đến danh dự và trinh bạch của con gái; ông cưng các cô đến mức vô lý,
nhất là cô con gái rượu Kitti và luôn luôn to tiếng với vợ, trách vợ làm hỏng
con cái mình. Thời kỳ các cô lớn ở riêng, phu nhân đó quen với những chuyện đó,
nhưng bây giờ bà cảm thấy tính dễ giận dỗi của chồng có cơ sở hơn. Bà thấy ít
lâu nay trong xó hội có sự thay đổi lớn về tập tục và do đó bổn phận người làm
mẹ lại càng khó khăn hơn. Bà thấy các cô gái cùng lứa tuổi Kitti thường lập
những nhóm riêng biệt, theo học lớp này lớp nọ, đối xử với nam giới phóng túng,
ra phố một mình bằng xe ngựa, một số lớn các cô không còn chào theo kiểu cúi
rạp mình và nhất là, tất cả đều một mực đinh ninh trong dạ rằng việc kén chồng
là việc của mình chứ không phải của cha mẹ.
"Bây giờ người ta lấy vợ lấy
chồng không như ngày xưa nữa", tất cả các cô thiếu nữ và thậm chí cả người
đứng tuổi đều nghĩ và nói thế.
Vậy thì người ta lấy nhau như thế
nào? Không ai nói cho phu nhân biết điều đó cả. Cái phong tục Pháp cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy đó bị gạt bỏ rồi. Cái phong tục Anh để cho con gái hoàn toàn
tự do cũng bị trả về nốt, coi như không thể thừa nhận trong xó hội Nga. Phong
tục Nga cưới xin theo kiểu mối lái bị coi là bỉ ổi; mọi người đều chê cười
phong tục ấy và phu nhân cũng phụ họa theo. Thế thì lấy chồng như thế nào, gả
bán con cái mình ra sao? Chẳng ai biết gì cả. Tất cả những người được phu nhân
bày tỏ nỗi lòng, đều trả lời: "Tôi xin bà, đó đến lúc phải bỏ những hủ tục
đi! Bọn trẻ nó lấy nhau chứ có phải là bố mẹ chúng đâu, phải để cho chúng tự ý
thu xếp lấy". Nhưng khi người ta không có con gái thì nói như vậy cũng dễ
đấy! Phu nhân cứ nơm nớp lo, trong khi chơi bời với bọn thanh niên, nhỡ con gái
bà lại phải lòng một gó không hề có ý định lấy vợ hoặc không xứng đáng làm
chồng thì khốn. Và mặc cho người ta hoài công nói xa nói gần cho phu nhân hiểu
là, ở thời này, thanh niên phải tự quyết định lấy đời mình, bà vẫn không tin,
cũng như bà không thể tin rằng đồ chơi thích hợp nhất cho trẻ con lên năm lại
là những khẩu súng lục lắp đạn sẵn, cho dù ở thời đại nào đi nữa. Và chính vì
thế mà phu nhân càng lo cho Kitti hơn cho các cô kia.
Bây giờ bà sợ Vronxki chỉ tán tỉnh
suông con gái mình thôi. Bà thấy rõ Kitti phải lòng anh ta, người vững tâm tự
nhủ Vronxki là người trọng danh dự và sẽ không làm thế. Nhưng đồng thời bà cũng
biết với lối tự do phóng khoáng đang ngự trị trong cách sống hiện nay, việc mê
hoặc một cô thiếu nữ thật rất dễ dàng và thường thường bọn đàn ông vẫn coi đó
là chuyện chẳng quan trọng. Tuần lễ trước, Kitti có kể lại cho mẹ nghe cuộc trò
chuyện giữa cô và Vronxki trong khi nhảy mazuyếcka. Cuộc nói chuyện đó khiến
phu nhân chắc dạ thêm một chút, nhưng bà vẫn không thực sự yên tâm. Vronxki nói
với Kitti là hai anh em chàng đó quen phục tùng mẹ về mọi vấn đề nên họ không
bao giờ quyết định một việc gì quan trọng mà không hỏi ý kiến mẹ. Chàng nói:
"Và hôm nay, tôi chờ mẹ tôi từ Peterburg đến, như chờ một hạnh phúc rất
đặc biệt".
Kitti nhắc lại lời chàng, cho đó
chẳng có gì là đặc biệt quan trọng.
Nhưng mẹ cô lại hiểu cách khác. Bà
biết rằng ngày một ngày hai bá tước phu nhân có thể đến, và chắc là phu nhân sẽ
hài lòng về sự kén chọn của con trai. Nhưng bà vẫn ngạc nhiên về việc Vronxki
không dám tự ý cầu hôn, sợ làm phật lòng mẹ. Tuy nhiên, bà hết sức mong muốn
cuộc nhân duyên này và nhất là ao ước chấm dứt mọi lo lắng, cho nên bà sẵn sàng
tin là thế. Mặc dầu phu nhân rất khổ tâm về nỗi bất hạnh của cô con gái cả Doli
đang một hai định rời khỏi nhà chồng, những lo lắng cho số phận cô út vẫn thu
hút toàn bộ tình cảm của bà.
Việc Levin đến Moxcva càng làm bà
thêm lo ngại; bà sợ con gái mình một dạo đó có đôi chút tình ý với Levin, nay
có thể vì quá trung thực mà từ chối Vronxki, cho nên sự có mặt của anh ta ở
Moxcva lúc này sẽ khiến tình hình trở nên rắc rối và có thể trì hoón đoạn kết
thúc đó gần kề.
- Anh ta đến đây lâu chưa? - bà hỏi
con gái, khi hai mẹ con trở về nhà.
- Thưa mẹ, hôm nay ạ.
- Có một điều mẹ muốn nói với con...
- phu nhân mào đầu và chỉ mới nhìn bộ mặt nghiêm nghị, kích động của mẹ, Kitti
đó đoán được bà sắp nói chuyện gì. - Thưa mẹ, - cô nói, đỏ mặt và quay phắt về
phía mẹ, - con xin mẹ, con xin mẹ, mẹ đừng nói gì cả. Con biết, con biết hết
rồi.
Cô thông cảm với mong ước của mẹ,
nhưng những động cơ của bà làm cô khổ tâm.
- Mẹ chỉ muốn nói với con là sau khi
đó để cho một người hy vọng...
- Mẹ ơi, lạy Chúa, xin mẹ đừng nói gì
cả! Con sợ nói chuyện đó lắm.
- Thôi được, - bà nói khi thấy Kitti
rơm rớm nước mắt, - mẹ chỉ nói một câu thôi, con gái xinh đẹp của mẹ: con đó
hứa là không giấu mẹ điều gì phải không? Có đúng thế không?
- Không bao giờ mẹ ạ, không bao giờ
con giấu mẹ đâu... - Kitti trả lời, mặt đỏ bừng và nhìn thẳng vào mẹ. - Nhưng
bây giờ con không có điều gì nói với mẹ cả... Ngay cả nếu con muốn... con cũng
không biết nòi gì với mẹ và nói như thế nào... con không biết...
"Không, với đôi mắt kia, nó
không thể nói dối được", bà mẹ nghĩ thầm, mỉm cười trước nỗi bối rối và
hạnh phúc của con gái. Bà mỉm cười vì thấy những diễn biến trong tâm hồn con
gái đang trở nên to lớn và quan trọng biết bao đối với cô bé tội nghiệp.
--------------------------------
1 Chữ KHязb trong tiếng Nga (cũng
như chữ Irince trong tiếng Pháp và tiếng Anh) ngoài những nghĩa:
hoàng tử, hoàng thân... còn chỉ một
tước phong trong chế độ Nga hoàng tương đương với công tước hoặc hơn một chút.
Trong trường hợp Serbatxki, chúng tôi nghiêng về nghĩa này hơn, vì toàn bộ cuốn
tiểu thuyết không có dấu hiệu gì chứng tỏ gia đình này có quan hệ hoàng tộc.
Chúng tôi tạm dụng chữ quận công.
Chương
12
Sau bữa ăn chiều, trong khi chờ đợi
buổi tối, Kitti thấy có cảm giác tương tự như cảm giác của một chàng trai trước
giờ xuất trận. Trống ngực cô đập thình thình và đầu óc cô không thể nghĩ đến
chuyện gì dứt khoát. Cô cảm thấy tối nay sẽ quyết định số phận mình khi hai
chàng trai lần đầu gặp nhau. Và cô luôn hình dung thấy họ, khi riêng từng
người, khi cả hai một lúc. Ôn lại quá khứ, cô thích thú và trìu mến ngẫm ngợi
những kỷ niệm về quan hệ của mình với Levin. Kỷ niệm về thời thơ ấu, về tình
bạn giữa Levin với người anh mất sớm của cô mang lại cho những quan hệ đó một
vẻ đặc biệt huyền diệu và thơ mộng. Mối tình của chàng, mà cô biết chắc, làm cô
thinh thích và vui sướng. Cho nên nghĩ đến Levin, lòng cô dịu xuống. Trái lại,
cô luôn luôn cảm thấy thế nào ấy khi nghĩ đến Vronxki, mặc dầu chàng là một
trang phong lưu công tử trọn vẹn và rất tự chủ; dường như có một cái gì giả tạo
len vào, không phải trong con người Vronxki (chàng rất giản dị và đáng yêu), mà
trong cô, còn như ở bên Levin thì cô lại thấy hoàn toàn giản dị, hoàn toàn
trong trắng. Nhưng khi mơ đến tương lai bên cạnh Vronxki, những viễn ảnh hạnh
phúc sáng ngời mở ra trước mắt cô; với Levin, tương lai dường như mù mịt.
Cô lên buồng để thay quần áo và sau
khi soi gương, cô vui sướng thấy hôm nay mình rất đẹp và hoàn toàn tự chủ, điều
đó rất cần thiết cho cô lúc này; cô cảm thấy tâm hồn thư thái và cử chỉ duyên
dáng thoải mái.
Vào khoảng bảy rưỡi, cô vừa xuống
phòng khách thì người hầu đã vào báo: "Ông Conxtantin Dimitrievitr
Levin". Quận công phu nhân hãy còn ở trên buồng và lão quận công cũng chưa
xuống. "Đến lúc rồi đây", Kitti nghĩ thầm và máu trong người dồn cả
về tim. Cô soi vội vào gương và hoảng lên vì thấy mặt mình tái nhợt.
Lúc này, cô biết chắc là Levin định
đến trước để gặp cô một mình và tỏ tình. Lần đầu tiên, vấn đề hiện ra trước mắt
với khía cạnh khác hẳn. Cô chợt hiểu đây không phải chỉ là chuyện riêng của cô,
chuyện hạnh phúc, chuyện tình cảm của cô, mà một lát nữa, cô sẽ phải làm tổn
thương đến người đàn ông cô từng quý mến. Và làm tổn thương một cách tàn nhẫn
nữa... Tại sao? Vì chàng thanh niên trung thực đó yêu cô. Nhưng biết làm sao,
đó là chuyện không thể tránh được, thế tất phải như vậy.
"Lạy Chúa tôi! Chính mình sắp
phải nói với anh ấy điều đó!". Cô nghĩ thầm. "Dù sao mình cũng không
thể nói với anh ấy là mình không yêu! Nói vậy là không đúng... Mình sẽ nói gì
với anh ấy đây?
Nói mình đã yêu nhưng khác chăng?
Không, không thể được. Mình bỏ đi thôi".
Cô ra gần đến cửa thì chợt nghe thấy
tiếng chân Levin. "Không, thế là không ngay thẳng. Mình chả việc gì mà sợ.
Mình chả làm việc gì xấu cả.
Việc phải đến, ắt sẽ đến. Mình sẽ
nói thật với anh ấy. Với anh ấy, có thể không đến nỗi khó nói lắm. Anh ấy đây
rồi". Cô tự nhủ khi thấy chàng trai cao lớn, khỏe mạnh và rụt rè ấy, cặp
mắt long lanh đăm đăm nhìn cô. Cô nhìn thẳng vào mặt chàng, như van xin tha
lỗi, và bắt tay chàng.
- Hình như tôi đến quá sớm, - chàng
nói và đảo mắt nhìn khắp phòng khách vắng ngắt. Khi thấy mọi sự đúng như dự
định và không có gì ngăn trở cuộc tỏ tình nữa, mặt chàng đâm u ẩn.
- ồ, không sớm đâu! - Kitti nói và
ngồi xuống cạnh bàn.
- Chính vì tôi muốn gặp cô một mình,
- Levin mở đầu, chàng vẫn đứng và tránh nhìn Kitti để khỏi nhụt mất can đảm.
- Mẹ em sắp xuống ngay bây giờ đấy.
Hôm qua, mẹ em rất mệt.
Hôm qua...
Cô nói mà không biết môi mình đang
thốt ra điều gì, mắt đăm đăm nhìn chàng, vẻ van xin, trìu mến.
Cặp mắt Levin dán vào Kitti: cô đỏ
mặt và im bặt.
- Tôi có nói với cô là không biết
tôi có ở lại đây lâu hay không... điều ấy còn tuỳ cô.
Kitti càng cúi gằm mặt xuống, không
biết sẽ trả lời ra sao những điều Levin sắp nói với mình.
- Điều đó còn tuỳ ở cô, - chàng nhắc
lại. - Tôi muốn nói với cô... tôi muốn nói với cô... Tôi đến đây để... Cô hãy
là vợ tôi! - chàng kết luận, chính bản thân cũng không biết mình vừa nói gì;
nhưng chàng cảm thấy điều đáng sợ nhất đã được nói ra; chàng dừng lại và nhìn
Kitti.
Kitti như nghẹn thở, mắt cụp xuống
không nhìn chàng. Cô cảm thấy một niềm vui mênh mông. Tâm hồn cô tràn ngập hạnh
phúc. Cô không ngờ lời tỏ tình đó lại khiến cô xúc động mãnh liệt đến thế.
Nhưng nó chỉ kéo dài trong chốc lát.
Cô nhớ đến Vronxki. Cô ngước cặp mắt trong sáng ngay thật nhìn Levin, thấy vẻ
mặt tuyệt vọng của chàng và hấp tấp trả lời:
- Không thể được... anh tha thứ cho
em.
Một phút trước thôi, Kitti gần gũi,
cần thiết cho đời chàng biết mấy! Giờ đây, chàng cảm thấy cô vô cùng xa lạ.
- Hẳn nhiên là thế, không thể khác
được, - chàng nói, không nhìn Kitti. Chàng cúi chào và định đi ra.
Chương
13
Nhưng đúng lúc ấy, phu nhân bước
vào. Mặt bà lộ vẻ hãi hùng khi thấy chỉ có hai người bàng hoàng đứng với nhau.
Levin lặng lẽ cúi chào bà. Kitti nín thinh, mắt nhìn xuống. "Đội ơn Chúa,
nó từ chối rồi", bà mẹ nghĩ thầm và mặt sáng lên nụ cười quen thuộc, nụ
cười tiếp khách những tối thứ năm. Bà ngồi xuống và bắt đầu hỏi Levin sống ở
nông thôn ra sao. Chàng đành ngồi lại, chờ khách đến đông để lẻn về khỏi lộ.
Năm phút sau, một bạn gái của Kitti,
mới lấy chồng mùa đông năm ngoái, bước vào: nữ bá tước Norxton.
Đó là một thiếu phụ dễ khích động,
người khô đét, da vàng bệch, mắt đen, vẻ ốm yếu. Bà ta mến Kitti và lòng ưu ái
đó, giống như ở mọi người đàn bà có chồng yêu thích các thiếu nữ, thể hiện rõ
trong ý muốn kiếm cho Kitti một người chồng phù hợp với lý tưởng về hạnh phúc
của bà: bà ta muốn Kitti lấy Vronxki. Bà ta thường gặp Levin ở nhà Serbatxki
hồi đầu mùa đông và bao giờ cũng ác cảm với chàng.
Mỗi khi gặp Levin, bà chỉ thích chế
giễu chàng.
- Tôi thích thấy anh ta nhìn tôi
bằng nửa con mắt hoặc cắt đứt câu chuyện vì thấy tôi ngu dốt quá, hoặc hạ cố
nói chuyện với tôi. Tôi rất thích thấy anh ta hạ mình xuống! Tôi rất thú vị
thấy anh ta không chịu được tôi, - bà nói.
Bà ta không nhầm: quả thật, Levin
không thể chịu được bà, và điều chàng khinh miệt lại chính là những cái bà ta
thường khoe khoang và dương dương tự đắc: tính dễ khích động, vẻ khinh khỉnh và
dửng dưng lọc lõi của bà đối với tất cả những gì cục cằn và vật chất.
Giữa nữ bá tước Norxton và Levin,
hình thành cái quan hệ thường gặp khá nhiều trong giới thượng lưu: quan hệ giữa
hai người bề ngoài vẫn là bè bạn nhưng khinh nhau đến mức không thèm để ý,
không thèm đả kích nhau nữa.
Nữ bá tước Norxton lập tức tấn công
Levin.
- A, Conxtantin Dimitrievitr! Thế là
ông lại trở về giữa thành Babilon 1 đồi trụy của chúng tôi rồi, - bà ta vừa
chìa bàn tay gầy nhẳng và vàng bệnh cho chàng bắt, vừa nói, có ý ám chỉ câu của
Levin vào một hôm đầu mùa đông: càng bảo Moxcva là một thứ Babilon. - Thế nào,
phải chăng Babilon đã cải hóa hay chính ông đã hư hỏng vậy? - bà nói tiếp, và
đưa mắt cười cợt nhìn Kitti.
- Thưa nữ bá tước, tôi rất lấy làm
vui thích thấy bà còn nhớ kỹ câu tôi nói đến thế, - Levin đáp, chàng đã kịp
trấn tĩnh và ngay từ đầu đã lấy lại cái giọng mát mẻ thường dùng để nói chuyện
với nữ bá tước Norxton. - Hẳn nó đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với bà.
- à! Chứ sao nữa? Tôi đã ghi lại tất
cả. Này Kitti, cô vẫn đi trượt băng đấy à?
Và bà liền quay sang nói chuyện với
Kitti. Mặc dầu thấy rút lui sớm quá cũng không tiện, Levin vẫn ưng phạm điều
khiếm nhã đó hơn là ngồi lại cả buổi tối cạnh Kitti; thỉnh thoảng cô lại liếc
trộm chàng trong khi vẫn tránh cái nhìn của chàng. Chàng định đứng dậy, nhưng
phu nhân thấy chàng lặng thinh, liền hỏi:
- Cậu có định ở lại Moxcva lâu
không? Hình như cậu làm ở toà án hòa giải hội đồng tự trị địa phương phải
không? Chắc cậu không ở lại lâu được nhỉ?
- Thưa phu nhân, không ạ, tôi không
ở trong hội đồng nữa, Levin nói. - Tôi đến đây vài hôm thôi ạ.
"Hắn ta đang có chuyện gì
đây", nữ bá tước Norxton nghĩ thầm, nhìn kỹ bộ mặt nghiêm nghị và khắc khổ
của Levin, "hắn không lao vào những chuyện thuyết lý thường lệ. Nhưng mình
sẽ có cách khiến hắn phải nói như mọi khi. Mình rất thích làm cho hắn đâm ra lố
bịch trước mặt Kitti và mình sẽ làm được như vậy!" - Ông Conxtantin
Dimitrievitr, bà nói với Levin, - ông là người am hiểu mọi chuyện sau, xin ông
cắt nghĩa giùm tại sao ở tỉnh Kaluga chúng tôi, bọn mugich và vợ con chúng có
bao nhiêu tiền là uống rượu sạch và không còn gì để nộp tô cho chúng tôi nữa?
Thế nghĩa là thế nào? Ông thường vẫn khen ngợi bọn mugich ghê lắm kia mà...
Giữa lúc đó, một bà khác bước vào
phòng và Levin đứng dậy.
- Thưa nữ bá tước, xin lỗi bà, tôi
không rõ tình hình ra sao nên không thể trả lời được, - chàng nói và ngoảnh
nhìn một sĩ quan theo sau bà vừa tới.
"Chắc đây là Vronxki",
Levin nghĩ thầm và để chắc chắn hơn, chàng liếc nhìn Kitti. Cô đã kịp trông
thấy Vronxki và lại đưa mắt về phía Levin. Chỉ một cái nhìn đó và đôi mắt cô gái
long lanh cũng đủ cho Levin hiểu cô yêu người đàn ông đó, hiểu chắc chắn như cô
đã lớn tiếng thú nhận với chàng vậy. Nhưng anh chàng này là người thế nào đây?
Bây giờ, nên hay không nên, Levin
cũng không thể không ở lại, chàng cần biết kẻ được Kitti yêu là người thế nào.
Có những người khi gặp kẻ tình địch
may mắn hơn mình, thì sẵn sàng phủ nhận tất cả những gì tốt đẹp, mà chỉ nhìn
thấy cái xấu ở anh ta thôi; trái lại có những người trước hết muốn tìm cho ra ở
kẻ tình địch tốt số những ưu điểm khiến anh ta thành công, và, lòng đau như xé,
chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh ta. Levin thuộc vào loại người này. Nhưng chàng
chẳng phải mất công mới khám phá ra những gì quyến rũ ở Vronxki. Điều đó nổi
bật trước mắt. Vronxki tóc nâu, người tầm thước, rất cân đối, khuôn mặt đẹp hồn
hậu, vẻ rất bình tĩnh và tự tin. Trên khuôn mặt và toàn thân chàng, từ mớ tóc
nâu cắt ngắn, chiếc cằm cạo nhẵn cho đến bộ đồng phục mới may rất chỉnh, tất cả
đều vừa giản dị vừa sang trọng. Sau khi né ra nhường lối cho một bà cùng vào
với mình, Vronxki tiến lại gần phu nhân rồi đến chỗ Kitti.
Khi đi về phía cô gái, cặp mắt đẹp
của chàng ngời lên một ánh trìu mến và một nụ cười sung sướng thoáng nở, vừa
nhũn nhặn vừa đắc thắng (theo cảm giác của Levin), chàng cúi chào Kitti và chìa
bàn tay thon thả nhưng rộng cho cô bắt.
Sau khi chào mọi người và nói với
mỗi người vài câu, chàng ngồi xuống, không nhìn Levin, trong khi Levin vẫn
không rời mắt khỏi chàng.
- Cho phép tôi giới thiệu hai vị với
nhau, - phu nhân vừa nói vừa chỉ Levin, - ông Conxtantin Dimitrievitr Levin, bá
tước Alecxei Kirilôvich Vronxki.
Vronxki đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt
Levin, vẻ thân mật và bắt tay.
- Tôi đã tưởng là mùa đông vừa qua
chúng ta được cùng ngồi ăn với nhau kia đấy, - chàng nói với Levin, mỉm cười
giản dị và thành thật. - Nhưng đột nhiên ngài lại bỏ về nông thôn mất.
- Ông Conxtantin Dimitrievitr khinh
miệt và ghét bỏ thành phố này cùng những người ở đấy, - nữ bá tước Norxton nói.
- Chắc những lời tôi nói đã có ấn
tượng mạnh mẽ đối với bà, nên bà mới nhớ kỹ đến thế, - Levin nói, và chợt nhớ
mình đã nói câu này một lần rồi, liền đỏ mặt.
Vronxki nhìn Levin và nữ bá tước
Norxton rồi mỉm cười.
- Ngài vẫn sống ở nông thôn? Mùa
đông, ở đó chắc buồn lắm?
- Khi bận công bận việc thì không
thấy buồn, vả lại, tôi cũng chẳng bao giờ buồn vì chỉ rỗi có một mình, Levin
trả lời, giọng cộc cằn.
- Tôi rất thích nông thôn, - Vronxki
nói, như không để ý đến giọng Levin.
- Nhưng, thưa bá tước, chắc ông
không thích ở nông thôn suốt đời chứ? - nữ bá tước Norxton nói.
- Tôi không biết, tôi chưa ở nông
thôn lâu ngày bao giờ. Tôi đã từng có một cảm giác kỳ lạ, - Vronxki nói tiếp. -
Chưa bao giờ tôi thấy nhớ nông thôn, nhớ miền nông thôn Nga với những người
mugich đi giày vỏ cây, như cái hồi sau khi sống qua một mùa đông ở Nixo cùng mẹ
tôi. Nixo, Xorento thì cũng chỉ có thể chịu được ít bữa thôi. Chính ở đó người
ta mới thấy nhớ nước Nga mãnh liệt nhất. Thật y như là...
Chàng nói, lúc với Kitti, lúc với
Levin, cặp mắt điềm đạm và hòa nhã, hết nhìn người này sang người kia; rõ ràng
chàng đã nói ra những gì chợt đến trong đầu.
Nhận thấy nữ bá tước Norxton muốn
nói điều gì, chàng dừng lại giữa câu và chăm chú lắng nghe bà ta.
Câu chuyện vẫn không ngớt đi phút
nào, phu nhân không cần đưa ra hai đề mục lớn: món cổ học với những trường
chuyên nghiệp và chế độ quân dịch, mà bà luôn dự trữ phòng khi thiếu đầu đề nói
chuyện và nữ bá tước Norxton cũng không có dịp trêu chọc Levin.
Levin không thể tham gia vào cuộc
nói chuyện chung, mặc dầu chàng rất muốn; lúc nào chàng cũng tự bảo: "Mình
phải đi ngay mới được", nhưng vẫn ngồi lại, chờ đợi một cái gì.
Câu chuyện chuyển sang vấn đề bàn
xoay và vong hồn, và nữ bá tước Norxton, vốn tin ở thuật gọi hồn, liền bắt đầu
kể lại những điều kỳ diệu bà ta đã mục kích.
- A! Nữ bá tước, xin bà hãy vì Chúa,
dẫn tôi đến nhà những người đó với! Tôi chưa bao giờ được thấy điều gì phi
thường cả, mà tôi thì chỉ ước muốn có thế thôi, - Vronxki mỉm cười nói.
- Đồng ý, thứ bảy sau nhé, - nữ bá
tước Norxton đáp. - Nhưng còn ông, Conxtantin Dimitrievitr, ông có tin thế
không? - bà ta hỏi Levin.
- Tại sao bà lại hỏi tôi điều đó? Bà
thừa biết là tôi sẽ trả lời như thế nào rồi.
- Nhưng tôi thích nghe ý kiến của
ông kia.
- ý kiến tôi, - Levin trả lời, - chỉ
đơn giản là chuyện những chiếc bàn xoay kia chứng tỏ cái xã hội gọi là học thức
chẳng văn minh gì hơn những người mugich của chúng tôi cả. Họ tin ở chuyện mất
vía, ở chuyện phù chú, bùa chài, còn chúng tôi...
- Vậy ông không tin thế ư?
- Thưa nữ bá tước, tôi không thể tin
được.
- Nhưng nếu chính mắt tôi đã trông
thấy thì sao?
- Các bà nông thôn cũng đã kể họ
trông thấy thần Đômôvôi 2.
- Vậy ông cho là tôi bịa đặt chăng?
Và bà cười gượng.
- Không đâu, Masa ạ, anh Conxtantin
Dimitrievitr chỉ nói anh ấy không tin chuyện gọi hồn, - Kitti xen vào, cô đỏ
mặt ngượng thay cho Levin; chàng cảm thấy điều đó và nổi nóng định đáp lại;
nhưng Vronxki, với nụ cười thân ái và cởi mở, liền xen vào cuộc tranh luận đang
đe dọa chuyển thành mỉa mai chua chát.
- Ngài hoàn toàn không thừa nhận là
có thể như thế ư? Vronxki hỏi. - Tại sao vậy? Chúng ta đã thừa nhận là có điện
lực, mà về điều này chúng ta cũng chẳng hiểu gì hết... tại sao lại không thể có
một sức mạnh mới chưa ai hiểu nổi, nó...
- Khi khám phá ra điện, - Levin sôi
nổi ngắt lời Vronxki, - người ta mới chỉ nhận thấy một hiện tượng mà chưa biết
rõ nguồn gốc và tác dụng; hàng thế kỷ sau, người ta mới nghĩ đến cách áp dụng
nó. Trái lại, những kẻ gọi hồn bắt đầu bằng sai khiến những chiếc bàn chỉ ra
hậu vận và gọi vong hồn, rồi sau đó mới nói đến một sức mạnh chưa ai hiểu nổi.
Như các lần trước, Vronxki chăm chú
lắng nghe Levin, coi bộ rất quan tâm đến những ý kiến của chàng.
- Phải, nhưng bây giờ những kẻ gọi
hồn nói: "Chúng tôi không hiểu sức mạnh đó ra sao, tuy nhiên nó vẫn tồn
tại và đây, các vị hãy xem nó hoạt động trong những điều kiện như thế nào. Việc
khám phá nội dung của nó, xin dành cho các nhà bác học". Không, tôi không
rõ tại sao không thể có một sức mạnh mới, nếu...
- Tại vì, - Levin lại ngắt lời chàng
lần nữa, - nói về điện lực, mỗi lần ngài lấy len xát vào miếng nhựa cây, ngài
đều đạt được một hiện tượng nhất định, còn như cái trò gọi hồn, không phải bao
giờ cũng có kết quả. Cái đó không thể là một hiện tượng tự nhiên được.
Hẳn Vronxki nghĩ câu chuyện đã trở
nên quá trang nghiêm đối với một phòng khách, nên không trả lời gì; để lái sang
chuyện khác, chàng vui vẻ mỉm cười và quay về phía các bà.
- Ta hãy thí nghiệm luôn xem, thưa
nữ bá tước, - chàng nói tiếp. - Nhưng Levin lại muốn tiếp tục chứng minh nốt ý
kiến của mình.
- Theo tôi, - chàng nói, - cái mưu
toan của bọn gọi hồn định giải thích phép mầu bằng một sức mạnh mới, nhất định
thất bại. Họ nói đến sức mạnh tinh thần mà lại muốn bắt nó trải qua thí nghiệm
vật chất.
Tất cả đều chờ chàng nói hết, chàng
chợt nhận ra điều đó.
- Thế mà, tôi lại cứ tưởng ông có
thể làm một cô đồng cừ khôi kia đấy, - nữ bá tước Norxton nói, - ông quả có một
cái gì thật sôi nổi.
Levin mở miệng toan trả miếng, nhưng
đỏ mặt lên và không nói gì.
- Ta đem bàn ra thử gọi hồn luôn xem
sao, - Vronxki nói. - Thưa phu nhân, bà cho phép?
Và chàng đứng dậy, đưa mắt tìm chiếc
bàn tròn.
Kitti đứng dậy và bắt gặp cái nhìn
của Levin khi đi qua trước mặt chàng. Cô hết lòng thương hại chàng và càng
thương hơn vì chính cô là nguyên nhân nỗi đau đớn. "Nếu có thể xin anh tha
thứ cho em, cái nhìn của cô nói vậy... em đang sung sướng biết bao!"
"Tôi căm thù mọi người, cả cô, cả bản thân tôi nữa!". Cái nhìn của
Levin trả lời vậy, và chàng định tìm mũ ra về. Nhưng số chàng chưa thể rời căn
phòng này được. Trong khi người khác xúm lại ngồi quanh bàn tròn và chàng sắp
sửa ra đi, thì lão quận công bước vào. Ông chào các bà và quay về phía Levin.
- A! - ông nói, giọng vui vẻ. - Cháu
đến đây lâu chưa? Thế mà bác không biết là cháu ở đây nữa kia. Tôi rất vui mừng
được gặp cậu.
Quận công lúc gọi Levin bằng cháu,
lúc bằng cậu. Ông ôm hôn chàng và trong khi nói với chàng, ông không chú ý mảy
may đến Vronxki lúc này đã đứng dậy và bình tĩnh chờ ông nhận ra sự có mặt của
mình.
Kitti cảm thấy sau câu chuyện vừa
xảy ra, thái độ thân ái của cha hẳn càng làm Levin khổ tâm. Cô cũng thấy cha cuối
cùng đã lạnh lùng đáp lại lời chào của Vronxki và thấy Vronxki nhìn ông cụ vẻ
vừa ngạc nhiên lại vừa buồn cười tựa hồ như tự hỏi: quái quỷ tại sao người ta
lại có thể xử tệ với mình thế; Kitti đỏ mặt.
- Thưa quận công, xin bác trả lại
Conxtantin Dimitrievitr cho chúng cháu, - nữ bá tước Norxton nói. - Chúng cháu
đang định làm một thí nghiệm.
- Thí nghiệm gì thế? Xoay bàn à? Xin
quý bà và quý ông thứ lỗi cho, nhưng theo ý tôi thì chơi trò chồn đèn 1 còn thú
vị hơn, lão quận công vừa nói vừa nhìn Vronxki và đoán rằng chính chàng ta đã
đầu têu ra cái trò này. - Trò chồn đèn ít ra cũng có một ý nghĩa nào đó.
Vronxki nhìn quận công một cách điềm
đạm và ngỡ ngàng, rồi chàng thoáng mỉm cười và quay ngay sang nói chuyện với nữ
bá tước Norxton về cuộc khiêu vũ lớn sẽ tổ chức vào tuần sau.
- Tôi hy vọng cô sẽ đến dự chứ? -
chàng hỏi Kitti.
Khi lão quận công vừa rời chàng ra,
Levin vội lẻn ra không để ai thấy, mang theo trong lòng hình ảnh cuối cùng của
đêm tiếp tân đó:
vẻ mặt tươi cười hớn hở của Kitti
khi đáp lại câu hỏi của Vronxki.
--------------------------------
1 Một thành phố thời thượng cổ thành
lập năm 2106 trước Công nguyên. Hiện nay vẫn còn di tích trên sông Ơfrat cách
Bátđa (thủ đô Irắc) 160 cây số về phía Đông Nam. Nổi tiếng về những công trình
kiến trúc mỹ lệ và sự xa hoa đàng điếm.
2 Tiếng Nga, là vị thần trong nhà,
theo chuyện cổ dân gian Nga, giống như vua bếp của ta.
Chương
14
Buổi tiếp tân kết thúc, Kitti kể lại
với mẹ câu chuyện giữa cô với Levin; tuy thương hai chàng, cô vẫn sung sướng
khi nghĩ mình vừa được một người cầu hôn. Cô tin chắc mình đã xử sự hợp lý.
Nhưng nằm vào giường rồi, cô trằn trọc mãi không ngủ được. Một hình ảnh không
buông tha cô: hình ảnh khuôn mặt Levin, lông mày nhíu lại, đứng nghe lão quận
công nói và đăm đăm nhìn cô, nhìn Vronxki bằng con mắt tối sầm và buồn bã. Cô
thương chàng đến trào nước mắt. Nhưng ngay lập tức, cô nghĩ tới người thay thế
chàng. Cô nhớ lại rõ ràng bộ mặt kiên nghị và trai tráng, vẻ tự tin rất hiên
ngang, sự đôn hậu lộ rõ trong mọi cử chỉ người ấy; cô nhớ đến mối tình mà người
cô yêu đã đem lại và tâm hồn cô dạt dào niềm vui; cô áp đầu trên mặt gối mỉm
cười sung sướng. "Chuyện ấy làm mình khổ tâm thật. Nhưng biết làm thế nào?
Đâu có phải lỗi tại mình?", cô nghĩ vậy, mặc dầu một tiếng nói trong lòng
bảo ngược hẳn lại. Cô cũng không biết mình hối hận vì đã quyến rũ Levin hay vì
đã từ chối chàng nữa. Nhưng niềm vui sướng của cô bị mối nghi ngờ làm gợn.
"Lạy Chúa, xin Chúa hãy rủ lòng thương con! Lạy Chúa, xin Chúa hãy rủ lòng
thương con!", cô nhắc đi nhắc lại trước khi ngủ thiếp đi.
Trong lúc ấy, ở dưới nhà, trong
phòng nhỏ làm việc của lão quận công, đang diễn ra một trong những cảnh cãi cọ
quá thường xuyên giữa cha mẹ Kitti về chuyện cô con gái rượu.
- Có chuyện gì à? Rồi bà sẽ biết! -
quận công quát lớn, hai tay vung lên rồi khép ngay vạt áo ngủ lót da sóc lại. -
Có chuyện là bà chẳng có chút tự tôn, cũng chẳng có chút phẩm cách nào hết; bà
đã bôi nhọ và làm hỏng con gái bà vì cái lối lố bịch, tầm thường là đi kiếm
chồng cho nó đấy!
- Nhưng mà lạy Chúa, tôi đã làm gì
hở ông? - phu nhân nói như sắp khóc.
Sau khi nói chuyện với con gái, bà
sung sướng và mãn nguyện vào chúc quận công ngủ ngon như thường lệ. Tuy không
có ý định cho chồng biết việc Levin hỏi cưới và Kitti đã từ chối, bà vẫn nói xa
xôi cho ông hiểu bà coi đám cưới của con gái với Vronxki là chắc chắn rồi và
mọi việc sẽ quyết định ngay sau khi bà bá tước tới. Bà vừa nói tới đó, thì quận
công nổi trận lôi đình và gay gắt trút lên đầu vợ những lời không êm tai lắm.
- Bà đã làm gì à? Để tôi nói cho bà
biết: một là, bà đã quyến rũ một vị hôn phu: Moxcva sẽ bàn tán chuyện ấy và bàn
tán là phải. Trong các buổi tiếp tân, bà nên mời tất cả mọi người, chứ đừng mời
riêng cái bọn rắp ranh bắn sẻ theo ý bà chọn lựa. Cứ việc mời tất cả cái bọn
nhãi nhép ấy (quận công vẫn gọi đám thanh niên ở Moxcva như vậy), thuê lấy một
tên chuyên đập phá và cứ việc khiêu vũ đi, nhưng đừng có bố trí những cuộc gặp
gỡ như tối hôm nay. Trông thấy thế tôi buồn nôn lắm! Và thế là bà đạt được mục
đích rồi, bà làm con bé đâm mê loạn! Thằng Levin còn hơn cái thằng kia gấp
nghìn lần. Những ngài chủ nhãi ở Peterburg này, người ta sản xuất ra chúng hàng
loạt, thằng nào cũng giống thằng nào: toàn đồ vô tích sự hết. Và dù cho thằng
này có là hoàng tử chính tông, con gái tôi cũng không cần!
- Nhưng tôi đã làm gì nào?
- Bà... - quận công thét lên giận
giữ.
- Nếu nghe ông, - phu nhân ngắt lời
chồng, - thì chả bao giờ ta lo được cho con gái thành gia thất. Thà về quê ở
cho xong.
- Thế còn hơn!
- Nhưng ông hãy nghe tôi đã nào!
Tuyệt nhiên tôi không hề chạy theo anh ta. Có một người trẻ và đẹp mê con gái
mình, và tôi cảm thấy hình như con mình cũng...
- Phải, bà cảm thấy! Và ngộ nhỡ con
mình mê thằng kia thật, ngộ nhỡ thằng cha chẳng tính đến chuyện lấy vợ hơn gì
tôi bây giờ thì sao?... Ôi! Tôi muốn không có mắt cho xong!... "Ôi chao!
Phép gọi hồn.
Ôi chao! Nixo! Ôi chao! Khiêu
vũ!"... (và quận công, cứ sau mỗi tiếng, lại bắt chước vợ cúi chào một
cái). Và thế là ta làm khổ con Kitti, nếu nó thật sự có ý định...
- Nhưng sao ông lại nghĩ như vậy
chứ?
- Tôi không nghĩ gì cả, tôi biết; về
những chuyện ấy, chúng tôi có mắt nhìn, còn đàn bà thì mù cả. Tôi thấy một
người có ý định đứng đắn: đó là Levin, và tôi thấy một con công: đó là thằng
cha hợm hĩnh chỉ nghĩ đến chuyện vui chơi thôi.
- Thôi đi, ông cứ nghĩ ra thế...
- Bà sẽ hối hận thôi, nhưng lúc đó
muộn rồi, như với con Doli ấy.
- Thôi được, thôi được, không nói
chuyện ấy nữa, - phu nhân ngắt lời chồng, chạnh nhớ đến chuyện Doli xấu số.
- Được! Chào bà!
Hai vợ chồng làm dấu thánh giá và
hôn nhau, nhưng cảm thấy mỗi người vẫn giữ lập trường riêng, và chia tay.
Phu nhân mới đầu vẫn tin chắc buổi
tiếp tân đã quyết định số phận Kitti và không nghi ngờ gì về ý định của
Vronxki; nhưng lời chồng nói làm bà bối rối... Bà về phòng riêng, lòng đầy sợ
hãi trước tương lai xa lạ, và cũng như Kitti, bà thầm nhắc đi nhắc lại lời cầu
nguyện từ đáy lòng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy rủ lòng thương con.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy rủ lòng
thương con".
--------------------------------
1 Một trò chơi tập thể trong đó mọi
người ngồi quanh chiếc bàn tròn, luồn cái vòng vào sợi dây dài và chuyển nó từ
chỗ này qua chỗ khác, tượng trưng cho con chồn đèn đang lẩn trốn người săn. Một
người làm người đi săn cố tìm cách bắt được cái vòng.
Chương
15
Vronxki chưa bao giờ trải qua đời
sống gia đình. Mẹ chàng hồi trẻ là người lừng lẫy trong giới thượng lưu; hồi
chồng còn sống và nhất là sau này, bà đã có nhiều chuyện trăng hoa ầm ĩ dư
luận. Chàng chỉ hơi nhớ về ông bố, chàng được dạy dỗ ở trường Hoàng tộc thiếu
sinh quân.
Tốt nghiệp sĩ quan ở trường ra còn
rất trẻ, chàng rơi luôn vào vết xe cũ của những sĩ quan giàu có ở Peterburg.
Mặc dầu thỉnh thoảng vẫn giao thiệp với giới thượng lưu, chuyện yêu đương của
chàng lại xảy ra ở chỗ khác.
Sau cuộc đời sa hoa và kệch cỡm tại
Peterburg, chính ở Moxcva lần đầu tiên chàng cảm thấy cái thú được gần gũi một
thiếu nữ thượng lưu, trong trắng và đáng yêu đã mê chàng. Thậm chí chàng không
hề nghĩ có thể có gì đáng trách trong quan hệ của mình với Kitti. Đi khiêu vũ,
chàng nhảy nhiều nhất với cô, chàng đi lại nhà bố mẹ cô, nói với cô những
chuyện thường nói trong giới thượng lưu:
những chuyện ngớ ngẩn, nhưng đã được
chàng hồn nhiên đưa vào một ý nghĩa đặc biệt dành cho cô. Mặc dầu không hề nói
những điều cần giấu cho khỏi lọt vào tai mọi người, chàng vẫn cảm thấy cô càng
ngày càng phụ thuộc vào mình; và càng thấy thế, chàng càng dễ chịu và càng trìu
mến cô hơn. Chàng không biết lối xử sự với Kitti như thế đã được đặt tên rành
rọt, đó là thủ đoạn quyến rũ gái mà không có ý định lấy làm vợ, một thủ đoạn
thuộc loại những hành động xấu xa vốn quen thuộc với những gã trai thành đạt
như chàng. Chàng tưởng mình đã khám phá ra một thú vui mới, và khoan khoái
hưởng sự khám phá đó. Nếu được nghe những lời bố mẹ cô gái nói đêm hôm đó, nếu
có thể đặt mình vào địa vị gia đình và hiểu Kitti sẽ khổ sở nếu chàng không lấy
cô, chắc chàng sẽ ngạc nhiên và không tin là thật. Chàng không thể tin rằng cái
điều làm cho chàng và nhất là cô ta vui thích đến thế, lại đáng quở trách.
Chàng lại càng không tin mình cần lấy vợ.
Chưa bao giờ chàng nghĩ đến chuyện
lấy vợ. Không những chàng không thích đời sống gia đình mà còn coi gia đình,
đặc biệt là vai trò anh chồng, như một nhân tố xa lạ, đối địch và nhất là... lố
bịch đối với giới chưa vợ hiện là môi trường sống của chàng. Nhưng, mặc dầu
Vronxki không hề ngờ tới câu chuyện giữa đôi vợ chồng già Serbatxki, khi ở nhà
họ ra, chàng vẫn cảm thấy mối liên hệ tinh thần, huyền bí giữa chàng với Kitti
trong buổi tối đó đã khăng khít thêm đến mức chàng thấy cần phải bắt tay làm
một cái gì. Nhưng liệu có thể làm gì và cần làm gì, điều đó chàng chưa biết.
"Điều thú vị - chàng nghĩ bụng khi ở nhà Serbatxki ra về, đem theo, như thường
lệ, một ấn tượng khoan khoái, trong trắng và tươi mát, một phần do cả buổi tối,
chàng không hút thuốc, cùng với một niềm xúc động mới do mối tình cô gái biểu
lộ với chàng - điều thú vị chính là ở chỗ cô nàng lẫn ta đều không nói gì hết,
nhưng hai bên hiểu nhau qua những cái nhìn câm lặng và từng cách uốn giọng,
thành thử hôm nay nàng đã thú nhận yêu mình rõ ràng hơn bao giờ hết. Thú nhận
bằng cái vẻ duyên dáng, giản dị và nhất là tin cẩn làm sao! Bản thân mình cũng
thấy tốt hơn, trong sạch hơn. Mình cảm thấy mình có một trái tim, trong tâm hồn
có nhiều cái tốt đẹp. Ôi cặp mắt xinh đẹp đa cảm kia! Khi nàng nói: vâng, rất
là..." "Thế rồi sao? Không sao hết, cái đó làm mình vui, cả nàng
nữa".
Và chàng tự hỏi phải làm gì cho hết
đêm nay.
Chàng nhớ lại một lượt những nơi có
thể đến. "Đến câu lạc bộ chăng? Làm ván bài bêdigờ 1, uống sâm banh với
Ignhatôp? Không.
Đến Lâu Đài Hoa 2 chăng? Đến đó thế
nào cũng gặp Oblonxki với các thứ chuyện lắp đi lắp lại, cái thói ngồi lê mách
lẻo 3? Không, chán ngấy đến mang tai rồi. Đó chính là lẽ tại sao mình yêu gia
đình Serbatxki, họ làm cho mình tốt hơn lên. Mình về thôi".
Chàng về thẳng buồng mình ở khách
sạn Duixo, gọi ăn đêm, thay quần áo, và vừa đặt đầu lên gối đã đánh một giấc li
bì.
--------------------------------
1 Một loại bài chơi bằng cỗ xì: hai,
ba hoặc bốn người chơi đều được cả.
2 Château des Fleurs (tiếng Pháp
trong nguyên bản) 3 Cancan (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Chương
16
Sáng hôm sau, mười một giờ, Vronxki
ra ga Peterburg đón mẹ:
người đầu tiên chàng nhìn thấy trên
bậc cầu thang lớn là Oblonxki đến đón em gái cũng về chuyến tàu này.
- Này, Quan lớn đi đón ai thế? -
Oblonxki reo lên.
- Đón mẹ tôi, - Vronxki trả lời và
mỉm cười như mọi người mỗi khi gặp Oblonxki; chàng bắt tay và cùng ông lên cầu
thang. - Hôm nay, mẹ tôi ở Peterburg tới.
- Tôi đã đợi anh đến tận hai giờ. ở
nhà Serbatxki ra, anh đi đâu?
- Đi về, - Vronxki đáp. - Xin thú
thực là tôi thấy buổi tối hôm qua thú vị đến nỗi chẳng còn muốn đi chơi đâu
nữa.
"Xem tướng ngựa bằng vào dấu
vết. Nhìn mắt người ắt biết đang yêu", Xtepan Arcaditr ngâm nga như đã
ngâm với Levin hôm trước.
Vronxki ừ ào mỉm cười nhưng chuyển
sang chuyện khác ngay.
- Còn anh, anh đi đón ai thế? -
chàng hỏi.
- Tôi ấy à? Một giai nhân, -
Oblonxki nói.
- ái chà chà!
- Nhục thay kẻ có tà tâm 1. Cô Anna
em gái tôi đấy!
- à! Carenin phu nhân ấy à? -
Vronxki nói.
- Chắc anh quen cô ấy?
- Vâng, hình như thế! Hay là không
cũng nên... Nói thật ra, tôi cũng không nhớ nữa, - Vronxki trả lời lơ đãng, cái
tên Carenin như mơ hồ gợi lại cho chàng một cái gì gượng gạo và đáng ngán.
- Nhưng chắc anh biết ông em rể lỗi
lạc của tôi là Alecxei Alecxandrovitr chứ? Mọi người đều biết ông ấy.
- Nghĩa là tôi cũng chỉ mới biết
tiếng và mới được nhìn thấy ông ấy thôi. Tôi biết ông ta thông minh, có học
thức, xuất sắc. Nhưng anh cũng rõ đấy, đó không phải... không thuộc loại của
tôi 2, - Vronxki nói:
- Phải, ông ta là người rất lỗi lạc;
hơi bảo thủ một chút nhưng là người tuyệt diệu, - Xtepan Arcaditr nhận xét, -
một người tuyệt diệu.
- Mừng cho ông ta! - Vronxki mỉm
cười nói. - Kìa! Bác đấy à! Lại đây, - chàng nói với người đầu tớ già của mẹ
đang đứng gần cửa ra vào.
Gần đây, mỗi khi gặp Oblonxki, ngoài
cái dễ chịu giống như mọi người cảm thấy, Vronxki còn thấy đặc biệt vui thú vì
chàng tưởng như điều đó khiến mình thêm gần gũi Kitti.
- Thế chủ nhật này, ta tổ chức bữa
ăn tối chúc mừng nữ danh ca 3 chăng? - chàng nắm lấy cánh tay Oblonxki, mỉm
cười nói.
- Tất nhiên rồi. Chính tôi sẽ đi thu
tiền góp. à! Hôm qua anh đã làm quen với anh bạn Levin của tôi rồi chứ? -
Xtepan Arcaditr hỏi.
- Vâng. Nhưng ông ấy bỏ đi vội quá.
- Một thanh niên dễ thương, -
Oblonxki nói tiếp, - có phải không?
- Tôi không hiểu, - Vronxki trả lời,
- tại sao tất cả những người Moxcva, tất nhiên trừ người mà tôi đang hầu chuyện
đây, đều có vẻ quyết đoán thế nào ấy, - chàng nói tiếp giọng bông lơn. Họ mô
phạm trịnh trọng, họ đùng đùng nổi giận, lúc nào cũng cứ như muốn lên lớp cho
anh...
- Có phần đúng đấy, - Xtepan
Arcaditr nói và cười vui vẻ.
- Tàu sắp đến chưa? - Vronxki hỏi một
nhân viên nhà ga.
- Đang đến đây, - anh ta trả lời.
Cảm giác về đoàn tàu sắp tới ga mỗi
lúc một rõ qua cảnh náo nhiệt không ngừng tăng thêm trên sân ke: phu khuân vác
đi đi lại lại, cảnh binh và nhân viên nhà ga xuất hiện, người đón khách đi tàu
kéo tới.
Thấp thoáng qua lớp sương mù, bóng
những công nhân mặc áo choàng ngắn lót lông và đi ủng dạ mềm vượt qua đường sắt
chằng chịt. Từ xa vọng đến tiếng xì xì của nồi hơi và tiếng một vật nặng nề
đang chuyển động.
- Không phải đâu, - Xtepan Arcaditr
nói, ông rất muốn cho Vronxki hiểu rõ những ý đồ của Levin. - Không, chắc anh
chưa đánh giá đúng anh bạn Levin của tôi đấy thôi. Anh ta là một thanh niên rất
dễ kích động, điều ấy khiến anh ta đôi lúc cũng khó chịu, tôi đồng ý là thế,
nhưng quả là đáng yêu. Một con người bản chất thẳng thắn, trung thực biết bao,
và một tấm lòng vàng đấy! Nhưng hôm qua, anh ta có những lý do đặc biệt, -
Xtepan Arcaditr nói tiếp với một nụ cười đầy ý nghĩa, quên hẳn cái cảm tình
chân thật hôm qua đối với Levin mà nay ông lại đem trao cho Vronxki. - Phải,
anh ta có lý do để sung sướng hết sức hay khổ sở hết sức.
Vronxki dừng lại và hỏi thẳng:
- Anh muốn nói hôm qua anh ta đến
hỏi cô em vợ anh chứ gì?
- Có lẽ, - Xtepan Arcaditr nói. -
Tôi có cảm tưởng thế. Phải, nếu anh ta bỏ về sớm và vẫn còn bực bội, thì đúng
vậy rồi... Anh ta yêu Kitti từ lâu lắm rồi và làm tôi thương hại.
- Thật ư?... Tôi cứ ngỡ cô ấy có thể
hy vọng tìm được đám tốt hơn, - Vronxki nói, và dướn thẳng người lên, tiếp tục
bước đi. Vả lại, tôi cũng không quen anh ta, - chàng nói thêm. - Phải, thế thì
đau khổ thật! Vì vậy cho nên cánh đàn ông phần lớn đều thích đi lại với các cô
Clara 4 hơn. Có thất bại cũng chỉ do không đủ tiền, đằng này... thì tổn thương
đến cả phẩm giá. Nhưng tàu đến rồi kìa.
Quả vậy, tàu đã kéo còi từ xa. Vài
phút sau, sân ga rung chuyển, chiếc đầu máy phì làn hơi nước bị giá rét đánh
bạt xuống, chạy vào trong ga, "biên" 5 bánh xe giữa co vào doãi ra
chầm chậm và đều đặn; anh thợ máy mặc áo bông, sương giá phủ đầy người, cúi
chào; tiếp sau toa than, toa chở hàng, bên trong có một con chó sủa ủng ẳng,
tiến lại gần làm cho sân ga càng rung chuyển mạnh, cuối cùng là những toa hành
khách rùng rình trước khi đỗ lại.
Người soát vé nhanh nhẹn nhảy xuống
thổi còi. Đằng sau bác ta, những hành khách nôn nóng bắt đầu lần lượt bước
xuống: một sĩ quan cận vệ, cứng như cái que, đang nghiêm khắc nhìn quanh; một
lái buôn nhỏ bé xách cái bị, vẻ bận rộn, nụ cười trên môi; một nông dân quàng
túi chéo ngang vai.
Vronxki đứng bên Oblonxki, mải nhìn
hết người đến vật, quên bẵng cả mẹ. Điều vừa được nghe kể về Kitti khiến chàng
vừa vui vừa phấn khởi. Chàng bất giác ưỡn ngực ra, mắt sáng long lanh. Chàng có
cảm giác mình vừa thắng trận.
- Nữ bá tước Vronxki ngồi toa này, -
người soát vé bước lại gần, nói với Vronxki.
Câu nói làm chàng sực tỉnh và nhắc
chàng nhớ đến mẹ và cuộc gặp gỡ sắp tới. Trong thâm tâm, chàng không kính trọng
mẹ lắm và - điều này, chính chàng cũng không ý thức được rõ ràng lắm - chả yêu
gì mẹ, nhưng thuận theo những tư tưởng trong xã hội chàng đang sống và sự giáo
dưỡng chàng đã được hưởng, đối với mẹ, Vronxki chỉ có thể hình dung một thái độ
kính cẩn và phục tùng tột độ, và lòng chàng càng ít yêu kính mẹ bao nhiêu thì
bề ngoài càng phải tỏ ra kính cẩn và phục tùng bấy nhiêu.
--------------------------------
1 Honni soit qui mal y pense! (tiếng
Pháp trong nguyên bản).
2 Not in my line (tiếng Anh trong
nguyên bản).
3 Diva (tiếng ý trong nguyên bản).
4 ý nói: gái làng chơi.
5 Bielle: đòn sắt để chuyển một vận
động thành vận động vòng tròn. Tiếng này đã Việt hóa trong ngôn ngữ kỹ thuật.
Chương
17
Vronxki theo nhưng soát vé vào trong
toa; đến cửa buồng toa, chàng dừng lại nhường lối cho một thiếu phụ bước ra.
Với bản năng của người trong giới xã
giao, Vronxki chỉ cần liếc mắt qua cũng xếp được thiếu phụ này vào loại thượng
lưu. Chàng xin lỗi rồi tiếp tục đi, nhưng tự nhiên lại ngoái nhìn nàng lần nữa,
không phải vì sắc đẹp, cũng không phải vì vẻ thanh lịch và cái duyên thầm toả
ra từ khắp toàn thân nàng, mà vì lúc đi ngang qua, chàng đã nhận thấy một vẻ
dịu dàng và thuỳ mị lạ lùng trên bộ mặt yêu kiều ấy. Trong khi đó, nàng cũng
quay đầu lại. Cặp mắt xám long lanh, như xẫm lại dưới bóng đôi hàng mi dày,
dừng lại trên mặt chàng với vẻ chăm chú thân mật như đã nhận ra chàng, rồi lại
nhìn ngay ra đám đông người qua lại, như muốn tìm ai. Qua cái nhìn ngắn ngủi,
Vronxki nhận thấy vẻ sôi nổi ngấm ngầm phảng phất trên mặt nàng, lúc xuất hiện
trong cặp mắt long lanh, khi ở nụ cười thoáng nở trên cặp môi tươi mát. Có thể
nói toàn thân nàng trào lên một sức sống dào dạt, dù muốn hay không, vẫn bộc lộ
qua ánh mắt hoặc miệng cười. Những lúc nàng cố tình giấu kín không để cái ánh
lửa ấy ngời lên trong mắt thì nó lại xuất hiện trong nét cười kín đáo, ngoài ý
muốn của nàng.
Vronxki bước vào toa. Mẹ chàng, một
bà già khô đét, mắt đen, tóc loăn xoăn thành từng búp nhỏ, lim dim mắt ngắm con
và cặp môi mỏng mỉm cười. Bà đứng dậy khỏi ghế, đưa túi xách cho chị hầu phòng
và chia bàn tay xương xẩu cho con hôn, rồi lại hôn lên trán chàng.
- Con nhận được điện của mẹ chứ? Con
khỏe chứ? Đội ơn Chúa!
- Mẹ đi đường có bình yên không? -
con trai bà nói, vừa ngồi xuống cạnh vừa bất giác lắng nghe tiếng đàn bà đằng
sau cánh cửa. Chàng biết đó là tiếng người thiếu phụ chàng vừa gặp khi bước lên
tàu.
- Dù sao đi nữa, tôi cũng không đồng
ý với ông, - thiếu phụ nói.
- Thưa bà, đó là quan điểm Peterburg
đấy.
- Không, quan điểm phụ nữ, có thế
thôi, - nàng đáp.
- Thế thì, cho phép tôi được hôn tay
bà.
- Tạm biệt, ông Ivan Pet'rovitr. Ông
nhìn giúp xem anh tôi có đây không, và bảo anh ấy lại đây hộ, - thiếu phụ đứng
ở cửa buồng toa nói, rồi quay vào.
- Bà đã tìm thấy ông anh nhà chưa? -
nữ bá tước Vrônxkaia hỏi nàng.
Lúc bấy giờ Vronxki mới hiểu ra đó
là Carenin.
- Lệnh huynh có ở đây đấy, - chàng
đứng dậy và nói. - Xin lỗi, tôi không nhận ra bà, chúng ta ít gặp nhau quá, nên
bà ắt chẳng nhớ ra tôi.
- ồ, có chứ, nhất định tôi phải nhận
ra ông, vì trong suốt chuyến đi, cụ nhà và tôi toàn nói về ông, - nàng nói, và
cuối cùng để lộ vẻ vui thích ra nụ cười. - Vẫn chưa thấy anh tôi tới.
- Con đi gọi ông ấy đi vậy, Aliosa.
1 - bá tước phu nhân nói.
Vronxki xuống sân ga và gọi to:
- Oblonxki! Đây kia mà!
Nhưng Carenin không đợi ông chạy
đến: vừa thoáng thấy anh, nàng liền bước ngay xuống sân ga, dáng đi nhẹ nhàng
và quả quyết.
Khi hai người vừa gặp nhau, nàng
liền ôm lấy cổ anh, kéo mạnh về phía mình hôn rất thân thiết; dáng điệu nàng
vừa duyên dáng vừa mạnh mẽ khiến Vronxki ngây người ra ngắm. Vronxki không rời
mắt khỏi nàng, và mỉm cười bâng quơ. Nhưng chàng sực nhớ có mẹ đang đợi nên lại
trèo lên tàu.
- Con người mới duyên dáng làm sao,
phải không con? - bá tước phu nhân nói với Vronxki. - Ông chồng đã giao bà ta
cho mẹ, và mẹ vui thích lắm, mẹ và bà ấy chuyện trò với nhau suốt cả chuyến đi.
Thế nào, còn con? Người ta nói...
con đang xe mối tơ tình bất tuyệt phải không? Càng hay, con ạ, càng hay. 2 -
Con không biết mẹ định nói bóng đến chuyện gì, mẹ ạ, - người con lạnh lùng đáp.
- Ta xuống chứ mẹ?
Carenin trở vào toa để cáo từ bá
tước phu nhân:
- Thôi, thưa bá tước phu nhân, cụ đã
gặp lại con trai, còn tôi đã gặp anh trai tôi, - nàng vui vẻ nói. - Với lại, có
bao nhiêu chuyện tôi đã nói cả rồi, không còn gì kể hầu cụ nữa.
- Tôi không tin thế đâu, - bá tước
phu nhân cầm tay nàng nói, - tôi có thể đi vòng quanh thế giới với bà không
biết chán, bà là một phụ nữ yêu kiều, ngồi bên bà, dù chuyện trò hoặc nín lặng,
cũng đều thấy dễ chịu. Này, tôi xin bà, đừng nhớ cậu con trai nữa: thỉnh thoảng
cũng phải tạm xa nhau chứ.
Carenin đứng lặng im, người rất
thẳng, và đôi mắt mỉm cười.
- Bà Anna Arcadievna đây có một con
trai, một chú bé lên tám, - bá tước phu nhân cắt nghĩa, - bà không xa con bao
giờ và cứ băn khoăn vì phải để con ở nhà.
- Vâng, chúng tôi dành tất cả thì
giờ để nói chuyện về con cái, cả bá tước phu nhân lẫn tôi, - Carenina nói, và
nụ cười lại chiếu sáng khuôn mặt nàng: một nụ cười duyên dáng dành riêng cho
Vronxki.
- Thế thì chắc bà nghe đến phát
ngấy, - chàng nói, cũng đối đáp theo cách làm duyên nàng đã dùng với chàng.
Nhưng rõ ràng nàng không muốn tiếp tục câu chuyện với giọng ấy và quay về phía
bá tước phu nhân.
- Rất cám ơn cụ. Thậm chí, tôi không
hề cảm thấy ngày hôm qua đã trôi đi nữa kia. Xin chào bá tước phu nhân.
- Xin từ biệt, bà bạn thân, - bá
tước phu nhân đáp. - Cho phép tôi được hôn gương mặt xinh đẹp của bà. Tôi là bà
già, tôi có thể nói không khách khí rằng bà đã chinh phục tôi rồi đấy.
Câu nói dù có nhàm đến đâu cũng
khiến Carenina xúc động. Nàng đỏ mặt, hơi nghiêng mình, chìa mặt cho bá tước
phu nhân hôn, rồi lại thẳng người lên, và vẫn với nét cười xao xuyến khi trên
mắt, khi trên môi, nàng chìa tay cho Vronxki. Chàng xiết mạnh bàn tay nhỏ nhắn
và vô cùng sung sướng cảm thấy bàn tay ấy nắm lấy tay mình rất chặt và quả
quyết. Nàng thoăn thoắt bước ra nhẹ nhàng lạ lùng so với tấm thân đậm đà.
- Thật đáng yêu! - bá tước phu nhân
nói.
Con trai bà cũng nghĩ y như vậy.
Chàng đưa mắt nhìn theo cho đến khi cái bóng dáng uyển chuyển biến mất, nụ cười
vẫn đọng lại trên môi. Qua cửa sổ, chàng thấy nàng lại gần anh, đặt tay lên
cánh tay ông và bắt đầu nói chuyện sôi nổi: câu chuyện rõ ràng không liên quan
mảy may đến chàng, đến Vronxki này, và chàng lấy làm buồn.
- Thế nào mẹ, mẹ khỏe thật chứ ạ? -
chàng quay về phía mẹ, nhắc lại.
- ừ, khá lắm! Alecxandr rất ngoan.
Còn con Maria đẹp thêm ra nhiều. Cháu dễ thương lắm.
Rồi bà cụ bắt đầu nói đến chuyện bà
quan tâm nhất: về chuyện rửa tội cho cháu trai, đã khiến bà phải đến Peterburg,
và lòng tốt đặc biệt của hoàng đế đối với con cả bà.
- Lôrăng đây rồi, - Vronxki nhìn ra
cửa sổ nói. - Ta đi thôi, thưa mẹ.
Người lão bộc theo hầu bá tước phu
nhân đến báo mọi thứ đã sẵn sàng và phu nhân đứng dậy.
- Nào, ta đi thôi, đã vãn người rồi,
- Vronxki nói.
Chị hầu phòng xách túi và bế con chó
nhỏ; người lão bộc và anh phu khuân vác mang những hành lý khác. Vronxki đưa
tay cho mẹ khoác; khi xuống khỏi toa tàu, một đám người nét mặt hốt hoảng bỗng
chạy qua trước mặt họ. Viên trưởng ga đội mũ lưỡi trai màu đặc biệt cũng trong
đám người này.
Rõ ràng vừa xảy ra chuyện gì bất
thường. Hành khách đổ cả về phía cuối tàu.
- Cái gì?... Làm sao?... Đâu?... Anh
ta lao người vào bánh xe à?...
Chẹt phải anh ta rồi à? - Đám người
đi qua bàn tán nhốn nháo.
Xtepan Arcaditr khoác tay em gái
cũng quay lại, nét mặt nhớn nhác. Để tránh đám đông, họ dừng lại bên cửa toa
xe.
Các bà lại trèo lên toa còn Vronxki
và Xtepan Arcaditr thì đi hỏi thêm chi tiết rành mạch hơn về sự việc đáng tiếc
kia.
Một người gác đường tàu, vì say rượu
hay do quần áo mũ tùm hum để chống rét, đã không nghe thấy tàu giật lùi nên bị
kẹt chết.
Các bà được người lão bộc cho biết
trước khi Vronxki và Oblonxki quay về. Hai người đã nhìn thấy cái xác mất cả
nhân dạng. Oblonxki bị kích động ra mặt. Ông cau mày và như sắp khóc.
- Chao! Kinh khủng! Chao! Anna, nếu
em cũng nhìn thấy anh ta!
Chao! Kinh khủng quá! - ông nhắc
lại.
Vronxki nín lặng: bộ mặt đẹp của
chàng nghiêm trang nhưng rất bình tĩnh.
- Thưa bá tước phu nhân, nếu cụ mà
nhìn thấy cảnh đó! - Xtepan Arcaditr nói. - Vợ anh ta cũng đứng đó. Trông chị
ấy thảm hại quá...
chị ta nhảy vào ôm lấy xác chồng.
Hình như chỉ có mình anh ta làm để nuôi cả gia đình đông con. Đó mới là điều
khủng khiếp!
- Không thể giúp được chị ta chút gì
à? - Carenina nói, giọng cảm động.
Vronxki nhìn nàng và rời ngay khỏi
toa tàu.
- Con trở lại ngay thôi, mẹ ạ, -
chàng quay lại nói, lúc bước qua cửa.
Vài phút sau, khi chàng trở lại, đã
thấy Xtepan Arcaditr nói chuyện với bá tước phu nhân về cô danh ca mới, còn bà
cụ sốt ruột nhìn ra cửa, ngóng con.
- Bây giờ ta đi thôi, - Vronxki quay
về, nói.
Tất cả cùng bước ra. Vronxki đi
trước với mẹ. Đi sau là Carenina và anh trai. Ra đến cửa, viên trưởng ga đuổi
kịp Vronxki.
- Ngài vừa đưa cho ông phó ga hai
trăm rúp. Xin ngài vui lòng cho tôi được biết ngài định chuyển số tiền đó cho
ai ạ?
- Cho người đàn bà goá, - Vronxki
nhún vai đáp. - Tôi không hiểu sao ông lại hỏi tôi câu đó.
- Anh đã làm việc ấy ư? - Oblonxki hỏi
to phía sau chàng và xiết chặt cánh tay em gái, nói tiếp: - thật hào hiệp! Hào
hiệp biết bao! Quả là một thanh niên đáng yêu, phải không? Xin kính chào bá
tước phu nhân.
Ông và em gái dừng lại để tìm chị
hầu phòng của Carenina.
Khi họ ra khỏi ga, xe của gia đình
Vronxki đã đi rồi. Những người vào ga tiếp tục nói đến chuyện vừa xảy ra.
- Thật là một cái chết khủng khiếp!
- Một ông đi qua bên cạnh nói.
- Nghe bảo anh ta bị nghiến đứt làm
hai mảnh.
- Trái lại, đấy là cái chết êm dịu
nhất vì được chết ngay lập tức, - một người khác nhận xét.
- Tại sao lại không có biện pháp bảo
đảm an toàn nhỉ? - một người thứ ba nói.
Carenina bước lên xe và ông anh ngạc
nhiên thấy môi cô em run lên và khó khăn lắm nàng mới cầm nổi nước mắt.
- Cô làm sao thế, Anna? - ông hỏi,
khi xe đã đi xa.
- Đó là điềm gở, - nàng nói.
- Bậy nào! - Xtepan Arcaditr nói. -
Cô đã tới, đó là điều chủ yếu. Cô không thể biết anh hy vọng vào cô đến mức
nào.
- Anh quen với Vronxki lâu chưa? -
nàng hỏi.
- Lâu rồi. Cô biết không, chúng tôi
đang hy vọng anh ta sẽ cưới Kitti đấy.
- Thế à? - Anna bình tĩnh nói. - Bây
giờ ta bàn chuyện của anh đi, - nàng lắc đầu nói tiếp như muốn xua đuổi một ý
nghĩ phiền toái và khó chịu. - Bàn về công việc của anh đi. Em đã nhận được thư
anh, và em đến đây.
- ừ, anh chỉ còn hy vọng vào cô nữa
thôi, - Xtepan Arcaditr nói.
- Nào, kể hết cho em nghe đi.
Thế là Xtepan Arcaditr bắt đầu kể.
Về tới nhà, Oblonxki dắt em xuống
xe, bắt tay và đến toà án.
--------------------------------
1 Tên gọi thân mật của Alecxei.
2 Vous filez le parfait amour? Tant
mieux, mon cher, tant mieux (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Chương
18
Khi Anna bước vào, Doli đang ngồi ở
phòng khách nhỏ dạy một chú bé má phính, tóc vàng, hiện đã giống bố như tạc,
nhắc lại bài học tiếng Pháp. Cú bé vặn vẹo người đọc bài, vừa ra sức rứt cái
khuy sắp rời khỏi áo. Người mẹ đã nhiều lần cấm con làm thế, nhưng bàn tay nhỏ
bé bụ bẫm cứ trở đi trở lại với cái khuy áo. Doli bèn rứt đứt khuy và đút vào
túi.
- Để yên tay đấy, Grisa, - bà nói,
rồi lại đan tiếp cái chăn len, một việc bà bắt đầu đã từ lâu và mỗi lúc có
chuyện khổ tâm lại giở ra làm tiếp: bà đan một cách bực dọc, ngón tay đưa lên
đưa xuống lặp chặp và đếm từng mũi. Mặc dầu hôm qua đã nhắn với chồng là mình
chẳng bận tâm gì lắm đến chuyện em gái ông có đến hay không, bà vẫn sai người
chuẩn bị mọi thứ để đón em chồng và hồi hộp chờ đợi.
Nỗi buồn chồng chất đè trĩu trong
lòng Doli. Tuy nhiên bà vẫn nhớ cô Anna, em chồng bà, là vợ một nhân vật quan
trọng và chính cô cũng là một phu nhân quyền quý 1ở Peterburg.
"Phải, nói cho cùng, Anna chẳng
liên can gì đến việc này cả, Doli nghĩ. Mình chỉ thấy ở cô ấy những đức tính
tốt đẹp nhất và bao giờ cô ấy cũng yêu mến mình, thân mật với mình". Thật
ra, theo như bà hãy còn nhớ về ấn tượng cảm thấy khi ở gia đình Carenin tại
Peterburg, nhà ấy đã làm bà khó chịu: có cái gì giả tạo trong đời sống gia đình
của họ. "Tại sao mình lại không tiếp cô ấy chứ? Miễn là cô ta đừng có lên
giọng an ủi mình!", Doli thầm nghĩ. "Những chuyện an ủi, khuyên răn
tha thứ theo giáo lý, mình đã nhắc lại mọi thứ ấy đến hàng nghìn lần rồi, mà nó
có giúp được gì cho mình đâu".
Suốt mấy ngày nay, Doli chỉ ngồi một
mình với các con. Bà không muốn nhắc đến nỗi buồn của mình và với nỗi buồn ấy
trong lòng, bà cũng không thể nói chuyện gì khác được. Bà biết bằng cách này
hay cách khác, bà sẽ nói hết với Anna, và khi thì bà sung sướng nghĩ đến lúc có
người để dốc bầu tâm sự, khi thì lại bực tức vì sẽ phải kể lể nỗi tủi nhục của
mình với em chồng và phải nghe những lời khích lệ và an ủi có sẵn.
Bà nhìn chiếc đồng hồ quả lắc, đợi
em chồng từng phút; nhưng như thói đời vẫn oái ăm thế, chính lúc khách tới bà
lại lãng đi mất, và không nghe thấy tiếng chuông giật.
Khi có tiếng tà áo sột soạt và tiếng
chân người bước nhẹ qua ngưỡng cửa, bà quay lại và bộ mặt mệt mỏi của bà lộ vẻ
ngạc nhiên hơn là vui mừng. Bà đứng dậy và ôm lấy em chồng.
- Sao, cô đã tới rồi à? - bà nói và
hôn cô em.
- Chị Doli, em rất sung sướng được
gặp chị!
- Tôi cũng thế, - Doli nói với nụ
cười nhợt nhạt, cố đoán qua vẻ mặt Anna xem nàng đã biết những gì về chuyện đó.
"Cô ấy biết rồi, chắc chắn vậy", bà tự nhủ, khi thấy vẻ thương hại
trên nét mặt Anna. - Lại đây, tôi đưa vào buồng của cô, - bà nói tiếp, cố hoãn
cái phút phải phân trần muộn chừng nào hay chừng nấy.
- Grisa đấy à? Lạy Chúa, cháu tôi mau
lớn quá! - Anna nói. Nàng ôm đứa bé, mắt không rời Doli, rồi dừng lại và đỏ mặt
lên. - Không, chị cứ để em ở lại đây đã.
Nàng tháo khăn quàng và chiếc mũ
vướng vào mái tóc đen loăn xoăn; nàng lắc lắc đầu gỡ tóc ra.
- Trông cô tràn đầy hạnh phúc và sức
khỏe! - Doli nói như thèm muốn.
- Em đấy à?... Vâng, - Anna nói, -
lạy Chúa, Tania đây à! Cùng tuổi với Xergei đây, - nàng nói tiếp và quay lại
phía em bé gái vừa chạy ở ngoài vào. Nàng ôm nó vào lòng hôn. - Con bé mới
tuyệt diệu làm sao, tuyệt diệu làm sao! Chị cho em gặp tất cả các cháu đi!
Nàng gọi tên các cháu: không những
nàng nhớ tên mà còn nhớ đúng tuổi, tính nết, bệnh tật của từng đứa. Doli không
thể dửng dưng trước điều đó.
- Ta đi gặp các cháu đi, - bà nói. -
Tiếc quá, Vaxya lại đang ngủ.
Thăm bọn trẻ xong, hai chị em ngồi
một mình ở phòng khách dùng cà phê. Anna tự pha lấy, rồi đẩy cái khay ra.
- Chị Doli ạ, anh ấy nói chuyện với
em rồi, - nàng nói.
Doli nhìn Anna ra vẻ lạnh lùng. Lúc
này bà đang chờ những câu thương hại giả vờ, nhưng Anna không nói câu nào như
vậy.
- Chị Doli yêu dấu, - nàng nói, - em
không muốn bênh anh ấy, mà cũng không an ủi chị, chỉ vô ích thôi. Nhưng em
thương chị lắm, chị yêu dấu, em thương chị vô cùng.
Nước mắt nàng long lanh trên hàng mi
rậm. Nàng đến ngồi sát bên chị dâu và đưa bàn tay nhỏ nhắn, rắn rỏi cầm lấy tay
Doli. Doli không ngồi xích ra nhưng vẫn giữ nguyên vẻ mặt nghiêm nghị. Bà nói:
- Không ai có thể an ủi được tôi.
Sau việc vừa xảy ra, mọi chuyện thế là hết; tôi mất hết rồi!
Và vừa mới nói như vậy, nét mặt bà
bỗng dịu hẳn lại. Anna hôn bàn tay khô gầy của Doli và nói:
- Nhưng chị Doli ạ, làm thế nào,
biết làm thế nào? Trong hoàn cảnh ghê sợ này, biết xử sự thế nào là tốt hơn cả?
Đó là điều ta phải nghĩ tới.
- Hết cả rồi, không cần gì phải trở
lại chuyện đó nữa, Doli nói.
Nhưng ác nghiệt nhất là tôi không
thể bỏ anh ấy được: còn con cái, tôi không được tự do. Thế nhưng tôi không thể
sống được với anh ấy nữa, nhìn thấy anh ấy cũng đủ là một hình phạt với tôi
rồi.
- Chị Doli thân yêu, anh đã nói với
em rồi, nhưng em muốn đến lượt chị cũng nói với em. Chị nói tất cả với em đi.
Doli nhìn cô em chồng vẻ dò hỏi. Vẻ
quan tâm và yêu thương lộ rõ trên nét mặt Anna.
- Thôi được, - bà đột nhiên nói. -
Nhưng tôi sẽ kể lại từ đầu. Cô cũng biết tôi đã lấy chồng như thế nào rồi đấy.
Với lối giáo dục của mẹ tôi, không những tôi ngây thơ mà còn ngốc nghếch nữa.
Tôi chả biết gì cả. Người ta vẫn nói là những ông chồng thường kể cho vợ nghe
quá khứ của mình, nhưng Xtiva... - bà chữa lại, - nhưng Xtepan Arcaditr 2 thì
chả nói gì với tôi hết. Hẳn cô không thể tin rằng cho mãi đến gần đây, tôi vẫn
cứ đinh ninh mình là người đàn bà duy nhất mà anh ấy biết! Tôi cứ sống như thế
trong tám năm. Cô nên hiểu, không những tôi không nghi ngờ anh ấy không chung
thuỷ, mà tôi còn cho là không thể có thế được nữa kia... Và đùng một cái, cô
tưởng tượng xem, vỡ lở ra những cái ghê tởm, những cái thối tha, với những ý
nghĩ như thế!... Chắc cô sẽ hiểu tôi. Vẫn tin tưởng, vẫn đinh ninh với hạnh
phúc của mình, thế mà đùng một cái... - Doli nói tiếp, ghìm tiếng thổn thức...
- bắt được một lá thư... một lá thư anh ấy viết cho nhân tình, viết cho cô gia
sư của các con tôi! Không, thật kinh khủng quá! (Bà rút vội khăn tay ra và che
lên mặt). Bị quyến rũ thì còn hiểu được, - bà nói tiếp sau một lúc im lặng, nhưng
lừa dối tôi quá đáng như thế, khôn khéo như thế... mà với ai kia chứ? Tiếp tục
làm chồng tôi, và đồng thời... thật ghê tởm quá! Cô không hiểu được đâu...
- ồ, có chứ! Em hiểu, em hiểu được,
chị Doli thân yêu ạ! - Anna nắm chặt tay chị và nói.
- Và cô tưởng anh ấy hiểu đầy đủ cái
hoàn cảnh đáng sợ của tôi à?
Không hiểu một chút nào hết! Anh ấy
đang sung sướng và thoả mãn.
- ồ không đâu! - Anna vội ngắt lời
chị. - Anh ấy đáng thương lắm, anh ấy đang bị giày vò vì hối hận.
- Anh ấy mà biết hối hận à? - Doli ngắt
lời và chăm chăm nhìn vào mặt cô em chồng.
- Vâng, em biết anh ấy lắm. Em không
thể nhìn thấy anh ấy mà không thấy ái ngại. Cả chị lẫn em đều biết tính anh ấy.
Anh ấy vốn là người tốt, nhưng tự kiêu, thế mà bây giờ anh cũng cảm thấy quá
nhục nhã! Cái làm em cảm động nhất (đến đây, Anna đoán xem cái gì có thể làm
Doli xúc động hơn cả), là có hai điều đang giày vò anh: một phần là hối hận với
các con, và phần nữa, là đã làm chị phải đau đớn như thế này trong khi anh vẫn
yêu chị... bởi vì anh vẫn yêu chị nhất đời, - Anna vội nói thêm, không cho Doli
kịp cãi. - "Không, không, vợ tôi sẽ không tha thứ cho tôi", anh luôn
miệng nhắc lại như thế.
Doli tư lự ngồi nghe mà không nhìn
em chồng.
- Phải, tôi biết hoàn cảnh của anh
ấy thật đáng sợ: kẻ có tội vẫn khổ hơn kẻ vô tội, khi người có tội thấy mọi tai
họa đều do mình gây ra, - bà nói. - Nhưng tha thứ làm sao được nữa, sau cái
chuyện với con kia? Bây giờ sống với anh ấy hẳn là cực hình đối với tôi, hơn
nữa tôi vẫn yêu mối tình ngày xưa tôi đã trao cho anh ấy...
Tiếng nức nở ngắt lời bà.
Nhưng, như một việc cố tình, mỗi lúc
nguôi nguôi, bà lại tiếp tục nhắc đến những điều đã làm mình bực bội.
- Con ấy nó vừa trẻ, vừa đẹp, - bà
nói tiếp. - Anna, mà cô có biết sắc đẹp và tuổi trẻ của tôi đã bị ai lấy mất
không. Bị anh ấy và các con anh ấy. Tôi hết thời rồi. Tôi đã hy sinh mọi thứ
mình có và bây giờ, bên cạnh một đứa tươi xinh, tầm thường, anh ấy lại thấy vui
thú hơn. Thể nào anh ả chả nói về tôi, hay là, tồi tệ hơn, có khi chả buồn nhắc
đến tôi nữa... cô có hiểu không?
Một ánh căm hờn lại loé lên trong
mắt bà.
- Thế rồi, sau những chuyện đó, anh
ấy lại đến nói với tôi... Có thể tin anh ấy được không chứ? Không bao giờ.
Không, hết cả rồi, hết cả những gì là nguồn an ủi của tôi, là sự đền bù cho
những khổ cực, giày vò... Cô có tin thế không? Tôi vừa bắt cháu Grisa học;
trước đó là niềm vui, bây giờ là cực hình. Tại sao tôi phải chuốc lấy những cái
khổ đến thế? Tôi có con để làm gì? Điều đáng sợ là tâm hồn tôi bỗng nhiên bị
đảo lộn hẳn, đáng lẽ là tình yêu, là âu yếm, tôi chỉ còn thấy thù anh ấy thôi,
phải, căm thù. Tôi có thể giết chết anh ấy, và...
- Doli, chị thân mến, em hiểu chị
lắm, nhưng chị đừng tự dằn vặt thế. Chị bị xúc phạm, kích động quá đến nỗi
không nhìn sự việc cho đúng tầm quan trọng nữa rồi.
Doli bình tĩnh lại, và trong giây
lát cả hai cùng im lặng.
- Làm thế nào đây? Cô nghĩ đi, cô
Anna, và cứu tôi với. Tôi đã tính hết nhẽ và chẳng thấy lối thoát nào hết.
Anna không tìm ra cách giải quyết
nào, nhưng lòng nàng giao cảm với từng lời, từng nét mặt chị dâu.
- Bây giờ em nói với chị thế này
nhá, - nàng mở đầu: - em là em gái anh, em biết tâm tính anh, anh vốn có thể dễ
quên hết, quên tất cả (nàng đưa tay lên qua trán), dễ bị quyến rũ hoàn toàn, mà
cũng biết hối hận tự đáy lòng. Giờ đây, anh không hiểu tại sao anh lại có thể
làm việc ấy.
- Có, có chứ! Anh ấy hiểu lắm, anh
ấy làm có ý thức! - Doli ngắt lời.
- Nhưng tôi... cô quên tôi... không
phải vì thế mà tôi bớt khổ tâm đâu!
- Khoan đã. Khi anh kể chuyện ấy với
em, xin thú thật là em cũng chưa hiểu ra ngay tất cả sự khủng khiếp trong hoàn
cảnh của chị. Em chỉ nhìn thấy anh và sự bất hòa trong gia đình anh chị thôi,
em chỉ thương anh; nhưng bây giờ nói chuyện với chị, vì cùng là phụ nữ, em lại
nhìn thấy chuyện khác: em thấy những đau khổ của chị, và em không đủ lời để nói
em thương chị đến mức nào! Chị Doli, nàng tiên của em, em hoàn toàn hiểu thấu
nỗi đau khổ của chị, nhưng có một điều em chưa biết là chị còn yêu anh ấy đến
độ nào. Chính chị mới biết chị có đủ tình yêu để tha thứ cho anh không. Nếu còn
có thể được, chị hãy tha thứ cho anh!
- Không... - Doli bắt đầu nói, nhưng
Anna đã ngắt lời bằng cách hôn tay bà lần nữa.
- Em hiểu đời hơn chị, - nàng nói. -
Em biết những người như Xtiva đã coi những chuyện này thế nào. Chị bảo rằng anh
ấy đã nói với cô ta về chị. Tuyệt nhiên không có thế đâu. Những đàn ông đó phạm
tội không chung thuỷ, người nhà họ và vợ họ vẫn là thánh đường đối với họ. Họ
vẫn tiếp tục coi khinh loại đàn bà kia, đàn bà không làm hại được gia đình họ
đâu. Họ vạch một ranh giới không thể vượt qua giữa loại đàn bà đó và gia đình
họ. Em không hiểu được điều ấy, nhưng sự thật là như vậy.
- Phải, nhưng anh ấy, đã từng hôn
hít con kia...
- Chị Doli, chị yêu dấu, hãy nghe
em! Em đã thấy Xtiva hồi anh ấy mê chị. Em nhớ đã có thời kỳ anh đến ở nhà em,
vừa khóc vừa nói chuyện với em về chị, và lúc ấy anh đặt chị lên một vị trí cao
cả thơ mộng biết nhường nào, và em biết chị càng sống chung với anh, chị càng
lớn lên trong con mắt anh. Bọn em đã từng chế giễu anh vì cứ sau mỗi câu, anh
lại tiếp thêm: "Doli là người đàn bà kỳ diệu". Trước kia cũng như bây
giờ, chị vẫn là vị thần của anh. Đây không phải chuyện trái tim anh bị cám dỗ
đâu...
- Nhưng nếu sự cám dỗ đó lại tái
diễn thì sao?
- Em tin là không thể thế đâu...
- Vào địa vị cô, cô có tha thứ
không?
- Em không biết, em không thể nói
được... Có, em có thể tha thứ được, - Anna tư lự nói, nàng hình dung trong đầu,
nhận định, cân nhắc tình thế, và tiếp: - được, được, em làm được, em làm được,
phải, em sẽ tha thứ. Có thể em sẽ không còn là em như trước nữa, nhưng em sẽ
tha thứ như không hề có sự gì xảy ra, không có gì hết...
- Tất nhiên rồi, - Doli hấp tấp ngắt
lời em, như kiểu bà phát biểu một ý nghĩ đã nhiều lần đến trong đầu, nếu không
thế, đã chả gọi là tha thứ. - Đã tha thứ là phải tha thứ hoàn toàn. Thôi, đi,
chị đưa lên phòng của cô, - bà nói và đứng dậy, trong khi cùng đi, bà ôm lấy em
chồng. - Em yêu dấu, em tới đây làm chị hài lòng biết bao! Chị thấy dễ chịu
hơn, dễ chịu hơn nhiều rồi.
--------------------------------
1 Grande dame (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
2 Xtiva là cách gọi thân mật. Doli
quen miệng gọi thế, rồi chữa lại, dùng cách gọi trịnh trọng để tỏ ra thờ ơ đối
với chồng.
Chương
19
Anna ở nhà cả ngày, tức là ở nhà
Oblonxki, và không tiếp ai cả (có mấy người bạn thân biết nàng tới, đã đến thăm
ngay hôm đó). Cả buổi sáng nàng ngồi với Doli và lũ trẻ. Nàng chỉ gửi một mảnh
giấy cho anh, nhắn thế nào cũng phải về ăn trưa. "Anh về nhé, Chúa lòng
lành vô cùng", nàng viết.
Oblonxki ăn chiều ở nhà; mọi người
đều nói chuyện, và bà vợ khi nói với ông đã gọi bằng "anh", khác hẳn
mấy lâu nay. Quan hệ giữa hai vợ chồng vẫn xa cách, nhưng chuyện ly tán không
thành vấn đề nữa và Xtepan Arcaditr thoáng thấy trước là sẽ có thể giãi bày và
chắp nối lại.
Sau bữa chiều, Kitti đến. Cô chỉ hơi
quen Anna và cô đến nhà chị với đôi chút ngại ngùng, không biết vị phu nhân
quyền quý ở Peterburg mà ai nấy đều đề cao lên tận mây xanh sẽ đón tiếp mình ra
sao. Nhưng cô đã làm vừa lòng Anna Ackađich và nhận ngay ra điều ấy. Rõ ràng
Anna đã xiêu lòng vì sắc đẹp và tuổi trẻ của Kitti, và Kitti, trước khi kịp
định thần lại, đã thấy mình không những bị Anna thu phục mà còn đam mê nàng
theo kiểu một thiếu nữ rất trẻ có thể mê một thiếu phụ có chồng và nhiều tuổi
hơn mình. Nhìn Anna, người ta không hề nghĩ tới một phụ nữ thượng lưu hoặc một
bà mẹ đã có con lên tám, nếu nàng không có cái vẻ nghiêm nghị và thỉnh thoảng
man mác buồn, nó đập vào mắt Kitti và hấp dẫn cô; bằng vào dáng điệu mềm mại,
nét mặt tươi tắn và hoạt bát, lộ ra khi ở nụ cười, khi khoé mắt, thì có thể nói
đây là một thiếu nữ hai mươi. Cô gái cảm thấy Anna hoàn toàn giản dị và cởi mở,
nhưng nàng vẫn mang trong người một thế giới khác một thế giới thượng đẳng đầy
hứng thú thơ mộng và phức tạp mà cô không thể với tới. Khi Doli đã trở về phòng
riêng sau bữa ăn, Anna liền đứng phắt dậy và lại gần ông anh đang châm xì gà
hút.
- Anh Xtiva, - nàng nói, vui vẻ nháy
mắt ra hiệu và liếc về phía cửa, - anh vào đi, và cầu Chúa cứu giúp anh!
Ông anh hiểu ý, vứt điếu xìgà và
biến vào sau cánh cửa.
Khi Xtepan Arcaditr đi rồi, nàng trở
lại ngồi chỗ đivăng ban nãy, giữa đám trẻ. Phải chăng bọn trẻ đã nhận thấy mẹ
chúng yêu mến người cô, hay chính chúng cũng thấy ở nàng một vẻ yêu kiều đặc
biệt? Hai đứa lớn từ trước bữa ăn đã bám chịt lấy người cô mới này, không muốn
rời ra nữa. Và như thói thường, lũ em cũng bắt chước anh chị; giữa chúng với
nhau, như đã thành một thứ trò chơi, xem thử đứa nào đứng gần cô nhất, sờ được
vào người cô, cầm lấy bàn tay mềm mại của cô, hôn tay cô, nghịch chiếc nhẫn
cưới của cô hay ít ra, thì cũng được chạm khẽ vào vạt áo cô.
- Nào các cháu, ta ngồi lại như lúc
nãy đi, - Anna nói và ngồi xuống.
Và Grisa, mắt sáng lên kiêu hãnh và
sung sướng, luồn đầu xuống dưới tay cô rồi ngả đầu vào áo cô.
- Bao giờ thì tới buổi khiêu vũ sau
nhỉ? - nàng quay về phía Kitti hỏi.
- Đến tuần sau ạ; một cuộc khiêu vũ
tuyệt diệu, một cuộc khiêu vũ vui suốt từ đầu đến cuối.
- Vậy ra có những cuộc khiêu vũ vui
suốt từ đầu đến cuối ư? - Anna nói hơi mỉa mai.
- Vâng, kể cũng lạ, nhưng đúng là
như vậy. Khiêu vũ ở nhà Bôbritsep bao giờ cũng vui, ở nhà Nikitin cũng thế. Còn
như ở nhà Mekov thì bao giờ cũng chán. Chị không nhận thấy thế sao?
- Không, cô bạn tâm tình ạ, đối với
tôi thì không có cuộc khiêu vũ nào là vui cả, - Anna nói, và Kitti bỗng nhìn
thấy trong mắt nàng cái thế giới bí mật còn khép kín đối với cô. - Với tôi, chỉ
có những cuộc khiêu vũ đỡ chán hơn thôi...
- Làm sao chị lại có thể buồn chán
khi dự khiêu vũ nhỉ?
- Tại sao tôi, tôi lại không thể
buồn chán ở những chốn đó? - Anna hỏi.
Kitti biết Anna đã đoán trước được
câu trả lời của cô.
- Bởi vì bao giờ chị cũng là người
đẹp nhất.
Anna vốn hay đỏ mặt, cho nên nàng đỏ
mặt và nói:
- Thứ nhất điều ấy không đúng, và
thứ hai, nếu thật thế thì cũng chẳng lợi gì cho tôi!
- Chị sẽ đến dự đêm khiêu vũ sắp tới
chứ? - Kitti hỏi.
- Tôi nghĩ tôi không thể làm khác
được. Đấy, cầm lấy, - nàng bảo Tania, nó rút chiếc nhẫn cưới tuột dễ dàng khỏi
ngón tay trắng và thon dài của cô.
- Em sẽ rất vui sướng nếu chị cũng
đến. Em thích được thấy chị ở buổi khiêu vũ quá!
- Nếu phải đến đấy, ít ra tôi cũng
có thể tự an ủi là đã làm cô vui lòng. Grisa, đừng kéo tóc cô, cô xin cháu, tóc
cô sổ tung ra rồi đây này, - nàng vừa nói vừa sửa lại món tóc bị thằng bé
nghịch.
- Em hình dung thấy chị mặc áo hoa
cà.
- Tại sao lại phải là màu hoa cà? -
Anna mỉm cười hỏi. - Thôi đi đi, các cháu, đi đi. Các cháu có nghe thấy không?
Cô Hal đang gọi các cháu uống trà đấy, - nàng nói, thả bọn trẻ ra cho chúng vào
buồng ăn.
- Tôi biết vì sao cô mời tôi dự
khiêu vũ rồi. Cô rất chờ đợi nó và muốn mọi người đều tham gia hôm đó.
- Tại sao chị lại biết? Vâng, đúng
thế thật.
- Chao, đẹp đẽ thay tuổi các cô! -
Anna tiếp. - Tôi nhớ đến màn sương mù xanh lơ, giống như thứ sương nhìn thấy
trên các đỉnh núi ở Thụy Sĩ. Màn sương ấy bao phủ tất cả, vào cái thời kỳ hạnh
phúc khi ta vừa ở tuổi thơ bước ra... Và từ thế giới mênh mông, sung sướng, vui
tươi ấy, đường đi cứ ngày một hẹp dần... Người ta vừa vui mừng lại vừa lo sợ
dấn bước vào con đường hẻm đó, mặc dầu nó hình như sáng trưng, diễm lệ... Có ai
mà không đi qua con đường ấy?
Kitti mỉm cười không nói gì.
"Làm sao chị ấy lại có thể đi qua con đường ấy? Mình muốn biết tất cả câu
chuyện về chị ấy quá!", cô nghĩ thầm và nhớ lại hình dáng không lấy gì làm
thơ mộng của Alecxei Alecxandrovitr, chồng Anna.
- Tôi biết chuyện rồi. Anh Xtiva có
nói với tôi, và tôi hết lời mừng cô đấy, tôi ưa ông ta lắm. - Anna nói tiếp: -
Tôi đã gặp Vronxki ở ngoài ga.
- A! Anh ấy cũng ra đấy à? - Kitti
đỏ mặt hỏi. - Anh Xtiva đã nói với chị những gì?
- Anh ấy kể hết cho tôi rồi. Và tôi
sẽ rất bằng lòng nếu... Tôi đi cùng chuyến tàu với mẹ Vronxki, - nàng nói tiếp,
- và bà cụ không ngớt nói về con mình, con cưng của cụ đấy; tôi biết các bà mẹ
đều thiên vị, nhưng mà...
- Bà cụ anh ấy nói với chị những gì?
- à, nhiều chuyện lắm! Con cưng của
cụ mà, nhưng dù sao, người ta cũng thấy đấy là một con người có bản chất mã
thượng... Thí dụ, bà cụ kể cho tôi biết anh ấy muốn bỏ lại cả gia tài cho ông
anh; và hồi nhỏ, anh ấy đã làm một việc phi thường: cứu một người đàn bà khỏi
chết đuối. Nói tóm lại, đấy là một vị anh hùng, - Anna mỉm cười nói và nhớ lại
số tiền hai trăm rúp Vronxki đã cho ở ga.
Nhưng nàng không nhắc tới hai trăm
rúp. Nhớ lại điều đó, nàng khó chịu. Nàng cảm thấy trong chuyện đó có cái gì
liên quan đến mình, một cái gì đáng trách.
- Bà cụ khẩn khoản mời tôi đến chơi
nhà, - Anna tiếp. - Tôi sẽ vui lòng được gặp lại và mai sẽ đến thăm cụ. Đội ơn
Chúa, Xtiva ở khá lâu trong phòng Doli rồi, - Anna chuyển sang chuyện khác và
đứng dậy. Kitti thấy như nàng có vẻ phật ý.
- Không, tao đến trước! Không, tao
cơ! - Bọn trẻ kêu to; chúng uống trà xong và lại chạy đến với cô Anna.
- Tất cả các cháu cùng đến một lúc!
- Anna nói, vừa cười vừa chạy ra đón. Nàng giang tay bế chúng và đặt tất cả bọn
lau nhau vui tươi ríu rít ấy xuống đivăng.
Chương
20
Doli ở phòng riêng đi ra để dùng bữa
trà người lớn. Không thấy Xtepan Arcaditr xuất hiện. Chắc ông rời phòng vợ bằng
cửa sau.
- Chị sợ cô ở trên gác thì lạnh, -
Doli quay lại bảo Anna; - chị sẽ cho thu xếp để cô ở dưới này. Như thế chúng
mình sẽ gần nhau hơn.
- ồ! Thôi chị ạ, chị đừng bận tâm
nhiều về em, - Anna đáp, nhìn chằm chặp vào mặt Doli, cố đoán thử xem hai vợ
chồng làm lành với nhau chưa.
- ở đây sáng sủa hơn, - bà chị dâu
nói.
- Chị nhớ là ở đâu em cũng ngủ say
như chuột đồng ấy.
- Hai chị em nói chuyện gì thế? - Xtepan
Arcaditr ở phòng làm việc bước ra và hỏi vợ.
Nghe giọng ông, Kitti và Anna hiểu
ngay họ dàn hòa với nhau rồi.
- Em muốn để Anna ở đây, nhưng thay
màn cửa đi thì hơn. Không ai làm được, lại phải em thôi, - Doli trả lời chồng.
"Có trời biết họ đã hoàn toàn
hòa thuận với nhau chưa", Anna nghĩ thầm khi thấy vẻ bình thản, lạnh lùng
của Daria.
- Đừng có luôn luôn chuốc lấy việc
vào mình thế Doli ạ, - Oblonxki nói. - Nếu em bằng lòng, anh sẽ làm việc ấy
cho...
"ừ, chắc họ làm lành với nhau
rồi", Anna nghĩ thầm.
- Em thừa biết là anh sẽ làm ra sao
rồi, - Doli nói: - anh sẽ sai Matvei những điều quái gở không biết mô tê nào mà
lần, rồi anh bỏ đi, còn bác ta sẽ làm rối tinh rối mù lên..., - và nụ cười chế
nhạo hé nở trên môi Doli.
"Họ hoàn toàn làm lành với nhau
rồi, hoàn toàn rồi, lạy Chúa!" - Anna kết luận. Và, sung sướng nghĩ việc
làm lành đó là nhờ ở mình, nàng tiến đến và ôm hôn Doli.
- Chưa chắc; tại sao em lại khinh
Matvei và anh đến thế nhỉ? - Xtepan Arcaditr nói và quay lại phía vợ, trên môi
thoáng một nụ cười.
Cả buổi tối, Doli vẫn như thường lệ,
hơi có vẻ mỉa mai chồng, còn Xtepan Arcaditr thì vui vẻ và hài lòng, nhưng vừa
đủ để khỏi có vẻ vừa được tha thứ đã vội quên hết lỗi lầm.
Khoảng chín rưỡi, câu chuyện quanh
bàn trà nhà Oblonxki đêm ấy đang đặc biệt vui vẻ, bỗng bị phá rối vì một chuyện
bất ngờ, bề ngoài tưởng rất bình thường nhưng ai nấy đều thấy kỳ lạ. Nhân nói
đến chuyện bạn bè quen thuộc chung ở Peterburg, Anna đứng phắt dậy.
- Tôi có ảnh họ trong anbom đây, và
nhân thể, xin mời xem ảnh cháu Xêriôja 1, - nàng nói với nụ cười kiêu hãnh của
người mẹ.
Thường thường cứ đến mười giờ là
nàng đến đắp chăn cho con và chúc chú bé ngủ ngon trước khi đi khiêu vũ, cho
nên lúc này nỗi buồn vì phải xa con xâm chiếm nàng, và dù câu chuyện xoay quanh
vấn đề gì, đầu óc nàng vẫn luôn luôn nghĩ tới Xerioja tóc búp của mình.
Nàng nẩy ra ý muốn được ngắm ảnh con
và nói một chút về nó. Nắm lấy cái cớ đầu tiên, nàng liền đứng dậy và đi tìm
cuốn anbum, bước chân rắn rỏi nhẹ nhàng. Cầu thang lên phòng nàng ăn thẳng vào
phòng chờ lớn được sưởi ấm của tầng dưới.
Vừa lúc nàng ra khỏi phòng khách, có
tiếng chuông kêu vang ngoài phòng chờ.
- Ai thế nhỉ? - Doli nói.
- Nếu là người đến đón em về thì còn
sớm quá, mà nếu là khách đến chơi thì khuya rồi, - Kitti nhận xét.
- Chắc họ mang giấy tờ đến cho tôi,
- Xtepan Arcaditr nói.
Khi Anna đi qua gần cầu thang, một
người hối hả chạy lên báo có khách; người khách đứng đợi dưới ngọn đèn phòng
chờ. Anna nhìn xuống, nhận ngay ra Vronxki và một cảm giác kỳ lạ, vui mừng pha
lẫn sợ hãi, thốt nhiên làm cho lòng nàng xao xuyến. Vronxki đứng thẳng, không
cởi áo ngoài, và móc ở túi ra vật gì. Lúc nàng đến giữa cầu thang, chàng đưa
mắt nhìn lên, thấy nàng, và mặt chằng bỗng lộ vẻ bối rối, sợ sệt. Nàng khẽ cúi
đầu chào và đi qua. Liền sau đó có tiếng nói oang oang của Xtepan Arcaditr mời
bạn vào chơi và giọng nói bình tĩnh, dịu dàng và hơi tịt đi của Vronxki từ chối
lời mời.
Khi Anna đem cuốn anbum trở vào,
chàng không còn ở đấy nữa, và Xtepan Arcaditr cho biết là chàng đến hỏi về bữa
ăn định tổ chức vào ngày kia mừng một vị tai mắt đi ngang qua đây.
- Anh chàng không bao giờ vào nhà
cả: thật buồn cười! - Xtepan Arcaditr nói thêm.
Kitti đỏ mặt. Cô tưởng chỉ riêng
mình đoán được tại sao chàng đến đây và tại sao lại không chịu vào nhà.
"Chàng qua nhà mình và không thấy mình - cô thầm nghĩ - chàng bèn nghĩ
mình ở đây; nhưng chàng không vào vì khuya rồi và có Anna ở đây".
Mọi người nhìn nhau không nói gì, và
bắt đầu xem tập ảnh của Anna.
Nào có gì là phi thường hay kỳ lạ
trong việc đi ngang qua nhà người bạn thân hồi chín giờ rưỡi để hỏi về chi tiết
một bữa ăn đã dự định trước và từ chối không vào nhà; nhưng tất cả đều thấy đó
là khác thường. Hơn ai hết, Anna càng băn khoăn và phật ý.
--------------------------------
1 Tên gọi thân mật của Xergei.
Chương
21
Cuộc khiêu vũ vừa bắt đầu thì Kitti
cùng mẹ bước lên cầu thang lớn trang trí đầy hoa và tràn ngập ánh sáng, với
những người hầu đeo tóc giả rắc phấn, quần áo đỏ, đứng thành hàng rào danh dự.
Từ các phòng khách vẳng tới tiếng lào xào như tiếng tổ ong, và trong khi hai mẹ
con liếc nhìn lần chót để ngắm lại quần áo và đầu tóc trong tấm gương ở đầu cầu
thang có chậu cảnh bao quanh, thì tiếng nhạc cử điệu vanxơ đầu tiên nổi lên,
nương theo âm thanh nhịp nhàng thận trọng của những cây vĩ cầm trong dàn nhạc.
Một ông già thấp bé sực mùi nước
hoa, mặc thường phục, đang tỉ mẩn chải mớ tóc bạc ở thái dương trước một tấm
gương khác; ông ta gặp hai mẹ con ở cầu thang và vừa né ra vừa nhìn Kitti mà
ông không quen, vẻ thán phục in rõ trên nét mặt. Một chàng trai trẻ mày râu
nhẵn nhụi, thuộc vào loại thanh niên hào hoa mà lão quận công Serbatxki mệnh
danh là nhãi nhép, mặc gi lê rộng cổ, vừa đi vừa nắn lại chiếc cravat trắng,
nghiêng mình chào hai mẹ con Kitti, vượt lên trước, rồi lại quay lại mời Kitti
nhảy điệu vũ đối diện. Cô đã dành điệu vũ đối diện thứ nhất cho Vronxki nên
đành phải hứa với anh chàng trai trẻ bài thứ hai. Một sĩ quan đang cài cúc găng
tay, đứng dẹp vào gần cửa, vừa ngắm Kitti trong bộ áo hồng vừa vuốt ria mép.
Mặc dầu quần áo, đầu tóc và mọi thứ
chuẩn bị khác cho buổi dạ hội đã khiến Kitti phải vất vả và suy nghĩ nhiều, lúc
bước vào dạ hội trong tấm áo dài tuyn cầu kỳ phủ ngoài lớp áo chẽn màu hồng, cô
vẫn có vẻ thoải mái và giản dị, y như các thứ "nơ", đăng ten và đồ
trang sức không hề đòi hỏi cô và bọn người hầu một chút bận tâm nào, y như cô
đã sinh ra trong tấm áo tuyn ấy, trong mớ đăng ten ấy, với kiểu tóc búi cài
bông hồng giữa hai chiếc lá nhỏ.
Trước lúc vào phòng khách, quận công
phu nhân định sửa lại dải băng quanh mình cô con gái, nhưng khi Kitti từ chối
một cách đáng yêu: cô cảm thấy tất cả những thứ mang trên người tăng vẻ đẹp cho
cô một cách tự nhiên và duyên dáng rồi, không cần sửa sang gì hết.
Kitti đang ở vào những ngày sung
sướng. Tấm áo dài không chút vướng víu, áo choàng vai đăng ten vẫn chỉnh tề, nơ
còn mới nguyên; đôi giày hồng gót cao và cong không bó chặt mà ôm khít bàn chân
xinh xắn một cách dễ chịu. Mớ tóc giả dày dặn màu hung cũng bám chặt như tóc
thật trên mái đầu duyên dáng. Trên chiếc găng dài nịt sát cánh tay như đổ
khuôn, ba chiếc khuy cài dễ dàng không hề làm nhăn nếp vải. Dải nhung đen đeo
mặt dây chuyền vàng hình trái tim, tao nhã quàng quanh cổ. Dải nhung thật tuyệt
diệu, và khi Kitti ngắm nó trên cổ, trong gương, cô thấy hình như nó biết nói.
Những cái khác, thì còn có thể chưa hoàn hảo nhưng dải nhung này quả là một kỳ
quan. Khi tới dạ hội, Kitti còn cười với nó lần nữa trong gương. Cô cảm thấy
đôi vai và cánh tay trần của mình như bằng đá hoa lạnh (cảm giác cô thích hơn
hết). Mắt cô long lanh và cặp môi tươi tắn bất giác mỉm cười: cô biết rõ là
mình đẹp.
Vừa bước vào phòng khách và sắp nhập
vào đám các bà trang điểm toàn hoa, hàng tuyn, dải băng và đăng ten đang đứng
đợi bạn nhảy (không bao giờ Kitti nán lại lâu trong đám này) thì một "kỵ
sĩ" bậc nhất đã mời cô nhảy vanxơ, đó là "kỵ sĩ" quan trọng nhất
trong ngôi thứ các dạ hội, người đầu trò các đêm khiêu vũ, nhưng chủ trì các
buổi lễ: Egôruska Korxunxki, một người đã có vợ, cao lớn và điển trai. Ông vừa
rời nữ bá tước Bonin sau khi cùng nhảy với bà bài vanxơ đầu tiên. Đưa mắt nhìn
thần dân của mình, nghĩa là mấy cặp đang nhảy, ông thấy Kitti, liền vội đến gặp
cô với cái dáng đi uể oải đặc biệt của các bậc thầy vũ balê, nghiêng mình chào,
và không cần hỏi xem cô có muốn nhảy không, đưa luôn tay ra quàng lấy tấm thân
thanh tú. Cô quay lại tìm người gửi cái quạt, và bà chủ nhà mỉm cười cầm giúp
cô.
- Cô đến đúng giờ thế là phải, đi
muộn là cái lối gì kia chứ? - ông nói, vừa quàng lấy người cô.
Cô đặt cánh tay trái gập lại trên
vai bạn nhảy, và đôi chân nhỏ đi giày hồng nhẹ nhàng lướt đúng nhịp trên mặt
sàn trơn.
- Nhảy với cô như được nghỉ ngơi
vậy, - ông vừa nói vừa đi thử mấy bước đầu còn chậm của điệu vanxơ, - thật
tuyệt vời, nhẹ nhàng bao nhiêu, chính xác 1 bao nhiêu! - ông nhắc lại những lời
đã nói với hầu hết bạn nhảy nữ.
Cô mỉm cười trước lời khen, và tiếp
tục quan sát khắp gian phòng qua vai người bạn nhảy. Cô không phải người lần
đầu đi dự khiêu vũ thường dễ thấy tất cả các bộ mặt quyện lại thành một cảm
giác thần tiên duy nhất; cô cũng không phải là một thiếu nữ chán chường nhìn
mọi nét mặt đều thấy quen thuộc đến phát ngấy. Cô ở giữa hai thái cực đó: cô bị
kích thích, nhưng vẫn tự chủ trong chừng mực còn giữ được khả năng nhận xét. Cô
nhận thấy tinh hoa của xã hội thượng lưu đang tập trung ở góc trái gian phòng
khách. ở đó, có nàng Lidia xinh đẹp, vợ Korxunxki, mặc hở ngực quá lộ liễu; ở
đó có bà chủ nhà; ở đó có Krivin với cái đầu hói bóng vẫn luôn luôn bám theo
tinh hoa của giới thượng lưu. Bọn trai trẻ liếc nhìn vào góc này mà không dám
lại gần. Cô nhận ra Xtiva trong nhóm, và một lát sau, lại thấy bộ mặt và cái
bóng dáng uyển chuyển của Anna trong bộ đồ nhung đen.
Chàng cũng có mặt ở đấy. Kitti chưa
gặp lại chàng kể từ buổi tối cô cự tuyệt Levin. Cặp mắt sắc sảo của cô nhận
ngay ra chàng và còn thấy chàng đang nhìn mình nữa.
- Chúng ta cùng nhảy bài nữa nhé? Cô
chưa mệt chứ? - Korxunxki hơi hổn hển, nói.
- Thôi ạ, cảm ơn ông.
- Tôi phải đưa cô về chỗ nào?
- Hình như Carenina ở kia... Ông đưa
tôi lại chỗ bà ấy.
- Xin phục tùng.
Và Korxunxki vẫn nhảy nhưng bước
chậm lại, đưa cô đến đám ở góc trái phòng khách; trên đường đi, ông nói:
"Xin lỗi quý bà, xin lỗi, xin lỗi quý bà" 2, lách giữa cái biển đăng
ten, "tuyn" và dải băng không hề đụng phải ai, rồi dừng cô bạn nhảy
lại đột ngột đến nỗi hai bàn chân nhỏ của cô trong đôi tất mỏng dính lộ ra và
cái váy đang xoè thành hình quạt, quấn vào đầu gối Krivin. Korxunxki chào, ưỡn
ngực ra, và đưa tay dắt cô thiếu nữ đến cạnh Anna Arcadievna. Kitti mặt đỏ nhừ,
gỡ váy ra khỏi Krivin, và bối rối nhìn lại đằng sau để tìm Anna.
Anna không mặc màu hoa cà như Kitti
muốn; nàng mặc áo nhung đen cổ hở rất nhiều, để lộ đôi vai, bộ ngực tuyệt đẹp
như tạc trên ngà voi cổ, và đôi cánh tay tròn với cổ tay nhỏ nhắn. áo nàng đính
toàn ren Vơnidơ. Trên mớ tóc đen không chút cầu kỳ, gài dải hoa păngxê nhỏ;
cũng một dải hoa như vậy chạy trên nền nhung đen chiếc thắt lưng, giữa hàng
đăng ten trắng. Tóc nàng chải rất giản dị, chỉ trang điểm mấy búp nhỏ xoã xuống
thái dương và gáy. Chuỗi hạt trai quấn quanh cổ nàng rắn chắc và tuyệt đẹp.
Kitti dạo này ngày nào cũng gặp
Anna, cô đâm mê Anna và bao giờ cũng hình dung nàng mặc áo hoa cà. Nhưng bây
giờ thấy nàng mặc đồ đen, cô mới cảm thấy mình chưa biết đánh giá hết sắc đẹp
của nàng. Đột nhiên, cô thấy Anna dưới một vẻ hoàn toàn khác. Cô hiểu Anna
không thể mặc màu hoa cà, sắc đẹp của nàng chính ở chỗ nó làm mờ nhạt, làm quên
y phục đi; y phục là cái khung để nàng nổi bật lên, giản dị, tự nhiên, thanh
lịch, đồng thời lại vui tươi, hồn nhiên.
Nàng vẫn đứng rất thẳng như thường
lệ; khi Kitti lại gần nhóm, nàng đang nói chuyện với chủ nhân và hơi quay đầu
về phía cô.
- Không, tôi sẽ không chỉ trích họ
đâu, mặc dầu tôi không hiểu gì cả, - nàng nhún vai nói; và ngay sau đó, nàng
quay về phía Kitti với nụ cười âu yếm che chở. Nàng lướt nhìn toàn bộ trang
phục của Kitti bằng con mắt phụ nữ, khẽ gật đầu tỏ vẻ tán thành và cô thiếu nữ
hiểu ngay.
- Cô đi vào đây bằng khiêu vũ, -
nàng bảo Kitti.
- Đây là một trợ thủ quý báu của
tôi, - Korxunxki nói và chào Anna Arcadievna mà phút trước, ông chưa trông thấy.
- Tiểu thư góp phần làm cho cuộc khiêu vũ thêm đẹp, thêm vui. Anna Arcadievna,
mời bà nhảy vanxơ, - ông nghiêng đầu mời.
- Các ngài biết nhau rồi chứ? - chủ
nhân hỏi.
- Chúng ta quen biết tất cả mọi
người! Vợ chồng tôi như con sói trắng vậy, - Korxunxki đáp.
- Ta nhảy vanxơ chứ, thưa bà Anna
Arcadievna?
Vừa lúc đó, Vronxki bước lại gần.
- Nếu không thể khác được thì xin
nhảy vậy, - nàng nói, không chú ý đến Vronxki vừa chào mình, và vội đặt tay lên
vai Korxunxki.
"Tại sao chị ấy lại giận
Vronxki?" - Kitti thầm nghĩ khi thấy Anna cố tình không chào lại Vronxki.
Chàng đến bên Kitti, nhắc lại lời cô đã hứa nhảy điệu vũ đối diện đầu tiên, và
tỏ ý tiếc là thời gian gần đây không được gặp cô. Kitti vừa thán phục nhìn Anna
nhảy vừa lắng nghe Vronxki. Cô đợi chàng mời nhảy, nhưng không thấy gì. Cô ngạc
nhiên nhìn Vronxki, chàng đỏ mặt, vội mời cô nhảy. Nhưng chàng vừa quàng lấy
tấm thân thanh tú và dạo bước thứ nhất thì âm nhạc dừng lại. Kitti nhìn kỹ
khuôn mặt chàng kề sát mặt cô. Bao nhiêu năm sau, con mắt đầy tình tứ cô nhìn
chàng lúc này và không được chàng đáp lại, vẫn còn vò xé trái tim cô với một
cảm giác hổ thẹn day dứt.
- Xin lỗi, xin lỗi! 3 Vanxơ, vanxơ!
- Korxunxki thét to ở đầu phòng đằng kia; và vớ lấy người bạn nhảy đầu tiên vừa
đi tới, ông lại tiếp tục nhảy.
--------------------------------
1 Précision (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
2 "Pardon, Mesdames; pardon,
pardon, Mesdames" (tiếng Pháp trong nguyên bản).
3 Pardon, pardon (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
22
Vronxki nhảy vài bước vanxơ với Kitti.
Sau bài vanxơ, Kitti đi tìm mẹ và chỉ kịp trao đổi vài câu với nữ bá tước
Norxton thì Vronxki đó đến tìm cô để nhảy điệu vũ đối diện đầu tiên. Trong khi
nhảy, họ không nói chuyện gì đặc biệt cả; họ nói nhát gừng, khi về chuyện nhà
Korxunxki, cả chồng lẫn vợ, mà chàng tả họ một cách khôi hài như những đứa bé
đáng yêu bốn mươi tuổi, khi về một nhà hát của giới thượng lưu đang xây dựng;
có mỗi một lần câu chuyện dính dáng đến cô là khi chàng hỏi Levin còn ở Moxcva
không và nói thêm là chàng rất thích anh ta. Nhưng Kitti cũng không đặt hy vọng
gì nhiều lắm ở điệu vũ đối diện. Lòng bồi hồi, cô đợi đến điệu mazuyêcka. Cô có
cảm tưởng mọi việc sẽ được quyết định trong lúc nhảy mazuyêcka. Cô không lo gì
về chuyện chàng đó quên không mời trước mình trong khi nhảy điệu đối diện. Cô
chắc chắn sẽ được nhảy với chàng, cũng như trong các buổi khiêu vũ trước, nên
đó từ chối năm người mời nhảy, với lý do đó hứa với người khác rồi.
Cho đến điệu vũ đối diện cuối cùng,
cả cuộc dạ hội, đối với Kitti, như một giấc mơ tuyệt diệu, đầy hoa, âm thanh và
chuyển động hoan lạc. Cô chỉ ngồi yên trên ghế khi nào thấy mình mệt quá và cần
nghỉ một lát. Nhưng, khi nhảy điệu đối diện cuối cùng với một chàng trai chán
phèo không sao từ chối được, cô bỗng thấy mình đối diện 1 với Anna và Vronxki.
Từ lúc bắt đầu nhảy, cô chưa gặp lại Anna, và cô bỗng thấy nàng hoàn toàn đổi
khác lần nữa. Cô nhận ra trên nét mặt nàng những dấu hiệu phấn khởi rất quen
thuộc với cô: phấn khởi của thành công. Cô thấy Anna đang say sưa trước sự
ngưỡng mộ nàng đó gây nên. Kitti đó từng trải qua thứ tình cảm đó, biết những
triệu chứng của nó và nhìn thấy triệu chứng ấy trên nét mặt Anna: cô bắt gặp ở
nàng cái ánh mắt chói ngời và lung linh, nụ cười sung sướng và đắc thắng trên
đôi môi bất giác run rẩy, vẻ duyên dáng, chính xác và nhẹ nhàng trong mọi cử
động.
"Ai vậy? Cô tự hỏi. Tất cả hay
chỉ một người?". Và, mặc cho người bạn nhảy đáng thương hoài công tìm cách
nối lại câu chuyện, và làm theo lời kêu gọi vui vẻ và hách dịch của Korxunxki
bảo họ lúc thì nhảy thành vòng tròn rộng 2 lúc thì nhảy thành dóy dài 3, Kitti
tiếp tục quan sát, và mỗi lúc một thấy se lòng. "Không, không phải sự
ngưỡng mộ của đám đông đó làm chị ấy say sưa, mà là của một người thôi! Ai vậy?
Có thể nào lại chính là Chàng?".
Mỗi lần chàng nói với Anna, mắt nàng
lại sáng ngời lên và nụ cười rạng rỡ hé nở trên cặp môi đầy đặn. Nàng như gắng
che giấu nỗi vui mừng, nhưng bất chấp ý nàng, nó vẫn nở bừng trên mặt.
"Nhưng còn chàng?". Kitti nhìn chàng và bỗng hói hùng. Điều cô nhìn
thấy trên mặt Anna phản chiếu lại trên mặt Vronxki, rõ ràng như trong gương.
Nào đâu là tư thế bình tĩnh và tự
tin, cái vẻ bình thản và vô tư của chàng? Mỗi lần nói với nàng, chàng hơi cúi
đầu xuống như kiểu muốn phủ phục, và trong mắt chỉ còn biểu lộ vẻ phục tùng và
sợ sệt. Vẻ nhìn đó như muốn nói: "Tôi không muốn làm phật lòng bà, nhưng
quả tôi chỉ muốn trốn đi, mà không biết trốn bằng cách nào". Mặt chàng có
một vẻ khác thường cô chưa từng thấy bao giờ.
Họ trò chuyện về những người cùng
quen biết, về những thứ không đâu, nhưng Kitti có cảm tưởng mỗi lời họ nói đang
quyết định cả số phận họ lẫn số phận cô. Và lạ thay, dù thực ra họ chỉ bàn về
cái thứ tiếng Pháp lố bịch của Ivan Ivanovitr, về đám cưới tầm thường của cô
Eletxki, những câu chuyện đó vẫn có vẻ quan trọng đối với họ, và họ cũng cảm
thấy điều ấy như Kitti. Cả cuộc khiêu vũ lẫn quan khách, tất thẩy đều như biến
đi trước mắt Kitti. Một điều duy nhất:
nề nếp giáo dục nghiêm khắc theo gia
phong đó duy trì được tinh thần cô, buộc cô phải làm những việc người khác đang
yêu cầu, nghĩa là khiêu vũ, trả lời câu hỏi người khác, nói, và thậm chí cười
nữa.
Nhưng đúng trước khi nhảy mazuyêcka,
trong lúc người ta thu ghế lại và từng đôi một rời khỏi các phòng khách nhỏ để
đến tập trung ở phòng lớn, Kitti bỗng sợ hói và thất vọng. Cô đó từ chối năm
bạn nhảy, và giờ đây không ai mời cô cả! Cô cũng không hy vọng gì được mời nữa,
chính bởi lẽ cô là ngôi sao sáng trong chốn xó giao nên không ai nghĩ cô lại
thiếu bạn nhảy. Đáng lẽ viện cớ mệt xin phép mẹ ra về, thì cô lại không đủ can
đảm nói vậy. Cô cảm thấy tuyệt vọng quá rồi!
Cô trốn vào phòng khách nhỏ và gieo
mình xuống ghế bành. Chiếc váy mỏng, như một làn mây, quàng lấy tấm thân mảnh
dẻ; cánh tay trần, mảnh mai và ẻo lả buông thõng trên nếp áo hồng; tay kia cầm
quạt, cô quạt phần phật và bực dọc vào khuôn mặt nóng bừng. Cô có vẻ như một
con bướm vừa mắc vào đám cỏ, đang sắp sửa bay lên và giương đôi cánh sặc sỡ;
một nỗi thất vọng ghê gớm vò nát trái tim cô.
"Có lẽ mình nhầm chăng? Có lẽ
không đúng thế chăng?". Và cô ôn lại tất cả những điều đó nhìn thấy.
- Kitti, có chuyện gì vậy? - nữ bá
tước Norxton bước rất nhẹ lại gần cô và nói. - Tôi không hiểu đấy.
Môi dưới Kitti run lên; cô vội đứng
dậy.
- Cô không nhảy mazuyêcka à?
- Không, không, - Kitti nói, giọng
run run, nghẹn ngào nước mắt.
- Chàng vừa mời bà ta trước mặt tôi,
- nữ bá tước Norxton nói, thừa biết Kitti hiểu mình định ám chỉ ai. - Bà ta
bảo: "Tôi tưởng ông nhảy với tiểu thư Tsecbatxkaia".
- Thế thì việc gì đến tôi? - Kitti
đáp.
Ngoài bản thân cô, không ai hiểu
được hoàn cảnh éo le này, không ai biết vừa hôm qua cô cự tuyệt một người mà có
lẽ cô đó yêu, chỉ vì tin vào người khác.
Nữ bá tước Norxton đi tìm Korxunxki
mà bà đó hứa sẽ cùng nhảy điệu mazuyêcka và buộc ông mời Kitti.
Kitti ở trong cặp thứ nhất, và may
mắn là cô không bắt buộc phải nói chuyện, vì Korxunxki còn bận chạy chỗ này chỗ
khác để làm tròn phận sự. Vronxki và Anna gần như ở ngay trước mặt cô. Cặp mắt
sắc của cô nhìn thấy họ lúc lùi xa, lúc sát lại gần khi họ lẫn vào các cặp
khác. Càng nhìn, cô càng xác định rõ ràng nỗi bất hạnh của mình.
Đúng là họ tự cảm thấy như chỉ có
hai người với nhau trong gian phòng đông nghịt này. Và trên nét mặt Vronxki,
xưa nay vốn lạnh lùng và thản nhiên, một lần nữa cô lại thấy cái vẻ bối rối và
qụy lụy đó khiến cô sửng sốt: vẻ mặt con chó thông minh biết mình phạm lỗi.
Anna mỉm cười... chàng mỉm cười lại.
Nàng trở nên tư lự... chàng lấy lại bộ mặt nghiêm trang. Một sức mạnh phi
thường như hút cặp mắt của Kitti dán vào mặt Anna. Trông nàng đầy sức quyến rũ,
với tấm áo dài đen giản dị, đôi cánh tay tuyệt đẹp đeo đầy vòng, cái cổ rắn rỏi
quấn chuỗi hạt trai, những búp tóc loà xoà, đôi chân nhỏ nhắn uyển chuyển duyên
dáng, khuôn mặt đẹp tươi, tất cả ở nàng đều dễ yêu, nhưng nét kiều diễm ấy có
một vẻ gì ghê sợ và tàn nhẫn.
Kitti càng thêm ngưỡng mộ duyên sắc
của nàng, và chính vì vậy nỗi đau đớn của cô càng sâu sắc. Cô cảm thấy ró rời
và điều đó lộ ra trên nét mặt. Khi Vronxki tình cờ đến sát cô trong một đội
hình, chàng không nhận ngay ra được vì trông cô biến sắc quá.
- Dạ hội tuyệt thật! - chàng nói cho
có chuyện.
- Vâng, - cô đáp.
Giữa điệu mazuyêcka, để lắp lại một
đội hình phức tạp do Korxunxki vừa đặt ra, Anna phải ra đứng giữa vòng tròn và
chọn lấy hai nam hai nữ trong đó có Kitti. Vừa tiến lại gần, Kitti vừa ngắm
nàng một cách sợ hói. Anna lim dim mắt nhìn cô, mỉm cười và nắm tay cô. Nhưng
thấy Kitti chỉ đáp lại bằng một vẻ tuyệt vọng ngỡ ngàng, nàng quay đi và bắt
chuyện vui vẻ với bà kia.
"Phải, chị ta có sức quyến rũ
kỳ lạ và ma quái", Kitti nghĩ thầm.
Anna không muốn ở lại ăn đêm, mặc
dầu chủ nhân khẩn khoản mời.
- Xin bà đừng từ chối, bà Anna
Arcadievna, - Korxunxki xen vào và luồn cánh tay trần của Anna vào cánh tay
mình. - Tôi mới nghĩ ra được một điệu vũ. Một điệu tuyệt đẹp 4!
Và ông bước đi, cố kéo nàng theo.
Chủ nhân mỉm cười tán thưởng.
- Không, tôi không thể ở lại được, -
Anna mỉm cười đáp; nhưng mặc dầu thấy nàng cười, cả Korxunxki lẫn chủ nhân đều
hiểu với giọng quả quyết ấy, nàng sẽ không ở lại. - Phải, trong cuộc dạ hội của
các ngài ở Moxcva đây, tôi đó nhảy nhiều hơn cả một mùa đông ở Peterburg, -
Anna nói và quay lại nhìn Vronxki đứng gần đó. - Tôi phải nghỉ ngơi trước khi
lên đường.
- Ngày mai bà nhất định đi ư? -
Vronxki hỏi.
- Vâng, tôi định thế, - Anna đáp,
như ngạc nhiên vì câu hỏi táo bạo; nhưng ánh mắt lung linh và nụ cười của nàng
như đốt cháy toàn thân chàng trong khi nàng nói câu ấy.
Anna Arcadievna không ở lại ăn đêm
và ra về.
--------------------------------
1 Visàvis (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
2 Grand rond, chaine (tiếng Pháp
trong nguyên bản) 4 Unbijou (tiếng Pháp trong nguyên bản) nghĩa đen là một vật
trang sức.
3 Grand rond, chaine (tiếng Pháp
trong nguyên bản) 4 Unbijou (tiếng Pháp trong nguyên bản) nghĩa đen là một vật
trang sức.
Chương
23
"Ừ, trong con người mình có cái
gì gớm ghiếc, Levin nghĩ vậy khi ở nhà Serbatxki bước ra để đi bộ về nhà ông
anh. Ai nấy đều không ưa mình. Người ta bảo tại mình kiêu căng. Thế nhưng mình
có kiêu căng đâu. Nếu kiêu căng, mình đó chẳng lâm vào tình thế này". Và
chàng hình dung thấy Vronxki sung sướng, hồn hậu, thông minh và bình thản, con
người chắc chắn không bao giờ lâm vào cái thế khủng khiếp như chàng tối nay.
"Đúng, nàng chọn anh ta là phải. Điều đó là tất yếu, và mình chả nên phàn
nàn về điều gì hoặc về ai cả. Chính mình là kẻ có lỗi. Mình lấy quyền gì mà cho
rằng nàng ưng gắn bó cuộc đời với mình? Mình là ai? Mình là gì? Một anh chàng
không đáng kể, không cần thiết cho ai hết". Chàng nghĩ đến ông anh Nicolai
và vui mừng vì đó nhớ đến anh. "Anh ấy đó chẳng có lý khi nói tất cả mọi
thứ trên trái đất này đều xấu xa, bỉ ổi đó sao? Có lẽ ta đó không công bằng khi
phê phán anh Nicolai. Tất nhiên, theo quan điểm Procov, chỉ thấy anh ấy say
rượu với chiếc áo choàng lông rách bươm trên mình, thì anh ấy là kẻ đáng khinh;
nhưng mình, mình lại nhìn anh ấy khác. Mình hiểu tâm hồn anh ấy và biết hai anh
em mình giống nhau. Thế mà đáng lẽ đi tìm anh ấy, mình lại đi ăn hiệu và mò đến
đây!".
Levin lại gần một cột đèn lồng để
đọc địa chỉ ông anh vẫn để trong ví, và gọi xe ngựa. Trên chặng đường khá dài,
chàng ôn lại rõ ràng tất cả những biến cố chàng được biết trong cuộc đời
Nicolai. Chàng nhớ lại khi ở Đại học và suốt năm sau đó, anh ấy đó sống như
thầy tu, tuân theo từng li từng tí mọi luật lệ tôn giáo, mặc cho bạn bè chế
giễu: đi lễ, ăn chay, xa lánh các thú vui và nhất là đàn bà; thế rồi bỗng
nhiên, anh ấy bỏ tất, giao du với những kẻ hèn hạ nhất và lao mình vào cuộc
trác táng đáng hổ thẹn. Rồi chàng lại nhớ đến chuyện thằng bé anh ấy đưa từ
nông thôn ra để nuôi dạy nhưng lại đánh nó tàn nhẫn trong một cơn giận dữ, đến
nỗi bị kiện về tội ngược đói. Tiếp đến thời kỳ lừa đảo, anh ta đó đưa cho ai
đấy một lá hối phiếu để trả nợ thua bạc, rồi lại đệ đơn kiện họ về tội lường
gạt (chính Xergei Ivanovitr vừa phải trả món tiền ấy). Anh ta đó phải nhốt một
đêm ở bót vì tội nửa đêm làm ầm ĩ. Anh ta phát đơn kiện kết tội ông anh Xergei
Ivanovitr là đó chiếm đoạt phần gia tài do mẹ để lại cho mình.
Cuối cùng, anh ta xin được một chỗ
làm ở một tỉnh miền Tây và bị truy tố vì tội đánh thượng cấp... Tất cả chuyện
ấy thật bỉ ổi, tuy nhiên Levin thấy nó không đến nỗi xấu xa như đối với những
ai không hiểu Nicolai, không hiểu thấy đáy lòng và không rõ hết chuyện anh ta.
Levin nhớ lại khi Nicolai còn đang ở
thời kỳ sùng đạo ăn chay, hay lui tới nhà thờ, tu viện và tìm trong tôn giáo
một sức kiềm chế dục vọng, chẳng những không ai ủng hộ anh ta mà trái lại, mọi
người và ngay cả chàng đều chế giễu. Người ta trêu chọc, gọi anh ta là Nôê 1,
"thầy tu"; và khi anh sa ngó thì không ai cứu vớt, mọi người đều quay
mặt đi một cách kinh sợ và ghê tởm.
Levin cảm thấy ông anh Nicolai của
mình, mặc dầu đó sống không xứng đáng, trong tâm hồn sâu kín vẫn không lầm lỗi
gì hơn những kẻ đó khinh ghét ông. Đâu phải lỗi tại ông nếu ông sinh ra với
tính nết bất trị và trí tuệ nông cạn. Ông ta bao giờ cũng mong thành người tốt.
"Mình sẽ nói với anh ấy tất cả
những điều chứa chất trong lòng, mình sẽ bắt anh ấy phải thổ lộ hết với mình,
và mình sẽ tỏ cho anh ấy biết mình yêu anh ấy, và, do đó, hiểu rõ anh ấy".
Levin quyết định như thế.
Vào hồi mười một giờ đêm, chàng tới
trước cửa khách sạn ghi trong địa chỉ.
- ở trên gác, số buồng 12 và 13, -
người gác cổng trả lời.
- Ông ấy có nhà không?
- Có lẽ có.
Cửa buồng số 12 hé mở, và từ trong
bay ra một làn khói dày đặc của thứ thuốc lá rẻ tiền; một giọng nói không quen
vang lên nhưng Levin biết ngay anh chàng có nhà: chàng vừa nghe thấy ông ta ho.
Khi chàng bước vào, tiếng người lạ
nói:
- Mọi chuyện còn tuỳ ở chỗ ta điều
khiển công việc có nghiêm túc hay không.
Conxtantin Levin liếc nhìn vào buồng
và thấy người đang nói là một chàng trai trẻ mặc áo gi lê kiểu nông dân, đầu
đội mũ vải to tướng; một thiếu phụ mặt rỗ hoa, mặc áo dài len không có cổ,
không có tay, đang ngồi trên đi văng. Không thấy anh chàng đâu. Lòng Conxtantin
se lại khi nghĩ tới cái môi trường kỳ quái trong đó anh mình đang sống. Không
ai nghe thấy chàng vào, và Conxtantin vừa tháo giày cao su, vừa lắng nghe người
mặc áo gi lê nói.
Anh ta đang bàn công việc.
- Quỷ bắt những tầng lớp có đặc
quyền đặc lợi đi! - có tiếng anh trai chàng nói, khi ho xong. - Masa, kiếm cho
chúng tôi cái gì ăn và xem có rượu thì lấy ra; nếu không thì đi mua.
Người đàn bà đứng dậy, đi qua sau
vách ngăn và thấy Conxtantin.
- Có khách đấy, Nicolai Dimitrievitr
ạ, chị ta nói.
- Ông hỏi ai đấy? - tiếng Nicolai
bực bội hỏi.
- Tôi đây, - Conxtantin Levin đáp và
bước ra khỏi chỗ khuất.
- Tôi là ai? - tiếng Nicolai nhắc
lại, giận dữ hơn. Chàng nghe thấy ông ta bám vào cái gì đó, đứng phắt dậy và
Levin trông thấy trước mặt, trong khung cửa, cái bóng cao lớn thân thuộc của
anh trai: gầy gò, lưng còng, đôi mắt to nhớn nhác, cái vẻ kỳ lạ và ốm yếu của
ông đập ngay vào mắt.
Ông ta gầy thêm kể từ khi Conxtantin
Levin gặp ông lần cuối cùng ba năm trước. Ông mặc áo choàng ngắn. Hai bàn tay
và vóc người như rộng thêm ra. Tóc có thưa đi, nhưng vẫn bộ ria mép cũ lòng
thòng trên môi và vẫn cặp mắt nhìn chằm chằm người mới đến một cách lạ lùng và
ngờ nghệch.
- à, Coxtia, - ông chợt nói khi nhận
ra em, và đôi mắt sáng lên vui thích. Nhưng cùng lúc đó, ông liếc nhìn chàng
thanh niên kia, ngoẹo cả đầu lẫn cổ, một động tác rất quen thuộc với Levin,
kiểu như bị cravat làm vướng víu; rồi một vẻ khác hẳn: đau đớn, cáu kỉnh và dữ
tợn, hiện trên bộ mặt gầy rộc của ông.
- Tôi đó viết thư cho chú và ông
Xergei Ivanovitr, nói rằng tôi không biết và không muốn biết các người là ai
kia mà. Chú muốn gì?
Chú cần cái gì?
Ông hoàn toàn không giống như
Conxtantin tưởng tượng. Khi nghĩ đến anh, Levin quên bẵng cái khía cạnh khó
chịu nhất của tính nết ông, điều đó gây rất nhiều khó khăn trong quan hệ giữa
hai người.
Giờ đây khi thấy nét mặt và nhất là
cái ngoẹo đầu cáu kỉnh của anh, chàng mới nhớ lại tất cả cái đó.
- Tôi không cần gì cả, - chàng rụt
rè đáp. - Tôi chỉ đến thăm anh thôi.
Sự rụt rè của người em rõ ràng đó
làm Nicolai dịu đi; ông mím môi.
- à! Được, - ông ta nói. - Vậy thì
mời chú vào ngồi xuống đây. Chú có muốn ăn không? Masa, lấy ba suất nhé. Nhưng
hóy đợi đó. Chú có biết ai đây không? - Ông ta quay lại phía em trai và chỉ vào
người đàn ông mặc gi lê: - đây là Kritxki, một anh bạn thân ở Kiep, một người
rất xuất sắc. Đang bị cảnh sát săn đuổi, tất nhiên rồi, vì anh ta không phải là
một tên khốn kiếp.
Và theo thói quen, Nicolai nhìn mọi
người chung quanh. Thấy thiếu phụ đứng trên ngưỡng cửa quay người sắp bước ra,
ông quát ngậu lên: "Anh đó bảo em đợi đó mà!". Rồi với cái vẻ thiếu
tự tin, cái cách diễn đạt khó khăn mà Conxtantin biết rất rõ, ông bắt đầu kể
cho em trai nghe hết câu chuyện Kritxki vừa kể và đưa mắt nhìn hết người này
sang người kia: anh chàng bị đuổi khỏi trường Đại học vì đó sáng lập ra hội cứu
tế sinh viên nghèo và tổ chức những lớp học ngày chủ nhật; sau đó, anh ta làm
giáo viên trong một trường tiểu học, bị đuổi một lần nữa và bây giờ đang bị
theo dõi vì một lẽ khác.
- Ông ở trường Đại học Kiep à? -
Conxtantin hỏi Kritxki, để phá tan sự yên lặng nặng nề.
- Vâng, trước kia tôi ở đó, -
Kritxki nhíu mày, cau cảu đáp.
- Còn người đàn bà này, - Nicolai
Levin ngắt lời và chỉ thiếu phụ, - là bạn đời của tôi, tên là Maria
Nicolaievna. Tôi chuộc cô ấy ở nhà chứa ra (ông ta ngoẹo cổ khi nói tới đấy).
Nhưng tôi yêu và kính trọng cô ấy, và tất cả những ai muốn giao thiệp với tôi,
tôi yêu cầu họ cũng yêu mến và kính trọng cô, - ông ta cao giọng nói tiếp và
nhăn mặt lại.
- Tôi hoàn toàn coi cô ta như vợ.
Như vậy là chú đó rõ chú đang giao thiệp với ai rồi. Và nếu chú tưởng như thế
là tự hạ mình xuống, thì xin mời chú ra khỏi cửa!
Và ông ta nhìn mọi người xung quanh,
vẻ dò hỏi.
- Tại sao thế lại là tự hạ mình nhỉ?
- Tôi không hiểu.
- Vậy thì cho đem thức ăn lên đây,
Masa: ba suất, vôtka, rượu vang... không, khoan đó... Thôi, không cần... đi đi
em...
--------------------------------
1 Nôê: tên một tộc trưởng trong Kinh
thánh. Theo lệnh Chúa, Nôê đó đóng một chiếc thuyền để cứu gia đình qua thời kỳ
Đại hồng thuỷ. Ông đưa lên thuyền tất cả những gia súc còn sống, chở đến đỉnh
núi Arara và ở đó, sản sinh ra nòi giống mới.
Chương
24
- Chú thấy đấy, - Nicolai Levin nói
tiếp, lông mày nhíu lại và mặt nhăn nhó, gắng gượng. Rõ ràng mỗi cử chỉ mỗi lời
nói đều khó nhọc đối với ông. - Chú thấy đấy... (ông chỉ vào những thanh sắt
buộc dây thừng trong góc phòng). Chú nhìn thấy cái ấy không? Đó là bước đầu của
một công trình mới mà chúng tôi đang tiến hành. Đó là một hợp tác xó sản
xuất...
Conxtantin lơ đóng nghe. Chàng mải
ngắm khuôn mặt ốm yếu của người ho lao đó, và càng cảm thấy thương hại anh hơn,
thành thử không biết ông ta nói những gì về hợp tác xó. Chàng thấy tổ chức này
chỉ là chỗ bấu víu cuối cùng để ông ta tránh khỏi tự khinh mình mà thôi.
Nicolai Levin nói tiếp:
- Chú cũng biết tư bản chà đạp lên
công nhân. ở nước ta, thợ thuyền, dân cày đều phải làm việc nặng nhọc và đều ở
trong một hoàn cảnh dù có cố gắng đến đâu cũng không sao thoát khỏi phận con
vật kéo cày. Mọi khoản lời lói thu được mà họ có thể dùng để cải thiện đời
sống, tạo nên những giờ phút an nhàn và do đó, học hỏi thêm, đều bị bọn tư bản
nẫng mất. Và xó hội đó được xây dựng theo kiểu họ càng lao động bao nhiêu, thì
bọn con buôn và bọn chủ lại càng làm giàu bấy nhiêu, còn họ thì vẫn mói mói là
con vật kéo cày. Cái tình trạng này cần thay đổi, người anh kết luận và nhìn em
ra vẻ dò hỏi.
- Phải, tất nhiên rồi, - Conxtantin
nói, và nhìn vào đôi gò má anh ửng đỏ.
- Cho nên chúng tôi tổ chức ra cái
hợp tác 1 những người thợ khoá, trong đó sản xuất, lợi tức và các công cụ lao
động chủ yếu là của chung cả.
- Cái hợp tác đó sẽ ở đâu? -
Conxtantin Levin hỏi.
- ở làng Vordrema, tỉnh Kazan.
- Tại sao lại ở trong làng? Tôi thấy
hình như nông thôn thiếu gì việc làm. Tại sao lại đặt hợp tác thợ khóa ở làng?
- Bởi vì nông dân vẫn nô lệ như xưa,
và chính vì vậy cho nên cả chú lẫn Xergei Ivanovitr đều bực tức khi thấy người
ta muốn kéo họ ra khỏi kiếp nô lệ, - Nicolai Levin nói, tức tối vì lời nhận xét
trên.
Conxtantin thở dài và đưa mắt nhìn
quanh căn phòng bẩn thỉu, tối tăm. Tiếng thở dài đó như càng làm Nicolai tức
tối thêm.
- Tôi thừa biết những định kiến quý
tộc của chú và của Xergei Ivanovitr rồi. Tôi biết anh ta đang dùng tất cả trí
thông minh để biện hộ cho cái xấu đang tồn tại.
- Nhưng tại sao anh lại nhắc đến
Xergei Ivanovitr với tôi? - Levin cười hỏi.
- Nhắc đến Xergei Ivanovitr ấy à?
Bởi vì thế này, - Nicolai Levin bỗng gầm lên khi nghe đến tên ông anh. - Nguyên
là thế này... Nhưng nói làm quái gì? Chỉ cần chú nói cho tôi biết chú đến gặp
tôi vì chuyện gì? Chú khinh bỉ chuyện này à, được lắm, quỷ bắt mày đi! Cút đi!
ông ta đứng dậy và thét lên. - Cút
đi! Cút đi!
- Tôi không khinh gì hết, -
Conxtantin Levin nhẹ nhàng nói. - Thậm chí tôi không hề tranh cói nữa kia.
Giữa lúc ấy, Maria Nicolaievna trở
lại. Nicolai Levin giận dữ nhìn chị ta. Chị thoăn thoắt lại gần và nói thầm mấy
câu với ông.
- Tôi đang ốm, tôi đâm ra bẳn tính,
thế mà chú lại đến nói với tôi về Xergei Ivanovitr và bài báo của anh ta, -
Nicolai đó nguôi nguôi, vừa nói vừa thở nặng nề. - Đó là những chuyện phi lý,
dối trá, ảo tưởng quá! Một người không hiểu gì về công lý thì nói sao được
chuyện công lý. Anh đó đọc bài báo của anh ta chưa? - Nicolai quay sang phía
Kritxki hỏi, ngồi xuống cạnh bàn và dọn cái mặt bàn đầy những điếu thuốc nhồi
có một nửa.
- Chưa, - Kritxki nói, vẻ mặt lầm
lầm, rõ ràng không muốn bắt chuyện.
- Tại sao? - Nicolai Levin hỏi,
giọng khó chịu.
- Vì tôi cho rằng không nên mất thời
giờ vô ích vào những chuyện ấy.
- Xin lỗi, nhưng tại sao anh biết là
mất thời giờ? Bài báo này nhiều người không hiểu nổi, nó vượt quá trình độ họ.
Tôi thì khác, tôi bóc trần cái ý của nó, và tôi biết vì sao nó yếu.
Mọi người nín lặng. Kritxki chậm rói
đứng dậy và cầm lấy mũ.
- Anh không muốn ăn à? Thôi được,
chào anh. Ngày mai cùng đến với anh thợ khóa nhé.
Kritxki vừa ra khỏi, Nicolai Levin
đó nháy mắt và mỉm cười.
- Cả thằng cha này nữa, cũng không
ra gì đâu, - ông nói. - Tôi thấy rõ điều đó lắm...
Nhưng giữa lúc đó, Kritxki gọi ông
ta từ ngoài cửa.
- Anh còn cần gì nữa đấy? - Nicolai
Levin hỏi và ra hành lang gặp y.
Còn lại một mình với Maria
Nicolaievna, Levin hỏi chuyện chị:
- Chị sống với anh tôi đó lâu chưa?
- chàng hỏi.
- Sắp được hai năm rồi. Anh ấy ốm
yếu mà uống rượu nhiều quá, - chị ta nói.
- Sao, anh ấy uống rượu à?
- Uống vốtka, nó làm hại anh ấy.
- Uống nhiều lắm à? - Levin khẽ hỏi.
- Vâng, - chị ta đáp và rụt rè nhìn
ra cửa; Nicolai Levin đang trở vào.
- Các người nói chuyện gì thế? - ông
cau mày và lo ngại nhìn hết người này đến người kia. - Nói chuyện gì?
- Có chuyện gì đâu, - Conxtantin bối
rối đáp.
- Các người không muốn nói ra với
tôi thì tuỳ các người thôi.
Nhưng chú nói chuyện với nó làm gì
kia chứ. Nó là con gái điếm, còn chú, chú là một ông lớn, - ông ta vừa nói vừa
ngoẹo cổ. Tôi thấy là chú đó hiểu hết, chú đó có nhận định rồi và chú thương
hại những lầm lẫn của tôi, - ông cao giọng nói tiếp.
- Nicolai Dimitrievitr, Nicolai
Dimitrievitr, - Maria Nicolaievna lại gần ông và khẽ van vỉ.
- Thôi được, thôi được... Nhưng này,
bao giờ thì được ăn đấy? à! Đây rồi! - ông nói khi thấy gó người làm bưng mâm
lên. - Đây, đặt xuống đây, - ông cáu kỉnh nói và cầm ngay lấy chai rượu vôtka,
rót một ly nhỏ và nốc thẳng một hơi. Chú có dùng không? ông hỏi em. Ông đó vui
hơn lên. - Thôi, nói về Xergei Ivanovitr như vậy đủ rồi. Dù sao tôi cũng lấy
làm bằng lòng được gặp chú. Muốn nói sao thì nói, chúng ta cũng không phải là
người dưng nước ló. Này, uống đi chú. Hóy kể cho tôi biết chú đang làm gì nào,
- ông nói tiếp, vừa nhai nhồm nhoàm miếng bánh mì và rót thêm ly rượu thứ hai.
- Chú sống ra sao?
- Tôi sống một mình ở nông thôn, như
ngày xưa, trông nom trại ấp, - Conxtantin đáp, vừa sợ hói nhìn anh ăn uống một
cách thèm khát và cố giấu không tỏ vẻ gì cho anh biết.
- Tại sao chú không lấy vợ?
- Tôi chưa có hoàn cảnh, -
Conxtantin đỏ mặt đáp.
- Tại sao thế? Còn tôi... thế là hết
rồi. Tôi đó làm hỏng đời tôi.
Trước đây tôi đó nói và nay vẫn nhắc
lại rằng nếu tôi được phần gia tài thuộc về tôi, đúng lúc tôi cần, thì đời tôi
chắc khác hẳn rồi.
Conxtantin vội vó lái sang chuyện
khác.
- Anh có biết thằng Vaninska của anh
hiện đang làm cho tôi ở Pocrovxcoie không? - chàng hỏi.
Nicolai ngoẹo cổ và trở nên tư lự.
- ừ phải đấy, chú kể cho anh nghe
những chuyện xảy ra ở Pocrovxcoie đi. Ngôi nhà vẫn vững chói như cũ chứ? Còn
rặng bạch dương ra sao? Và phòng học của chúng ta? Bác gác vườn Filip vẫn còn
sống chứ? Sao mà anh nhớ cái vòm cây, và cái đivăng thế!...
Chú hóy nghe anh, đừng thay đổi gì
trong nhà cả, nhưng chú nên lấy vợ càng sớm càng tốt và tổ chức lại cuộc sống
như ngày xưa ấy.
Lúc ấy, anh sẽ đến thăm chú, nếu
thím ấy tốt bụng.
- Anh đến ngay bây giờ đi, - Levin
nói. - Chúng ta sẽ sống sung sướng biết mấy!
- Anh sẽ về ngay, nếu biết chắc
không gặp Xergei Ivanovitr ở đấy.
- Anh sẽ không gặp anh ấy đâu. Tôi
sống hoàn toàn độc lập.
- Phải, nhưng, muốn nói sao thì nói,
giữa anh ấy và tôi, chú phải chọn lấy một, - ông nói và rụt rè nhìn vào mắt em.
Vẻ rụt rè đó làm Conxtantin cảm
động.
- Nếu anh muốn tôi phải thú thật về
mặt này, thì xin nói trong vụ xích mích giữa anh với Xergei Ivanovitr, tôi
chẳng đứng về phía nào cả. Cả hai anh đều sai. Anh thì sai ở bề ngoài, còn anh ấy
sai về bên trong.
- Ha, ha! Chú cũng hiểu thế đấy, chú
cũng hiểu ra thế đấy! - Nicolai kêu lên vui vẻ.
- Nhưng, nếu anh muốn biết, thì tôi
vẫn quý anh hơn, bởi vì...
- Tại sao? Tại sao?
Conxtantin không thể nói chàng quý
Nicolai hơn vì ông khổ sở và cần được yêu thương. Nhưng Nicolai hiểu chàng muốn
nói đến chính điều đó, và cau mày lại, ông tiếp tục uống.
- Đó rồi đấy, Nicolai Dimitrievitr
ạ! - Maria Nicolaievna nói, bàn tay hum húp chìa về phía chai rượu.
- Để yên! Đừng làm tôi bực mình mà
tôi đánh cho đấy! - ông thét lên!
Maria Nicolaievna cười, vẻ đôn hậu
khiến Nicolai hết cáu, rồi chị cầm lấy chai.
- Chú tưởng nó không biết gì chắc? -
Nicolai nói. - Nó hiểu mọi chuyện hơn bọn ta. Có phải trong nó có cái gì đôn
hậu, đáng yêu không?
- Chị chưa đến Moxcva bao giờ à? -
Conxtantin hỏi cho có chuyện.
- Đừng gọi nó là chị đi chú. Gọi thế
nó sợ đấy. Chưa ai gọi nó là chị bao giờ, trừ viên thẩm phán hòa giải, trong
phiên xử cho nó thoát khỏi nhà chứa. Trời ơi, dưới trần này, cái gì cũng vô lý
quá! - đột nhiên ông kêu lên. - Những tổ chức mới, những thẩm phán hòa giải,
những hội đồng địa phương, mọi thứ đó giống cái gì nhỉ?
Và ông bắt đầu kể lể mối bất đồng
của ông với các tổ chức mới.
Conxtantin Levin nghe anh nói, và
việc chỉ trích mọi tổ chức xó hội, mà chính chàng cũng nói tới luôn, bỗng trở
nên chướng tai khi thốt ra từ miệng ông ta.
- Chúng ta sẽ hiểu mọi chuyện đó khi
sang thế giới bên kia, chàng pha trò.
- Thế giới bên kia à? ồ! Tôi không
thích cái thế giới ấy đâu! Tôi không thích nó đâu, - ông nói, đôi mắt sợ hói
nhìn chằm chằm vào mặt em. - Tuy nhiên, thoát được khỏi tất cả những cái đê
tiện và hỗn loạn này thì khoái biết bao. Nhưng tôi vẫn sợ chết, tôi sợ chết ghê
gớm, - ông ta rùng mình. - Chú hóy uống chút gì đi, uống sâm banh nhá? Hay ta
ra phố, đồng ý không? Đến quán bọn Digan đi! Chú có biết không, bây giờ tôi rất
thích người Digan và những bài hát Nga.
Lưỡi líu lại, ông nhảy từ chuyện này
sang chuyện khác. Cùng với Masa, Conxtantin thuyết phục được anh mình không đi
đâu cả; họ đặt ông vào giường khi ông đó say mềm.
Masa hứa sẽ viết thư cho Levin khi
cần và sẽ cố đưa ông anh về ở với chàng.
--------------------------------
1 Nguyên văn: artel.
Chương
25
Sáng hôm sau, Conxtantôn Levin rời
Moxcva và đến tối thì về tới nhà. Dọc đường, chàng nói chuyện với những bạn
đồng hành về chính trị, về những đường sắt mới làm, và cũng như ở Moxcva, nỗi
bất món với chính mình, sự hổ thẹn vẫn hành hạ chàng. Nhưng khi chàng xuống ga,
nhận ra gó xà ích chột mắt Ignat với cổ áo chàng lật cao, khi thoáng thấy, qua
ánh đèn yếu ớt từ cửa sổ nhà ga hắt ra, cỗ xe trượt phủ thảm của mình, đàn ngựa
đuôi buộc vắt dưới bộ thắng đai đầy vòng và dây tua, khi gó Ignat vừa xếp chàng
ngồi lên xe vừa kể những tin tức mới: nào viên thầu khoán đó tới, nào con bò
Pava đó đẻ, chàng bỗng cảm thấy những ý nghĩ mơ hồ tan đi và sự hổ thẹn, điều
bất món với mình cũng mất dần. Chỉ vừa trông thấy Ignat và đàn ngựa, chàng đó
cảm thấy như vậy. Nhưng khi xỏ tay vào áo choàng lông cừu do người nhà đem tới,
và mình ủ kín, ngồi vào cỗ xe vừa khởi hành, chàng liền nghĩ lại ngắm con ngựa
trắng ở càng xe, con ngựa cưỡi của chàng trước kia (một con ngựa ở sông Đông,
chạy nhanh, nhưng nay đó yếu sức), và nhìn nhận mọi việc xảy ra với con mắt
hoàn toàn khác trước. Chàng thấy mình chính là mình và không ước ao đổi khác
nữa. Chàng chỉ muốn mình sẽ tốt hơn trước. Đầu tiên, chàng quyết định bắt đầu
từ hôm nay, chàng sẽ không mơ ước nữa cái hạnh phúc viển vông mà hôn nhân có
thể đem lại, và do đó, chàng cũng không coi rẻ hiện tại đến thế. Sau nữa, chàng
sẽ không bao giờ để cho những dục vọng thấp hèn cám dỗ, như cái dục vọng đó
giày vò chàng trước khi hỏi vợ. Nhớ tới ông anh Nicolai, chàng quyết định sẽ
luôn luôn theo dõi để có thể sẵn sàng giúp đỡ anh trong bước khó khăn. Và chàng
cảm thấy việc này không thể chậm trễ. Những câu chuyện của anh về chủ nghĩa
cộng sản mà trước đó chàng rất coi nhẹ, bây giờ lại khiến chàng suy nghĩ. Chàng
coi ý định cải cách những điều kiện kinh tế như chuyện khờ dại; nhưng chàng vẫn
luôn cảm thấy bất công khi mình được sung sướng thừa thói trong lúc nhân dân
còn lầm than. Và để lương tâm được yên ổn, mặc dầu chàng vẫn làm việc rất nhiều
và sống rất giản dị, chàng tự hứa sẽ làm việc nhiều hơn nữa và chỉ cho phép
mình hưởng êm ấm ít hơn nữa so với thời gian đó qua. Và chàng thấy như tất cả
những chuyện ấy có thể đạt được dễ dàng, đến nỗi trên chặng đường còn lại,
chàng đắm mình trong những giấc mơ thú vị nhất. Đến chín giờ tối, chàng dừng
lại trước cửa nhà, lòng tràn ngập nghị lực và hy vọng vào cuộc sống tốt đẹp
hơn.
ánh đèn ở cửa sổ buồng Agafia
Mikhailovna, bà vú già giữ nhiệm vụ quản gia, chiếu sáng thềm cửa đầy tuyết. Bà
ta vẫn chưa ngủ. Gó Kuzma bị bà gọi giật dậy, cứ chân đất chạy ra thềm, mắt còn
ngái ngủ. Laxca, con chó săn cái cũng nhảy bổ ra ngoài, xuýt nữa làm ngó ngửa
Kuzma, và vừa cọ mình vào bắp chân Levin vừa mừng rỡ sủa, rồi đứng thẳng bằng
hai chân sau định đặt hai chân trước lên ngực chủ nhưng không dám.
- Cậu về sớm nhỉ, cậu chủ, - Agafia
Mikhailovna nói.
- Tôi nhớ nhà, Agafia Mikhailovna ạ.
ở nhà người khác cũng tốt đấy, nhưng nhà mình vẫn hơn, - chàng đáp và vào phòng
làm việc.
Phòng làm việc sáng dần lên dưới ánh
nến. Những chi tiết quen thuộc hiện ra khỏi bóng tối: gạc hươu, giá sách, gương
soi, cái bếp lò mà những ống khói đáng lẽ phải chữa từ lâu, cái đi văng của cha
chàng, cái bàn lớn; trên mặt bàn, một quyển sách để mở, cái gạt tàn đó vỡ, một
quyển vở đầy chữ chàng viết. Nhìn tất cả những thứ ấy, trong một lúc, chàng đâm
ngờ vực khả năng có thể thay đổi lối sống, như chàng đó mơ mộng khi đi đường.
Tất cả những vết tích đời sống đó qua như bủa vây lấy chàng và nói:
"Không, anh sẽ không bỏ chúng tôi. Anh sẽ không thay đổi, anh sẽ là anh y
nguyên như cũ, với những ngờ vực, với nỗi tự bất món muôn thuở của anh, với
những mưu toan vùng lên vô ích, những vấp ngó và chờ đợi thường xuyên một thứ
hạnh phúc không tài nào đạt tới vì nó ngoài tầm với của anh".
Nhưng đồ vật chỉ nói những lời như
thế; còn một tiếng nói khác, từ trong thâm tâm, nhủ chàng: không thể nô lệ dĩ
vóng và ta có thể tự buộc mình làm mọi điều theo ý muốn. Tuân theo tiếng nói
đó, chàng đến góc phòng, nơi để hai quả tạ một pút; chàng lấy thế, lên gân nhấc
bổng tạ, cố đứng thật chắc. Có tiếng bước chân sau cánh cửa làm mặt sàn kêu cót
két. Chàng vội đặt tạ xuống.
Đó là viên quản lý; hắn nói nhờ Chúa
mọi việc đều tốt cả, duy có món lúa mì đen bị quá lửa trong lò sấy mới. Tin này
làm Levin bực tức. Cái lò sấy mới này là do chàng xây và một phần do chàng sáng
chế. Viên quản lý vẫn phản đối việc xây lò sấy đó và bây giờ, hắn báo cái tin
lúa mì đen bị quá lửa bằng một vẻ đắc thắng khiêm tốn. Còn Levin, chàng vẫn tin
chắc sở dĩ lúa mì bị cháy là vì người ta không thực hiện những biện pháp chàng
đó dặn hàng trăm lần. Chàng nổi nóng mắng cho viên quản lý một trận. Nhưng tiếp
đến là một sự kiện đáng mừng và quan trọng: Pava, con bò cái đẹp nhất và quý
nhất chàng mua ở hội chợ, đó đẻ.
- Kuzma đâu, đưa tôi cái áo lông.
Còn anh, bảo lấy đèn lồng để tôi đi thăm bò, - chàng nói với viên quản lý.
Chuồng bò quý ở sát ngay đằng sau
nhà. Chàng đi qua sân giữa những đống tuyết gần rặng tử đinh hương và bước vào
chuồng bò.
Mùi phân nóng bốc lên khi cánh cửa
phủ đầy tuyết mở ra, và đàn bò sửng sốt trước ánh sáng bất thường của cây đèn
lồng, đua nhau cựa quậy trên ổ rơm mới. Cái mông lớn nhẵn thín của con bò Hà
lan có bộ lông lốm đốm trắng đen, hiện ra dưới ánh sáng. Bexkut, con bò đực
đang nằm với cái vòng ở mũi; nó định đứng dậy, song lại thôi và chỉ thở phì phì
hai ba cái khi mọi người đi ngang qua. Pava, con bò đẹp nhất trong số bò đẹp,
to béo như con trâu nước, quay mông lại những người vừa tới, che chở cho chú bê
con mà nó đang ngửi từ đầu đến đuôi.
Levin bước vào khoang xem xét Pava
và nhấc bổng con bê đốm trắng, đỏ đang ngật ngưỡng trên những cẳng chân lêu
nghêu. Pava hốt hoảng định kêu lên, nhưng yên tâm ngay khi Levin trả con cho
nó, và thở phì phì, nó thè cái lưỡi ráp liếm cho con. Chú bê con dũi mõm dưới
sườn mẹ và vẫy đuôi.
- Soi vào đây, Fedor, mang đèn lại
gần đây, - Levin vừa nói vừa xem xét con bê. - Con này giống mẹ đây, mặc dầu
lông giống bố. Đẹp lắm. Nhỏ nhắn và thon thả. Nó đẹp đấy chứ phải không, Vaxili
Fedorovitr? - Chàng nói và quay lại phía viên quản lý, quên mất cả chuyện lúa
mì đen bị cháy, vì đang vui thích với con bê mới đẻ.
- Nòi nào giống ấy mà! Sau hôm ông
đi, bác thầu khoán Xemion đến nhà ta. Phải thoả thuận với bác ta thôi, ông
Conxtantin Dimitrievitr ạ, - viên quản lý nói. - Tôi đó thưa chuyện với ông về
cái máy rồi đấy.
Chỉ một vấn đề đó cũng đủ khiến
Levin nhớ lại mọi chi tiết của việc quản trị phức tạp trong trại ấp rộng lớn.
Từ chuồng bò, chàng về thẳng bàn giấy và sau khi nói chuyện với viên quản lý
cùng bác thầu khoán Xemion, chàng trở vào nhà và lên phòng khách.
Chương
26
Levin, tuy sống một mình, vẫn ở cả
ngôi nhà cổ rộng thênh thang và đốt lò sưởi khắp các buồng. Chàng biết thế là
vô lý, đáng chê trách và hoàn toàn trái với dự định mới của mình, nhưng ngôi
nhà này đối với Levin là cả một thế giới. Thế giới này là nơi cha mẹ chàng đó
sống và qua đời. Các cụ đó sống cuộc đời mà Levin cho là lý tưởng của mọi sự
hoàn mỹ và chàng mơ ước sẽ được tiếp tục sống như thế với một người vợ, một gia
đình.
Levin chỉ còn nhớ loáng thoáng về
mẹ. Kỷ niệm về mẹ là kỷ niệm thiêng liêng, và theo cách chàng nhìn thì người vợ
tương lai phải là sự tái hiện vẻ kiều diễm và đức độ của mẹ.
Với chàng, tình yêu không thể có
ngoài hôn nhân; hơn nữa, trước hết chàng nghĩ đến gia đình rồi mới đến người
đàn bà sẽ tạo cái gia đình ấy. Quan niệm của chàng về hôn nhân có khác với số
đông bạn bè, họ cho hôn nhân chỉ là một sự kiện trong cuộc sống; với Levin, đó
là việc chủ yếu của đời người, hạnh phúc hoàn toàn phụ thuộc vào việc đó. Thế
mà bây giờ phải gạt chuyện đó sang bên!
Khi chàng bước vào phòng khách nhỏ,
nơi vẫn uống trà, và, tay cầm một cuốn sách, ngồi xuống ghế bành, trong lúc bà
vú già Agafia Mikhailovna bưng trà đến rồi ngồi xuống cái ghế tựa kê trước cửa
sổ với câu nói thường lệ: "Xin phép cậu chủ", lạ thay, chàng vẫn cảm
thấy mình chưa dứt bỏ được những ước mơ và sẽ không thể sống thiếu chúng được.
Thế nào rồi việc đó cũng sẽ đến thôi, với Kitti hay với một cô gái khác. Chàng
đọc sách, suy nghĩ về những điều trong sách, và dừng lại để nghe Agafia
Mikhailovna huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác. Cùng lúc ấy, những
cảnh chàng hoạt động ở nông thôn và cảnh gia đình tương lai cứ hiện lên, không
dính dáng gì với nhau, trong trí tưởng tượng. Chàng cảm thấy trong thâm tâm, có
cái gì đến chiếm cứ, tự điều hòa và lưu lại ở đấy.
Chàng lắng nghe Agafia Mikhailovna
kể lể: bà vú nói Prôkhor đó quên mất Chúa, uống rượu liên miên bằng số tiền
Levin cho để mua ngựa, rồi đánh vợ đến chết ngất. Chàng nghe chuyện, đọc sách,
và lại suy nghĩ tiếp theo dòng tư tưởng được khơi dậy trong khi đọc. Đây là
cuốn sách của Tindan bàn về nhiệt lượng. Chàng nhớ từng chê trách Tindan ở chỗ
ông đó tự món với những thí nghiệm thành công mà thiếu hẳn quan điểm triết học.
Bỗng nhiên, một ý vui loé lên trong đầu: "Hai năm nữa, mình sẽ có hai bò
Hà lan; con Pava có thể vẫn còn sống; khi cả ba con này nhập vào cái đàn mười
hai bò cái, dòng dõi con Bexkut, thì thật là một cảnh đẹp mắt!". Chàng
quay lại cuốn sách. "Phải, điện lực và nhiệt lượng chỉ là một; nhưng có
thể thay thế lẫn nhau những đơn vị đại lượng tương tự trong phương trình để
giải quyết vấn đề này không? Không được. Thế thì sao? Vả lại, chỉ cần dựa vào
bản năng là đủ nắm được mối liên hệ giữa các lực lượng trong thiên nhiên... Khi
con của con Pava trở thành một con bò cái lốm đốm đỏ, trắng và cả ba đều nhập
vào đàn thì thật là đẹp quá! Mình sẽ cùng vợ và khách khứa đứng xem đàn gia súc
về chuồng... Vợ mình sẽ nói: "Coxtia 1 và tôi sẽ nuôi con này như một đứa
trẻ". - "Làm sao mà anh chị có thể thích thú việc đó đến như vậy
được!?", một vị khách sẽ hỏi. - "Tất cả những gì anh ấy thích đều làm
tôi thích". Nhưng người đó sẽ là ai? - Vả chăng nhớ lại chuyện đó xảy ra ở
Moxcva... "Làm thế nào đây?... Có phải lỗi tại mình đâu. Bây giờ mọi sự
sắp thay đổi rồi.
Không thừa nhận cuộc sống, không
chịu gạt bỏ quá khứ thì quả là ngu xuẩn. Phải đấu tranh để sống tốt hơn, tốt
hơn nhiều nữa...".
Chàng ngẩng đầu lên và triền miên
suy nghĩ. Con chó già Laxca chưa tiêu hóa hết nỗi vui mừng gặp lại chủ, vừa
chạy đi sủa rông, bây giờ ve vẩy đuôi quay vào, đem theo cái mùi thoáng đóng
ngoài trời: nó đến gần Levin, dụi đầu vào tay chàng, gừ gừ rầu rĩ đòi được vuốt
ve.
- Nó chỉ thiếu nỗi không biết nói
thôi, - Agafia Mikhailovna nói. - Nó chỉ là con vật mà biết chủ đó về và đang
buồn.
- Tôi buồn ấy à? Tại sao?
- Cậu tưởng tôi không thấy ư? Có
phải tôi mới biết các ông chủ từ hôm qua đâu. Từ nhỏ tôi đó làm với chủ rồi.
Đừng bận tâm quá, cậu ạ. Chừng nào còn khỏe mạnh, lương tâm còn thanh thản...
Levin chăm chú nhìn Mikhailôpna,
ngạc nhiên vì vú đọc rõ ý nghĩ của mình.
- Cậu uống chén trà nữa nhé? - Vú
nói và cầm ấm trà đi ra.
Con Laxca vẫn cố rúc đầu vào tay
chủ. Chàng vuốt ve: nó nằm cuộn tròn ngay xuống chân chàng, đầu đặt lên một
chân sau co lại.
Ra cái điều là mọi sự đó êm đẹp, nó
he hé mõm, hai mép đầy rói tớp một cái, rồi khép lại che kín hàm răng già nua,
và nằm yên với một vẻ bình thản khoái trá. Levin chăm chú ngắm bộ dạng cuối
cùng này.
"Thế đấy, mình cũng vậy, chàng
nghĩ. Hệt như cảnh ngộ mình!
Không sao... Mọi sự đều tốt
đẹp!".
--------------------------------
1 Tên thân mật của Conxtantin Levin.
Chương
27
Sau đêm khiêu vũ, từ sáng sớm, Anna
Arcadievna đánh điện cho chồng báo tin là ngay hôm đó, nàng sẽ rời Moxcva.
- Không, em phải về, em cần phải về,
- nàng nói với chị dâu để phân trần sự thay đổi ý kiến này, như nhớ ra nhiều
việc bận bịu. - Em cần đi ngay hôm nay.
Xtepan Arcaditr không ăn ở nhà nhưng
hẹn đến bẩy giờ sẽ quay về tiễn em gái.
Kitti cũng không đến: cô gửi thư tới
nói mình nhức đầu. Chỉ có Doli và Anna cùng ăn với bọn trẻ và cô gia sư người
Anh. Phải chăng vì tính tình bất nhất, hay vì chúng cảm thấy Anna không còn như
cái hôm mà chúng rất yêu quý nàng, và vì hiện nay nàng đang mải nghĩ đến chuyện
khác? Bọn trẻ bỗng thôi đùa với cô, chấm dứt những cử chỉ yêu mến vồ vập, và
dường như chẳng bận tâm gì mấy đến việc nàng sắp đi. Cả buổi sáng, Anna bận
chuẩn bị lên đường. Nàng viết mấy lá thư gửi cho bạn bè ở Moxcva, tính các
khoản tiền nong và thu xếp hành lý. Doli cũng cảm thấy nàng đang lo lắng và xao
xuyến bồn chồn, một tâm trạng bà biết rất rõ vì đó từng trải qua, nó không phải
là vô cớ, và trong nhiều trường hợp, chỉ là tấm màn che phủ sự không bằng lòng
mình. Sau bữa ăn, Anna lui vào phòng riêng thay quần áo và Doli theo vào.
- Hôm nay cô kỳ lạ quá! - Doli nói.
- Em ấy à? Chị thấy thế ư? Em không
có gì kỳ lạ đâu, em đang bực mình đấy. Thỉnh thoảng em lại thế. Lúc nào em cũng
muốn khóc.
Thật ngu xuẩn, nhưng rồi sẽ qua đi
thôi, - Anna hấp tấp nói và cúi khuôn mặt đỏ nhừ xuống cái túi nhỏ đi đường,
trong đựng mũ đội đêm và khăn tay phin nõn. Mắt nàng long lanh kỳ lạ, và nàng
cố cầm nước mắt. - Trước thì em không muốn rời Peterburg, bây giờ em lại tiếc
phải đi khỏi nơi này.
- Cô đó đến đây làm một việc tốt. -
Doli nói, chăm chú nhìn nàng.
Anna nhìn chị, rơm rớm nước mắt.
- Chị đừng nói thế, chị Doli. Em chả
làm gì cả và cũng chả có thể làm được gì cả. Em thường tự hỏi tại sao người ta
lại hay về hùa với nhau để làm hư em. Em đó làm gì và em có thể làm được cái
gì? Chị đó tìm thấy trong lòng đủ tình yêu để tha thứ...
- Không có cô thì có mà trời biết
được sự thể sẽ ra sao! Cô sung sướng thật, Anna ạ! - Doli nói. - Trong lòng cô,
cái gì cũng trong sáng và đôn hậu.
- Trong tâm mỗi người đều có những
bộ xương 1, người Anh thường nói thế.
- Cô thì làm gì có những bộ xương
như thế? ở cô mọi cái đều trong sáng cả.
- Có đấy chị ạ! - Anna bỗng nói thế,
và một nụ cười ranh mónh, giễu cợt hiện trên môi, nụ cười thật bất ngờ vì nàng
vừa khóc xong.
- Nếu vậy thì đó là bộ xương vui,
không phải bộ xương rầu rĩ, - Doli mỉm cười nói.
- Không, buồn đấy. Chị có biết tại
sao em đi ngay hôm nay mà không đợi đến mai không? Đây là một lời thú tội đè
trĩu trong lòng, em muốn nói ra với chị, - Anna nói, ngửa người tựa lưng vào
ghế bành, vẻ quả quyết rồi nhìn thẳng vào mắt Doli.
Doli rất kinh ngạc thấy Anna đỏ nhừ
cả mặt, đỏ đến tận lòng trắng con ngươi, đến tận những mớ tóc đen loăn xoăn sau
gáy.
- Đúng thế, - Anna nói tiếp. Chị có
biết tại sao Kitti không đến ăn bữa chiều không? Cô ấy ghen với em đấy. Em đó
làm hỏng cả... em là nguyên nhân khiến cho đêm khiêu vũ, đáng lẽ là niềm vui
thì lại trở thành nỗi khổ tâm cho cô ấy. Nhưng quả thực, quả thực em không có
tội, hoặc nếu có thì rất nhẹ thôi, - nàng nói nhỏ, những tiếng cuối cùng kéo
dài ra.
- Chao! Sao mà cô giống Xtiva đến
thế khi cô nói những lời ấy! - Doli vừa cười vừa nhận xét.
Anna tỏ vẻ giận dỗi.
- Không đâu! Không đâu! Em nói thế
với chị vì em không cho phép mình tự nghi ngờ một phút nào. - Anna nói.
Nhưng, ngay khi thốt ra câu đó, nàng
đó cảm thấy giả dối: không những nàng tự nghi ngờ mình, mà ý nghĩ về Vronxki
còn làm nàng bối rối, và sở dĩ nàng ra đi sớm hơn dự định, điều duy nhất là để
khỏi phải gặp chàng mà thôi.
- Phải, Xtiva nói với tôi là cô đó
nhảy điệu mazuyêchka với anh ta, và anh ta...
- Chị không thể tưởng tượng được câu
chuyện lại đâm ra kỳ cục đến mức nào đâu. Em muốn thu xếp cho đám cưới này, thế
rồi bỗng nhiên mọi việc đều thay đổi hết. Có lẽ, ngoài ý muốn của em...
Nàng đỏ mặt và ngừng lại.
- ồ! Những chuyện như thế thường rõ
ra ngay đấy mà! - Doli nói.
- Nhưng em sẽ thất vọng vô cùng nếu
về phía anh ta thực sự đó có một ý định gì, - Anna ngắt lời chị. - Em tin chắc
mọi chuyện sẽ quên đi và Kitti thôi không giận em nữa.
- Với lại, cô Anna ạ, phải nói thật
với cô là tôi cũng chẳng mong gì Kitti lấy anh chàng ấy. Tốt hơn là cứ chấm dứt
nếu chỉ trong vòng một ngày mà Vronxki đó có thể mê được cô.
- Chao, lạy Chúa tôi, thế thì vớ vẩn
quá! - Anna nói, vẻ mặt đỏ bừng vui thích khi nghe thấy những ý nghĩ đang làm
nàng bận tâm được nói lên thành lời. - Như thế là em ra đi sau khi trở thành
thù địch của Kitti, người mà em rất mến! Chao! Cô ấy mới đáng yêu làm sao!
Nhưng Doli, chị sẽ thu xếp câu chuyện này nhé. Phải không chị?
Suýt nữa Doli mỉm cười. Bà rất mến
Anna, nhưng cũng thấy khoan khoái khi nhận ra những nhược điểm của nàng.
- Một thù địch kia à? Sao lại thế
được?
- Em rất muốn chị và Kitti cũng yêu
em như em yêu chị và cô ấy; và bây giờ, em lại càng thấy yêu chị và Kitti hơn,
Anna nói, nước mắt chạy quanh. - Chao! Hôm nay sao em ngốc thế!
Nàng lau nước mắt và bắt đầu thay
áo.
Vừa vặn trước khi nàng lên đường,
Xtepan Arcaditr trở về, chậm một chút, mặt mày vui vẻ và hớn hở, sặc mùi rượu
và thuốc lá.
Sự cảm kích của Anna đó truyền sang
Doli, và khi ôm hôn cô em chồng lần chót, bà thì thầm:
- Nhớ lấy điều này, Anna nhé: không
bao giờ chị quên những việc cô đó giúp chị. Và cô hóy nhớ thêm là chị yêu cô và
sẽ yêu cô mói như người bạn thân nhất.
- Thật em cũng không hiểu vì sao
nữa, - Anna vừa nói, vừa ôm hôn chị và nuốt nước mắt.
- Cô trước đây đó hiểu chị và hiện
nay cũng đang hiểu chị. Tạm biệt, nàng tiên của chị.
--------------------------------
1 Skeleton (Tiếng Anh trong nguyên
bản). Trong tiếng Anh có thành ngữ Skeleton in the cupboard (bộ xương trong tủ
đựng bát đĩa, đồ ăn) hay familis keleton (bộ xương gia đình) để chỉ những
chuyện riêng tư đáng xấu hổ. Đây có nghĩa là: tâm tình sâu kín.
Chương
28
"Thôi, đội ơn Chúa, thế là xong
hết mọi chuyện!". Đó là ý nghĩ đầu tiên khi Anna chào từ biệt anh trai lần
cuối. Ông cứ đứng án ngữ ở cửa toa xe mói đến lúc chuông rung lần thứ ba. Nàng
ngồi xuống ghế dài, bên cạnh Annusca, và nhìn chung quanh trong khoảng tranh
sáng tranh tối. "Đội ơn Chúa, mai mình sẽ gặp Xerioja và Alecxei
Alecxandrovitr, và cuộc đời tốt đẹp quen thuộc sẽ lại trôi như cũ".
Vẫn với cái tâm trạng cần được bận
rộn không buông tha nàng suốt ngày hôm ấy, Anna tỉ mỉ soạn sửa chỗ ngồi: với
đôi bàn tay nhỏ nhắn và khéo léo, nàng mở cái túi nhỏ màu đỏ lấy ra chiếc gối
rồi khóa túi lại, đặt gối lên đầu gối; và sau khi bọc chân cẩn thận, nàng ngồi
xuống thoải mái. Có một bà ốm đó chuẩn bị đi ngủ. Hai bà khác bắt chuyện với
Anna, và một bà già to béo vừa lấy chăn quấn đùi vừa nhận xét về vấn đề sưởi ấm
trên tàu. Anna đáp lại vài câu, nhưng thấy trước câu chuyện sẽ chẳng có gì thú
vị, bèn bảo Annusca lấy cái đèn túi móc vào tay ghế bành và lấy trong ví tay ra
con dao rọc giấy và một cuốn tiểu thuyết Anh. Mới đầu, nàng không sao đọc nổi.
Kẻ đi người lại tấp nập quá; rồi khi tàu bắt đầu chạy, thì lại không tránh khỏi
tiếng động; sau hết, tuyết đập vào cửa sổ bên trái và bám vào mặt kính, rồi
người soát vé đi qua, mình trùm kín mít và tuyết phủ đầy một bên người, những
câu chuyện về trận bóo đang gào thét bên ngoài khiến nàng không thể tập trung
tư tưởng được. Cuối cùng, tất cả đều chìm vào đơn điệu: lúc nào cũng lắc lư
trong tiếng tàu chạy ầm ầm, vẫn mưa tuyết đập vào cửa kính, vẫn luồng hơi nước
từ nóng bỏng chuyển sang lạnh, rồi lại từ lạnh chuyển sang nóng, vẫn những
khuôn mặt ấy xuất hiện trong bóng tối chập chờn, vẫn những tiếng nói ấy, và
Anna bắt đầu đọc được và hiểu nổi những điều trong sách. Annusca ngủ gà ngủ
gật, hai bàn tay thô đeo găng, một chiếc đó rách, giữ chiếc xắc nhỏ màu đỏ đặt
trên đầu gối. Anna Arcadievna đọc và hiểu, nhưng không hứng thù gì theo dõi câu
chuyện người khác. Nàng khát khao được sống như thế. Nữ nhân vật trong tiểu
thuyết săn sóc người bệnh ư... nàng nảy ra ý muốn được đi rón rén trong căn
buồng có bệnh nhân: một nghị sĩ đọc diễn văn ư... nàng cũng muốn đọc bài diễn
văn ấy; tiểu thư Mêri cưỡi ngựa theo sau bầy chó săn, trêu ghẹo chị dâu, và sự
táo bạo của cô khiến mọi người kinh ngạc ư, nàng cũng muốn chính mình làm tất
cả những điều ấy. Nhưng không có gì để làm hết, và nàng phải cố đọc, đôi tay
nhỏ nhắn cứ mân mê cái cán nhẵn con dao rọc giấy.
Nhân vật chính của tiểu thuyết đó
tới tuyệt đỉnh cái hạnh phúc kiểu Anh: nhận chức nam tước cùng đất đai, và Anna
đang muốn cùng anh ta đi vòng quanh trại ấp thì đột nhiên, nàng cảm thấy hình
như anh ta hổ thẹn, và cả nàng nữa, nàng cũng thấy hổ thẹn. Nhưng vì sao?
"Mình hổ thẹn vì cái gì chứ?", nàng tự hỏi, ngỡ ngàng bực dọc.
Nàng bèn bỏ sách đấy và tựa vào lưng
ghế bành, hai tay nắm chặt con dao rọc giấy. Không có gì khiến nàng phải hổ
thẹn hết. Nàng ôn lại tất cả những kỷ niệm khi ở Moxcva. Ai nấy đều sung sướng,
dễ chịu. Nàng nhớ lại đêm khiêu vũ, Vronxki cùng bộ mặt qụy lụy và mê mệt, mối
quan hệ của nàng với chàng: không có gì đáng hổ thẹn trong chuyện ấy cả. Vậy
mà, đúng lúc nhớ lại quóng này, cái cảm giác hổ thẹn lại càng tăng lên, và nàng
thấy như một tiếng nói trong lòng, giữa lúc đang nghĩ đến Vronxki, bảo nàng:
"Nóng, nóng quá, nóng bỏng". "Như thế nghĩa là gì chứ? Nàng đổi
chỗ ngồi, quả quyết tự hỏi.
Như thế là nghĩa lý gì? Mình sợ nhìn
thẳng vào chuyện đó chăng? Lạ chưa! Giữa mình và anh chàng sĩ quan trẻ ranh đó,
không hề và không thể có mối quan hệ nào khác với mọi người!". Nàng khẽ
bật cười khinh bỉ và lại cặm cụi đọc sách. Nhưng, lần này, rõ ràng nàng không
hiểu nổi điều đang đọc. Nàng đặt con dao rọc giấy lên cửa kính, áp mặt dao nhẵn
và lạnh lên má, và suýt bật cười to vì nỗi mừng vui bỗng nhiên tràn ngập trong
lòng. Nàng cảm thấy gân nóo mỗi lúc một căng ra, như sợi dây đàn vĩ cầm vừa
lên. Nàng thấy như mắt mình mở to lắm, ngón chân và ngón tay đang co lại, một
sức nặng đè dí nàng xuống và những hình ảnh cùng âm thanh đập vào nàng với sức
mạnh kì lạ trong cảnh tối chập chờn này. Mỗi lúc, nàng lại tự hỏi xem con tàu
đang chạy tới hay chạy lui, hoặc dừng lại rồi.
Có phải Annusca vẫn ở cạnh hay một
người đàn bà không quen nào khác? Có cái gì trên tay ghế bành kia? Cái áo
choàng lông hay một con vật? Và chính mình nữa, mình có thật là mình hay là
người khác đấy?". Nàng bỗng sợ sẽ đắm mình trong trạng thái mất tri giác
này.
Có cái gì lôi cuốn nàng vào đấy,
nhưng nàng vẫn có thể dứt ra khỏi và cưỡng lại theo ý muốn. Nàng đứng lên để
định thần, vứt mền phủ chân và cởi áo choàng ra. Một phút sau, nàng trấn tĩnh
lại và hiểu ra rằng cái người gầy gò vừa bước vào, mặc áo bành tô dài màu vàng
đứt cúc là bác tài xế, rằng bác ta vừa đến để xem hàn thử biểu, rằng gió và
tuyết theo bác ùa vào qua cửa ra vào; nhưng tiếp đấy, mọi thứ lại nhòa đi...
Anh nông dân cao lớn bắt đầu gặm nhấm bức tường; bà lóo duỗi thẳng hai chân dọc
suốt toa tàu và nhả ra một đám mây đen phủ đầy toa; tiếp đó, có tiếng ken két,
theo sau là tiếng đập như ta vừa xé ai ra làm hai mảnh; một tia lửa đỏ làm nàng
loá cả mắt, rồi biến mất sau tường. Anna có cảm giác như rơi xuống vực thẳm.
Nhưng tất cả những chuyện đó đáng lẽ phải ghê sợ lắm thì lại hóa ra trò vui.
Cái người quần áo trùm kín và phủ đầy tuyết thét vào tai nàng một cái tên nào
đó. Nàng đứng dậy và cố định thần; nàng hiểu ra tàu sắp đến ga và đó là người
soát vé. Nàng bảo Annusca đưa áo và khăn; nàng mặc vào người rồi ra cửa.
- Bà muốn ra ngoài ạ? - Annusca hỏi.
- Phải, tôi muốn thở một chút, trong
này ngột ngạt lắm.
Nàng kéo cánh cửa. Tuyết và gió ùa
vào, và đẩy sập cửa lại. Nàng thấy thật ngộ nghĩnh. Nàng mở cửa và bước ra. Cơn
gió như vẫn đợi nàng. Nó bắt đầu rít lên khoái trá, muốn cuốn lấy và lôi nàng
đi, nhưng nàng bíu chắc một tay vào lan can giá lạnh, còn tay kia giữ khăn,
nàng bước xuống sân ga và đứng núp sau toa. Gió thổi mạnh nhưng trên sân ga,
sau các toa xe, có một khoảng lặng gió. Nàng khoan khoái thở đầy lồng ngực
không khí lạnh giá, và nhìn quanh sân "ke" và căn nhà ga sáng đèn.
Chương
29
Gió lồng lộn; từ một góc nhà ga thổi
tới, gió luồn xuống dưới bánh xe và giữa hàng cột dây thép. Toa xe, cột dây
thép, mọi người, tất cả những gì trong tầm mắt đều bị lớp tuyết mỗi lúc dày phủ
kín một bên. Cơn bóo dịu đi chừng một giây, rồi lại tiếp tục nổi lên điên cuồng
như không gì cản được. Mặc dầu vậy, vẫn có mấy người chạy đi chạy lại lăng
xăng, gọi nhau vui vẻ, làm cót két sàn gỗ sân ga, mở ra đóng vào cửa nhà ga
luôn xoành xoạch. Có bóng đàn ông lom khom luồn ở dưới chân Anna rồi có tiếng
búa đập vào sắt. "Mang bức điện lại đây!", từ phía bên kia bóng đêm,
có tiếng giận dữ gào lên. "Đây cơ, số 28!" Nhiều tiếng kêu lên, và
những người mặc quần áo ấm chạy dọc sân ga. Hai ông đi qua trước mặt Anna,
miệng ngậm thuốc lá đang cháy. Nàng hít mạnh lần nữa, như để chứa đầy không khí
vào lồng ngực, và thò tay ra ngoài bao tay để bíu vào lan can, sắp sửa trở lên
toa thì một người đàn ông mặc áo capốt nhà binh đến đứng chắn giữa nàng và ánh
lửa rung rinh của cây đèn lồng. Nàng quay lại và lập tức nhận ra Vronxki.
Chàng nghiêng đầu chào, tay để lên
vành mũ, hỏi nàng có cần gì không và có thể giúp gì được nàng. Nàng nhìn chàng
khá lâu không trả lời, và mặc dầu chàng đứng trong bóng tối, nàng vẫn nhìn thấy
hay tưởng như nhìn thấy cả đôi mắt lẫn vẻ mặt chàng. Vẫn cái vẻ ngưỡng mộ kính
cẩn hôm trước đó khiến nàng xúc động mónh liệt.
Mấy hôm nay và ngay cả bây giờ, nàng
nhiều lần tự nhủ đối với mình, Vronxki chỉ là một trong số những thanh niên bao
giờ cũng giống nhau, thường thấy nhan nhản trong giới thượng lưu, và không bao
giờ nàng sẽ còn nghĩ đến chàng nữa. Nhưng bây giờ, gặp lại chàng đây, nàng bỗng
cảm thấy một niềm vui sướng tự hào xâm chiếm tâm hồn. Nàng không cần tự hỏi xem
tại sao chàng lại ở đây.
Nàng biết rõ nguyên cớ như thể chính
chàng đó thú nhận mục đích đến đây là để có mặt ở nơi có nàng.
- Tôi không biết là ông cũng đi. Tại
sao ông lại rời Moxcva? Nàng nói, buông tay khỏi lan can. Và một niềm vui sướng
không nén nổi bỗng sáng trên khuôn mặt.
- Tại sao tôi rời Moxcva? - chàng
nhắc lại và nhìn thẳng vào mắt nàng. - Bà cũng biết là để được có mặt ở chỗ nào
có bà, tôi không thể làm khác được.
Giữa lúc ấy, một cơn gió như đó
chiến thắng mọi chướng ngại, quét tuyết trên nóc toa xe, làm rung loảng xoảng
một lá tôn bị lật. Xa xa, còi tàu réo gọi ai oán. Tất cả vẻ khủng khiếp của lúc
này, đối với Anna, lại càng như đẹp hơn bao giờ hết. Chàng đó nói đúng những
lời tâm hồn nàng đang khao khát, nhưng lý trí lại e sợ. Nàng không đáp lại và
chàng đọc trên nét mặt nàng cả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong nàng.
- Xin bà tha lỗi nếu những lời tôi
vừa nói làm bà phật ý, - chàng nói tiếp, giọng phục tùng.
Chàng nói lễ phép, kính cẩn nhưng
bằng một giọng chắc chắn và cương quyết, đến nỗi nàng ngây ra hồi lâu không trả
lời được.
- Vâng, lời ông vừa nói là không
tốt, và nếu là người lịch sự, xin ông hóy quên nó đi, cũng như tôi sẽ quên, -
cuối cùng nàng nói.
- Tôi sẽ không bao giờ quên và không
bao giờ có thể quên được bất cứ lời nói hoặc cử chỉ nào của bà...
- Ông im đi, ông im đi! - nàng kêu
lên, và cố gắng một cách vô hiệu tạo ra một bộ mặt nghiêm khắc, bộ mặt mà chàng
đang say sưa ngắm. Nắm lấy lan can lạnh giá, nàng trèo lên bậc và đi vội vào
trong toa. Đến cửa toa, nàng dừng lại, ôn lại trong đầu câu chuyện vừa xảy ra.
Nàng không nhớ cả lời mình lẫn lời Vronxki nói, nhưng cảm thấy câu chuyện quá
ngắn ngủi này đó làm hai người nhích gần lại nhau một cách kỳ lạ, khiến nàng
vừa sung sướng lại vừa sợ hói. Nàng đứng yên không động đậy trong vài giây, rồi
bước vào toa xe và ngồi xuống ghế. Tâm trạng căng thẳng giày vò nàng từ lúc bắt
đầu lên đường không những không giảm sút mà còn tăng lên: nàng sợ sẽ có gì đổ
vỡ trong người. Suốt đêm nàng không sao ngủ được. Nhưng trạng thái thần kinh
căng thẳng cùng những giấc mơ tràn ngập trí tưởng tượng đều không có gì khó
chịu; trái lại, chúng vừa vui vẻ, nồng cháy, lại vừa phấn chấn.
Về sáng, Anna cứ ngồi trên ghế bành
ngủ; khi tỉnh dậy, trời đó sáng rõ và tàu gần đến Peterburg. Thế là chuyện nhà
cửa, chồng con và những lo lắng của ngày hôm ấy và các ngày sau lập tức trở lại
ký ức.
Tàu vừa đỗ, nàng bước xuống và khuôn
mặt đầu tiên nàng nhìn thấy là ông chồng. "Chao, lạy Chúa tôi! Sao đôi tai
ông ấy lại to đến thế kia?", nàng vừa nghĩ thầm vừa nhìn vào khuôn mặt
lạnh lùng, tao nhó của chồng, nhất là đôi vành tai đội cả vành mũ tròn lên và
đó khiến nàng sửng sốt. Ông trông thấy vợ, chạy ra đón, môi nhếch lên trong nụ
cười châm biếm quen thuộc và đôi mắt to mỏi mệt chằm chằm nhìn vợ. Một cảm giác
nặng nề như thắt lấy tim, khi nàng bắt gặp cái nhìn trân trân và mệt mỏi này:
hình như nàng đang chờ gặp một người nào khác kia. Đặc biệt nàng ngạc nhiên về
cái cảm giác bất món với bản thân khi nhìn thấy chồng. Đây là một cảm giác có
từ lâu, quen thuộc, giống như cái gượng gạo nàng thường cảm thấy trong quan hệ với
chồng; trước kia, nàng chưa nhận thức ra cảm giác này, bây giờ nó hiện ra rõ
ràng: nàng đâm rất buồn.
- Mình thấy đấy, tôi vẫn là người
chồng âu yếm, y như cái năm đầu chúng ta lấy nhau: tôi nóng lòng gặp mình, -
ông ta nói chậm rói và nhỏ nhẹ, bằng cái giọng giễu cợt vẫn dùng để nói với vợ,
như kiểu muốn chế nhạo những ai nói như thế thật.
- Xerioja khỏe chứ? - nàng hỏi
chồng.
- Tất cả phần thưởng cho nhiệt tình
của tôi hóa ra chỉ có thế thôi đấy! - ông ta nói. ừ, con khỏe lắm, con khỏe
lắm...
Đêm hôm đó, Vronxki không nghĩ đến
chuyện ngủ nữa. Chàng cứ ngồi trong ghế bành, khi nhìn thẳng trước mặt, lúc
nhìn kẻ ra người vào, và nếu trước kia chàng đó khiến người lạ phải ngạc nhiên,
bối rối vì vẻ bình thản trơ trơ của mình, thì lúc này chàng lại càng có vẻ kiêu
hónh, lạnh lùng hơn bao giờ hết. Chàng nhìn mọi người như vật vô tri. Một chàng
trai nóng nảy, nhân viên toà án quận, ngồi trước mặt, vì thế mà căm ghét chàng
thực sự. Hắn xin lửa, khơi chuyện với chàng, thậm chí còn xô chàng để tỏ ra hắn
cũng là một con người chứ không phải một đồ vật, nhưng Vronxki vẫn nhìn hắn như
nhìn cây đèn lồng. Mặt gó trai trẻ bỗng giật giật và hắn cảm thấy mất bình
tĩnh, sôi tiết lên vì bị ngơ đi tới mức ấy.
Vronxki không nhìn gì, cũng chẳng
thấy ai. Chàng tưởng như mình đó hóa thành một vị hoàng đế, không phải vì tự
cho mình đó làm Anna xúc động (chàng chưa dám nghĩ điều đó), mà vì ấn tượng
nàng để lại khiến chàng dạt dào sung sướng, tự hào.
Chuyện này rồi sẽ ra sao, chàng
không biết và cũng không nghĩ đến nữa. Chàng cảm thấy tất cả sức lực mình, cho
đến nay phân tán, giờ được tập trung và hướng vào mục đích duy nhất với một
nghị lực phi thường. Và vì thế chàng sung sướng. Chàng chỉ biết mình đó nói
thật với nàng: chàng đến bất cứ nơi nào có mặt nàng, hạnh phúc và ước vọng duy
nhất của chàng từ nay trở đi là được nhìn thấy nàng và nghe nàng nói. Cho nên
khi xuống tàu ở Bôlôgôvô để uống cốc nước suối, và khi nhìn thấy Anna, câu đầu
tiên chàng bất giác nói với nàng đó bộc lộ điều chàng đang nghĩ. Chàng sung sướng
đó nói ra điều đó với nàng; bây giờ, nàng đó biết điều đó, nàng đang suy nghĩ
về điều đó. Chàng thức suốt đêm. Sau khi trở về chỗ, chàng nhớ lại tất cả các
lần gặp nàng, tất cả những lời nàng nói và cảm thấy lòng dạ xốn xang khi tưởng
tượng đến một tương lai có thể đạt được.
Khi xuống ga Peterburg, chàng cảm
thấy, sau cái đêm không ngủ, người vẫn thư thái và tươi tỉnh như vừa tắm nước
lạnh xong. Chàng vẫn đứng gần toa mình, đợi Anna đi ra. "Mình còn gặp nàng
lần nữa, chàng tự nhủ và bất giác mỉm cười, mình sẽ được thấy dáng đi, khuôn
mặt nàng; có khi nàng còn nói đôi câu với mình nữa". Nhưng trước khi thấy
nàng, chàng đó nhìn thấy ông chồng, theo sau là viên sếp ga kính cẩn hộ tống
trong đám đông. "à, phải, ông chồng!". Lần đầu tiên, Vronxki hiểu rõ
người chồng này là một bộ phận trong cuộc đời Anna.
Chàng biết nàng có chồng, nhưng
không tin ông ta hiện đang tồn tại; chàng chỉ thật sự tin là thế khi nhìn thấy
ông ta với cái đầu, đôi vai, và đôi chân mặc quần đen; chàng càng phải tin là
thế khi thấy người chồng đó thản nhiên khoác tay Anna, với ý thức chủ nhân.
Trông thấy Alecxei Alecxandrovitr
với bộ mặt hồng hào của người Peterburg, vẻ nghiêm nghị và tự tin, đội mũ tròn,
lưng hơi gù, chàng mới tin là có ông ta thật và thấy một cảm giác khó chịu, cảm
giác của một người đang bị cơn khát giày vò, và khi lết được đến tận dòng suối
thì thấy một con chó, một con cừu hay con lợn đó vục mõm làm nước vẩn đục lên
rồi. Dáng đi cứng nhắc và nặng nề của Alecxei Alecxandrovitr làm Vronxki bực vô
cùng. Chàng thấy chỉ chàng mới có quyền yêu Anna. Nhưng nàng thì vẫn thế, và
bao giờ thấy nàng, chàng cũng bị kích thích mạnh mẽ, người rạo rực, tâm hồn
phấn khởi và tràn ngập hạnh phúc. Chàng sai tên hầu người Đức vừa từ toa hạng
hai chạy đến, lấy hành lý mang về nhà, và lại gần nàng. Chàng được chứng kiến
cuộc gặp gỡ của đôi vợ chồng và, với sự sắc sảo của kẻ đang yêu, chàng nhận ra
vẻ lúng túng của nàng khi trả lời chồng.
"Không, nàng không yêu lóo ta,
nàng không thể yêu lóo ta được", chàng thầm khẳng định.
Trong khi đi về phía nàng, chàng vui
sướng nhận ra là nàng linh cảm thấy chàng đang lại gần và liếc mắt về phía sau;
lúc nhận ra chàng, nàng quay về phía chồng.
- Đêm qua, bà có ngủ được không? -
chàng nói với nàng, cúi chào cả hai vợ chồng cùng một lúc, để Alecxei
Alecxandrovitr có thể cho đó là chào ông ta, rồi sau có nhận cái chào đó hay
không tuỳ ý.
- Xin cảm ơn ông, tôi ngủ ngon lắm,
- nàng trả lời.
Mặt nàng có vẻ mệt mỏi, và đó biến
mất cái nét vui tươi vẫn lộ ra, khi trên nụ cười, khi trong khoé mắt, nhưng cặp
mắt nàng nhìn loé lên một tia sáng và mặc dầu ánh lửa ấy vụt tắt ngay, chàng
vẫn sung sướng. Nàng nhìn chồng để dò xem ông ta có quen Vronxki không.
Alecxei Alecxandrovitr ngắm Vronxki,
vẻ không hài lòng, như cũng mang máng nhớ. Vẻ bình tĩnh, chững chặc của Vronxki
lúc này đó va chạm với vẻ tự tin lạnh lùng của Alecxei Alecxandrovitr.
- Đây là bá tước Vronxki, - Anna
nói.
- à! Hình như chúng tôi có biết
nhau, - Alecxei Alecxandrovitr nói, giọng hững hờ và đưa tay cho Vronxki bắt. -
Mình ra đi với bà mẹ nay lại trở về với ông con, - ông nói tách bạch từng chữ
như đếm từng đồng rúp. - Chắc ông đi nghỉ về? ông hỏi, và không đợi trả lời,
lại dùng giọng bông đùa hỏi vợ: - Lúc chia tay ở Moxcva, người ta có chảy nhiều
nước mắt lắm không?
Bằng thái độ ấy, ông tỏ cho Vronxki biết
ông muốn đi một mình với vợ, và quay về phía chàng, ông sờ tay lên mũ; nhưng
Vronxki nói với Anna Arcadievna:
- Tôi hy vọng được vinh dự đến thăm
bà tại nhà, - chàng nói.
Alecxei Alecxandrovitr đưa mắt mệt
mỏi nhìn Vronxki.
- Rất sung sướng, - ông lạnh lùng
đáp, - chúng tôi thường tiếp khách vào thứ hai. - Sau khi cáo từ Vronxki, ông
nói tiếp với vợ bằng giọng pha trò: - May mắn làm sao tôi lại có đúng nửa giờ
để đón mình và tỏ lòng trìu mến mình.
- Quả là mình nhấn mạnh quá nhiều sự
trìu mến của mình để tôi đánh giá nó đúng mức, - nàng đáp, cũng bằng giọng ấy
và vô tình vẫn lắng nghe tiếng chân Vronxki đi đằng sau. "Mặc kệ",
nàng nghĩ thầm và hỏi chồng xem khi mình đi vắng, Xerioja đó làm gì.
- Rất tốt! Mariét 1 nói là con ngoan
lắm, và... tôi nói điều này mình sẽ buồn đây... xa mình, con nó chẳng nhớ bằng
chồng mình đâu. Một lần nữa, cảm ơn 2 em của anh đó về sớm hơn một ngày. Chị
"Âm đun trà" quý hóa của chúng ta chắc mừng lắm (ông vẫn gọi nữ bá
tước trứ danh Lidia Ivanovna như vậy, vì bất cứ lúc nào bà này cũng lăng xăng
và sôi sùng sục). Chị ấy lo cho mình lắm. Và nếu tôi được phép khuyên mình một
câu thì mình nên đến thăm chị ấy ngay hôm nay đi. Mình hẳn biết chị ấy lúc nào
cũng quan tâm đến đủ mọi thứ. Hiện nay, ngoài tất cả các điều lo lắng khác, chị
ấy còn rất bận tâm đến việc dàn hòa cho vợ chồng Oblonxki.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna là bạn
thân của ông và là nhân vật trung tâm của một câu lạc bộ thuộc xó hội thượng
lưu ở Peterburg mà Anna vì chiều chồng vẫn thường lui tới.
- Nhưng em viết thư cho chị ấy rồi.
- Chị ấy muốn biết hết ngọn ngành
kia. Nếu không mệt quá, mình nên lại đấy đi, mình ạ. Kônđrat sẽ đưa xe đến đón,
còn tôi, tôi đi họp nội các. Thế là tôi không phải ăn một mình nữa, - Alecxei
Alecxandrovitr nói tiếp, lần này bằng giọng đứng đắn. - Mình không thể tưởng
tượng là tôi đó quen đến mức nào với...
Và ông siết chặt tay vợ thật lâu, đỡ
vợ lên xe với một nụ cười đặc biệt.
--------------------------------
1 Viết theo chính tả Pháp trong
nguyên bản.
2 Merci (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
Chương
31
Khuôn mặt đầu tiên Anna trông thấy
khi về đến nhà là cậu con trai. Mặc cho nữ gia sư phản đối, chú bé cứ chạy vụt
xuống thang gác, miệng kêu: "Mẹ! Mẹ!" trong nỗi vui sướng cuống
cuồng. Chạy tới bên mẹ chú đu ngay lên cổ.
- Em đó bảo đúng là mẹ mà, - chú reo
lên với nữ gia sư. - Em biết mà!
Nhưng con nàng, cũng như ông chồng,
gợi cho Anna một cảm giác gần như thất vọng. Nàng đó tưởng tượng con đẹp hơn
trong thực tế.
Nàng đành quay trở về thực tại mà
vui với đứa con trai vốn chỉ thế thôi, không hơn không kém; tuy nhiên nó thật
kháu khỉnh với mớ tóc búp, cặp mắt xanh, đôi chân nhỏ, rắn chắc đi tất thật
căng. Anna cảm thấy một niềm vui gần như thể xác khi được nhìn mặt con, được nó
vuốt ve, và một an ủi tinh thần khi thấy lại cái nhìn đầy yêu thương trong
trắng và tin cậy, và được nghe những câu hỏi ngây thơ của nó.
Anna giở những quà của lũ con Doli
gửi cho nó và kể cho nó nghe là ở Moxcva có đứa con gái tên là Tania, và cô bé
Tania này biết đọc, lại còn dạy các em trai em gái đọc nữa.
- Thế con không ngoan bằng nó ư? -
Xerioja hỏi.
- Với mẹ, thì không ai ngoan hơn con
ở trên đời này cả.
- Con biết mà, - Xerioja mỉm cười
nói.
Anna chưa kịp uống cà phê thì người
nhà đó vào báo có nữ bá tước Lidia đến. Nữ bá tước là một người cao lớn, mặt
vàng bủng và bệnh hoạn, đôi mắt đen, đẹp và tư lự. Anna mến bà ta nhưng hôm đó,
lần đầu tiên nàng như nhìn thấy tất cả các tật xấu của bà.
- Thế nào, bà chị thân mến, bà chị
đó mang được cành ôliu về rồi chứ 1? - nữ bá tước Lidia Ivanovna vưa bước vào
phòng đó hỏi ngay.
- Vâng. Xong xuôi cả rồi, nhưng
không đến nỗi nghiêm trọng như chúng mình tưởng đâu, - Anna trả lời. - Bà chị
dâu 2 tôi thường hay quyết định vội vó quá đó thôi.
Tuy nữ bá tước Lidia Ivanovna hay
quan tâm đến tất cả những gì không dính dáng đến mình, nhưng lại có thói quen
không bao giờ chịu nghe những điều bà quan tâm; bà ngắt lời Anna.
- Phải, trên đời này, thật có biết
bao điều buồn phiền và đau khổ.
Tôi thấy kiệt sức rồi.
- Tại sao thế? - Anna hỏi, cố giấu
một nụ cười.
- Tôi bắt đầu chán cái cảnh đi tranh
luận vô ích cho chân lý, và thỉnh thoảng tôi hoàn toàn thất vọng. Công cuộc của
các bà phước (đây là một tổ chức từ thiện và ái quốc - tôn giáo) lúc đầu thì
tốt, nhưng đối với các ông ấy thì không thể nào làm được việc gì, - nữ bá tước
Lidia Ivanovna nói thêm, giọng nhẫn nhục mỉa mai. - Họ vớ ngay lấy dự kiến của
tôi để bóp méo đi và họ có nhiều lối nhìn thật ti tiện, thật vô nghĩa! Chỉ có
hai hay ba người, trong đó có ông chồng chị, là biết được hết tầm quan trọng
của công cuộc này, còn những người khác chỉ độc dèm pha. Hôm qua, Pravdin viết
thư cho tôi...
Pravdin nổi tiếng là một người chủ
trương thuyết liên kết người Xlav, ông ta sống ở nước ngoài. Nữ bá tước Lidia
Ivanovna kể lại những điều ông viết trong thư.
Sau đó, bà kể những điều phiền toái
và mắc mớ mà công việc của liên hiệp Hội thánh gặp phải, rồi vội vó ra đi vì
hôm đó bà còn phải dự họp ở một hội nào đấy và ở uỷ ban Xlav.
"Nhưng trước đây, chị ta đó thế
rồi, sao mình không sớm nhận ra điều ấy? Anna tự nhủ. Hay có lẽ hôm nay chị ta
bị kích thích thần kinh một cách đặc biệt chăng? Thật cũng nực cười: mục tiêu
của chị ta là đức hạnh, chị ta có đạo, thế mà lúc nào cũng nổi nóng, lúc nào
cũng có thù địch, mà kẻ thù của chị ta lại là những người có đạo, chỉ lấy đức
hạnh làm mục tiêu".
Sau nữ bá tước Lidia Ivanovna, một
người bạn gái, vợ một quan chức cao cấp, đến kể cho Anna nghe tất cả các chuyện
phiếm trong tỉnh. Alecxei Alecxandrovitr đang ở Bộ. Còn một mình trong lúc đợi
bữa ăn chiều, Anna ngồi xem con ăn (nó ăn riêng), thu dọn đồ đạc, xem thư từ
chất đống trên bàn và viết thư trả lời.
Nỗi bối rối và hổ thẹn vô cớ nàng
cảm thấy trong lúc đi đường hoàn toàn mất hẳn. Trở về hoàn cảnh quen thuộc của
cuộc sống riêng, nàng lại thấy mình vững vàng và không có gì đáng chê trách.
Nàng ngạc nhiên nhớ lại tâm trạng
của mình hôm trước. "Việc gì đó xảy ra nhỉ? Không có gì cả. Vronxki có nói
một câu tầm bậy, mình có thể dễ dàng chấm dứt việc ấy, và mình trả lời anh ta
thích đáng rồi. Chẳng cần phải nói lại với chồng chuyện đó nữa, như thế là quan
trọng hóa những việc không đáng kể". Nàng nhớ có lần cho chồng biết chuyện
một gó thanh niên dưới quyền ông đó buông lời tỏ tình bóng gió với nàng,
Alecxei Alecxandrovitr trả lời là một phụ nữ thượng lưu lúc nào cũng có thể gặp
những chuyện như vậy, nhưng ông hoàn toàn tin ở sự tế nhị của nàng, và không
bao giờ tự cho phép mình ghen tuông, làm thế chỉ nhục cho nàng và cả cho ông.
"Vậy thì chẳng việc gì mà phải nói. Vả lại, đội ơn Chúa, mình cũng không
có gì để nói kia mà", nàng thầm nhủ.
--------------------------------
1 ý nói: "bà chị đó hòa giải
được đôi bên rồi chứ? ". ở phương Tây, cành ôliu (olivier) tượng trưng cho
hòa bình.
2 Belle soeur (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
32
Alecxei Alecxandrovitr ở Bộ về lúc
bốn giờ, nhưng, như vẫn thường xảy ra nhiều lần, ông không có thì giờ vào phòng
vợ. Ông tới phòng làm việc để tiếp những người đến cầu cạnh đang ngồi đợi, và
ký một vài giấy tờ do viên chánh văn phòng mang lại. Dự bữa chiều (bao giờ cũng
có ba hay bốn người tới ăn chiều ở nhà Carenin) có một bà chị họ già của
Alecxei Alecxandrovitr, vợ chồng một quan chức cao cấp ở Bộ và một chàng trai
trẻ được giới thiệu đến với Alecxei Alecxandrovitr. Anna ra phòng khách tiếp
họ.
Năm giờ đúng (chiếc đồng hồ bằng
đồng đen từ thời Pie đệ nhất chưa đánh xong tiếng thứ năm), Alecxei
Alecxandrovitr bước vào, thắt cravat trắng, và mặc lễ phục có đính hai huân
chương, vì sau bữa ăn ông phải đi ngay. Mỗi giờ phút của Carenin đều có công
việc và chủ đích rõ ràng. Để thu xếp đầy đủ mọi việc trong ngày, ông buộc mình
phải triệt để theo đúng giờ giấc. "Không vội vó và không nghỉ ngơi",
đó là phương châm của ông. Ông vào phòng khách, chào mọi người, vội vó ngồi
xuống và mỉm cười với vợ.
- Phải, từ nay tôi không còn phải cô
độc nữa. Mình không thể tưởng được ngồi ăn một mình khó chịu biết chừng nào
(ông nhấn mạnh vào chữ khó chịu).
Trong bữa ăn, ông hỏi han vợ tình
hình ở Moxcva, và hỏi tin tức Xtepan Arcaditr với nụ cười giễu cợt; nhưng câu
chuyện vẫn là chung cho mọi người: họ bàn về công việc và xó hội thượng lưu ở
Peterburg. Sau bữa ăn, ông nán lại với khách nửa giờ và sau khi bắt tay vợ, vẫn
với nụ cười, ông đi dự họp Nội các.
Hôm ấy, Anna không đến chơi quận
chúa Betxi Tverxcaia, bà này được tin nàng về, đó mời đến chơi vào buổi chiều;
nàng cũng không đến nhà hát, tuy đó giữ chỗ hôm đó rồi. Nàng ở nhà vì cái áo
dài định mặc chưa chữa xong. Sau khi khách ra về, nàng xem lại tủ áo một lượt
và thất vọng vô cùng. Trước khi tới Peterburg, Anna vốn có tài ăn mặc lịch sự
mà chỉ tốn ít tiền, đó đưa cho bà thợ may chữa ba chiếc áo. Phải sửa những áo
đó sao cho không ai nhận ra được nữa, và đáng lẽ cả ba cái phải xong từ ba hôm
rồi. Nhưng hai chiếc chưa xong còn chiếc thứ ba lại không sửa đúng ý Anna. Bà
thợ may đến phân trần, cả quyết là làm như vậy hợp hơn, khiến Anna bừng bừng nổi
giận, đến nỗi sau đấy nàng phải hổ thẹn. Nàng sang phòng trẻ cho nguôi giận và
cả buổi tối ngồi với con trai. Nàng tự cho con đi ngủ, làm dấu phép và giắt
chăn nệm cho con. Nàng lấy làm vừa ý là đó không đi đâu và đó qua một buổi tối
thật dễ chịu. Nàng cảm thấy nhẹ nhàng, khuây khoả và thấy rõ tất cả những gì
trong chuyến đi dường như tối quan trọng thật ra chỉ là một sự kiện nhỏ nhặt
trong cuộc sống thượng lưu và nàng không việc gì phải hổ thẹn với mình hay với
bất cứ ai. Nàng ngồi bên lò sưởi với cuốn tiểu thuyết tiếng Anh và đợi chồng.
Đúng chín giờ rưỡi có tiếng ông ta giật chuông và bước vào phòng.
- à, mình đó về! - nàng nói và chìa
tay cho chồng.
Ông hôn tay vợ và ngồi xuống cạnh.
- Nói chung, tôi thấy chuyến đi của
mình thành công rực rỡ, ông nói.
- Phải, - nàng trả lời và kể lại cho
chồng nghe tất cả từ đầu: cuộc hành trình của nàng cùng với mẹ Vronxki, khi tới
nơi, và tai nạn ở ga.
Rồi nàng tả cái cảm giác thương xót
trước hết là đối với mình, sau nữa đối với Doli.
- Tôi không thừa nhận là có thể tha
thứ cho một người đàn ông như vậy, dù đó là anh mình, - Alecxei Alecxandrovitr
nói, giọng nghiêm khắc.
Anna mỉm cười. Nàng hiểu chồng nói
vậy chính là để tỏ rằng sự kính nể đối với gia đình cũng không ngăn cản ông
thành thật bộc lộ ý kiến. Nàng biết rõ nét cá tính ấy và vẫn phục chồng về điểm
này.
- Tôi rất hài lòng là mọi việc đều
ổn thoả, và mình đó trở về, - ông nói tiếp. - Thế ở đấy, người ta có bàn tán gì
về cái điều lệ mới tôi vừa đưa vào Nội các không?
Không ai nói gì về việc ấy với Anna,
và nàng hổ thẹn sao lại dễ quên đến thế cái điều rất quan trọng đối với chồng.
- ở đây, trái lại, có rất nhiều dư
luận sôi nổi về vấn đề ấy, - ông nói với nụ cười thoả món.
Nàng hiểu là Alecxei Alecxandrovitr
muốn kể cho nàng nghe vài chi tiết thú vị về vấn đề này, và nàng hỏi để gợi cho
ông nói ra. Vẫn với nu cười thoả món, ông tả lại cho vợ những tràng pháo tay
hoan hô mình sau khi đưa ra biện pháp mới ấy.
- Tôi rất, rất hài lòng. Điều đó
chứng tỏ rằng, cuối cùng ở đây, người ta đó bắt đầu có những ý kiến kiên quyết
và sáng suốt về vấn đề này.
Uống xong tách trà pha kem thứ hai
với bánh mì, Alecxei Alecxandrovitr đứng dậy về phòng làm việc.
- Mình không đi chơi à? Chắc mình
buồn? - ông hỏi vợ.
- ồ không! - nàng trả lời, rồi cũng
đứng dậy và đưa chồng đến tận cửa phòng làm việc. - Lúc này mình đang đọc gì
thế?
- Tập "Địa ngục thi ca"
của công tước Lilơ 1, - ông đáp. - Một cuốn sách rất đặc sắc.
Anna mỉm cười, như người ta thường
cười các nhược điểm của người mình yêu, và khoác tay chồng, đưa đến tận cửa
phòng làm việc.
Nàng biết thói quen đọc sách của
chồng buổi tối đó trở thành nhu cầu. Nàng biết, mặc dầu bận công việc gần hết
thời gian, ông vẫn coi mình có bổn phận phải theo sát tất cả những gì có vẻ lý
thú trong giới trí thức. Nàng còn biết rằng ông quan tâm thực sự đến các sách
chính trị, triết học và tôn giáo, rằng nghệ thuật về thực chất hoàn toàn xa lạ
đối với ông, nhưng mặc dầu thế, hay đúng hơn chính vì thế mà Alecxei
Alecxandrovitr không bỏ qua một cái gì đó gây dư luận trong lĩnh vực này và
buộc mình phải đọc tất cả. Nàng biết rằng về mặt chính trị, triết học và tôn
giáo thì Alecxei Alecxandrovitr còn hoài nghi hoặc tìm tòi; trái lại về nghệ
thuật, về thơ và nhất là về âm nhạc, những môn ông hoàn toàn không thể hiểu nổi
thì ông lại có ý kiến kiên quyết và dứt khoát nhất. Ông ưa nói đến Shakespeare,
đến Rafael, Bêthôven, đến tầm quan trọng của các trường phái mới về thơ ca và
âm nhạc, mà ông xếp loại một cách quá lôgich.
- Thôi, cầu Chúa ban phước lành cho
mình! - nàng nói với chồng ở cửa phòng làm việc; trong phòng, chiếc chụp đèn úp
trên cây nến và bình nước đặt gần ghế bành đó sẵn sàng. - Còn em, em đi viết
thư về Moxcva đây.
Ông bắt tay và hôn tay vợ lần nữa.
"Dù sao, chồng mình cũng là một
con người ưu tú: thẳng thắn, tốt bụng, và xuất sắc trong giới ông ấy, Anna thầm
nghĩ khi quay về phòng riêng, như thể nàng đang phải bênh vực chồng chống lại
một người nào đó đang buộc tội ông và bảo nàng rằng không thể yêu ông ta được.
Nhưng tại sao đôi tai ông ấy lại vểnh lên đến thế? Có lẽ ông ấy cắt tóc quá ngắn
chăng?".
Đúng nửa đêm, Anna còn ngồi trước
bàn giấy, vừa viết xong bức thư cho Doli, thì nghe thấy tiếng bước chân đều
đặn, êm nhẹ và Alecxei Alecxandrovitr đi giày vải, tắm rửa sạch sẽ, đầu tóc
chải chuốt, tay cắp một cuốn sách, bước vào phòng nàng.
- Đến giờ rồi, đến giờ rồi, - ông
nói với một nụ cười đặc biệt và đi sang phòng ngủ.
"Anh ta có quyền gì mà nhìn
chằm chằm vào chồng mình như thế?" Anna thầm nghĩ, nhớ tới cái nhìn của
Vronxki xoáy vào Alecxei Alecxandrovitr.
Thay áo xong, nàng sang phòng ngủ,
nhưng khuôn mặt đó mất cái vẻ phấn khởi toát ra từ đôi mắt và nụ cười khi ở
Moxcva; giờ đây, ánh lửa đó như đó tắt trong nàng hay ẩn kín ở tận nơi nào xa
thẳm.
--------------------------------
1 La Poésie des Enfers du duc de
Liille (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Chương
33
Khi rời Peterburg, Vronxki đó nhường
căn phòng rộng của mình ở phố Morxkaia cho bạn là Pet'rixki, mà chàng rất yêu
mến.
Pet'rixki là một trung úy trẻ, không
có gì đặc sắc, và không những nghèo mà còn nợ như chúa chổm; tối nào anh ta
cũng say và cứ bị đưa lên đồn luôn vì các thứ chuyện tức cười và rắc rối khác
nhau, nhưng lại được bạn bè và cấp chỉ huy rất yêu. Trưa hôm ấy, khi đi thẳng
từ ga về gần đến nhà, Vronxki thấy một chiếc xe ngựa trông quen quen đỗ cạnh
thềm nhà. Sau khi kéo chuông, chàng đứng trước cửa và nghe thấy tiếng đàn ông
cười, một giọng đàn bà và tiếng Pet'rixki kêu: "Nếu là một trong những
thằng kẻ cướp ấy thì đừng cho nó vào nhé!". Vronxki không để người vào
báo, khẽ rón rén đi vào căn phòng đầu tiên. Nữ nam tước Sinton, nhân tình của
Pet'rixki, rất tươi tắn trong chiếc áo xatanh màu hoa cà, khuôn mặt nhỏ hồng
hồng và mớ tóc hung uốn thành búp, đang líu lo như chim, giọng uốn éo điệu
Paris. Cô ta đang ngồi pha cà phê trước bàn tròn.
Pet'rixki mặc áo bành tô và đại úy
Camerovxki mặc quân phục đại lễ, ngồi cạnh cô ta.
- Hoan hô! Vronxki đây rồi! -
Pet'rixki kêu lên và đứng phắt dậy, kéo ghế rầm rầm. - Đích thân ông chủ nhà
đây rồi! Nữ nam tước mời anh ấy một tách cà phê trong cái ấm mới đi. Tụi mình
không ngờ cậu ra về sớm thế! Mình hy vọng cậu sẽ hài lòng về nét trang trí này
trong căn phòng cậu, - anh ta chỉ nữ nam tước và nói: - Các vị biết nhau cả rồi
chứ, phải không?
- Tất nhiên rồi! - Vronxki mỉm cười
vui vẻ nói và nắm bàn tay bé nhỏ của nữ nam tước. - Còn phải nói, chúng tôi vốn
là bạn cũ mà.
- Anh vừa đi xa về, em phải cuốn gói
đây, - nữ nam tước nói. Xin đi ngay nếu em làm phiền anh.
- Chị đến đâu là nhà chị ở đấy, nữ
nam tước ạ, - Vronxki nói. Chào anh Camerovxki, - chàng nói thêm và lạnh lùng
bắt tay.
- Xem đấy, anh chẳng bao giờ biết
nói những lời đáng yêu như thế, - nữ nam tước nói với Pet'rixki.
- Có chứ, sao lại không? Sau bữa ăn,
tôi cũng biết nói những điều đáng yêu chẳng kém ai cả.
- Sau bữa ăn thì không có giá trị gì
cả! Để em đi pha cà phê cho anh, anh đi rửa mặt và thay quần áo đi, - nữ nam
tước nói rồi lại ngồi xuống, thận trọng vặn cái vòi chiếc ấm cà phê mới. Pie,
đưa cà phê đây cho em, - cô ta bảo Pet'rixki, gọi anh là Pie, vì đó là tên
trong gia đình của anh ta, không cần che giấu mối quan hệ giữa hai người. - Em
cho thêm cà phê vào đây.
- Cô đến làm hỏng hết thôi!
- Không đâu! Thế nào, còn vợ anh
đâu? - nữ nam tước đột nhiên nói, cắt ngang câu chuyện của Vronxki với bạn. -
Chúng tôi đó cưới cho anh ở đây mà. Anh có đưa vợ về không đấy?
- Thưa nữ nam tước, không. Tôi sinh
ra là người Digan, và sẽ chết như người Digan 1.
- Càng tốt, càng tốt! Đưa tay đây em
xem nào.
Và nữ nam tước không buông Vronxki
ra nữa, cô ta bắt đầu kể cho chàng nghe những dự định mới về cuộc sống của
mình, vừa nói vừa pha trò luôn miệng, và hỏi ý kiến chàng.
- Hắn vẫn từ chối không chịu ly dị
với em! Rồi em sẽ ra sao đây?
(Hắn đây là chỉ chồng cô). Em sẽ đệ
đơn kiện hắn. Anh khuyên em nên thế nào? Camerovxki, anh xem cà phê đi chứ, nó
trào ra kia kìa; anh cũng thấy là em đang bận tíu tít đấy! Em sẽ đi kiện hắn vì
em cần tài sản của em. Anh có hiểu cái việc ngu ngốc đó không? Lấy cớ là em phụ
bạc, - cô ta nói giọng khinh bỉ, hắn định cuỗm của cải của em!
Vronxki thích thú ngồi nghe những
câu chuyện vui vui của người đàn bà xinh đẹp; chàng cũng phụ họa theo, nói
những lời nửa khuyên răn nửa châm biếm và lập tức lại có cái giọng chàng thường
dùng với loại đàn bà này. Trong xó hội thượng lưu ở Peterburg của Vronxki, mọi
người thường chia ra làm hai loại đối lập nhau rõ ràng. Loại thứ nhất gồm những
người nhạt nhẽo, ngớ ngẩn và nhất là lố bịch, thường tưởng rằng anh chồng chỉ
được sống với người đàn bà mình đó cưới làm vợ, rằng thiếu nữ phải ngây thơ,
đàn bà phải bẽn lẽn, đàn ông phải can đảm, sống giản dị và cương quyết, rằng người
ta phải dạy dỗ con cái, kiếm ăn, trả nợ và các thứ chuyện vô vị kiểu ấy. Đó là
loại người lỗi thời và lố bịch. Nhưng còn có loại người khác bao gồm tất cả bọn
chàng, họ cần nhất là phải thanh lịch, phóng khoáng, táo bạo, tươi vui, phải
biết ham mê mọi thú vui mà không hề hổ thẹn và coi thường tất cả các thứ khác.
Sau những ấn tượng về một xó hội
khác hẳn đem từ Moxcva về, Vronxki chỉ bỡ ngỡ một lúc và lại trở về ngay vị trí
trong cái giới vô tư và vui tươi này, như xỏ chân vào đôi giầy vải cũ.
Cuộc uống cà phê không thành, cà phê
bắn tung tóe vào mọi người, trào ra và chính vì thế đó đạt mục đích: nói cách
khác, vì nó đổ xuống tấm thảm quý và dây vào áo nữ nam tước nên gây ra náo động
và cười đùa.
- Bây giờ tạm biệt thôi, không thì
không bao giờ anh đi tắm rửa được và lương tâm em sẽ hối hận vì gây ra cái tội
hết sức nặng mà một người đàn ông đứng đắn có thể mắc phải, là không được thật
sạch sẽ. Thế anh khuyên em cầm dao kề vào cổ hắn à?
- Đúng thế, và tay em phải làm sao ở
gần sát môi hắn. Hắn sẽ hôn tay em và mọi việc sẽ kết thúc tốt đẹp, - Vronxki
đáp.
- Được, thế hẹn tối nay ở Nhà hát
Pháp nhé! - và cô ta đi khuất trong tiếng áo sột soạt.
Đến lượt Camerovxki đứng dậy và
Vronxki không đợi anh ta đi đó giơ tay ra bắt và sang phòng tắm... Trong khi
chàng rửa mặt, Pet'rixki kể lại vắn tắt tình cảnh của mình, nhất là nó đó thay
đổi ra sao kể từ khi Vronxki đi. Anh hết sạch cả tiền. Ông bố nói là sẽ không
cho tiền và không trả nợ cho anh. Một trong số thợ may quần áo cho anh đó định
cho anh vào tù, một người khác cũng dọa sẽ trình bắt anh. Ông đại tá cảnh cáo
nếu những chuyện tai tiếng xấu xa ấy không chấm dứt thì anh sẽ phải rời bỏ
trung đoàn. Nữ nam tước làm anh chán đến cực độ, đặc biệt là bất cứ lúc nào
cũng muốn biếu anh tiền; nhưng còn một người đàn bà khác mà anh muốn giới thiệu
cho Vronxki biết: cậu biết không, một thiếu phụ kỳ diệu, kiều diễm, theo kiểu
phương Đông nghiêm nghị, "loại" 2 nô lệ Rêbecca 3. Anh còn cói nhau
với Beckôsep và muốn cử người làm chứng đến gặp hắn 4.
Nhưng tất nhiên không xảy ra việc gì
cả. Tóm lại, mọi việc đều tốt đẹp vô cùng và rất vui vẻ. Rồi không để bạn kịp
có thời giờ ngẫm nghĩ sâu về tình hình đó, Pet'rixki bắt đầu kể luôn các thứ
tin tức thú vị. Nghe những chuyện thường lệ của Pet'rixki, trong khung cảnh rất
quen thuộc của căn nhà chàng ở đó ba năm nay, Vronxki thấy khoan khoái được
sống lại cuộc đời vô tư lự ở Peterburg.
- Vô lý! - chàng thốt lên, chân rời
khỏi bàn đạp bồn rửa mặt đang phun nước vào cái cổ lực lưỡng và hồng hào. - Vô
lý! - chàng nhắc lại khi được biết Lôra đó bỏ Fertingnov để đi với Mileiev. Hắn
vẫn ngu ngốc và tự món thế ư? Còn Buzuncov, hắn ra sao rồi?
- à, hắn mới gặp một chuyện, một
việc hay tuyệt! - Pet'rixki reo lên. - Cậu đó biết cái thú say mê của hắn là
khiêu vũ. Không bao giờ hắn chịu bỏ qua một đêm khiêu vũ nào ở hoàng cung. Hắn
đội mũ mới đến dự buổi khiêu vũ lớn. Cậu đó trông thấy những mũ mới rồi chứ?
Đẹp lắm, nhẹ lắm... Thế là hắn đến đó... Này, nghe nhé!
- Mình nghe đây, mình vẫn nghe đây
mà, - Vronxki đáp và lau mình bằng khăn tay mềm.
- Một bà đại công tước và viên đại
sứ chợt đi qua, và khốn khổ cho hắn, câu chuyện họ đang nói lại đúng vào chuyện
mốt mũ mới. Bà đại công tước muốn tìm một chiếc để dẫn chứng... Bà ta trông
thấy ông bạn của chúng ta (Pet'rixki bắt chước người bạn, đứng thẳng, mũ đội
trên đầu). Bà ta bảo hắn đưa mũ... Hắn không nhúc nhích. Thế là nghĩa thế nào?
Mọi người nháy mắt, gật đầu, ra hiệu với hắn. Hắn không động đậy như người chết
rồi. Cậu có biết thế nào không? Thế là có một anh chàng... Mình không nhớ tên
anh ta là gì nữa... định đến lấy mũ của hắn... hắn không cho! Hắn tự tay bỏ mũ
ra và đưa cho bà đại công tước. "Chiếc mũ mới đây", bà đại công tước
nói. Và lật ngược mũ... Trong mũ liền rơi ra một quả lê với bao nhiêu là kẹo,
đến hai lạng kẹo! Thì ra anh bạn thân mến đó đó để dành tích trữ đấy!
Vronxki phá lên cười. Hồi lâu sau,
hai người đó nói sang chuyện khác, chàng vẫn còn cười khi nghĩ đến chiếc mũ,
tiếng cười lành mạnh để lộ cả hàm răng khỏe mạnh và đều đặn.
Sau khi nghe hết các tin tức,
Vronxki bảo người hầu phòng giúp một tay mặc quân phục và đi trình diện cấp
trên. Chàng định sau đó sẽ tạt qua nhà ông anh, đến nhà Betxi, và đi thăm một
vài nơi để thâm nhập cái giới mà Carenin năng lúi tới. Như mọi lần ở Peterburg,
chàng ra khỏi nhà để rất khuya mới trở về.
--------------------------------
1 Digan là một dân tộc lưu động có ở
hầu khắp các nước châu Âu. ở đây ý Vronxki muốn nói là chàng ưa tự do phóng
khoáng.
2 "Genre" (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
3 Nô lệ Rêbecca: một nhân vật phụ nữ
trong chuyện "Aivanho" của Wontơ Scott, tượng trưng cho sắc đẹp kiểu
á-Đông.
4 ý nói người làm chứng đến để thách
thức đấu gươm hay đấu súng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét