Nguồn : Internet
.
Nguồn : Internet
.
Nếu dùng Đông dược, thang thuốc của bạn sẽ được gia giảm dựa vào thể tạng của bạn là hàn hay nhiệt. Yếu tố này phụ thuộc vào di truyền, điều kiện sinh hoạt, làm việc và ăn uống.
Các chuyên gia về y học cổ truyền
đã lập ra hệ thống chỉ tiêu cơ bản để phân định một người thuộc thể tạng hàn
hay nhiệt. Bạn có thể kiểm tra xem mình thuộc loại nào trong 7 loại hình sau:
1. Thể hàn: Thể hình hơi gầy, tính cách hướng nội, sợ lạnh, không
khát và không muốn uống, ăn được, sắc mặt trắng, rêu lưỡi trắng nhạt, đại tiện
nát, tiểu tiện trong dài.
Người thể hàn dễ mỏi mệt, ít mồ
hôi, tinh thần kém hưng phấn, ít nói, khả năng tình dục kém, huyết áp hơi thấp,
mỡ máu và đường máu cũng hơi thấp.
2. Thể rất hàn: Người rất gầy, tính cách hướng nội rất rõ, sợ lạnh
nhiều, thích uống nước ấm nóng, ăn kém, sắc mặt vàng nhợt, lưỡi trắng nhợt và
ướt, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài nhưng đi nhiều lần.
Người thuộc thể rất hàn có tinh
thần ủy mị, thể lực kém, rất ít mồ hôi hoặc vã mồ hôi trộm, tiếng nói nhỏ yếu,
khả năng tình dục rất kém, huyết áp thấp hoặc rất thấp, mỡ máu và đường máu
cũng tương đối thấp.
3. Thể nhiệt: Thể hình có xu hướng béo, tính cách hướng ngoại, sợ
nóng, hay khát và thích uống nước mát, ăn ngon miệng, sắc mặt hồng nhuận, lưỡi
đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiên phân khô cứng, tiểu tiện vàng.
Nếu thuộc thể nhiệt, tinh thần
bạn sẽ dễ hưng phấn, thể lực khỏe, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục
mạnh mẽ, huyết áp có xu hướng cao hoặc hơi cao, mỡ máu và đường máu cũng hơi
cao.
4. Thể rất nhiệt: Người béo tốt, tính cách hướng ngoại rõ rệt, rất sợ
và rất kém chịu nóng, hay khát và rất thích uống nước thật lạnh, ăn rất ngon
miệng, sắc mặt đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc đen, đại tiện táo kết, tiểu tiện
sẻn đỏ.
Người thể rất nhiệt có tinh thần
rất hưng phấn, thể lực cường tráng, dễ vã mồ hôi, tiếng nói khỏe, khả năng tình
dục rất khỏe và có lúc thái quá, huyết áp hơi cao, mỡ máu và đường máu cũng
tương đối cao.
5. Thể bình hòa: Tính cách cân bằng, thể hình, cảm giác hàn nhiệt, cảm
giác khát, đại tiểu tiện, trạng thái tinh thần, thể lực, mồ hôi đều bình
thường.
Người thuộc thể này ăn được, sắc
mặt hơi hồng, chất lưỡi hơi hồng, rêu lưỡi trắng mỏng; khả năng tình dục vừa
phải, huyết áp, mỡ máu và đường máu cũng đều trong phạm vi bình thường.
6. Thể thiên hàn: Người hơi gầy, tính cách có xu hướng hướng nội, hơi
sợ lạnh, không thích uống nhiều nước, ăn hơi kém, sắc mặt không tươi, lưỡi nhợt
hơi bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, đại tiện có lúc lỏng nát, tiểu tiện trong và có
lúc đi nhiều lần.
Người thể thiên hàn tinh thần có
lúc kém hưng phấn, thể lực hơi kém, mồ hôi tương đối ít, ít nói, khả năng tình
dục hơi kém, huyết áp có xu hướng thấp, mỡ máu và đường máu bình thường hoặc
khá thấp.
7. Thể thiên nhiệt: Người hơi béo, tính cách có xu hướng hướng ngoại, hơi
sợ nóng, thích uống nước, ăn khá ngon miệng, sắc mặt hơi hồng, lưỡi hơi đỏ, rêu
lưỡi vàng, đại tiện có lúc khô cứng, tiểu tiện ít và có lúc vàng.
Tinh thần có lúc hưng phấn, thể
lực khá, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục có xu hướng mạnh mẽ, huyết áp
hơi cao, mỡ máu và đường máu bình thường hoặc tương đối cao.
Để xác định mình thuộc loại hình
nào, bạn nên tính điểm. Mỗi chỉ tiêu được tính 1 điểm, nếu không có thì tính 0
điểm. Nếu được 3/4 số điểm tối đa thì có thể khẳng định chắc chắn, nếu chỉ đạt
một nửa thì thuộc diện nghi ngờ.
Tính 'hàn', tính 'nhiệt' trong đông y là gì?
Trong đông y người ta thường chia ra tính hàn và tính nhiệt. Mỗi vị thuốc sẽ chủ tính khác nhau. Vì vậy để phân biệt được quý vị cũng phải hiểu được quan nhiêm tính "mát" và "nóng" hay còn gọi “hàn” và "nhiệt”.Tính hàn và nhiệt là gì?
“Mát” và “nóng” hay còn gọi “hàn” và
"nhiệt” vốn dĩ là hai thuộc tính cơ bản của mọi sự vật, hiện tượng, Theo
quan & niệm học thuyết Âm Dương của triết học phương Đông, “hàn” thuộc về
âm, “nhiệt” thuộc về dương. Chúng như hai mặt trắng - đen đối lập nhau, luôn
luôn tổn tại song song ỏ trạng thái cân bằng.
Y học cổ truyền quan niệm
rằng cơ
thể người khỏe mạnh là biểu hiện của sự quân bình âm và dương, hay nói
cách khác là sự cân bằng của “hàn” và “nhiệt”. Bất kể một nguyên nhân nào làm
phá vỡ sự cân bằng này đều sinh ra bệnh tật. Theo đó, nếu
tính “nhiệt” trội, bệnh sẽ biểu hiện tính chất “nóng” như người nóng,
bứt rứt, sắc mặt bừng đỏ, môi khô, khát nước, tiểu vàng, đại tiện táo bón...
Hoặc nếu
tính “hàn” trội, bệnh sẽ mang tính chất “lạnh” như cảm giác ớn lạnh, sợ
gió, quạt, sắc mặt tái xanh, ít khát nước, tiểu trong, đại tiện lỏng, thích
dùng những thức ăn hoặc gia vị nóng... Đơn giản vậy, nhưng
biện chứng ra được chẩn đoán chứng “hàn”, “nhiệt” không phải là điều dễ dàng.
Các thầy thuốc cần phải dựa vào quá trình khám xét, chẩn đoán tỉ mỉ, để phân
biệt những trường hợp “giả hàn” (biểu hiện bên ngoài lạnh
nhưng gốc bệnh lại là nhiệt) hoặc ngược lại “giả nhiệt” (biểu hiện
bên ngoài là nhiệt nhưng gốc bệnh là hàn”. Đây là một bước khá quan trọng, nó
quyết định hiệu quả của liệu trình diều trị. Vì nếu bệnh thuộc hàn, thầy thuốc sẽ
dùng thuốc tính ôn, nóng, và ngược lại bệnh thuộc nhiệt thì sẽ dùng thuốc
lương, mát. Mục đích lấy lại sự quân bình hàn Ị nhiệt nói riêng và sự
quân bình âm dương nói chung ! cho cơ thể.
Cơ thể người khỏe mạnh, có phân biệt “hàn” hay “nhiệt” hay không?
Y học cổ truyền cho rằng, con
người sinh ra là cấu thành của hai nhân tố “tinh tiên thiên” do cha mẹ di truyền
cho và “tinh hậu thiên” do dinh dưỡng. Ngoài ra, tùy theo điều kiện
địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu mà mỗi con người sẽ có một cơ địa rất khác nhau. Có
người sẽ thiên về hàn, có người sẽ thiên về nhiệt, và cũng có người ôn hòa
không hàn không nhiệt.
Dấu hiệu nhận biết như sau: người
có cơ địa thuộc nhiệt có những biểu hiện người gầy khô, bứt rứt, phiền
muộn, sợ nóng, sợ gió, da sạm, không ra mồ hôi, hay ra mồ hôi trộm, lòng bàn
tay, bàn chân nóng, nhức đầu, khó ngủ, thường bị táo bón, tiểu vàng, tiểu ít, chảy
máu cam. Người thể hàn thường cảm thấy mát mẻ, thậm chí sợ gió, lạnh, ít
khi có cảm giác khát nước, thích ăn uống đồ ấm nóng. Như vậy, tương tự, như các
trường hợp bệnh lý, để nhận diện cơ địa chúng ta thuộc dạng nào thì cần dựa vào
thuộc tính của hàn và nhiệt. Tuy nhiên, ở người bình thường, việc làm này tương
đối đơn giản hơn, vì chúng ta không gặp những trường hợp “giả hàn” hay “giả
nhiệt”.
Tại sao cần nhận diện cơ địa “hàn” hay “nhiệt”?
Như đã trình bày, nguồn
gốc của bệnh tật do sự mất quân bình của hàn nhiệt gây nên. Do đó, việc
nhận diện cơ địa của bản thân để tự điều chỉnh lối sống sinh hoạt hợp lý, vốn
dĩ là một phương pháp phòng ngừa bệnh tật đơn giản mà hiệu quả. Ví
dụ, người tạng nhiệt nếu sử dụng nhiều thực phẩm có tính "nóng”
như gia vị cay, trái cây như sầu riêng, nhãn, vải..ẽ sẽ có cảm giác khó chịu,
bứt rứt, nổi mụn, đổ ghèn; Ngược lại, người tính hàn thường xuyên ăn nhiều
thức ăn sống, lạnh, thịt vịt, cá, tôm, cua, ốc, lươn,... dễ bị lạnh bụng, rối
loạn tiêu hóa, tiêu lỏng. Trên cơ sở đó, xét riêng về tính “nóng”, "lạnh”,
dinh dưỡng, thực phẩm hàng ngày cũng đóng góp vai trò quan trọng. Do vậy, nếu
ăn uống không thích hợp, dễ làm mất cân bằng hàn nhiệt mà sinh ra bệnh tật.
Ngoài yếu tố cơ địa, việc ăn uống cũng nên chú ý điều chỉnh theo khí
hậu trong năm. Cụ thể, mùa lạnh nên ăn nhiều thức ăn có tính ôn, ấm như
thịt bò, dê cừu, thịt gà, chim sẻ,... Hoặc mùa nóng nên ăn tính ăn tính mát,
lạnh như thịt vịt, trứng vịt, cua bể, nghêu sò ốc hến, bạch tuộc..ệ nhằm lấy
lại sự quân bình cho cơ thể.
Đối với người bình thường,
thể tạng cơ địa “hàn - nhiệt”, “nóng - lạnh” rất khác nhau. Thông thường, cơ
thể mỗi người sẽ tự điều chỉnh để thích nghi với môi trường, đặc biệt trong
những mùa thời tiết biến đổi trong năm. Tuy nhiên, dù thuộc cơ địa nào, sinh
sông ở vùng địa lý khác biệt, thời tiết nóng hay lạnh, chúng ta chỉ cần
nhớ một nguyên tắc đơn giản, giữ được sự quân bình âm dương nói chung
hay sự
quân bình hàn nhiệt nói riêng là một trong những việc làm cần thiết để
đảm bảo sức khỏe cho cơ thể.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét