Tác giả : Colleen McCulough
Chương 31
Chiếc tàu cập bến cảng Genoa đầu
tháng tự Tổng giám mục De Bricassart đặt chân lên một nước ý tràn ngập ánh nắng
mùa xuân Địa Trung Hải. Liền đó, ông lên tàu hỏa đi Romạ Nếu ông tỏ ý muốn,
Vatican đã gởi đến một chiếc xe với tài xế để đưa ông về. Nhưng ông sợ lại
chứng kiến cảnh Giáo
hội một lần nữa đóng cửa với ông, do
đó ông muốn đẩy lùi thời điểm thử thách ấy càng lâu càng tốt. Thành phố Vĩnh
Cửu. Nó mang đúng cái tên của nó, ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn qua cửa kiếng xe
tắc-xị Những lầu chuông và những vòm giáo đường, những quảng đường đầy chim bồ
câu, những đài nước uy nghi, những hàng cột Roma đặt trên những nền ăn sâu hàng
bao thế kỷ. Với ông, tất cả những thứ đó không đáng chú ý. Đối với ông điều
quan tâm duy nhất là Vatican với những phòng tiếp tân lộng lẫy và những căn
phòng riêng trông có vẻ khắc khổ.
Một tu sĩ dòng Saint Dominique hướng
dẫn Ralph đi dọc theo những đại sảnh lát đá cẩm thạch, ngang qua vô số những
bức tượng bằng đồng, bằng đá, tất cả xứngg đáng có một vị trí trong diện bảo
tàng. Phía sau là rất nhiều tranh được vẽ trên bức tường vĩ đại, tác phẩm của
Giotto, Raphael, Botticelli và Fra Angelicọ
Trong căn phòng màu vàng ngàn sáng
chói, nổi bật lên là màu sắc của những bức tượng, những bức tranh, bàn ghế và
thảm đều được đưa về từ Paris, Hồng Y Di Contini Verchese tiếp Ralph. Tổng giám
mục De Bricassart quỳ xuống, hôn chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi xuống đây Ralph.
- Thưa Đức Hồng Y, con muốn được
xưng tội.
- Khoan đã! Trước hết chúng ta phải
nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Ở đây tai vách mạch rừng nhưng cũng may,
rất hiếm tai nghe được tiếng Anh. Con hãy ngồi xuống đây Ralph. Ồ, thật là thú
vị gặp lại con. Vắng con, ta càng thấy những lời cố vấn khôn ngoan, tư tưởng
hợp lý và quan niệm rất hay về tình bạn... cần thiết như thế nào đối với tạ Cho
tới nay chưa có người phụ tá nào ta có thể dành một phần nhỏ thôi tình cảm mà
ta dành cho con.
Sự mệt mỏi kinh khủng mà Ralph đã
trải qua mấy tuần lễ bỗng nhiên như cất khỏi đôi vai của ông; ông tự hỏi tại
sao mình lại lo ngại quá nhiều về cuộc gặp gỡ này trong khi tận đáy lòng, Ralph
dư biết rằng ông sẽ được thông cảm và tha thứ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ
đó. ông thấy mình đã làm thất vọng một người quá tốt - một người bạn đúng nghĩa
của mình. Ralph phải đối đầu với một con người trong sáng trong khi chính mình
không còn trong sáng nữa.
- Ralph, chúng ta là những người tu
hành nhưng không chỉ là như thế; chúng ta không thể thoát khỏi số mệnh của bản
thân mặc dù chúng ta khao khát những cái gì đó rất tuyệt đối. Chúng ta là những
con người với những yếu đuối và sai sót của con người. Ta đoán trước sẽ không
có điều gì trong những điều con sẽ kể cho cha nghe lại làm vẩn đục hình ảnh mà
ta đã có về con trong suốt những năm chúng ta cùng sống chung nhau. Dưới mắt ta
cũng sẽ không có điều gì có thể làm mất uy tín của con và làm mờ nhạt tình cảm
ma ta đã gởi gắm cho con. Trong yếu đuối của chúng ta, về thân phận con người
chúng ta, nhưng ta biết rằng rồi đây con sẽ hiểu vì tất cả chúng ta cuối cùng
đều hiểu như thế, ngay cả Đức Thánh Cha là người khiêm tốn và nhân từ nhất cũng
hiểu như thế.
- Con đã không giữ lời khấn của con,
thưa Đức chạ Không dễ dàng tha thứ đâu. Đó là tội phạm thượng.
- Từ nhiều năm nay con đã phạm lời
khấn nguyện sống thanh bạch khi nhận gia tài bà Mary Carson. Điều đó đã làm cho
chúng ta xa rời sự trong sáng và sự vâng lời Chúa phải không?
- Như thế cả ba lời khấn đều bị vi
phạm, thưa Đức chạ
- Ta vẫn thích được con gọi bằng
Vittorio như xưa. Ta không lấy làm khó chịu mà cũng chẳng thấy có gì phải buồn
lòng. Tất cả những chuyện ấy đều là ý muốn của Chúa, và ta nghĩ rằng rất có thể
đây là một bài học lớn mà con nên nhận lấy với một thái độ từng tự hành hạ mình
quá đáng. Những ý định của Chúa không phải đều dễ hiểu. Nhưng ta nghĩ rằng con
đã hành động không dễ dãi, rằng con không đầu hàng trước hi đã đấu tranh. Ta
rất hiểu con. Ta biết con rất tự phụ, nhiễm nặng địa vị tu sĩ của mình, rất ý
thức về nỗi khát khao tìm đến cái gì đó rất tuyệt đối. Do đó có thể con cần một
bài học như thế để hạ bớt sự kiêu căng của con, để cho con hiểu rằng trước hết
con chỉ là một con người, cho nên nó sẽ không bao giờ được nhào nắn hoàn thiện
như con nghĩ. Có phải như thế không?
- Thưa đúng thế. Con thiếu sự khiêm
tốn và con có cảm tưởng, hiểu theo cách nào đó, con muốn trở thành Chúa Trời.
Con phạm tội rất nặng và không thể tha thứ. Con không thể tha thứ cho chính
con, vậy thì làm sao con hy vọng sự tha thứ của Chúa?
- Lại kiêu căng nữa rồi, Ralph à!
Kiêu căng! Quyền tha thứ không thuộc về con, con vẫn chưa hiểu điều đó sao? Chỉ
có Chúa mới có quyền tha tội. Chỉ có Chúa mà thôi. Và Chúa sẽ tha tội cho những
ai biết ăn năn chân thành. Chúa đã từng tha tội nặng hơn cho những vị thánh và
cho cả những tên vô loại. Con tưởng rằng Lucifer không được tha tội sao? Nó đã
được tha tội ngay khi nó chống lại Chúa. Số phận của nó - trở thành Chúa tể địa
ngục - là chính nó chọn lựa chớ không phải Chúa. Có phải chính nó đã nói: Thà
ngự trị dưới địa ngục còn hơn là phụng sự trên thiên đàng. Bởi rằng nó không
chiến thắng nổi sự kiêu căng của nó, nó không chấp nhận được ý muốn của nó
khuất phụ trước ý muốn của một ai khác, dù cho ai khác đó là Chúa. Ta không cho
rằng con phạm một sai lầm giống như vậy, người bạn thân yêu của tạ Sự khiêm tốn
là đức tính duy nhất còn thiếu ở con, nhưng nó lại là đức tính chính yếu của
một vị thánh... hay một con người vĩ đại. Cho tới khi nào con chưa chịu trả lại
cho Chúa quyền tha tội thì con chưa đạt tới sự khiếm tốn thật sự.
Gương mặt đầy nghị lực của Ralph co
rúm lại.
- Thưa vâng, con biết rằng Đức cha
nói đúng. Con phải tuyệt đối chấp nhận con người hiện hữu của con, phải nỗ lực
sửa mình mà không tự kiêu về mình. Con xin ăn năn; như vậy con sẽ xưng tội và
chờ được tha tội. Con rất ăn năn và ăn năn thật sự.
Ralph thở ra, đôi mắt của ông không
giấu được sự xúc động trong lòng mà những lời lẽ ôn tồn đã thể hiện.
- Vittorio à, tuy nhiên, khi nghĩ
lại, con thấy con không thể hành động khác hơn. Hoặc là con hủy diệt nàng, hoặc
là con nhận lấy sự hủy diệt ấy về phần con. Lúc đó, con không có sự lựa chọn
nào khác vì rằng con yêu nàng một cách chân thành. Hoàn toàn không phải lỗi ở
nàng nếu con không tiếp tục từ chối nối dài tình yêu trên phương diện xác thịt.
Thân phận của nàng đáng quan tâm hơn thân phận của con. Cho đến lúc đó, con cứ
tự coi mình ở một vị trí cao hơn nàng vì con là kẻ tu hành và concoi nàng như
một hạng người ít được quan tâm. Nhưng con hiểu ngay rằng con là người có trách
nhiệm, vềtình trạng hiện nay của nàng... Đáng lý, con phải tránh xa nàng khi
nàng còn là một cô bé, nhưng con đã không làm như thế. Con đã đem nàng ẩn náu
trong trái tim con và nàng biết điều đó. Nếu con thật lòng muốn rứt nàng ra
khỏi cuộc đời con thì chắc chắn nàng cũng dã biệt và con đã mất hết tất cả ảnh
hưởng đối với nàng. Đức cha thấy, con có đủ lý do để mà ăn năn... Con đã thử
tạo ra một tác phẩm nho nhỏ riêng của con.
- Có phải Hoa Hồng không?
- Thưa Đức cha, đâu còn ai khác nữa?
Nàng là sự toan tính sáng tạo duy nhất của con.
- Nhưng Hoa Hồng có đau khổ không?
Làm như thế có phải chăng con tạo ra cho cô ấy nhiều đau khổ hơn là con hất hủi
cô ấy?
- Con không biết được, Vittoriọ Con
rất muốn biết sự thật ra sao! Nhưng trong lúc này, con không thể hành động khác
hơn. Hơn nữa chuyện ấy xảy ra... một cách tự nhiên. Tuy nhiên con nghĩ rằng con
đã cho nàng cái điều nàng cần thiết, đó là ý thức về nhân cách phụ nữ của nàng.
ý con không phải nói rằng nàng không biết mình là một người phụ nữ, nhưng là
chính con, con không nhận ra điều đó. Nếu khi con gặp nàng, nàng đã là một phụ
nữ, thì mọi việc có lẽ đã diễn tiến khác hơn; nhưng rất tiếc con đã gặp nàng
khi nàng là một cô bé.
- Con vẫn cho thấy mình tự phụ Ralph
à và chưa sẵn sàng để được tha tội. Thật xót xa phải không? Ta xót xa mà nhìn
thấy con quá nhân đạo để bị rơi vào sự yếu đuối của con người. Con có thật sự
hành động với tinh thần hy sinh cao cả không?
Ralph giật mình. ông nhìn vào hai
con mắt u buồn trước mặt và thấy trong đó phản chiếu hai gương mặt thật nhỏ với
kích thước không nghĩa lý gì.
- Không, thưa Đức cha - Ralph nhìn
nhận. Con là con người và với tư cách một con người con đã khám phá ở nàng một
sự hoan lạc không thê chối cãi. Trước đây con hoàn toàn không biết rằng sự tiếp
xúc với một người phụ nữ lại có kết quả như thế và nó lại là nguồn gốc của một
sự khoái lạc sâu đậm như thế. Con muốn mãi mãi không bao giờ xa nàng, không
phải chỉ vì vấn đề thân xác, mà đơn giản chỉ vì con thích ở gần nàng... nói
chuyện với nàng, hay không nói chuyện, được ăn những món ăn do nàng nấu, cười
với nàng, chia sẻ những suy nghĩ của nàng. Con cảm thấy thiếu vắng nàng mãi mãi
khi con còn sống trên cõi đời này.
Có một điều gì đó xuất hiện trên
gương mặt khổ hạnh, u buồn của Hồng Y và không hiểu sao khiến cho Ralph nhớ đến
nét mặt của Meggie vào lúc hai người chia tay nhau. Nó phản ánh sự vững vàng
của một con người bất chấp mọi nỗi khổ đau, buồn phiền, và vất vả để cứ nhìn ra
phía trước mà đi. Con người ấy, mặc áo màu tím, bình thường tình cảm tưởng như chỉ
dành riêng cho con mèo cái giống Abyssinian, đã biết gì về chuyện thầm kín của
Ralph?
- Con không thể nào sám hối về những
gì Meggie đã mang lại cho con - Ralph tiếp tục nói trước sự im lặng của Hồng Ỵ
Con chỉ sám hối vì đã vi phạm những lời khấn hệ trọng và không thể quên. Con
biết từ nay con không thể nào đến với công việc thuộc trách nhiệm của con như
trước kia, nhất là với một nhiệt tình như xưa. Về điều này, con rất ăn năn.
Nhưng về những gì liên quan đến Meggie thì...
Sắc mặt của Ralph thay đổi hẳn khi
nhắc đến tên Meggie khiến cho Hồng Y phải quay về hướng khác để giấu đi những
dằn vặt trong đầu ông.
- Sám hối những gì thuộc về Meggie
chẳng khác nào con đã giết nàng - Ralph nói tiếp cùng lúc đưa bàn tay lên che
hai mắt một cách mệt mỏi - Con không biết con nói có rõ ràng không hoặc lời nói
của con có phản ảnh trung thực suy nghĩ của con không. Thưa Đức cha, con luôn
cảm thấy gần như bất lực khi phải thể hiện bằng lời những tình cảm của con dành
cho nàng.
Ralph ngồi hơi nghiêng người ra phía
trước trong khi ánh mắt của Hồng Y Di Contini Verchese chiếu thẳng về phía
Ralph. Ralph chú ý thấy hai bóng nhỏ của mình trong đôi mắt của Hồng Y hình như
trở nên lớn hơn một chút. Đôi mắt của Vittorio như hai cái gương chúng chỉ phản
chiếu những gì chúng thấy nhưng không để bất cứ điều gì người khác phát hiện
những gì ẩn chứa trong đôi mắt. Ngược lại, đôi mắt của Meggie mở rộng để Ralph
có thể đi thẳng vào tâm hồn nàng.
- Với con, Meggie như một phép lành.
Đột ngột Ralph nói. Nàng là hình ảnh của một thứ thánh lễ khác.
- Vâng, ta hiểu. Hồng Y tán đồng và
thở dài. Con nhìn ra được một tình cảm như thế là tốt. Ta nghĩ, dưới mắt của
Đức Thánh cha điều đó sẽ làm giảm nhẹ lỗi của con. Ta khuyên con nên xưng tội
với cha Giorgio sẽ có lợi ích cho con hơn là với cha Guillermọ Cha Giorgio sẽ
không hiểu lầm những tình cảm và lý lẽ của con. Còn cha Guillermo trực giác vốn
không mạnh và có thể đánh giá không đúng những gì con thật sự ăn năn. Họ cũng
là những con người, Ralph thân mến à, những con người lắng nghe lời xưng tội. Con
đừng quên điều đó. Chỉ trong cái khung cảnh mục vụ mà họ làm chức năng của họ:
nơi ở của Chúa. Ngoài ra họ cũng là những con người. Sự tha tội mà họ ban cho
cũng là của Chúa nhưng tai mà họ nghe và đánh giá vẫn thuộc về con người.
Có người mang trà vào.
- Con thấy ngoài đường phố ở Genoa
và Roma có rất nhiều người mặc áo sơ mi đen - Ralph nhận xét trong khi nhìn
Hồng Y pha trà.
- Đó là những đám người của lãnh tụ
Mussolinị Chúng ta phải đối đầu với một thời ký khó khăn, Ralph thân mến. Đức
Thánh cha ra lệnh không để xảy ra sự đoạn giao giữa Giáo hội với chính quyền ý
và Người có lý trong mọi việc. Tình hình diễn biến thế nào nhân danh Chúa chúng
ta vẫn phải giữ được tự do của mình để có thể trông nom các con chiên dù cho
con chiên có bị chia rẽ trong một cuộc chiến tranh. Bất kể sự chọn lựa của con
tim thế nào, chúng ta bắt buộc phải luôn luôn giữ cho Giáo hội đứng trên mọi
biến động, mọi chủ thuyết chính trị và những tranh chấp quốc tế. Ta muốn con
gắn bó với ta vì ta nhận thấy những gì xuất hiện trên gương mặt con sẽ không
bao giờ phản bội lại những suy nghĩ trong đầu ở bất cứ hoàn cảnh nào. Con đã là
một nhà ngoại giao khi mới sinh ra.
- Con không nghĩ mình sẽ thành công
- Tổng giám mục De Bricassart nói. Rồi đây không ai tán đồng thái độ của chúng
ta và mọi phía sẽ lên án chúng tạ
- Ta biết điều đó. Và Đức Thánh cha
cũng biết. Nhưng chúng ta không thể hành động khác hơn. Tuy nhiên không có gì
có thể cấm cản trong lòng chúng ta cầu nguyện cho Mussolini và Hitler sụp đổ
nhanh chóng.
- Đức cha tin thật sự chiến tranh sẽ
bùng nổ
- Ta không thấy có cách nào tránh
khỏi.
Drogheda vừa có được nhiều radiọ Nhờ
các tiến bộ khoa học mà cuối cùng Gillanbone đã đặt một đài phát thanh.
Mỗi sáng, Fiona, Meggie và Smith mở
máy để nghe tin tức trong vùng và bản tin khí tượng.
Khi đài phát thanh quốc gia thông
báo rằng hôm thứ sáu 1 – 9 - 1939 Hitler đã xâm lăng Ba Lan, lúc ấy chỉ Fiona
và Meggie có mặt ở nhà, nhưng cả hai đều không quan tâm trước tin này. Châu âu
ở đầu kia thế giới, chẳng dính dấp gì đến Drogheda, trung tâm của vũ trụ. Nhưng
chiều ngày ba tháng chín, thử tướng úc Rober Gordon Menzies nói chuyện trên đài
giải thích cho nhân dân hiểu được cuộc xâm lược Ba Lan cuối cùng đã buộc Anh
tuyên chiến với Hitler và úc không thể đứng ngoài cuộc xung đột.
Sau bài diễn văn của thủ tướng úc,
Bob phát biểu:
- Nếu tính luôn Frank, gia đình
chúng ta có tất cả sáu người đàn ông. Ngoại trừ trường hợp Frank, tất cả chúng
ta đều được coi là thợ chăn nuôi do đó không được gọi nhập ngũ. Trong số thợ
chăn nuôi thuộc quyền chúng ta hiện nay, theo tôi chỉ có sáu người muốn lên
đường và hai người ở lại.
- Em muốn đăng ký nhập ngũ! Jack nói
to lên, mắt sáng ngời.
- Em cũng thế, tiếng nói của Hughiẹ
- Và cả hai đứa tụi này nữa! Jims
khẳng định thái độ của mình và cho cả Patsỵ
- Hợp lý hơn hết là Jims và Patsy vì
cả hai trẻ nhất và ít kinh nghiệm nhất trong nghề chăn nuôi, và nếu nhập ngũ
thì tất cả chúng ta đều là lính mới. Nhưng cả hai anh em đừng quên rằng mới
mười sáu tuổi...
Mặc dù Jims và Patsy phản đối nhưng
lúc đó chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary lên đường tòng quân.
Phải chờ thêm một năm nữa, chiến
tranh mới xâm nhập vào cái thế giới bé nhỏ Drogedạ Trong một năm đó, từng người
một, các thợ chăn nuôi từ giã trang trại lên đường nhập ngũ.
Đầu tháng sáu năm 1940, người ta
được tin đoàn quân viễn chinh thuộc đế quốc Anh buột phải rút khỏi Châu âu qua
ngã Dunkerque; những người tình nguyện vào lực lượng thứ hai Hoàng gia úc đã đổ
xô đến các trung tâm tuyển mộ Trong số đó có Jims và Patsy cả hai đăng ký ở
Dubbo nhưng được chuyển đến trại huấn luyện ở Ingleburn, ngoại ô Sydneỵ Gia
đình có mặt đông đủ để tiễn Jims và Patsy lên tàu hỏa.
Jims và Patsy được sung vào sư đoàn
9 úc theo yêu cầu của họ và được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu năm 1941 vừa
kịp lúc tham gia vào trận Benghazị Giữa lúc các lực lượng Anh rút lui dước áp
lực của Afrika Korps - đoàn quân Đức quốc xã tinh nhuệ của tướng Rommel - thì
sư đoàn 9 úc được lệnh chiếm và từ chiến bảo vệ Tobruk.
Trong khi đó tại Drogheda, Meggie
nhận được thư của Luke cho biết hắn vẫn làm cái công việc đốn mía, Luke nói rõ
trong thư cho Meggie an lòng đừng sợ anh ta bị nhập ngũ. Nội dung bức thư cho
thấy Luke coi như chẳng có gì xảy ra sau cái ngày Meggie đã nói với hắn như tát
nước vào mặt tại khách sạn ở Ingham. Với một nụ cười chán ngấy, Meggie lắc đầu
rồi ném lá thư của Luke vào giỏ giấy vụn.
Năm 1941 thật tệ hại cho Droghedạ
Đây là năm thứ năm liên tiếp bị hạn hán. Meggie, Bob, Jack, Hughie và Fiona gần
như bó taỵ Tiền của trang trại Drogheda gởi trong ngân hàng vẫn đủ để mua thức
ăn cứi sống những đàn cừu nhưng phần nhiều chúng lại không chịu ăn. Mỗi đàn cừu
đều có một con đầu đàn, một thứ thủ lĩnh tự nhiên của chúng. Phải ép cho được
con này chịu ăn thì các con còn lại mới ăn theo. Nhưng tình trạng nguy ngập đến
nỗi có những lúc con cừu đầu đàn chịu ăn thế mà các con cừu còn lại vẫn không
thèm ngó ngàng đến thức ăn để sẵn trong các bãi. Trang trại Drogheda chỉ còn
giữ được một người thợ chăn nuôi duy nhất. Meggie phải có mặt bảy ngày trong
một tuần ở các bãi chăn. Mặc dù Meggie dành rất ít thời giờ để chăm sóc Justine
và Dane nhưng hai đứa trẻ vẫn được nuôi chu đáo. Nàng vẫn nghĩ lúc này Bob cần
nàng nhiều hơn hai đứa con. Nhưng thật sự Justine và Dane rất thèm được mẹ ẵm
bồng gần gũi. Có khi cả tuần liền Meggie không thấy mặt con vì từ các bãi chăn
về nhà lúc nào trời cũng đã tối sẫm. Thế nhưng mỗi lần ngắm nhìn Dane, lòng
Meggie xao xuyến lạ lùng. Thật là một thằng bé tuyệt vời, hình như luôn luôn
mỉm cười với mẹ. Ở Dane thoát lên sự hân hoan và tự tin kết hợp với sự nghiêm
nghị của người lớn. ít có chuyện gì có thể làm cho nó giận dữ. Dưới cái nhìn
của Meggie có những lúc nó giống Ralph một cách đáng kinh ngạc nhưng rất may
không ai chú ý điều này. Ralph đã rời Gillanbone từ lâu.
Justine rất yêu em. Dane muốn gì
Justine cũng chìu. Khi Dane mới biết đi chập chững, Justine không rời em một
bước.
Thiếu mẹ, Justine và Dane càng gắn
bó với nhau.
Chương 32
Ngày Giáng Sinh năm 1941, Hồng Kông
thất thủ. Sau đó tin quân Nhật đã đổ bộ lên Mã Lai và Phi Luật Tân. Rồi ngày 8
tháng 7 năm 1942, quân Nhật vượt qua eo biển Johore, đặt chân liên phía bắc
Singabore và chiếm thành phố này không tốn một viên đạn.
Đến đây, thủ tướng úc Curtin bất
chấp sự nỗi giận của thủ tướng Anh Churchill đòi rút tất cả lực lượng của úc ở
Bắc châu Phi về nước. ông tuyên bố đã đến lúc nước úc cần những đứa con của
mình để bảo vệ quê hương. Tin này mang lại cho Fiona hy vọng sớm gặp lại hai
đứa con trai út của bà. Nhưng thật không may, tình hình ở Bắc Phi bỗng xấu đi,
cuối cùng sư đoàn của úc bị kẹt lại không thể rút ngaỵ Điều bất ngờ là với một
lực lượng huấn luyện chưa tốt, trạng bị thiếu thốn, nhưng sư đoàn 9 úc đã hai
lần đối đầu thành công trước lực lượng hùng hổ của Rommel. Cuối năm 1942, sư
đoàn 9 úc được gọi về, chuẩn bị sang Tân Guinee đối đầu với bọn Nhật. Jims và
Patsy trở về nước bình yên. Dĩ nhiên là hai anh em được phép về thăm Droghedạ
Bob ra ga đón Jims và Patsỵ Khi chiếc xe Rolls tiến vào trong sân nhà thì mọi
phụ nữ trong trang trại đều có mặt, Jack và Hughie đứng hơi tụt đằng sau. Hôm
nay là ngày lễ, dù cho tất cả cừu ở Drogheda ngã lăn ra chết cũng mặc kệ.
Xe đã dừng lại rồi nhưng vẫn không
có một ai nhúc nhích, đến khi hai anh em song sinh từ trên xe bước xuống mọi
người vẫn đứng yên. Hai năm sống trên sa mạc đã thay đổi hẳn Jims và Patsỵ Cả
hai cao hơn các anh một cái đầu, không còn là những chàng trai vị thành niên
nữa, Jims và Patsy đã trở thành những người đàn ông; nhưng là những người đàn
ông không giống cái kiểu Bob, Jack và Hughiẹ Thử thách về nhiều mặt, hưng phấn
của chiến trường, với những cái chết bi thảm được chứng kiến đã biến Jims và
Patsy thành những con người mà Drogheda không thể nào tạo nên được.
- Con trai của mẹ! Các con trai của
mẹ! Bà Fiona gọi to lên, mặt đầy nước mắt chạy đến ôm hai con.
Bất cần chúng đã làm gì, chúng đã
thay đổi đến đâu, chúng vẫn là những đứa con nhỏ bé mà bà đã tắm rửa, thay tã,
đút ăn, mà bà đã dỗ dành khi chúng khóc, ôm ấp khi chúng về nhà mang những
thương tích. Nhưng những thương tích hằn lên chúng bây giờ đã vượt khỏi khả
năng chăm sóc của bà.
Drogheda đã mở tiệc khoản đãi Jims
và Patsỵ Có điều rất lạ là cả hai rất thích kể chuyện hàng giờ về Bắc Phi, về
cách ăn ở những nơi mà chúng đã đặt chân đến, về viện bảo tàng ở Cairo, về cuộc
sống trong quan ngũ nhưng tuyệt đối không đề cập đến những trận đánh nhau. Bất
đắc dĩ cả hai mới trả lời qua loa về những trận ác liệt diễn ra tại Gazala,
Benghazi, Tobruk, El Alamein. Các bà các cô quây quanh hai người anh hùng của
dòng họ Cleary nhưng cả hai đều tìm cách lẩn trốn, sợ hãi hơn cả khi ra trận.
Meggie rất vui thấy Jims và Patsy
đùa chơi hàng giờ với Danẹ Còn Justine, chúng tỏ ra rụt rè và vụng về cũng như
khi đối đầu với phái nữ nói chung.
Jims theo dõi chị mình đang nhìn âu
yếm Danẹ Thằng bé cười như pháo nổ vì Patsy đang đùa với nó.
- Chị đừng bao giờ để nó rời khỏi
Droghedạ Jims nói thấp giọng. Ở Drogheda, nó sẽ có một cuộc sống bình yên,
không thể xảy ra điều gì bất hạnh cho nó.
Chương 33
Tổng giám mục Ralph vội vã đi dọc
dãy hành lang cao và lộng lẫy dường như không chú ý đến những ánh mắt ngạc
nhiên quay về hướng ông. Ralph xuất hiện đột ngột trong phòng tiếp khách của
Hồng Y và đứng sựng lại. Đức cha đang tiếp ông Papee, đại sứ của chính phủ Ba
Lan lưu vong đặt bên cạnh Tòa thánh.
- Ồ, Ralph! Có chuyện gì thế?
- Xong rồi, Vittoriọ Mussolini đã bị
lật đổ.
- Lạy Chúa! Đức Thánh cha đã hay tin
chưa?
- Chính con đã gọi điện đến Castel
Gandolfo nhưng trong chốc lát đài phát thanh sẽ loan tin. Con biết trước là nhờ
một người bạn ở tổng hành dinh Đức cho haỵ
ông Papee đứng lên.
- Con xin phép được kiếu từ, thưa
Đức chạ Con đại diện cho một chính phủ thù nghịch với nước Đức. Nếu Đức Thánh
cha không an toàn thì con cũng sẽ lâm vào tình cảnh ấy. Con cần phải thu xếp
gấp các tài liệu trong văn phòng của con.
Ăn nói thận trọng, lời lẽ chính xác,
đúng là một nhà ngoại giao từ đầu đến chân, Papee chào hai vị chức sắc của tòa
thánh rồi ra về.
- Có phải ông ấy đã đến đây để yêu
cầu chúng ta can thiệp cho nhân dân Ba Lan đang bị người Đức đàn áp?
- Vâng, thật tội nghiệp. ông ấy rất
lo cho đất nước.
- Còn chúng tả Chúng ta có chút lo
lắng gì dành cho đất nước Ba Lan khốn khổ ấy không?
đĩ nhiên là có, Ralph ạ! Nhưng ông
ấy không hiểu rằng tình hình gay go như thế nào.
- Đó là sự thật nhưng không ai chịu
tin như thế.
- Ralph!
- Có đúng như thế này không! Thời
niên thiếu Đức Thánh cha đã trải qua những năm tháng tại Munich và Người đã có
một sự say mê đặc biệt dành cho người Đức! Đức Thánh cha đã tiếp tục yêu cầu
người Đức dù có xảy ra bất cứ chuyện gì. Ngay cả khi bằng chứng về sự ô nhục do
các người bạn của nước Đức gây ra được phơi bày trên những thân thể đáng thượng
vì bị họ hành hạ, cắt xẻo thì Đức Thánh cha cũng có thể tuyên bố đó là tác phẩm
của người Nga; chứ một dân tộc có văn hóa và văn minh đến mức ấy không thể có
những hành động khủng khiếp như thế.
- Ralph, chỉ có một lời tố giác của
chúng ta về những gì xảy ra ở Ba Lan là Adolf Hitler sẽ đè bẹp chúng ta ngay -
Sự can thiệp của ta sẽ mang lại lợi lộc gì hở ông bạn? Chúng ta không có quân
đội. Các cuộc trả thù sẽ diễn ra tức khắc và Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin,
đó là điều mà Đức Thánh cha lo ngại. ông bạn có nhớ Giáo hoàng bù nhìn ở
Avignon cách đây vài thế kỷ ông bạn có muốn thấy Giáo hoàng của chúng ta bị
biền thành bù nhìn ở Berlin?
- Con rất buồn, Vittorio ạ. Nhưng
con không nhìn các sự kiện dước góc cạnh ấy. Con cho rằng chúng ta phải tố giác
các thủ đoạn của Hitler trước thế giới, công bố những hành động dã man, hét to
lên cho mọi người biết! Nếu hắn xử bắn chúng ta, chúng ta sẽ chết như những
người tử vì đạo và sự hy sinh của chúng ta càng có kết quả.
- ông bạn Ralph thân mến, nên tỏ ra
sáng suốt hơn một chút! Không có vần đề xử bắn chúng tạ Hitler cũng thừa hiểu
rằng sẽ không chính trị chút nào nếu biến chúng ta thành những người tử vì đạo.
Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, còn chúng ta sẽ được bí mật đưa đi Ba Lan.
Đi Ba Lan, Ralph! ông bạn có muốn chết ở Ba Lan không? Điều đó có ích gì so với
việc tiếp tục ở lại đây hiện nay?
Tổng giám mục De Bricassart ngồi
xuống, hai bàn tay siết chặt nhau đặt trên đầu gối, ném một tia nhìn tức giận
ra hướng cửa sổ. Phía ngoài những con chim bồ câu bay qua bay lại dưới ánh nắng
màu vàng rực rỡ của trời chiều. Vào tuổi bốn mươi bảy, Ralph vẫn tráng kiện hơn
lúc nào hết.
- Ralph, chúng ta vẫn là chúng ta,
vẫn là những con người, nhưng đó là thứ yếu. Trước hết, chúng ta là những tu
sĩ.
- Đức cha đã không sắp xếp một thứ
tự ưu tiên như thế trước đây khi con trở lại úc.
- Thời kỳ ấy, cha đứng trên bình
diện khác và con dư biết điều ấy. Con có đầu óc thích chống chế! Trong tình
hình hiện nay, không thể nào suy nghĩ với tư cách con người, chúng ta phải suy
nghĩ với tư cách tu sĩ vì rằng đó là mặt chính của cuộc sống chúng tạ Dù cho
chúng ta có suy nghĩ gì và dù chúng ta có muốn hành động như thế nào với tư
cách con người chúng ta vẫn buộc phải trung thành với Giáo hội chứ không phải
với một quyền hành thế tục! Chúng ta buộc phải trung thành duy nhất với Giáo
hội! Con đã có lời khấn phục tùng, Ralph. Hay con lại định vi phạm lần nữa? Đức
Thánh cha không thể sai lầm khi hành động vì quyền lợi của Giáo hội.
- Đức Thánh cha đã sai lầm! Sự đánh
giá của Người có thiên vị. Đức Thánh cha đã tập trung tất cả sức lực cho cuộc
đấu tranh chống cộng sản. Đức Thánh cha coi nước Đức như là đối thủ có cầm cỡ
nhất để chống lại chủ thuyết ấy; và Người đã nhìn nước Đức như cường quốc duy nhất
có khả năng ngăn chặn ảnh hưởng cộng sản đối với phương Tây. Đức Thánh cha mong
muốn Hitler ngồi vững trong địa vị của hắn, cũng như Đức Thánh cha hài lòng khi
nhìn thấy Mussolini ngự trị ở ý.
- Hãy tin cha, Ralph à, còn nhiều
điều con không biết hết. Là Giáo hoàng, Đức Thánh cha không thể sai lầm. Nếu
con hoài nghi thìcoi như con đã từ bỏ đức tin của mình rồi đó.
Tối hôm ấy, Tổng giám mục De
Bricassart cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Theo ông Giáo hội không có hành động
cụ thể nào khả dĩ đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh; vai trò của riêng ông
thì giới hạn trong việc can thiệp nhằm cứu vài vức tượng và tác phẩm nghệ
thuật; do đó Ralph oán ghét sự an phận của Vatican. Mặc dù Ralph có phần nào
bảo thủ nhưng sự dè vặt và nhút nhát quá mức của các chức sắc cao cấp bên cạnh
Giáo hoàng vẫn gây cho ông một sự bực bội nặng nề.
Tổng giám mục De Bricassart đi xuống
ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh Pierre ngả mà trước đó ông đã đi vào.
Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển, ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về
hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ
của Michel Angẹ Nhưng ở dưới gương mặt bất động ấy có một gương mặt khác, không
phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi bật giữa bóng đêm như một chiếc
đầu lâu.
Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng
tiếng Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì
linh bộ binh Đức.
- Wie geht' s - ông hởi vẫn với nụ
cười.
Người lạ mặt hơi giật mình, bước ra
khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi.
đu bist brank? Tổng giám mục lại hỏi
anh thanh niên có phải bị bệnh không?
Có tiếng trả lời,
- Nein (không).
Tổng giám mục De Bricassart đặt cây
đèn pin xuống đất và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên
để nhìn rõ đôi mắt u buồn của anh tạ
- Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng
Đức.
- Con đến để cầu nguyện, anh thanh
niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng.
- Thế thì chuyện gì đã xảy rả Có
phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa?
- Vâng, nhưng không phải điều đó làm
con lọ
Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên.
đù sao anh cũng không thể ở ngoài
này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình cờ tôi đến đây cũng để cầu
nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một ngày thật gay gọ Đi ngõ
này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không hiểu lầm rằng tôi đã bị
bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ không phải anh hộ tống tôi.
Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người
thanh niên vào một phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị ông chỉ bật sáng
một bóng đèn nhỏ và đóng cửa lại.
Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức
nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng
giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng thỏng trong bộ quân phục màcả câu âu đã bắt
đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi. Chiều cao
trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài.
- Anh ngồi xuống đi, ông vừa nói vừa
đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng Marsalạ
Tổng giám mục rót rượu vào hai ly,
trao cho anh thanh niên một, rồi ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế
có thể quan sát thoải mái nét mặt có sức thu hút của người khách.
- Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải
động viên cả những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân.
- Con không biết, cậu trai trả lời.
Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.
- Con tên gì?
- Rainer Moerling Hartheim, anh
thanh niên trả lời không giấu vẻ tự hào.
- Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị
tu sĩ nhận xét nghiêm trang.
- Thưa đẹp thật sự phải không? Chính
con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi con là Rainer Schmidt nhưng
khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một cái tên mà con vẫn ao ước.
- Cha mẹ con đều mất?
- Các dì phước gọi con là đứa con
của tình yêu.
Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai
tỏ ra có phẩm cách và tự tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt.
Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ hãi điều gì?
- Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ
hãi, Rainer?
Anh lính trẻ hớp một ngụm rượu, rồi
ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng.
- Ngon tuyệt. Rượu rất dịu. Con muốn
được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc đến luôn
và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng.
Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã
thất vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của
Chúa; trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện
diện của Chúa.
Tổng giám mục cười.
- Ta hiểu con muốn nói gì - Nhưng Giáo
đường Thánh Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường
Thánh Pierre là Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để
tập cho mình quen với suy nghĩ đó.
- Con muốn cầu nguyện hai điều.
- Về những điều làm con sợ hãi?
đạ Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con
được ở trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con.
- Nhưng điều gì làm cho con sợ hãi,
Rainer?
- Người ta đã phát hiện con là người
Do Thái và đơn vị của con rồi sẽ bị gởi sang mặt trận Ngạ
- Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự
sợ hãi của con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái?
- Đức cha cứ nhìn con! Cậu con trai
trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi làm lý lịch của con, họ
có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có khản năng làm việc đó
hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất nhiều so với những
điều các dì nói với con.
- Con hãy nói cho ta biết về con,
Rainer.
Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên
một nét tự hào lạ lùng.
- Con là người Đức và công giáo. Con
mong muốn nước Đức trở thành một nước và các vấn đề chủng tộc vàtôn giáo không
đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc đời con cho mục đích
ấy... nếu con còn sống.
- Ta sẽ cầu nguyện cho con... để cho
con vẫn sống và đạt mục đích đời con.
Hai người nói chuyện với nhau đến
khi bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc
của cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ.
... Ngày 5 tháng 9 năm 1943, sư đoàn
9 của úc đổ bộ lên đảo New Guineạ Mười lăm ngày sau nơi sư đoàn này đến đóng -
phía đông đảo thuộc vùng Lae - không còn một tên lính Nhật. Jims và Patsy dạo
chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogedạ
- Chúng mình sắp sửa được về nhà,
Patsỵ Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở về Drogheda, anh sốt ruột
quá. Jims xúc động nói.
- Đúng vậy, Patsy đáp lại.
Cười vui, Patsy chạy rượt đuổi theo
một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như thể anh tin chắc rằng mình sẽ
túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười.
Patsy chạy được khoảng hai mươi mét
thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ xung quanh. Jims nhìn
thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từng ngang bụng xuống đầu
gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsỵ
- Patsy! Patsy! Jims hét lên.
Anh cảm thấy như chính da thịt mình
đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình đang hấp hối và sắp chết. Anh
vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng của người lính kịp ngăn
anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một tràng đạn thứ hai nổ dòn.
- Patsy! Patsy! Có sao không? Jims
hỏi to một cách ngớ ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu.
Thế mà, ngoài sự chờ đợi của Jims,
vọng lại một tiếng trả lời khẽ.
- Không sao.
Từng phân một, Jims trườn trên cỏ,
hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh, tiếng gió
và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em mình, anh ngả
đầu lên vai trần của Patsy và khóc.
- Ồ, anh đừng khóc, Patsy nói. Em có
chết đâu!
Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu
xuống để lộ da thịt bị nát, đỏ tươi và run rẩy.
Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện
và vây quanh, kể cả những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo
vệ ống quyển. Một người chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập
tắt họng súng máy đặt bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra
đầy phẫn nộ vì mọi người đều yêu thương Patsỵ
- Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói
với Jims. Cậu ta hứng ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng
đùi. Theo xét đoán của tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng đái cũng thế... Chỉ có...
- Sao? Jims sốt ruột hỏi, người run
lên, môi tím lại vì mím chặt.
- Bây giờ thì hơi quá sớm để kết
luận. Tôi không phải là một nhà giải phẩu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở
Moresbỵ Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống đái đã bị tổn thương
cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng có thể
lành lặng tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa. Điều
mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ phận
sinh dục.
Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn
nước mắt.
- Cái chính là Patsy vẫn còn sống,
anh nói.
Tại cảng Moresby, sự đánh giá của
viên y sĩ sư đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.
- Chẳng quan trọng gì - Patsy nằm trên
băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được đưa lên máy bay về Sydney - Dù sự thể
có thế nào, thật ra em cũng không thích các cô gái. Anh ở lại nhớ thận trọng
hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải xa anh.
- Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận
- Jims nói cho Patsy yên tâm và siết bàn tay của em mình - Em có biết không
tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn thân chí cốt thì... Anh sẽ viết thư kể
cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh
gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được may mắn sớm trở về Droghedạ
Fiona và bà Smith đến Sydney bằng
máy bay để kịp đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn
bà Smith phải thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ
Wales. Patsy tiếp tục chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội
của anh đến đây coi như chấm dứt.
Khi Patsy được phép rời quân y viện,
Meggie lái chiếc Rolls đến rước. Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có
sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho
họ một đặc ân khác: sự trở về của Jims.
Chương 35
... Bob, Jack, Hughie và Patsy trở lại các bãi chăn và lập ra kế hoạch phục hồi đàn súc vật. Meggie biết rằng cuộc sống vất vả trên lưng ngựa sắp chấm dứt vì không bao lâu nữa Jims sẽ trở về và có nhiều người đàn ông đến xin việc.
Một thời gian sau, Meggie nhận được một lá thư nữa của Luke, lá thứ hai từ khi nàng bỏ Lukẹ Bức thư viết:
Không còn bao lâu nữa, anh tin như vậy. Chỉ một vài năm chặt mía là anh sẽ đạt mục đích. Sau này anh thường đau ở vùng thắt lưng nhưng anh vẫn còn đủ khả năng thi tài với những tay chặt mía giỏi nhất, từ tám đến chín tấn. Arne và anh có mười hai ê-kíp khác làm việc; tất cả đều là những người dũng cảm. Tiền lưu thông dễ dàng hơn, câu âu cần đường, chúng ta sản xuất bao nhiêu hết bấy nhiêu. Anh làm được hơn năm ngàn bảng mỗi năm và anh đã để dành gần hết. Không còn bao lâu nữa, Meggie, anh sẽ đi Kynunạ Biết đâu khi anh chuẩn bị đủ mọi thứ, em lại muốn trở lại với anh. Có phải là anh đã mang lại cho em thằng bé mà em mong muốn không? Đàn bà thật kỳ lạ, chỉ thích con trai. Có phải chỉ vì thế mà chúng ta xa nhau? Cho anh biết bây giờ em ra sao và Drogheda đã chống lại hạn hán như thế nào. Chúc em mọi sự tốt đẹp. Luke.
Fiona bước ra hiên, nơi Meggie đang ngồi, tay còn cầm lá thư, mắt nhìn lơ đãng những bãi cỏ màu xanh tươi mát.
- Luke thế nào?
- Vẫn thế, thưa mẹ. Không một chút thay đổi. Lại chỉ cần một thời gian chặt mấy cây mía quái qui? rồi một ngày nào đó anh ấy sẽ mua trang trại gần Kynunạ
- Con có định tìm gặp lại Lukẻ
- Không bao giờ.
Fiona buông người xuống chiếc ghế bành bằng mây được đặt xích lại để có thể nhìn rõ mặt con gái.
- Meggie, tại sao con không ly dị để lập gia đình thêm lần nữa? Đột ngột Fiona hỏi. Enoch Davies sẵn sàng cưới con ngay; không có một phụ nữ nào thu hút được sự chú ý của Davies ngoài con.
Meggie nhìn mẹ kinh ngạc:
- Lạy Chúa, con có cảm tưởng như mẹ nói chuyện với con một cách... ngang ngửa như thể mẹ nói chuyện với một người đàn bà nào khác cùng trang lứa.
Fiona không cười. Bà rất ít khi cười.
- Này nhé, nếu bây giờ con không là một người đàn bà thì mãi mãi con sẽ không trở thành đàn bà được. Về phần mẹ, mẹ nghĩ con có đủ điều kiện. Rồi đây mẹ sẽ già đi và mẹ thèm được nói chuyện với con.
Meggie cười, vui sướng thấy mẹ mình ở trong một tân trạng như vậy.
- Mưa xuống mẹ ạ. Ồ, thật tuyệt khi nhìn thấy cỏ ở Drogheda lại xanh tươi.
- Đúng rồi. Nhưng con lẩn tránh câu hỏi của mẹ. Tại sao con không ly dị và bước thêm một bước nữa?
- Như thế là đi ngược lại luật của Giáo hội.
- Thật là chuyện không vào đâu cả! Fiona nói lớn. Một nửa con là của mẹ nhưng mẹ không phải là người công giáo. Con đừng nói những chuyện vớ vẫn với mẹ. Meggie à. Nếu quả thật muốn lấy chồng lần nữa thì con đã ly dị với Luke rồi.
- Thưa mẹ đúng thế, rất có thể. Nhưng con không muốn lại lập gia đình, hai đứa nhỏ và Drogheda đã đủ mang lại hạnh phúc cho con rồi.
Đúng lúc đó Justine và Dane xuất hiện. Justine cao và gầy, không đẹp nhưng chỉ cần một lần gặp mặt thôi cũng đã khó quên đôi mắt và tánh tình cô bé ấy. Justine đã tám tuổi và người duy nhất thật sự gần gũi với Justine là Danẹ
- Dane và Justine rất khác nhau mẹ à thế mà lại rất hợp nhau, Meggie nhận xét. Con ngạc nhiên về điều ấy. Hình như chưa bao giờ con thấy hai đứa gây gổ và đôi khi con phải tự hỏi làm thế nào mà Dane lại có thể tránh được những lần cãi vã với một đứa bướng bỉnh như Justinẹ
Thế nhưng Fiona lại suy nghĩ khác về Dane:
- Lạy Chúa, đúng là gương mặt của cha nó cắt sang. Vừa nói bà vừa quan sát Dane, cậu bé đang chui vào vòm lá non um tùm của những cây hồ tiêu, rồi sau đó mất dạng.
Dường như có một luồng khi lạnh đột ngột đến với Meggie, nàng không kịp phản ứng trước những nhận xét của Fiona dù rằng nàng đã nghe lặp đi lặp lại câu nói này cả trăm lần suốt những năm quạ Tất nhiên đó là phản ứng mặc cảm tội lỗi. Nhiều người vẫn nói xa nói gần nhưng thế thì đã sao đâu? Giữa Luke và Ralph cũng có những nét giống nhau kia mà. Tuy nhiên, dù cố che giấu thế nào đi nữa Meggie vẫn không giữ được tự nhiên mỗi khi có ai đó nói về sự giống nhau giữa Dane và cha nó.
Nàng hít một hơi thật sâu rồi tỏ ra tự nhiên:
- Mẹ cũng thấy thế? Nàng hỏi lại, một chân đông đưa có vẻ lơ đễnh. Con thấy chẳng giống bao nhiêu. Dane không có nét gì của Luke kể cả tánh tình lẫn vóc dáng.
Fiona cười mũi - một phần vì tuổi tác phần khác đôi mắt của Fiona như mờ đi do ảnh hưởng vởi chứng vẩy cá - nhưng trong cái nhìn hình như có chút gì trêu cợt khiến cho Meggie lúng túng.
- Con tưởng là mẹ ngu đần lắm sao? Mẹ đâu có bảo Dane giống Lukẹ Mẹ thấy Dane giống Ralph.
Cảm giác nặng trĩu. Đôi chân của Meggie đang đong đưa bỗng nhiên như bị mốt khối chì kéo xuống và rơi trên nền gạch ô vuông. Người của nàng cũng như thể bị nén lại thành khối, sức nặng ngàn cân cột chặt. Hãy đập đi chứ trái tim của ta, Chúa ơi! Hãy tiếp tục đập! Vì con trai ta, mi hãy tiếp tục đập đi.
- Nhưng, mẹ à! Meggie chỉ mấp máy được một hai tiếng, bằng thứ âm thanh thật nặng nề. Nhưng, mẹ à, mẹ nói thật là kỳ quặc! Sao mẹ lại nhắc đến tên Ralph vào đây?
- Con quen tất cả mấy người mang cái tên ấy đâu? Luke chưa bao giờ có con trai với con. Dane là con của Ralph. Mẹ đã biết điều đó ngay giây phút đầu tiên Dane chào đời.
- Thế thì... tại sao lâu nay mẹ vẫn không nói gì hết? Tại sao mẹ chờ cho Dane được bảy tuổi mới kết án con một cách vô lý và hoàn toàn thiếu chứng cớ như vậy?
Fiona duỗi thẳng người, đặt hai bàn chân tréo vào nhau.
- Bây giờ mẹ đã già rồi, Meggie ạ và những điều mẹ nghĩ nay cũng làm cho mẹ đau lòng. Tuổi già đúng là một ân huệ! Mẹ sung sướng được thấy Drogheda hồi sinh. Có lẽ vì thế mà mẹ cảm thấy mạnh khỏe hơn. Lần đầu tiên trong nhiều năm, mẹ muốn được nói chuyện...
- Đúng là khi mẹ quyết định nói điều gì đó mẹ có cả một nghệ thuật để chọn lựa đề tài! Meggie nói bằng một giọng run run gần như tuyệt vọng mà vẫn chưa biết Fiona sẽ đưa câu chuyện đến đâu, tra tấn tinh thần hay sẽ thương hại mình?
Có vẻ như tình cờ, bàn tay Fiona đưa lên rồi đặt nhẹ xuống đầu gối của Meggiẹ Bà mỉm cười - không hề tỏ ra chua cay hay khinh bỉ mà với một sự cảm thông kỳ lạ.
- Con không nên nói dối với mẹ, Meggie ạ! Con có thể nói dối với bất cứ ai, nhưng không nên làm như thế với mẹ. Con không có cách nào để thuyết phục được mẹ tin rằng Luke là cha của Danẹ Mẹ không ngu đâu, mẹ có mắt. Rõ ràng không thể tìm thấy một nét nào của Luke ở thằng bé ấy. Không có gì cả vì làm sao có được khi Dane chính là hình ảnh của Ralph. Con nhìn xem, hai bàn tay, mớ tóc với những lọn quăn rơi xuống trán, hình dáng, gương mặt, chân mày, cái miệng nữa. Ngay cả dáng đi cũng thế. Ralph chớ còn ai vào đây.
Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ nhàng và dễ chịu.
- Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiêu kỳ. Theo con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có qua lộ liễu và mọi người đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ?
đĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết. Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Lukẹ Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ yếu. Thật là ngu ngốc! cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra.
Ngừng một lát, Fiona nói tiếp:
- Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn phối cho con với Lukẻ Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghét lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định lấy Lukẹ Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn bó của ông ta với con là trong sáng thật sự nhưng rõ ràng là ông ta cần con. Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào trước đây cũng như sau này. Lạ thật - Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm - có lúc mẹ tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng chođến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con gái.
Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggiẹ
- Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó con không ngớt làm ông ấy say mệ Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tim con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy không Meggiẻ Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh Danẹ Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở lại với Luke nữa.
đạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài - Ralph đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Danẹ
- Mẹ có cảm tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ đã từng nói những lời giống hệt như thế.
- Về chuyện của anh Frank?
Chiếc ghế bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh; cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm:
- Có phải con định trả đũa mẹ, Meggiẻ Con đã biết chuyện đó từ bao giờ?
- Từ khi... còn nhỏ. Từ ngày Frank bỏ nhà ra đi!
Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:
- Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồiđây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng... Con sẽ thấy... Rồi con cũng vậy, sẽ mất Danẹ
- Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với bạ Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.
Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.
Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.
Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai concủa Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydneỵ Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưabao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xạ Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.
Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ độ
Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:
Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.
Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.
Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurrạ
Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchesẹ Chính lúc đó Ngài đượcphong giám mục. Khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.
Ngài De Bricassart đương phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.
Đặc phái viên báo "Diễn đàn buổi sáng Sydney" hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbonẹ Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.
Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hổ trợ tinh thân rất lớn cho giáo dân và đặt biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.
Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phụcvụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước ý trở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phụ hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.
Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:
- Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều nàyvới đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ?
- Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật làsắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.
- Người đó trước hết là ông ấy... nếu ông ấy đọc bài báo.
- Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở dài.
- Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp đườc thời giờ để trực tiếp quản lý Droghedạ Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng tạ Làm sao quên được?
- Đúng thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông cừu đã có một món lợi trên bốn triệu bảng!
- Con không nên bạc bẽo, vô ơn như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện naỵ Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn bảng. Con nên biết ơn ống ấy.
- Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng Y De Bricassart.
- Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggiẻ
- Cũng chẳng sao, Meggie đáp lại hơi làm dáng.
- Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với một vẻ bí ẩn.
... Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin mà ông tự lái, khởi hành từ Sydneỵ Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông tại úc và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Ỵ Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và cũng chẳng có ai tiếp đón.
Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng.
Mùa thu đã trở lại ở đây, từ hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nỡ rộ Ở đâu cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đong trong động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Ỵ Giữa những giây đậu tía còn xanh có những cành hồng mềm mại vương lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng xám nhạt. Hồng trỏ Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggiẹ
ông nghe tiếng cười của Meggie và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy. Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí.
Nàng đang đứng đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏ ngát lẫn cái cười rạng rỡ. Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã. Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggiẹ Thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần chân không da sạm nắng, vai rộng, một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành loạn, màu vàng nhạt như cỏ của Droghedạ Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh trên một màu xanh biếc. Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.
- Chào ^ng, thằng bé vừa nhìn khác vừa cười.
- Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút.
- Cháu tên gì?
- Dane Ó Neill, thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai?
- Tôi tên Ralph... Dane Ó Neill.
Như thế thằng bé là con của Meggiẹ Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể là con của ông. Thật là phi ký, Hông Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết Drogheda, kể cả Meggie Clearỵ
- Ba của cháu có nhà không, Danẻ
- Ba cháu? Thằng bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây.
- à, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở nhà không?
- Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu.
Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng, quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc, nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane Ó Neill quỳ gối, nắm lấy bàn tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn.
- Cháu hãy đứng lên, Danẹ Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu.
Bỗng có tiếng gọi vang lên.
- Dane, Dane, em ở đâu?
Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggiẹ
- Ồ, chào ông. Xin lỗi ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine Ó Neill.
- Jussy, đây là Hồng Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justinẹ Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài nhanh lên!
- Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẫn, - cô bé nói không cần hạ thấp giọng - Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh. Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông Gordon.
- Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút.
- Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em, và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người nào đó bị bệnh cúm.
- Hôn lên nhẫn tôi vô ích, Justinẹ Tôi đến đây để nghỉ hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Ỵ
- ông có cần chúng tôi dẫn đường gặp ngoại? Justine hỏi?
- Không, cám ơn cháu. Tôi biết đường.
Muốn gặp Fiona thì có nơi nào khác hơn là trong văn phòng? Ralph đi và một cửa nhỏ, Fiona nghe tiếng động nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Lưng hơi còng, mái tóc màu vàng rực rỡ trước kia nay đã bạc trắng. Khó khăn lắm, Ralph mới nhớ lại năm nay bà đã bảy mươi hai tuổi rồi.
- Kính chào bà Fionạ
Khi bà ngước nhìn lên, Ralph nhận ra ngay sự thay đổi ở người phụ nữ này, tuy thế ông vẫn không hiểu ra thái độ lạnh lùng của Fionạ Vẫn như lâu nay, trong bà có cả sự mềm mại lẫn cứng rắn, do đó trở thành nhân bản hơn, nhưng lại nhân bản theo kiểu bà Mary Carson. Chúa ơi, cái chế độ mẫu quyền ở Drogheda! Rồi nó cũng sẽ xảy ra như thế với Meggie sau này chăng?
- Chào Ralph - bà đạp lại tưởng như Ralph vẫn bước qua cửa nhỏ này hàng ngày. Tôi rất vui mừng gặp ông.
- Tôi cũng thế, rất vui mừng gặp lại bà.
- Tôi không biết rằng ông đang có mặt tại úc.
- Không một ai biết. Tôi đi nghỉ hè vài tuần.
- Tôi hy vọng rằng ông sẽ nghỉ tại đây chứ?
- Làm sao tôi có thể nghỉ ơi nơi nào khác? Bà có một khiếu thẩm mỹ đặc biệt, bà Fiona ạ. Căn phòng này không thua bất cứ căn phòng nào ở Vatican. Các cửa sổ hình trái soan màu đen với những hoa hồng nổi bật, thật là một nét thiên tài.
- Cảm ơn ông. Chúng tôi ráng làm những gì trong khả năng của mình. Nhưng tôi tự hỏi tại sao mình lại phải khổ cực như thế. Nhà này là của ông, chớ đâu phải của chúng tôi.
- Phải chờ đến khi nào không còn một người mang dòng họ Cleary thì điều bà nói mới đúng. Ralph trả lời một cách bình thản.
- Điều ông nói làm cho tôi thật yên tâm làm sao! Cho phép tôi được nói điều này: ông đã đạt nhiều thành công từ khi làm linh mục ở Gillỵ ông có đọc bài báo trên tờ Diễn đàn?
- Ralph không tránh nhé được:
- Tôi có đọc. Lời lẽ của bà thật là bén, bà Fiona ạ!
- Vâng, hơn thế ấy nữa, tôi cảm thấy thích thú được nói những điều đó, sau bao nhiêu năm thu mình lại chẳng nói một lời... Meggie đi Gilly nhưng sắp về.
Dane và Justine đi vào ngã cửa nhỏ.
- Ngoại ơi, tụi con cỡi ngựa đi dạo đến Borehead được không? - Justine nói với Fionạ
- Con biết luật lệ rồi. Không được dạo bằng ngựa mà không có phép của mẹ con. Bà ngoại không thể làm khác, đó là lệnh của mẹ con. ô hô! Các con quên điều sơ đẳng của sự lễ phép. Hãy đến đây trình diện với khách quí của gia đình.
- Con đã gặp rồi. - Justine nói ngắn ngủn.
- à.
- Thưa Đức cha, Đức cha có định nghỉ lại lâu không? Dane hỏi với sự ngưỡng mộ
- Đức cha sẽ ở lại đây với chúng ta cho đến chừng nào Đức cha muốn, Dane ạ. Fiona nói chen vào. Có điều là ngoại rất mệt tai khi nghe con không ngớt thưa bẩm Đức chạ Các con nên gọi bằng gì nào? Cậu Ralph?
- Cậu! Justine kêu lên. Không được đâu, ngoại? Các cậu đã có cậu Bob, cậu Jack, Hughies, Jims, Patsỵ Vậy chỉ nên gọi Ralph vắn tắt thôi.
- Không được hỗn, Justine! Fiona cắt ngang.
- Không sao đâu, Fiona, Justine nói đúng. Tôi vẫn thích mọi người gọi giản dị cái tên Ralph, - Hồng Y can thiệp vào dứt khoát, lòng tự hỏi tại sao con bé lại tỏ ra đố kỵ với mình như thế.
- Con không thể gọi bằng bên Ralph đâu. Dane phản đối, giọng xúc động.
- Được, không sao, Danẹ Cũng chẳng tội lỗi gì đâu.
Hồng Y De Bricassart đi thẳng đến chỗ Dane đứng, hai tay siết chặt đôi vai trần của Dane và mỉm cười. Đôi mắt ông trở nên dịu dàng và long lanh. Hồng Y và con trai của ông cùng quay lại phía Fionạ Cùng hướng về bà một cái nhìn giống nhau như cắt.
- Chúa ơi! Fiona kêu khẽ. Thôi được rồi, đi chơi đi Danẹ Ra ngoài chơi (hai tay bà vỗ mạnh vào nhau). Cút đi!
Ralph ở lại nói chuyện rất lâu với bà Smith và những người giúp việc khác. Tất cả đều gia đi rất nhiều so với lần gặp trong chuyến thăm Drogheda cuối cùng.
Khi Ralph rời khỏi nhà bếp, Meggie vẫn chưa về và để giết thời giờ, ông đi dạo dọc theo con suối. Cảnh vật ở nghĩa trang yên tĩnh làm sao! Sáu bảng đồng nổi bật trên hầm mộ, vẫn y nguyên như thế từ khi ông ghé lại đây lần chót. Phải chuẩn bị để chính mình cũng sẽ được chôn cất tại đây, Ralph tự nhắc nhở mình để khi về đến La Mã sẽ đưa ra những dặn dò cần thiết. Không xa hầm mộ, Ralph chú yến đến hai ngôi mộ mới, một của ông già Tom, người làm vường và một là vợ của người thợ chăn nuôi làm thuê ở Drogheda từ năm 1946. ông không muốn được chôn trong hầm mộ ở Vatican giữa những nhân vật cũng như ông. Ở đây ông yên nghỉ giữa những con người đã sống thật sự.
Vừa quay nhìn lại, ông gặp cặp mắt màu xanh lục của tượng thánh bằng cẩm thạch, ông đưa tay lên chào và qua đám cỏ cao, ông hướng mắt đến tòa nhà lớn. Meggie, nàng đang đi lại. Thon thả, tóc vàng óng ả, quần cỡi ngựa bó sát và cũng chiếc áo sơ mi trắng giống hệt Ralph. Trên đầu là chiến nón rộng vành kiểu đàn ông hất ra phía sau gáy, giày ống màu nâu.
Nàng đến gần, bước qua hàng rào sơn trắng đến bên Ralph khiến ông chỉ còn thấy đôi mắt nàng, đôi mắt màu nâu ngập tràn ánh sáng. Vẻ đẹp Meggie không hề giảm chút nào vẫn hoàn toàn có quyền uy đối với trái tim ông. Hai cánh tay Meggie ôm lấy cổ Ralph, đột nhiên Ralph lại cảm thấy số mệnh của mình nằm trong vòng tay ấy. Hình như chưa bao giờ ông rời xa Meggie; đôi môi ấy đặt dưới đôi môi ông, thật sống động không phải là một giấc mợ ông khao khát quá lâu rồi, quá lâu rồi. Một loại thánh lễ khác, giản dị như đất, không dính dáng gì đến trời.
- Meggie, Meggie, ông thìthầm, mặt ông vùi trong mái tóc màu hung của Meggie, chiếc nón rơi xuống đất tự bao giờ. Ralph càng siết nàng vào lòng.
- Những chuyện như thế này cũng chẳng sao, phải không Ralph? Không có gì thay đổi, nàng nói, mắt nhắm.
- Không, không có gì thay đổi, Ralph quả quyết.
- Chúng ta đang ở Drogheda, Ralph, em đã báo trước với anh. Ở Drogheda anh thuộc về em chứ không phải thuộc về Chúa.
- Anh biết. Anh chấp nhận và anh đã đến (ông kéo nàng xuống thảm cỏ). Tại sao thế, Meggiẻ
- Tại sao là sao?
- Tại sao em lại trở lại với Lukẻ Tại sao em sinh cho Luke đứa con trai? Ralph hỏi trong thứ cảm giác bị cơn ghen hành hạ
Xuyên qua những cửa sổ màu nâu tâm hồn sáng rực Meggie rọi thẳng vào Ralph, che giấu những ý nghĩ thật của nàng.
- Hắn bắt buộc em, nàng nói dịu dàng. Chỉ một lần thôi. Nhưng nhờ thế mà em có Danẹ Do đó em không ăn năn về chuyện ấy. Dane đã bù đắp trọn vẹn tất cả những gì em đã phải chịu đựng với hắn.
- Xin lỗi em, anh không có quyền đặt với em câu hỏi đó. Lúc đầu, chính anh đã xê đẩy em vào tay Luke, phải không?
- Vâng, đúng thế.
- Thằng bé tuyệt đẹp. Nó có giống Luke không?
Meggie cười trong bụng, túm lấy một chùm cỏ, và nhét nó vào ngực của Ralph qua chỗ hở chiếc áo sơ mị
- Không giống lắm. Không đứa con nào của em thật giống Luke hoặc em.
- Anh thương hai đứa vì chúng nó là con em.
- Anh bao giờ cũng đầy tình cảm. Tuổi tác không ảnh hưởng đến anh, Ralph ạ. Em tin chắc điều đó và hy vọng sẽ được thấy anh trẻ mãi. Em biết anh đã ba mươi năm nay rồi, vậy mà cứ tưởng như mới ba ngày vậy.
- Ba mươi năm? Nhiều đến thế sao?
- Anh thương em, em đấn bốn mươi mốt tuổi rồi? Cũng khá lớn phải không? Trong nhà bảo em ra đây để tìm anh. Bà S Mith đã chuẩn bị ấm trà thật tuyệt để đãi anh, sau đó khi trời mát hơn, chúng ta sẽ ăn giăm-bông rô ti với thật nhiều tép mở.
Bob, Jack, Hughie, Jims và Patsy tham dự buổi tối như mọi thứ bảy. Sáng hôm nay, đáng lý cha Watty làm lễ nhưng Bob điện thoại bao cho ông ấy biết là cả nhà đi vắng. Nói dối để bảo vệ sự bí mật của Hồng Y ở đây.
Sau khi hai đứa nhỏ đi ngủ, Ralph nhìn lần lượt những người chủ nhà: các anh em trai dòng họ Cleary, Meggie và Fionạ
- Bà Fiona, mời bà tạm rời bàn làm việc trong chốc lát, Ralph nói. Tôi có chuyện muốn nói với... tất cả.
Fiona đi đứng vẫn vững vàng, người không mập. Bà im lặng ngồi vào một trong những chiếc ghế bành màu kem đặt trước mặt Hồng Ỵ Meggie ngồi bên trái bà, còn mấy đứa con trai ngồi trên những băng đá cẩm thạch gần đó.
- Về chuyện của Frank, Hồng Y mở đầu.
Tên Frank với những âm vang xa xôi làm nặng lòng tất cả những người có mặt.
- ông muốn nói gì về Frank? Bà Fiona bình tĩnh hỏi.
Meggie đặt chiếc áo len xuống, nhìn mẹ và Ralph:
- ông hãy nói đi, nàng lên tiếng thúc giục vì không đủ sức chịu đựng thêm một phút giây nào chờđợi nữa.
- Frank đã thi hành xong án tù ba mươi năm. Gia đình chắc đã biết điều này khá đầy đủ qua những người thường liên lạc với tôi. Tôi có dặn họ đừng nói bất cứ gì có thể gây đau xót cho gia đình bởi cũng chẳng có lợi gì trong khi chúng ta không giúp gì được cho anh tạ Nếu trong những năm đầu ở tù anh không có những hành vi hung bạo và bất thường để phải mang tiếng xấu thì Frank đã ra tù sớm hơn. Ngay trong thời gian chiến tranh đã có nhiều tù nhân được thả để tình nguyện vào quân đội, riêng đơn xin của Frank đã bị bác.
Fiona ngước nhìn lên lạnh lùng:
- Tính tình của nó vẫn thế, bà nói không để lộ một nét xúc động.
Hồng Y nhìn thấy mấy đưa con trong gia đình Cleary:
- Hãy chuẩn bị đi đón Frank về Drogheda trong không khí đầm ấm của gia đình.
- Đây là quê hương của Frank. Anh về đây là về nhà của gia đình. Bob trả lời.
Mọi người đều tán đồng. Riêng Fiona dường như vẫn ngập chìm trong những suy nghĩ miên man.
- Frank không còn như xưa, Hồng Y chậm rãi nói tiếp.
Trước khi về đây, tôi có đến phòng giam ở Goulburn báo tin cho Frank biết và tôi đã phải nói thật với anh là mọi người ở Drogheda đều biết tất cả những gì đã xảy ra cho anh. Frank không hề nổi nóng, điều đó đủ hiểu anh ta đã thay đổi như thế nào. Anh chỉ nói... rất mang ơn. Và nôn nóng được gặp lại gia đình. Được gặp lại tất cả và đặc biệt là Fionạ
- Khi nào Frank được thả Bob tằng hắng rồi hỏi.
- Khoảng một hay hai tuần nữa Frank sẽ về bằng chuyến tàu đêm. Tôi muốn Frank đi máy bay nhưng anh ấy lại thích về bằng tàu hỏa.
- Patsy và con sẽ đón anh ấy ở nhà ga, Jims mau mắn đề nghi (Rồi mặt anh lại sa sầm xuống). Nhưng hai đứa tụi này không hề biết mặt Frank.
- Không ai cả, Fiona cắt ngang. Mẹ sẽ đích thân đón Frank và chỉ một mình mẹ thôi. Sức khỏe của mẹ không đến nỗi tệ đâu. Mẹ có thể lái xe tới Gilly kia mà.
- Mẹ nói đúng, Meggie nói dứt khoát trước khi các anh trai phản đối. Chúng mình nên để mẹ ra nhà ga một mình bởi chính mẹ là người đầu tiên Frank muốn gặp mặt. Năm anh em trai đưng lên một lượt.
- Đã đến lúc bọn này phải đi ngủ, miệng ngáp dài Bob nhìn Hồng Y cười rụt rè. Chúng ta sẽ sống lại cảm giác của những ngày xưa vào lúc sáng mai khi Đức cha làm lễ.
Meggie xếp chiếc áo len lại, quấn vào hai que đan, rồi đứng lên.
- Tôi cũng vậy. Xin chúc Ralph ngủ ngon.
- Chúc Meggie ngủ ngon. Chúc bà Fiona ngủ ngon - Ralph tránh không theo chân Meggie lên lầu. Trước khi ngủ, tôi đi dạo một vòng.
Khi Ralph lên lầu, của phòng ngủ của Meggie mở rộng, để lọt ra ngoài một vệt sáng. Ralph bước vào, đóng cửa lại rồi vặn khóa một vòng.
Meggie mặc áo ngủ mỏng, ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ. Quay đầu lại, nàng thấy Ralph bước tới và ngồi xuống bên mép giường. Chậm rãi nàng đứng lên và đến với Ralph.
- Anh lại đây, để em cởi đôi giày ống cho anh. Chính vì vậy mà em không thích mang giày ống cao. Em không thể cởi giày ra nếu khôngdùng tấm cởi mà những thứ đó làm giày mau hự
- Có phải em cố tình chọn màu áo này?
- Hồng trỏ Nàng mỉm cười hỏi. Đó là màu mà em thích nhất, nói không chỏi lại màu tóc của em.
Khi nàng quay lưng lại cởi chiếc giày ống, chân của Ralph đặt lên mông nàng.
- Tại sao em biết chắc rằng anh sẽ đến phòng này để tìm em, Meggiẻ
- Em đã nói với anh rồi. Ở Drogheha, anh thuộc em. Nếu anh không đến, em sẽ lại tìm lại phòng anh.
Nàng cởi chiếc áo sơ mi của Ralph ra và chỉ khoảnh khắc sau, bàn tay rạo rực của nàng đã đặt lên chiếc lưng trần của ông. Tiếp đó nàng đi thẳng lại tắt đèn, trong khi Ralph đặt quần áo của mình lên lưng ghế. ông nghe nàng đi lại trong bóng tối cởi bỏ chiếc áo ngủ.
Ngày mai, tôi sẽ làm lễ. Nhưng đó là sáng mai, lúc đó ma lực đã dịu xuống từ lâu. Còn bây giờ là ban đêm và Meggiẹ Tôi muốn được nàng. Nàng cũng là một thánh lễ.
Luđie và Mueller đến Drogheda ăn lễ Noel như mọi năm. Dưới mái nhà lớn nơi trú ẩn của những tâm hồn thanh thản, mọi người chuẩn bị tiếp đón những ngày lễ Giáng Sinh tuyệt diệu. Minnie và Cat vừa làm việc vừa hát, gương mặt béo phị của bà Smith tươi rói, Meggie thì giao Dane cho Hồng Y De Bricassart mà không nói thêm lời nào, còn Fiona vui hẳn lên, bớt dính cứng với chiếc bàn làm việc. Phía đàn ông khi có dịp là trở về nhà mỗi chiều vì rằng sau buổi cơm tối rất muộn, phòng khách luôn rộn rã tiếng nói cười. Ngày thứ tư Ralph ở lại Drogheda, thời tiết rất nóng bức, Hồng Y cùng với Dane phi ngựa đi tìm một đàn cừu bị lạc, bỏ lại Justine hờn dỗi đứng một mình dưới gốc cây hồ tiêu; còn Meggie thì nằm lăn một cách lười biếng giữa những chiếc gối trên ghế dài bằng mây đặt ngoài hiên. Nàng cảm thấy thư thả, mãn nguyện và rất hạnh phúc. Một người phụ nữ có thể không cần chuyện đó trong nhiều năm nhưng thật là hạnh phúc làm sao được sung sướng với anh ấy, người đàn ông duy nhất của nàng. Khi ở bên cạnh Ralph, Meggie trải lòng đón lấy cuộc sống, ngoại trừ phần dành riêng cho Danẹ Và khi nàng bên cạnh Dane, con người của nàng giang tay ra trước cuộc sống cũng còn lại một phần khác dành cho Ralph. Chỉ khi nào cả hai Ralph và Dane cùng một lúc trong cái thế giới riêng của mình như hiện giờ, thì Meggie mới cảm thấy trọn vẹn hạnh phúc.
Thế nhưng lảng vảng đâu đó, có một bóng đen làm mờ hạnh phúc của nàng. Ralph không hề biết. Nàng tự hỏi có nên giữ mãi bí mật ấy? Nếu Ralph không có khả năng tự mình khám phá thì tại sao Meggie lại tiết lộ làm gì? Ralph đã làm gì xứng đáng để nàng nói về sự thật ấy? Tại sao Ralph có thể nghĩ rằng nàng đã thuận tình quay trở lại với Lukẹ Ralph không xứng đáng để nàng tiết lộ nếu Ralph nghĩ rằng nàng có thể làm chuyện đốn mặt như thế. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy đôi mắt xanh và lạnh lùng của Fiona chăm chăm nhìn nàng. Mẹ nàng hiểu mọi việc.
Điện thoại reo. Meggie đứng lên uể oải.
- Xin được nói chuyện với bà Fiona Cleary - Một giọng đàn ông bên kia đầu dây.
Nghe Meggie gọi, Fiona hấp tấp chạy đến cầm lấy ống nghe.
- Fiona Cleary đang nghe đây.
Gương mặt của bà dần dần biến sắc, căng thẳng, đó là sắc diện của những ngày tiếp theo sau cái chết của Pađy và Stuart.
- Cảm ơn ông, bà nói trước khi đặt ống nghe xuống, người yếu đuối, rã rời.
- Chuyện gì đó, mẹ?
- Frank đã được thả. Anh con đã lên tàu đêm qua và sẽ đến vào chiều nay (bà nhìn đồng hồ). Mẹ phải đi ngay, hơn hai giờ rồi.
- Mẹ cho phép con đi theo, Meggie đề nghị lòng tràn đầy niềm vui.
- Không được Meggie ạ. Con ở nhà thu xếp tất cả và nhớ đừng dọn cơm chiều trước khi mẹ về.
- Thật tuyệt phải không mẹ, Frank về nhà kịp lễ Noel.
- Thật tuyệt - Fiona đáp lại.
Chương 36
Bây giờ không còn bao nhiêu người đi
chuyến tàu đêm từ khi có những chuyến bay nối liền Gillanbonẹ Đoàn tàu ì ạch đi
qua cả ngàn cây số lần lượt trút bỏ gần hết hành khách qua các ga tỉnh lẻ; chỉ
còn một số rất ít xuống ga Gillanbonẹ
Trên sân ga, một mình bà Fiona lặng
lẽ đứng chờ. Bà vẫn đẹp người so với tuổi tác. Nón, áo đều hợp thời trang, giày
cao gót. Cuộc đời làm vợ một người chăn nuôi đã giúp bà giữ được vóc dáng trẻ
trung.
Chính vì thế mà Frank đã nhận ra mẹ
anh nhanh hơn là bà nhận ra anh. Frank đã năm mươi hai tuổi, đứng giữa mặt trời
chiều Drogheda trông rất gầy, hốc hác, xanh xao. Đầu đã hói, quần áo không ra
hình thù gì, phủ trên một thân hình tuy nhỏ nhưng vẫn còn gợi nhớ một chút sức
lực. Hai bàn tay rắn rỏi nắm chặt chiếc mũ phớt màu nâu. Anh không còng lưng,
không bệnh hoạn nhưng đứng chôn chân ở sân ga một cách vụng về, không tin rằng
có ai đón mình và cũng không biết phải làm gì.
Rất tự chủ, Fiona nhanh chân bước
tới:
- Con mạnh khỏe, Frank? bà nói.
Frank nhìn lên, hai mắt xưa kia rực
sáng, lấp lánh giờ đây khuyết sâu trên gương mặt của một người già nuạ Đôi mắt
ấy không phải của Frank. Mệt mỏi, nhẫn nhục và vô cùng chán nản. Nhưng khi đôi
mắt ấy nhìn thấy Fiona, nó lại gây nên một ấn tượng dị thường của một người bị
lăng nhục, hoàn toàn không được che chở, sắp chết và đang kêu gào sự cứu giúp.
- ôi, Frank! Bà kêu lên và ôm chầm
lấy con trai. Mọi việc đều tốt đẹp, tiếng của bà dịu dàng như tiếng rụ Mọi việc
đều tốt, bàtiếp tục nói giọng càng dịu dàng hơn.
Lúc đầu, Frank vẫn im lặng, ngồi lún
xuống trên nệm xe. Nhưng khi chiếc Rolls tăng tốc độ và ra khỏi thành phố, anh
bắt đầu nhìn hai bên đường.
- Cũng không thay đổi bao nhiêu phải
không mẹ, anh nói thì thầm.
- Không. Ở đây thời gian trôi qua
rất chậm.
Khi xe vượt qua chiếc cổng cuối cùng
vào sân trong trước cửa tòa nhà, Frank kêu lên:
- Con không thể tưởng tượng nó đẹp
như thế.
- Đây là nhà của chúng ta, Fiona
nói. Gia đình mình đã bỏ rất nhiều công chăm sóc nó con à.
Bà lái xe vào gara, đưa con trai đi
lên hướng nhà lớn nhưng lần này chính Frank xách vali của mình.
- Con chọn một phòng trong nhà này
hay chọn một nhà khách nhỏ để ở riêng?
- Con thích căn nhà nhỏ. Cảm ơn mẹ.
Con muốn được ở riêng yên ổn một thời gian.
Khi Frank gặp lại Meggie, anh không
dễ dàng nhận ra đứa em gái nay đã trở thành một người phụ nữ già dặn. Mẹ tuy
già nhưng anh vẫn dễ nhận ra hơn. Trong khi Meggie ôm anh, Frank rụt rè quay
mặt chỗ khác, hai tay vo ve nếp áo vét nhăn nheo, rồi nhìn về phía mẹ để cầu
cứu. ánh mắt của bà Fiona như muốn nói: không có gì quan trong; thời gian trôi
qua, rồi thì tất cả sẽ trở nên bình thường.
Nhờ nhiều cố gắng của bà Fiona,
Frank thích nghi dần với cuộc sống ở Drogheda và không chú ý lắm sự đố kỵ ngấm
ngầm của mấy đứa em trai. Fiona xử sự với Frank như đứa con trai lớn vắng nhà
một thời gian ngắn, không hề làm mất danh dự gia đình và cũng không hề gây ra
sự đau khổ vô vàn cho mẹ anh. Bà kín đáo tìm cho Frank một chỗ ẩn náu mà Frank
mong muốn, tách xa những đứa em trai. Bà cũng không khuyến kích Frank phục hồi
lại một phần sức sống trước kia; hơn nữa sức sống ấy cũng không còn trong con
người của Frank hiện naỵ Fiona đã hiểu biết điều đó ngay cái phút giây con trai
bà ngước mắt lên nhìn trên sân ga Gillanbonẹ Không có chuyện đưa Frank đi laàm
ngoài các bãi chăn vì các em trai sẽ phản đối, hơn nữa Frank cũng không thích
một công việc ma xưa kia anh vẫn ghét. Dần dần các em trai của Frank quen với
sự trở về của con cừu ghẻ lở trong lòng gia đình. Không có điều gì có thể làm
thay đổi tình cảm của mẹ chúng đối với Frank, Frank ở tù, hay ở Drogheda cũng
chẳng quan hệ gì, bà vẫn luôn luôn yêu Frank thiết thạ Sự hiện diện của Frank ở
Drogheda làm cho bà hạnh phúc và đó là điều quan trọng nhất. Frank không chen
vào cuộc sống trước đây của các nhân vật khác ở Drogheda và vẫn trung thành với
con người xưa của mình.
Thế nhưng, sự có mặt của Frank ở
Drogheda không mang lại một niềm vui thật sự cho Fionạ Làm sao khác hơn bây
giờ? Khi nhìn thấy Frank mỗi ngày, lòng ba như bị khơi dậy một nỗi buồn khác
hẳn nỗi buồn mà bà đã chịu đựng trong thời gian vắng Frank. Đó là niềm đau đớn
dữ dội phải chứng kiến cuộc sống của một con người đang bị hủy diệt. Con người
đó lại là đưa con trai thương yêu nhất của bà, nó đã trải qua những nỗi đau đớn
không thể tưởng tượng.
Một hôm, bấy giờ Frank đã trở về
được khoảng sáu tháng, Meggie bước vào phòng khách và gặp mẹ đang ngồi nhìn
Frank qua một trong những cửa sổ lớn. Frank đang xén hàng rào hoa hồng dọc theo
con đường nhỏ. Đột ngột bà quay lại và có điều gì đó hiện ra trên gương mặt
lạnh lùng của bà khiến cho Meggie phải đưa hai tay ôm lấy ngực.
- ôi, mẹ! Nàng bối rối.
Fiona nhìn con gái, lắc đầu và mỉm
cười.
- Không có gì quan trọng, Meggie à.
- Phải, chỉ có con mới giúp ích điều
gì cho mẹ.
- Con có thể. Đừng thay đổi thái độ
của con. Mẹ rất mang ơn con. Con đã trở thành đồng minh của mẹ.
Chương 37
Xong rồi, Justine nói với mẹ, con đã
quyết định. Con biết sẽ theo nghề nào.
- Mẹ tưởng rằng chuyện xong lâu rồi
chứ. Con sẽ theo học nghành mỹ thuật ở trường Đại học Sydney phải không?
- Không đâu mẹ, con nói dối để mẹ
yên tâm khi con chuẩn bị kế hoạch. Bây giờ tất cả đã xong, con có thể tiết lộ
hết bí mật với mẹ.
Meggie mệt mỏi nhìn Justine, sốt
ruột và bất lực. Trước một đứa con cứng đầu, bướng bỉnh như Justine, Meggie
đành chịu thôi.
- Vậy con nói hết bí mật của con đi,
mẹ sốt ruột quá. Meggie vừa nói vừa tiếp tục chọn từng cái bánh chuẩn bị nướng.
- Con sẽ trở thành diễn viên.
- Sao?
- Diễn viên.
- Chúa ơi! (Meggie tạm ngưng công
việc của mình) Justine con nghe đây, mẹ không thích làm con kỳ đà và cũng không
có ý định làm buồn phiền con. Nhưng bộ con tưởng con có được nhan sắc để theo
nghề đó?
- Không phải như vậy đâu mẹ! Justine
tỏ vẻ hơi nản. Không phải tài tử màn ảnh đâu! mà là diễn viên! Con không chịu
làm những cái trò uống éo mông, phô bày bộ ngực hay nút lưỡi đâu. Con muốn đóng
kịch. Con có đủ tiền để theo học bất cứ ngành nào con thích chứ?
- Phải! Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y De
Bricassart.
- Vậy thì con không bàn lui nữa. Con
sẽ theo học lớp kịch của Alber Jones trên sân khấu Culloden và con viết thư cho
viện kịch nghệ Hoàng gia ở Luân Đôn để đăng ký vào danh sách chờ đợi.
- Con đã suy nghĩ kỹ chưa, Justinẻ
- Vâng, con đã suy nghĩ từ lâu.
- Mẹ vẫn không hiểu, Meggie vừa lắc
đầu vừa nói một mình. Diễn viên.
Justine nhún vai.
- Mẹ nghĩ coi, con tìm ra nơi nào
cho phép con la hét, gầm lên như trên sân khấu? Ở đây thì không thể được rồi, ở
nhà trường hay ở một nơi nào khác cũng thế! Con lại thích la hét, chỉ có thế
thôi!
- Nhưng con làm thế nào để được chấp
nhận học sân khấu Culloden?
- Con đã qua một kỳ trình diễn thử.
- Và con đã trúng tuyển?
- Đúng là mẹ tin cậy ở con gái mình.
Đúng thế, con đã trúng tuyển! Con diễn rất tốt mẹ biết không. Một ngày nào đó
con sẽ nổi tiếng.
- Con không định lấy chồng?
- Con chẳng nghĩ đến điều ấy nhưng
con không thích cuộc sống lại mất thì giờ vào việc lau mũi, rửa đít cho trẻ
con. Hoặc chìu chuộng vuốt ve một thằng đàn ông không ra gì mà cứ tưởng mình
ngon lắm. Nhất định không.
- Con nói quá đáng Justine ạ. Ma
qui? nào đã dạy con nói cái giọng đó? Con không khác ba con chút nào!
- Cứ mỗi lần con làm sai ý mẹ là mẹ
nói giống hệt ba con. Thế thì con phải đành tin lời mẹ vì rằng con chưa bao giờ
được gặp con người hào hoa phong nhã ấy.
- Khi nào con đỉ Meggie nói sang
chuyện khác. Justine cười.
- Mẹ muốn con đi sớm cho khuất mắt
mẹ phải không? Con thông cảm mẹ và không giận mẹ chút nào. Mẹ biết không, con
không kìm chế được mình trêu chọc người khác, nhất là với mẹ. Mẹ nghĩ sao nếu
con xin mẹ đưa con ra sân bay ngày mai?
- Mẹ đề nghị ngày mốt. Ngày mai, mẹ
đưa con ra ngân hàng. Con cần biết con có bao nhiêu tiền. Và, này Justine...
Justine đang phụ mẹ làm bánh. Giọng
nói đột ngột thay đổi của Meggie khiến cho Justine ngừng tay lại ngước mắt lên
nhìn mẹ.
- Mẹ nói đi...
- Nếu một mai con gặp những chuyện
buồn phiền, con hãy quay trở về nhà, đừng do dự con nhé. Ở Drogheda luôn có chỗ
dành cho con; mẹ muốn con nhớ điều đó. Dù sau này con có làm chuyện gì tồi tệ
mấy đi nữa thì điều đó cũng không cản ngăn con trở về đây.
Ánh mắt Justine dịu xuống.
- Cảm ơn mẹ.
Chương 38
... Trở lên Sydney, Justine lo chăm
sóc ngay sắc đẹp của mình, trước hết tìm cách phá những vết tàn nhang trên mặt,
tiếp đó đi mướn một căn hộ riêng gồm hai phòng ở phố Neutral Bay trong chung cư
Bothwell Gardens giá năm bảng mười xu mỗi tuần. Chung cư Bothwell Gardens gầm
năm căn tất cả. Anh chàng thanh niên người Anh Peter Wilkins ở sát vách tìm mọi
cách chinh phục Justine nhưng không thành công. Một hôm anh ta mời Justine sang
phòng anh uống trà, lợi dụng dịp này tấn công Justinẹ Những năm lao động ở
Drogheda đã cho Justine sức mạnh phi thường, hơn nữa cô ta cũng không ngần ngại
vi phạm luật lệ của môn quyền Anh dùng những cú đấm dưới thắt lưng để tự bảo vệ
mình.
- Chúa ơi! Justine! Peter hét lên,
đau điếng đến chảy nước mắt. Giữ gìn để làm gì cái quái ấy! Trước sau rồi cũng
phải mất thôi! Thời đại nữ hoàng Victoria xưa rồi. Đâu cần gìn giữ cái tiết
trinh kín bưng như đóng hộp để làm gì!
- Tôi không có ý định đóng hộp chờ
ngày cưới, Justine vừa trả lời vừa sửa lại chiếc váy. Nhưng tôi chưa biết phải
dành cho ai vinh dự ấy. Chỉ có thế thôi.
Các bạn trai của Justine tò mò hỏi,
khi nào và với ai, Justine sẽ quyết định trở thành một người đàn bà thật sự.
Nhưng Justine vẫn không hấp tấp.
Cho đến một hôm Justine lọt vào cặp
mắt của Arthur Lestrangẹ Arthur Lestrange, một diễn viên chuyên đóng vai kép
mùi của đoàn kịch Alber Jones, hơn bốn mươi tuổi, gương mặt rất đàn ông, mái
tóc dợn sóng, luôn gặt hái sự tán thưởng của khán giả mỗi khi xuất hiện trên
sân khấu. Arthur Lestrange chú ý Justine khi Justine diễn một đoạn trong vở
Lord Jim của Conrad.
Arthur mời Justine đi uống cà phệ
Cuộc nói chuyện giữa hai người dẫn đến đề tài vống sống cần thiết đối với một
kịch sĩ. Justine tự cho mình hiểu gần hết các mặt của cuộc sống. Arthur đề cập
đến kinh nghiệm sống, Justine trả lời cho đến nay tôi chỉ cần quan sát.
- à! Nhưng nếu là chuyện tình yêu?
Arthur hỏi ngược lại, cố tình chuyển giọng nặng xuống ở chữ cuối cùng - thì làm
sao cô có thể đóng vai Julliette mà không biết tình yêu là gì?
- Anh đã thắng một điểm. Tôi hoàn
toàn đồng ý với anh.
- Cô có yêu bao giờ chưa?
- Chưa?
- Cô có biết điều gì về tình yêu
chưa?
Lần này Arthur nhấn mạnh biết điều
gì chứ không phải tình yêu.
- Chưa biết điều gì cả.
- Tôi rất muốn giúp cô biết được thế
nào là một người đàn bà - Arthur đột ngột nói.
- Tại sao không? Được rồi, anh đừng
dông dài nữa, coi chừng tôi đổi ý bây giờ.
Và chuyện biết được thế nào là một
người đàn bà đã xảy ra ngay tối hôm đó tại khách sạn Metropolẹ Giữa hai người
không có tình yêu. Với Justine chủ yếu là tò mò và để có vốn sống mà đóng vai
Juliettẹ Trong suốt quá trình tìm hiểu Justine đòi nhờ Arthur hướng dẫn từng
động tác một.
Sáng hôm sau Justine gặp Danẹ Trong
nhiều mặt, Justine gần gũi với Dane nhiều hơn là mẹ cô gần gũi với cô hay Danẹ
Mối liên hệ mật thiết giữa Justine và Dane hình thành rất sớm và ngày càng được
củng cố. Justine thường kể lể dài dòng với Dane chuyện này chuyện nọ, nên cậu
ta hiểu chị mình nhiều hơn là Justine hiểu được em mình: Trong chừng mực nào
đó, Dane cho rằng Justine hơi bấc đồng về phương diện đạo đức, mình có nhiệm vụ
cảnh giác Justine những điều mà người chị không chú ý đến. Thế là cậu ta chấp
nhận đóng vai người nghe kiên nhẫn với một thái độ dịu dàng và một tình thương
sâu kín dành cho Justinẹ Nếu Justine khám phá được những suy nghĩ thầm kín của
Dane, cô ta có thể nổi khùng lên.
- Em nói xem tối hôm qua chị làm gì?
- Biểu diễn trong một vai chính?
Dane đoán mò.
- Đần! Em tưởng chị cần nói chuyện
đó để kéo em tơi nhà vỗ tay khen chị à? Ráng động não đi.
- Chị nhận lãnh một cú đấm của
Bobbie định tặng cho Billiẻ
- Em thật ngớ ngẩn!
Hai chị em đang ngồi trên thảm cỏ
dước bóng mát của nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh. Dane đã gọi điện thoại yêu cầu gặp
Justine để báo cho biết mình sắp dự một lễ đặc biệt trong thánh đường.
Dane vừa kết thúc năm học cuối cùng
ở Riverview tốt nghiệp thủ khoa toàn trường, là thủ quân của các đội quần vợt,
bóng ném, bóng bầu dục và cricket. Mười bảy tuổi và cao một mét tám mươi lăm.
Hôm nay là một ngày đẹp trời, nắng
ấm.
- Thế thì chị đã làm gì đêm qua,
Justinẻ
- Chị đã không còn trinh tiết...,
hình như thế.
Dane mở to hai mắt.
- Chị điên rồi!
- Hùm! Chị nghĩ cũng đã đến lúc rồi.
Làm sao chị có thể trở thành một diễn viên giỏi nếu chị vẫn mù tịt về những
chuyện xảy ra giữa người đàn ông và người đàn bà?
- Đáng lý chị nên dành cho người đàn
ông mà chị sẽ lấy làm chồng.
Justine nhìn Dane nhăn mặt tỏ vẻ bực
bội.
- Chị nói thật Dane nhé, em bảo thủ
đến mức chị phải khó chịu. Nói như em, lỡ như chị không gặp người đàn ông ấy
trước bốn mươi tuổi thì sao? Em muốn chị phải làm gì? Chị chỉ được dùng cái
mông của chị để ngồi thôi trong suốt thời gian ấy? Em muốn thế phải không? Hay
giữ cái đó cho đến ngày em lấy vợ?
- Có lẽ em sẽ không bao giờ lấy vợ.
- Vậy thì chị cũng thế. Trong trường
hợp này, tại sao lại gói cái đó cẩn thận, thắt ru-băng màu xanh và cất kỹ trong
một cái tủ sắt với những hy vọng ảo huyền? Chị chẳng muốn chết một cách ngu đần
như thế.
Nhưng rồi cái vẻ bất cần đời ấy bỗng
mất đi trên gương mặt của Justinẹ
- Nhưng bây giờ chị thấy mình xấu xạ
Nếu không hiểu rõ em, chị có thể nghĩ rằng em coi thường chị... hay ít ra cũng
coi thương động cơ thúc đẩy chị làm chuyện đó.
- Chị rất hiểu em mà. Không khi nào
em coi thường chị. Dù cho lý do chị nêu lên quả thật là kỳ cục và ngu ngốc. Em
là tiếng nói của lương tâm chị, Justine Ó Neill.
- Nhưng em cũng là một thằng ngốc!
- Ồ, Justinẹ..! Dane nói giọng buồn
bã.
Nhưng Dane chưa kịp kết thúc câu nói
thì Justine lại nói tiếp thật nhanh:
- Mãi mãi, mãi mãi, chị sẽ không yêu
bất kỳ ai! Nếu mình yêu người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Nếu mình cần
người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Đúng thế, chị đoan chắc với em như
thế.
- Sao mẹ im lặng thế? Dane hỏi. Mẹ
đang nghĩ gì? Nghĩ về Drogheda phải không?
- Không, Meggie trả lời lạc giọng.
Mẹ nghĩ là mẹ đã già rồi. Sáng nay khi chải đầu mẹ vừa phát hiện nhiều sợi tóc
bạc. Các khớp xương của mẹ bắt đầu cứng lại.
- Mẹ sẽ không bao giờ già, Dane
khẳng định một cách tự nhiên.
- Mẹ mong con nói đúng, con yêu quí
của mẹ. Nhưng tiếc thay sự thật lại không như thế. Mẹ bắt đầu thấy cần nước
nóng ở suối Borehead, đó là một dấu hiệu của tuổi già.
Hai mẹ con đang phơi nắng trên cỏ
gần suối nướng nóng Borehead.
- Con có nghĩ đến chút nào về phụ nữ
không Danẻ Meggie hỏi giọng băn khoăn.
Dane mỉm cười.
- Chim và bướm, có phải mẹ muốn nói
thế?
- Vềchuyện này, con không dốt đâu,
nhất là khi có một người chị như Justine! Mỗi khi cô ta khám phá điều gì đó
trong quyển sinh lý học thì cô ta la ầm lên. Không phải chuyện đó. Mẹ muốn hỏi
con đơn giản thôi, con có từng áp dụng trong thực tế những bài học của Justinẹ
Dane lắc đầu và trườn lên bãi cỏ đến
sát bên mẹ. Cậu ta nhìn thẳng vào mắt:
- Thật cũng lạ khi mẹ hỏi con chuyện
này. Lâu rồi con muốn đề cập vấn đề này với mẹ nhưng con không biết phải nói
thế nào.
- Con chỉ mới mười tám tuổi. Cũng
còn hơi sớm để vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tế.
- Đó chính là điều con muốn nói với
mẹ. Dứt khoát sẽ không bao giờ con làm như thế!
Gió lạnh như thổi lại từ giữa hai
làn nước! Lạ thật, thế mà trưóc đây không bao giờ Meggie để ý hiện tượng đó.
Chiếc áo choàng đâu rồi?
- Không áp dụng lý thuyết vào thực
tế. Dứt khoát không áp dụng, Meggie lặp lại bằng một giọng đều đều mà không đặt
câu hỏi về ý nghĩa của những lời lẽ ấy.
- Thưa mẹ, đúng như thế. Con không
muốn. Không phải vì con không nghĩ tới, hay vì không muốn có vợ. Cũng có lúc
con có nghĩ tới đó chứ, nhưng con không thể thực hiện được, vì rằng con không
còn chỗ để yêu thương vợ và con cùng một lúc với Chúa. Con nhận ra điều này từ
lâu. Con nghĩ rằng con vẫn thấy rõ điều đó và càng đi tới, tình yêu dành cho
Chúa càng lớn hơn. Yêu Chúa, đó là một bí ẩn vĩ đại.
Meggie vẫn nằm dài, nhìn chăm chăm
vào đôi mắt xanh ấy, đôi mắt bình thản và xa vắng. Đúng là đôi mắt của Ralph
không khác một chút nào. Nhưng nó lại ánh lên một thứ lửa hoàn toàn không có ở
Ralph. Phải chăng năm mười tám tuổi, đôi mắt của Ralph cũng đã từng ánh lên một
thứ lửa ấy. Có hải đây là sự hưng phấn chỉ xuất hiện ở tuổi mười tám? Ngày
Meggie bước vào cuộc đời của Ralph thì tuổi mười tám của Ralph đã trôi qua đến
mười năm rồi. Nhưng con trai của Meggie là một người sùng tín, Meggie biết rõ
điều đó từ lâu.
... Meggie thấy nghẹn ở cổ. Nàng kéo
chiếc áo choàng sát vào người.
- Thế là, con đã tự hỏi con có thể
làm gì để chứng minh với Chúa rằng con yêu thương Người đến mức nào, Dane nói
tiếp. Trước đây con muốn có một cuộc sống của một người đàn ông bình thường.
Con rất muốn giữ cuộc sống đó. Nhưng con lại hiểu Chúa chờ đợi gì ở con. Con đã
biết... Chỉ có một điều duy nhất mà con có thể hiến dâng cho Người để chứng
minh với Người rằng trong trái tim con chỉ có Người mà thôi, ngoài ra không thể
có ai khác. Con phải hiến dâng cho Người sự hy sinh mà Người đòi hỏi ở con. Con
phải chọn lựa. Người vẫn để cho con hưởng mọi lạc thú, ngoại trừ chuyện ấy. Con
cần chứng tỏ với Người rằng con hiểu tại sao Người ưu đãi sự ra đời của con.
Con cần chứng tỏ với Người rằng con ý thức về sự vô nghĩa của cuộc sống đàn ông
nơi con.
- Không! Con không thể làm thế! Mẹ
không bao giờ để cho con làm điều như thế! Meggie kêu lên, bàn tay bấu vào cánh
tay con trai.
Làn da của Dane mịn làm sao! Dấu
hiệu của một sức lực căng tràn giống như Ralph, hoàn toàn như Ralph! Thế mà từ
nay sẽ không có một thiếu nữ nào có thể đặt bàn tay lên làn da ấy.
- Con muốn trở thành linh mục, Dane
lại nói tiếp. Con biết không dễ dàng nhưng con đã nhất quyết như vậy.
Đôi mắt Meggie biến sắc! Nàng có cảm
giác như Dane đã giết chết mình, đã nghiến nát mình dưới gót giày. Dane không
ngờ rằng cậu ta phải hy sinh cả mẹ. Trước đó cậu ta tưởng rằng mẹ mình sẽ vô
cùng hãnh diện về con trai, về hạnh phúc được hiến dâng đứa con trai cho Chúa.
Thực tế trái lại, Meggie coi cái viễn ảnh Dane trở thành linh mục như một bản
án tử hình đối với mình.
- Con không ước muốn điều gì khác mẹ
ạ. Dane nói trong thất vọng khi nhìn thấy ánh mắt tắt lịm của mẹ. Mẹ ơi, chẳng
lẽ mẹ không hiểu? Con đã không muốn gì và chẳng muốn gì hơn là trở thành linh
mục! Con không thể khác hơn là linh mục!
Meggie để bàn tay mình buông thả,
không đủ sức nắm cánh tay của con nữa; Dane nhìn xuống và thấy những vết tái
hình cung nhỏ do móng tay để lại sâu trên dạ
Meggie ngước đầu lên và cười điên
dại, những tràng cười cuồng loạn, chua chát, mỉa mai.
- Trời ơi, Có lẽ nào đó là sự thật!
Một lúc khá lâu Meggie mới nói được trong hơi thở dồn dập, một tay run rẩy lau
những giọt nước mắt đọng lại trên má. Thật là trơ trẽn không thể tưởng tượng
được! Hồng tro! Anh ấy đã gọi như thế chiều tối hôm phi ngựa đến vũng Borehead.
Quả thật lúc đó mình không hiểu anh ấy muốn nói gì khi đề cặp hai tiếng ấy. Con
chỉ là tro bụi và con hãy trở về tro bụi. Con thuộc vê Giáo hội, phải trả con
về với Giáo hội. ôi! Chúa đáng nguyền rủa! Chúa xấu xa! Kẻ thù tệ hại nhất của
những người phụ nữ. Chúa là thế đó! Tất cả những gì mình nỗ lực xây dựng, Người
làm mọi cách để phá đổ!
- ôi, không phải thế đâu, không phải
thế đâu mẹ ạ. Con van lạy mẹ!
Dane ôm mẹ khóc. Trong sự đau khổ
của Meggie cậu ta không hiểu được lý do, cũng như không hiểu được ý nghĩa những
gì mà Meggie đã nói. Nước mắt chảy dài xuống, trái tim thắt lại; thế là sự hy
sinh đã xảy ra rồi mà cậu ta không hề nghĩ đến. Nhưng, dù khó vì nỗi đau mẹ,
cậu ta vẫn không từ bỏ ý nghĩ hiến mình cho Chúa, không thể vì mẹ mà từ bỏ sự
chọn lựa của mình. Sự hiến dâng cho Chúa phải được thực hiện, thực hiện càng
khó khăn thì nó càng có giá trị trước Người.
Meggie đã làm cho con trai khóc; cho
tới nay Dane chưa từng khóc do lỗi lầm của chính cậu ta gây ra. Thật là bất
công nếu đổ trút lên con hình phạt mà mình phải gánh chịu. Dane không thể nào
khác hơn con người mà những gien của nó đã hình thành hoặc Chúa đã hình thành.
Chúa của Ralph. Đứa con trai yêu dấu ấy là ánh sáng của đời nàng. Không thể để
nó đau khổ vì nàng, không thể được.
- Dane, con đừng khóc, Meggie thì
thầm vừa vuốt ve những vết bầm hằn sâu trên cánh tay đầy lông tơ của Dane, hậu
quả của một lúc giận dữ. Mẹ rất ân hận. Mẹ ăn nói lung tung. Mẹ bị bất ngờ quá
có thế thôi. Tất nhiên là mẹ vui sướng vì con, vui sướng thật sự. Tại sao mẹ
lại không vui nhỉ? Con dội cho mẹ cái tin ấy mà không chuẩn bị trước gì cả, con
biết không?
ánh mắt của Dane sáng lên, nhìn mẹ
không chút nghi ngờ. Tại sao Dane lại tưởng tượng một cách vô lý rằng mình đã
giết chết mẹ? Bây giờ thì đúng là đôi mắt của mẹ, đôi mắt Dane quen thuộc và
tràn đầy yêu thương, đôi mắt thật sinh động. Dane ôm mẹ trong vòng tay khỏe
mạnh của cậu, siết mạnh mẹ vào lòng ngực.
- Mẹ nói thật là việc này không làm
mẹ ưu phiền chứ?
- Sao lại ưu phiền? Một người mẹ
công giáo tốt lại ưu phiền khi hay con mình muốn trở thành linh mục sao? Hoàn
toàn không thể có chuyện đó (Meggie đứng phắt lên). Trời lạnh rồi đó! Mẹ con
mình về đi.
Hai mẹ con đã đến đây trên chiếc
Land Rover; Dane ngồi vào tay lái, Meggie kế bên.
- Con tính sẽ đi học ở đâu? Nuốt
nước mắt, Meggie hỏi.
- Có thể ở tu viện Thánh Patrick. Dù
sao cũng còn phải chờ lúc con có quyết định dứt khoát. Con cũng thích trở thành
tu sĩ dòng Tên, nhưng bây giờ con vẫn chưa thấy thật chắc chắn.
Meggie nhìn đăm đăm những lớp cỏ ngà
màu nâu lần lượt rạp xuống trước đầu xe, kính chắn gió trước mặt lấm tấm đầy
xác côn trùng.
- Mẹ có một ý kiến rất hay, Dane ạ.
- ý kiến gìthưa mẹ?
- Mẹ sẽ gởi con đến La Mã, đến Hồng
Y De Bricassart. Con nhớ Ngài chứ?
- Con nhớ Ngài không ạ - Sao mẹ lại
hỏi lạ lùng vậy? Không thể nào con quên được Ngài. Với con, Ngài là hiện thân
của một con người hoàn thiện Nếu con phấn đâu được theo gương của Ngài thì con
mãn nguyện vô cùng.
- Sự hoàn thiện cũng chỉ là tương
đối con ạ, Meggie nhận xét không giấu được chút cay đắng. Nhưng mẹ giao con cho
Ngài vì mẹ biết rằng Ngài sẽ chăm sóc con chu đáo, như thế đủ cho mẹ vui lòng.
Con có thể vào một tu viện ở La Mã.
- Có thật không mẹ? Thật chứ? ánh
mắt Dane rực sáng niềm vui mờ nhạt tất cả nỗi âu lọ Nhưng mà nhà mình có đủ
tiền cho con vào tu viện ở La Mã không? Sẽ tốn kém hơn nhiều so với việc hoc.
tại úc.
- Tiền bạc cũng lại nhờ vào chính
Đức Hồng Y De Bricassart. Con yêu thương của mẹ, con không bao giờ thiếu tiền
đâu.
Về đến nhà, người đầu tiên Meggie
gặp là bà Annẹ
Từ mười tám năm nay, vợ chồng Luđie
hàng năm đều đến nghỉ hè ở Drogheda và họ nghĩ rằng sẽ còn rất lâu như thế.
Nhưng vào mùa thu năm trước Luđie Mueller đột ngột qua đời. Meggie đã viết thư
đề nghị. Anne đến sống hẳn ở Drogheda; ở đây thật sự có thể đùm bọc cùng một
lúc cả ngàn người khách. Nhưng để tránh cho Anne tự ái, Meggie gợi ý nếu bà
muốn có thể góp một số tiền nào đó. Thật tâm, Meggie muốn trả ơn gia đình
Mueller về những năm nàng sống cô độc ở miền Bắc Queensland.
- Có chuyện gì đó Meggie, Anne hỏi.
Meggie ngồi phịch xuống ghế.
- Em có cảm tưởng như vừa bị quật
ngã bởi một tia chớp xử tội em.
- Sao?
- Chị và mẹ em, hai người đều có lý.
Hai người đã tiên toán rằng mình sẽ mất nó. Em đã không tin. Em thật sự tưởng
rằng em mạnh hơn Chúa, nhưng không bao giờ một người phụ nữ lại có thể đối đầu
với Chúa được. Chúa là một người đàn ông.
Fiona rót một tách trà cho con gái.
- Con uống đi, bà nói như ra lệnh.
Con đã mất nó như thế nào?
- Dane muốn trở thành linh mục.
Một tiếng cười gằn chen lẫn trong
những tiếng khóc. Anne với lấy hai cây gậy, đi khập khiễng đến chiếc ghế bành
của Meggie, vụng về ngồi lên trên tay ghế và vuốt mái tóc vàng hung óng ả của
nàng.
- Ồ, Em của chị! Như thế có gì là
ghê gớm đâu!
- Cô có biết chuyện của Dane không?
Fiona quay qua Anne hỏi.
- Cháu biết từ lâu, Anne đáp.
Meggie dịu xuống:
- Không có gìghê gớm lắm phải không
mẹ? Đây là điểm khởi đầu của một sự kết thúc. Con đã cướp Ralph của Chúa và bây
giờ con phải trả lại cho Chúa chính đứa con trai của con. Mẹ đã nói với con
rằng đó là sự cướp đoạt, mẹ có nhớ không? Lúc đó con không chịu tin mẹ nhưng
bây giờ mẹ có lý nhữ đã từng có lý trước bao nhiêu điều khác.
- Nó sẽ vào tu viện Thánh Patrick?
Fiona hỏi, bà luôn luôn thực tế.
Meggie cười vang, mẹ ạ. Không, con
sẽ gởi Dane cho Ralph. Phân nửa con người Dane là của Ralph. Nó có thể dựa vào
Ralph. Đối với con, Dane quan trọng hơn Ralph. Con biết Dane muốn đến La Mã.
- Em có thú nhận cho Ralph biết ông
ấy là cha của Dane không? Lần đầu Anne đề cập đến vấn đề này.
- Không, không bao giờ em nói cho
Ralph biết điều đó. Không bao giờ chị ạ.
- Hai người rất giống nhau đến mức
không thể không nhận ra.
- Ai? Ralph à? ông ấy chẳng hề hay
biết gì cả! Em sẽ giữ bí mật của em. Em gởi đến cho ông ấy đứa con của em. Chứ
không phải đứa con của ông ấy.
- Coi chừng, đó lại là sự ghen tương
với thánh thần, Meggie - Anne nói thật nhỏ. Thánh thần chưa để em yên đâu.
- Em còn phải chịu hành phạt nào
khác nữa? Meggie hỏi lại trong tiếng thở dài.
Chiếc xe hơi của Vatican đến rước
Dane tại sân bay và đưa Dane đi qua các con đường ngập nắng đông đúc những
người đi dạo.
Vừa ăn kem Dane vừa thích thú tò mò
khám phá những bức tượng mà trước đây cậu ta chỉ nhìn thấy trong ảnh, những cột
thời La Mã, những lâu đài xưa, Thánh đường Saint Peter niệm tự hào của phục
hưng.
Và tại đây, Ralph đón Dane, lần này
từ đầu đến chân ông mặc toàn màu đỏ thắm. Ralph chìa bàn tay ra, chiếc nhẫn lấp
lánh. Dane sụp quỳ xuống, hôn viên hồng ngọc.
- Con hãy đứng lên, để cha ngắm nhìn
con một chút nào?
Dane đứng dậy, nụ cười trên môi,
nhìn con người to lớn, có chiều cao như mình. Cả hai có thể nhìn nhau trong
mắt. Với Dane, ở Hồng Y De Bricassart tỏa ra vầng hào quang chứa đựng một quyền
lực tinh thần đặt ông vào tư thế một giáo chủ hơn là một vị thánh. Thế nhưng,
đôi mắt ấy lại ngập tràn một nỗi buồn u uẩn, lại càng không phải là đôi mắt của
một người giáo chủ. ôi, ông đã trải qua biết bao đau khổ khiên cho đôi mắt còn
đọng lại nỗi buồn ấy, nhưng ông đã vượt lên sự đau khổ một cách cao thượng để
trở thành vị linh mục hoàn toàn giữa chúng tạ
Trong khi đó Hồng Y De Bricassart
nhìn đứa con trai mà ông không biết đó là con mình. ông yêu thương Dane vì ông
nghĩ rằng đó là con của Meggie yêu dấu. Nếu ông có một đứa con trai, ông rất
muốn nó giống như chàng trai đứng trước mặt ông, cũng cao lớn, có một nét đẹp
thu hút và có duyên.
Nhưng ông bằng lòng hơn tất cả là
những nét hấp dẫn về thể hình, ở Dane hiện rõ cái đẹp vự sự giản dị của tâm
hồn. Dane có sức mạnh của những thiên thần và phần nào đó là sự cao cả của họ.
Bản thân ông có được như thế ở tuổi mười tám không? Ralph cố nhớ lại và khơi
dậy trong trí nhớ biết bao sự kiện của mọt cuộc đời đã về chiều... Không. ông
không hề có những gì như Dane hôm naỵ Phải chăng vì con người này đã thật sự
đến với Chúa do sự chọn lựa của chính mình. Còn với ông, thì không phải như
thế, dù cho ôngcó thiên hướng. Về điều này ông nhớ rất kỹ.
- Con hãy ngồi xuống, Danẹ Con có
làm theo lời cha căn dặn, đã bắt đầu học tiếng ý chưa?
- Con đã đạt trình độ có thể nói
trôi chảy nhưng chưa sử dụng thành thạo các thành ngữ. Con đọc rất dễ dàng, vì
đây là sinh ngữ thứ tư của con nên việc học cũng thuận lợi Vài tuần lễ ở ý sẽ
giúp con làm quen với ngôn ngữ bình dân.
Em giao cho anh trách nhiệm chăm sóc
Dane - thư của Meggie viết. - Cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nó tùy thuộc
vào anh. Em đã lấy cắp cái gì, em xin trả lại cái đó. Người ta buộc em như thế.
Chỉ xin anh hứa với em hai điều để em yên tâm là anh hết lòng lo cho Danẹ Thứ
nhất, anh hứa với em trước khi Dane có một sự chọn lựa dứt khoát chính anh phải
hiểu rõ một cách chắn chắn thiên hướng thật sự của Danẹ Thứ hai, nếu thiên
hướng của Dane là đúng như vậy, anh hãy trông nom làm sao cho sự lựa chọn ấy
không bị chao đảo. Còn ngược lại, em muốn Dane trở về với em. Vìtrước hết, nó
thuộc về em. Chính em đã trao nó vào tay anh.
- Dane, con có tin chắc vào thiên
hướng của con?
- Chắc chắn thưa Đức chạ
- Tại sao?
- Vì tình yêu mà con dành cho Chúa;
con muốn được phục vụ Chúa, suốt đời là người chăn dắt con chiên cho Chúa.
- Con có hiểu điều gì đòi hỏi ở
người làm tôi tớ của Chúa?
- Con hiểu.
- Rằng không có một tình yêu nào
khác được chen vào giữa Chúa và con? Con hoàn toàn thuộc về Chúa và từ bỏ tất
cả
- Thưa vâng.
- Rằng mọi việc đều hành xử theo ý
muốn của Người; khi trở thành tôi tớ của Người, con phải từ bỏ nhân cách, cái
nhân của con, từ bỏ ý nghĩ cho rằng bản thân con là quan trọng?
- Thưa vâng.
- Rằng con sẵn sàng đối đầu với cái
chết, tù tội, cái đói nhân danh Người? Rằng con sẽ không sở hữu bất cứ cái gì,
không để cho bất cứ cái gì ảnh hưởng xấu đến tình yêu của con hiến dâng cho
Người?
- Thưa vâng.
- Con có nghị lực không Danẻ
- Con là một người đàn ông. Con biết
rằng sẽ rất khó khăn nhưng con cầu nguyện Người giúp con.
- Con có thật sự tin ở con không
Danẻ Không có điều gì khác có thể làm con sa ngã?
- Thưa vâng.
- Và nếu sau này, con thấy cần thay
đổi ý kiến con sẽ làm thế nào?
- Con sẽ xin rời khỏi nơi đây, Dane
trả lời, vẻ ngạc nhiên. Nếu con thay đổi ý kiến, duy nhất chỉ vì con sai lầm
khi định ra thiên hướng của mình, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Trong
trường hợp này, con sẽ xin rời khỏi nơi đây. Con sẽ tiếp tục yêu Người nhưng
con hiểu ra rằng không phải bằng cách này Người muốn con phục vụ cho Giáo hội.
- Nhưng khi con đã phát nguyện và đã
được thụ phong con phải biết rằng con không trở lui lại được nữa, con sẽ không
có cách nào để giành lại sự tự do của con.
- Thưa Đức cha con hiểu, Dane kiên
trì khẳng định. Nhưng nếu phải lấy một quyết định thì con sẽ làm việc đó trước
khi con phát nguyện.
Hồng Y De Bricassart ngả lưng vào
ghế bành, thở ra. Xưa kia ông đã từng có một quyết tâm như thế. Có bao giờ ông
đã chứng tỏ một nghị lực như thế?
- Tại sao con tìm đến ta hở Danẻ Tại
sao con lại mong muốn đến La Mã? Tại sao không ở úc?
- Mẹ con đã có ý nghĩ đưa con đến La
Mã nơi mà chính con cũng mơ ước từ lâu. Nhưng trước kia con không tin rằng gia
đình có đủ tiền gửi con đến đây.
- Mẹ con rất sáng suốt. Và mẹ con đã
nói cho con biết rõ chứ?
- Biết chuyện gì thưa Đứcchả
- Biết rằng hằng năm con có một
khoản tiền năm ngàn bảng và hiện trong ngân hàng con có một số tiền dành dụm
lên đến vài chục ngàn.
Dane giật mình.
- Không, mẹ con chưa bao giờ nói với
con điều đó.
- Đúng là mẹ con rất thận trọng.
Nhưng bây giờ con đã biết con có sẵn một số tiền như thế, vậy con có muốn ở lại
La Mã không?
- Thưa vâng.
Điện thoại reo, Hồng y thản nhiên
nhấc ống và trả lời bằng tiếng ý.
- Vâng cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến ngay
(Hồng Y đứng lên). Đã đến giờ uống trà, chúng ta sẽ uống trà với một trong
những người bạn già thân nhất của chạ Sau Đức Thánh cha ông ấy là người quan
trọng nhất trong Giáo hội. Cha đã báo cáo với Đức ngài về sự có mặt của con và
Ngài có ý muốn gặp con.
Vittorio Scarbanza tức Hồng Y Di
Contini Verchese đã sáu mươi sáu tuổi, bị phong thấp nặng nhưng đầu óc vẫn bén
nhạy như ngày nào. Con mèo cái của ông - Natasha - đang nằm ngủ trên đùi. ông
không thể đứng lên chào khách nhưng tươi cười và dùng đầu ra dấu mời khách đến
gần. Đôi mắt ông nhìn bắt bặp vẻ gì đó rất quen thuộc. Đôi mắt ông mở to rồi
nhíu lại. ông cảm thấy tim ông như ngừng lại và đưa tay lên ngực với một cử chỉ
có vẻ tự trấn an. Một lúc sau miệng há hốc và ánh mắt vẫn nhìn thẳng anh thanh
niên có gương mặt giống hệt De Bricassart như một bản sau.
- Vittorio, có sao không? Hồng Y De
Bricassart vừa âu lo vừa cầm lấy tay của Di Contini Verchese để xem mạch.
- Không sao. Một cơn đau nhẹ thoáng
qua, thế thôi. Hai người ngồi xuống đi, xin mời.
Dane quỳ xuống, áp mạnh môi lên
chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi. Một lát nữa hãy pha
trà. à, ông bạn thanh niên, con muốn trở thành linh mục phải không và con tự
đặt mình dưới sự che chở của Hồng Y De Bricassart?
- Thưa Đức cha, vâng.
- Sự chọn lựa của con thật đúng.
Được Hồng Y De Bricassart bảo trợ con khỏi phải e ngại điều gì không hay xảy
ra. Nhưng sao cha thấy con có vẻ âu lo, phải chăng vì con chưa quen nơi này.
Dane mỉm cười, cũng lại nụ cười
duyên dáng của Ralph mà chính anh không hề biết. Nụ cười ấy giống Ralph đến đỗi
khiến cho trái tim già nua và mệt mỏi nhói lên như vừa bị một mũi nhọn kẽm gai
đâm vào.
- Con bối rối, thưa Đức chạ Con hoàn
toàn bất ngờ và xúc động vì đứng trước các Hồng Ỵ Con không bao giờ dám mơ ước
được có người đón ở phi trường và càng không dám nghĩ được uống trà với Đức chạ
- Đúng thế, đây là chuyện bất
thường. à, đã có trà... ông theo dõi bằng ánh mắt vui vẻ vị nữ tu đang đặt tách
đĩa, rồi đưa ngón tay lên để ngăn Ralph lại. à, không! Hãy để cho tôi đóng vai
chủ nhà. Dane, con thích uống tràthế nào?
- Thưa cũng như Ralph, trả lời xong
cậu đỏ mặt. Xin lỗi Đức cha, con không có ý định gọi như thế...
- Không sao Dane à, Ralph cắt ngang.
Hồng Y Di Contini Verchese không bắt lỗi con đâu. Chúng ta đã gặp và quen nhau
bằng cách gọi nhau Dane và Ralph. Và như thế chúng ta sẽ thân thiết nhau hơn
nhiều, phải không? Nghi thức chỉ tạo sự xa lạ hoàn toàn trong các quan hệ giữa chúng
tạ Tôi muốn chúng ta vẫn là Dane và Ralph trong thân tình; Đức cha không thấy
gì bất tiện chứ?
- Không. Ralph là người ủng hộ việc
gọi nhau bằng tên. Nhưng, trở lại chuyện đang nói dở dang lúc nãy cha nghĩ đến
việc con có những người bạn có chức vị cao - chẳng hạn như mối quan hệ tình bạn
lâu ngày với Ralph - sẽ gây phiền phức cho con khi con đặt chân vào tu viện nào
đó mà Ralph sẽ chọn lựa cho con. thật là bực bội nếu phải luôn luôn giải thích
dài dòng mỗi khi mối quan hệ giữa hai người gây nên sự chú ý. Đôi khi, Chúa của
chúng ta cho phép nói láo một cách thành khẩn. Vì lợi ích chung, ta thấy tốt
hơn nên bẻ cong một chút sự thật. Do rất khó giải thích cho suông sẻ các mối
quan hệ tình cảm riêng tư, tốt hơn là nên nêu ra mối liên hệ dòng họ. Như thế chúng
ta có thể nói với mọi người rằng Hồng y De Bricassart là cậu của con, Dane và
chúng ta dừng lại ở mối quan hệ đó. Hồng Y Di Contini Verchese kết thúc bằng
một giọng ngot. ngào.
Dane hơi bị khó chịu về những điều
vị Hông Y nói, còn Ralph thì cúi đầu im lặng.
Hồng Y Di Contini Verchese dịu dàng
nói tiếp:
- Con đừng thất vọng vì các tên tuổi
nổi tiếng cũng có những đôi chân bằng đất sét và có khi họ cũng cần nói láo để
giữ được một sự yên ổn nào đó. Con vừa học được một bài học rất bổ ích. Tuy
nhiên con phải hiểu, các Hồng Y là những nhà ngoại giao rất sâu sắc. Thật ra,
ta chỉ nghĩ đến con, chỉ vì con thôi, Dane ạ. Lòng ghen tị và sự thù ghét cũng
phổ biến trong các tu viện chẳng khác nào các trường học ngoài đời. Con sẽ phải
chịu đựng một chút vì người ta cho rằng Ralph là cậu của con, anh của mẹ con,
nhưngcon sẽ phải chịu đựng nhiều hơn nếu người ta nghĩ rằng giữa hai người
không có một mối liên hệ bà con nào cả. Chúng ta trước hết là những con người
vì thế mà phải đối đầu với con người trong môi trường này hoặc môi trường khác.
Dane cúi đầu, rồi chồm ra phía trước
định đưa tay vuốt ve con mèo cái nhưng anh kịp dừng lại.
- Con xin phép... Con rất yêu mèo,
thưa Đức chạ
Thái độ của Dane khiến tấm lòng
trung thực của Hồng Y Di Contini rộng mở:
- Vâng. Ta phải thú nhận rằng bây
giờ nó hơi nặng ký vì ăn hơi nhiều... Phải không Natashả Con qua Dane đi, hãy
đến với thế hệ mới.
Hai tháng sau khi Dane đi La Mã,
Justine cũng đi Anh. Mùa kịch ở Culloden kết thúc, Justine rời chung cư
Bothwell Gardens không luyến tiếc. Meggie chỉ đến Sydney hai lần. Lần đầu để
đưa Dane và lần nãy tiễn Justinẹ Đến giấy phút cuối cùng chi tay, Meggie vẫn
nhìn thấy có quá nhiều khác biệt giữa bản thân mình với con gái. Tánh tình
Justine ngổ ngáo. Nếu bị trách phiền, Justine trêu chọc mẹ: " Như mẹ vẫn
nói, con giống ba chớ đâu giống mẹ". Trên boong tàu nhìn xuống, Justine
không nghĩ rằng mẹ mình đã năm mươi tuổi.
Do có tiên bạc dư dả, Justine cảm
thấy Luân Đôn trở thành một nơi đặc biệt hấp dẫn. Nhất định cô không chọn một
cuộc sống nghèo nàn ở khu Earl' s Court - mệnh danh "Kangaroo Valley"
- nơi có rất nhiều người úc.
Justine mướn một căn hộ tiện nghi ở
Kensington, gần Knightsbridge và ký hợp đồng với đoàn kịch Clyde Daltinham -
Roberts.
Mùa hè đến, Justine đi tàu hỏa sang
La Mã. Con tàu đi xuyên qua Pháp và ý nhưng Justine không nhớ mình đã nhìn thấy
những gì vì đầu óc của cô chủ yếu tập trung ôn lại những chuyện sẽ kể cho Dane
nghe. Và đúng là có quá nhiều điều để nói.
Có phải Dane đó không? Chàng thanh
niên cao lớn, tóc vàng đứng ở sân ga chính là Danẻ Dane không khác xưa bao
nhiêu, nhưng cũng không còn là đứa em trai bé nhỏ. Cuộc sống của Dane tạo ra
một khoảng cách với Justine, xa cứ như là hiện giờ Justine đang ở Droghedạ
Khi về đến khách sạn, cậu em trai
nói với chị:
- Chị có cảm thấy phiền hà không nếu
em mời chị chiều nay uống trà với vài người bạn của em? Em hơi vội vàng lỡ nhận
lời trước rồi. Họ rất muốn được biết mặt chị...
- Đồ ngu! Tại sao lại phiền hà? Nếu
hai đứa mình ở Luân Đôn, chị cũng sẽ nhậm chìm em qua giữa bạn bè của chị thôi.
Chị rất vui được biết bạn bè của em ở tu viện ra sao, dù có thể sẽ chẳng có thú
vị lắm. Chắc chắn là không mê được một chàng trai nào đâu.
Trong phòng ngủ khách sạn, đứng gần
cửa sổ, nhìn qua bên ia trong cảnh lặng im và buồn, xa xa là bước tường bao
quanh một nhà thờ, Justine gọi khẽ.
- Danẻ
- Chuyện gì?
- Chị thông cảm em. Chị thông cảm em
thật sự.
- Vâng, em biết. Em rất mong mẹ cũng
hiểu em, Justine ạ.
- Với mẹ thì khác. Mẹ có cảm tưởng
là chúng ta đã bở rơi mẹ, nhưng em đừng âu lo vì mẹ, trước sau gì mẹ cũng chấp
nhận thôi.
- Em hy vọng như thế - cậu ta cười -
Thật ra chiều này những người chị gặp không phải là bạn em ở tu viện. Không bao
giờ em đẩy chị và các bạn em vào một thứ bẫy cám dỗ như thế. Chị sẽ gặp Hồng Y
De Bricassart. Em biết chị không có cảm tình với ông ấy nhưng chị hãy hứa với
em là chị sẽ tỏ ra dễ thương.
Trong mắt của Justine thoáng một ánh
tinh nghịch.
- Chị hứa với em. Chị sẽ hôn lên tất
cả những chiếc nhẫn mà ông ấy chìa ra.
- Cả Hồng Y Di Contini Verchese cũng
có mặt.
Chương 39
... Trong phòng, những người đàn ông
mặc toàn áo đỏ! Chưa bao giờ trong cuộc đời của Justine, cô ta lại ý thức rõ
ràng sự thừa thãi của những người phụ nữ trong cuộc sống của một số đàn ông khi
bước vào thế giới này. Justine vẫn mặc bộ đồ màu ôliu khi vừa đến La Mã. Dane
thúc hối khiến Justine không kịp thay quần áo.
Trong cuộc gặp gỡ, Justine có dịp
biết mặt Hồng Y Di Contini Verchese mà trước đây cô chỉ nghe nhắc đến ten. Khi
cô quỳ gối xuống hôn chiếc nhẫn trên bàn tay nhăn nheo, ánh mắt Justine bất
chợp gặp đôi mắt u buồn của Hồng Y và lạ lùng thay cô đọc thấy trong đó một thứ
tình thương ở một người mà Justine chưa từng gặp. Từ năm mười lăm tuổi đến nay,
Justine không có cảm tình với các Hồng Y qua hình ảnh một De Bricassart vậy mà
mới nhìn ông già này lần đầu, lòng cô đã cảm thấy được sưởi ấm.
Cũng trong buổi uống trà, Justine
quen một nhân vật ngoài Giáo hội do Hồng Y Di Contini Verchese giới thiệu là
người bạn rất tốt của ông, Herr Rainer Moerling Hartheim. Khi buổi uống trà
tan, chính Rainer đề nghị đưa Justine về khách sạn sau khi xin phép Danẹ Sau
đó, anh ta lạu tự nguyện làm người hộ tống cho Justine trong buổi tối đầu tiên
Justine ở La Mã với lý do Dane bận không đưa chị đi chơi.
Rainer dáng người vạm vỡ, vai rộng
và to, hai cánh tay dài như tay của thợ cắt lông cừu, trông anh ta hơi giống
con vượn nhưng thông minh và nhanh nhẹn. Nước da Rainer sậm, tóc dày và dợn
sóng.
Biết bao biến cố đã xảy ra trong
cuộc đời của Rainer Moerling Hartheim từ sau lần gặp Ralph tháng bảy năm bốn
mươi bạ Một tuần sau, đơn vị của anh bị đưa ra mặt trận phía Đông, nơi mà anh
trải qua suốt thời gian còn lại trong chiến tranh. Đau khổ, lạc lõng, chân đứng
trong tuyết, không còn đạn ở một chiến tuyến tan tác đến đỗi cách nhau cảm trăm
mét mới có một người lính, anh có đủ thời giờ để nghiền ngẫm các chậu quả của
chế độ Hitler. Trước chiến tranh bùng nổ, anh còn quá trẻ để bị tuyển vào tổ
chức thanh niên của Quốc xã.
Chiến tranh chỉ để lại cho anh hai
kỷ niệm: một cuộc hành quân khốc liệt trong giá lạnh cũng khốc liệt không kém
và gương mặt của Ralph. Sự ghê tởm và cái đẹp; ác qui? và Chúa.
Nửa điên nửa khùng, nửa bị cóng rét,
hoàn toàn không còn khả năng tự vệ, anh run sợ chờ đợi các du kích Nga xuất
hiện. Anh đấm tay vào ngực, miệng lâm râm đọc kinh, nhưng anh không biết anh
cầu nguyện gì.
Mùa xuân năm 1945, anh tháo chạy
xuyên qua Ba Lan, với mục đích duy nhất đến được vùng lính Anh và lính Pháp
chiếm đóng. Anh xét và đốt giấy tờ tùy thân, chôn hai huy chương chữ thập sắt,
đánh cắp vài bộ quần áo và ra trình diện với giới chức trách Anh tại biên giới
Đan Mạch. Người ta đẩy anh và một trại di dân ở Bỉ. Tại đó, suốt một năm, anh
sống bằng bánh mì với cháo bột, đó là tất cả những gì mà nước Anh kiệt quệ có
thể cung cấp nuôi hàng chục ngàn con người họ có trách nhiệm gánh vác.
Rainer căm thù Hitler nhưng không
căm thù nước Đức và anh không hề thấy nhục vì mình là người Đức. Dưới mắt anh,
nước Đức vẫn là quê hương. Đầu năm 1947, anh rảo bước trên các con đường ở
Aachen không một xu dính túi. Thân xác và cả tâm hồn anh đều sống sót nhưng
nhất định không phải để trở lại sự nghèo đói và tối tăm. Vì rằng Rainer không
chỉ là một con người đầy tham vọng mà còn là một loại thiên tài. Anh làm việc
cho Grundig và nghiên cứu một thứ đã làm anh say mê từ những ngày đầu tiếp xúc
với rada, đó là điện tử. Đầu của anh ngùn ngụt sáng kiến, nhưng anh từ chối bán
những sang kiến đó cho Grundig. Thay vào đó, anh đánh giá kỹ thị trường, rồi
cưới một góa phụ trước đây có chồng làm chủ hai xưởng nhỏ về radio, từ đó anh
lao vào làm ăn cho riêng mình. Nước Đức sau chiến tranh dành vô số cơ hội cho
những người trẻ dám nghĩ dám làm.
Năm năm mươi mốt, anh ly dị vợ, bồi
thường cho bà Annelise Hartheim số tiền gấp đôi trị giá các xưởng của ông chồng
thứ nhất để lại.
Bốn năm sau anh trở thành một trong
những người giàu và có thể lực nhất ở Tây Đức. Vừa được bầu vào Quốc hội Bonn,
anh trở lại La Mã, tìm gặp lại Hồng Y Bricassart và cho ông biết kết quả cuối
cùng của những lời cầu nguyện năm xưa.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ, anh chỉ nhớ
lại một điều duy nhất là anh đã làm Ralph thất vọng. Câu nói của Ralph với
Rainer khi chia tay:
- Cha đã cầu nguyện để con trở thành
người tốt hơn cha, vì lúc đó con còn trẻ. Không có một cứu cách nào có thể biện
minh cho phương tiện. Nhưng cha cho rằng tất cả những nguyên nhân đưa đến sự
sụp đổ của chúng ta đều được nén xuống trước khi chúng ta chào đời.
Về đến phòng khách sạn, anh đã khóc
nhưng rồi dịu xuống với suy nghĩ: quá khứ coi như đã đi qua, từ nay về sau mình
sẽ trở thành con người mà ông ấy muốn. Và có khi anh làm được, có khi không
thành, nhưng anh luôn nỗ lực. Tình cảm của anh với các vị chức sắc ở Vatican
trở thành một trong những điều quí giá nhất trên đời và mỗi khi cần chống chỏi
lại sự chán nản là anh bay sang La Mã.
Trong buổi tối nóng nực của La Mã,
đi bộ một mình sau khi đã đưa Justine về khách sạn, đầu óc Rainer lảng vảng ý
nghĩ biết ơn người thiếu nữ. Vì rằng, trong lúc quan sát thái độ chịu đựng của
Justine trong cuộc gặp gỡ các chức sắc cao nhất trong giáo hội, anh đã nghe
trong lòng dân lên một tình cảm hướng về cô gái này.
Con quái vật nhỏ bé đáng yêu ấy, dù
bị thương, đầu vẫn giữ bình tĩnh. Người con gái ấy đủ sức đối đầu với các vị
chức sắc mà không hề nhường bước.
Trong một lần đi dạo ở La Mã, đứng
trước đài nước Trevi, Justine hỏi Rainer:
- Rain, anh có đến úc lần nào chưa?
Một cảm giác lạnh chạy dài xuống
xương sống của Rainer:
- Sau chiến tranh, ở trong trại
người Anh quản lý có hai lần tôi suýt bị đưa đi úc, nhưng cả hai lần tôi đều
tránh được. Nhưng tại sao Justine lại gọi tôi là Rainẻ
- Nếu anh đã đến úc anh sẽ hiểu rằng
anh có một cái tên kỳ diệu và người ta sẽ gọi anh theo cách của tôi. Rain chứ
không phải Rainer. Anh biết rõ tiếng Anh Rain có nghĩa là mưa. Đó là sự sống
giữa sa mạc.
Sững sờ, anh buông rơi điếu thuốc.
- Justine, có phải cô yêu tôi?
- Đàn ông bọn anh thật là kiêu ngạo.
Rất tiếc phải làm anh thất vọng, nhưng chuyện ấy không có.
Như để làm dịu lại những điều đã lỡ
nói ra, nàng nắm tay Rainer siết mạnh và nói: dường như giữa chúng tacó điều gì
đó hay hơn.
- Điều gì lại hay hơn là yêu?
- Theo tôi, có nhiều thứ. Tôi cần
một người như thế và không bao giờ yêu.
- Rất có thể cô có lý. Rõ ràng đó là
thứ xiềng xích nếu nó đến quá sớm. Vậy thì cái gì hay hơn?
- Tìm một người bạn (nàng vuốt nhẹ
tay Rainer). Anh là một người bạn của tôi phải không?
Lần này, không phải Dane chờ Justine
ở nhà ga như những lần trước. Anh rút lại, để cho Rainer thay mình. Rainer
không đón mừng Justine bằng một cái hôn - Anh không thích cái trò biểu diễn
kiểu ấy - mà vòng tay qua vai Justine và siết mạnh.
- Anh giống hệt con gấu, Justine
nhận xét.
- Con gấu?
- Lúc đầu khi mới biết anh, em thấy
anh giống con khỉ Gorilla hơn là con gấu. So sánh con khỉ Gorilla xem ra không
được dễ thương phải không anh?
- Vậy là con gấu dễ thương hơn?
- Thật ra loài gấu cũng kết liễu cuộc
đời nạn nhân của nó rất mạnh, nhưng chúng siết..., dịu dàng hơn (Justine nắm
tay Rainer). Dane thế nào?
- Dane vẫn thế.
- Em ăn mặc theo thời trang kiểu ba
mươi mốt của em. Em đã phải lùng sục tất cả các hiệu may ở Luân Đôn mới có được
cái vỏ thế này. Anh có thích chiếc váy này không? Người ta gọi nó là minị
- Em đi nhanh tới trước rồi anh sẽ
trả lời.
Chiếc váy dài không quá nửa đùi. Đi
trở ngược lại về phía Rainer, nàng hỏi.
- Anh thấy thế nào? Có quá đáng
không? Em nhận thấy ở Paris các cô không mặc ngắn như thế này.
- Với đôi chân đẹp như chân em, mặc
một chiếc váy dài hơn một li nữa là gây ra xì-căng- đan ngaỵ Anh tin chắc rằng
thanh niên ở đây đều đồng ý với anh.
- Anh chọc ghẹo em phải không? -
nàng vứa nói lí nhí, chân bước lên chiếc Mercedes có cắm lá cờ ở phía trước đầu
xe. Cờ gì thế?
- Anh vừa được bổ nhiệm vào thành
phần chính phủ mới.
đo đó không còn đáng ngạc nhiên về
việc tên em được nhắc đến trong một bài báo trên tờ News of the World. Anh có
đọc bài báo đó chứ?
- Em dư biết anh không bao giờ đọc
loại báo lá cải.
- Em cũng vậy. Nhưng một người nào
đó đã đưa cho em xem. Tờ báo đặt câu hỏi: "Cô đào nước úc ăn khách tóc màu
carot có những quan hệ mật thiết với một thành viên của chính phủ Tây Đức là
ai?"
Rainer không trả lời chỉ mỉm cười.
Đi chơi bằng xe hơi với Rainer là một trong những phút êm đềm đối với Justine ở
La Mã. Sau đó họ đi thăm Hồng Y De Bricassart và Hồng Y Di Contini Verchesẹ Vài
ngày sau đến phiên đoàn người từ Drogheda đến. Rainer mướn một xe nhỏ sang
trọng đón họ về khách sạn. Justine kín đáo theo dõi phản ứng của Rainer khi đối
diện với gia đình nàng gồm chủ yếu các người cậu. Cho đến phút cuối cùng
Justine vẫn còn hy vọng mẹ nàng sẽ thay đổi ý kiến đến La Mã. Meggie vắng mặt
gây cho Justine sự khó chịu. Tuy không phân tích được chính xác tâm trạng của
mình: đau buồn cho Dane hay sự vắng mặt của mẹ gây buồn khổ cho chính nàng.
Nhưng dù thế nào, những người cậu đã đến và nàng có trách nhiệm tiếp họ.
Ồ! Họ rụt rè làm sao! Khó mà phân
biệt bởi càng già họ lại càng giống nhau. Tại La Mã, họ hoàn toàn khác với xung
quanh, đúng là những nhà chăn nuôi úc đi nghỉ hè ở La Mã. Cuối cùng Rainer đã
có mặt. Anh ấy tỏ ra rất tốt đối với họ. Mình chưa từng thấy ai có thể gợi
chuyện được với Patsy, thế mà anh ấy làm được. Anh quả là một ẩn số đối với em,
Rainer, bạn của Hồng Y và cũng là bạn của Justine Ó Neill. Phải chi anh ấy bớt
xấu trai một tí, mình sẽ hôn anh ấy cho đúng với lòng biết ơn của mình. Chúa
ơi, bây giờ mới thấy nếu ở La Mã một mình với các ông cậu mà không có Rain thì
sẽ vơ vơ biết chừng nào. Rainer ơi... đúng là anh mang đến sự tốt lành như cơn
mưa.
Nhà thờ có thể chứa đến hai ngàn con
chiên, do đó vẫn còn chỗ trống. Không một nơi nào trên thế giới người ta lại
dành nhiều thì giờ, suy nghĩ và sáng tạo như thế cho việc xây dựng một thánh
đường. Các công trình ngoài tôn giáo thời thượng cổ đều trở thành vô nghĩa. Đại
giáo đường của Bramante, nóc tròn của Michelangelo, hàng cột của Berninị Đó
không chỉ là công trình cung hiến cho Chúa mà còn để ngợi ca con người.
Trong lễ thụ phong linh mục Dane nằm
dài trên các bậc, mặt úp xuống, như người chết. Anh đang nghĩ gì? Ẩn giấu trong
một niềm đau sâu kín vì mẹ anh đã không đến? Hồng Y De Bricassart nhìn anh qua
hàng nước mắt và hiểu rằng không có nỗi đau nào giày xéo anh hơn. Thân xác anh
lúc này như hòa nhập trong phép lạ. Không còn một chỗ nào dành cho bất cứ điều
gì và ai khác hơn là Chúa. Một ngày như mọi ngày, không có gì quan trọng hơn là
nhiệm vụ phải hoàn thành, đó là hiến dâng cuộc sống và linh hồn cho Chúa. Rất
có thể anh sẽ đạt mục đích nhưng liệu rằng mấy người thật sự đạt mục đích này?
Hồng Y De Bricassart thì không rồi dù ông nhớ rất rõ ngày thụ phong ông như
ngập tràn trong một sự lo nghĩ thần thánh. ông đã thử vận dụng tất cả những gì
có thể rung động ở trong ông lúc ấy, những ông vẫn không thể hóa thân một cách
trọn vẹn.
Lễ tấn chức linh mục của mình không
long trọng bằng hôm nay nhưng qua người bạn trẻ này mình thấy lại cái ngày đó.
Mình phải tự hỏi đích thật anh ta là ai, bất kể những lo âu của mình, anh ta đã
trải qua bao nhiêu năm dài ở đây mà không gây ra một mối ác cảm nào, đừng nói
chi là một kẻ thù thật sự. Anh được mọi người thương và anh thương mọi người.
Vậy mà không bao giờ anh ta nghĩ đó là một điều phi thường.
Khi anh mới đến đây, Dane thiếu tự
tin; chính chúng mình đã mang đến cho anh cái ân sủng ấy, rất có thể điều đó
chứng minh sự hiện hữu cần thiết của chúng mình. Có rất nhiều linh mục được
phong chức ở đây, có hàng ngàn, hàng ngàn. Tuy nhiên với Ralph, buổi lễ này
thật đặc biệt. Meggie ơi! Tại sao em không đến đây để ngắm nhìn tặng vật em đã
hiến dâng cho Chúa? Tặng vật mà anh không thể hiến dâng cho Người khi bản thân
anh đã hiến dâng.
... Một lúc sau, ông quay đầu lại,
nhìn thấy hàng ghế dành cho những người ở Drogheda đến trong những bộ quần áo
khác thường: Bob, Jack, Hughie, Jims, Patsỵ Một ghế trống của Meggie, rồi đến
Frank. Justine với mái tóc rực rỡ che khuất dưới cái khăn vuông đăng ten đen là
người phụ nữ duy nhất trong dòng họ Cleary đến đây. Rainer ngồi kế bên nàng.
Ngày hôm nay, hoàn toàn khác; ngày
hôm nay, một ngày đặc biệt đối với ông. Hôm nay, gần như ông có cảm giác là
chính ông đã cho ra đời một đứa con trai. ông mỉm cười và thở dài. Hồng Y Di
Contini Verchese đã cảm nhận gì khi phong chức linh mục cho Danẻ
Dane rất đau khổ vì mẹ anh khống đến
La Mã nhưng anh không buồn giận mẹ vì anh tin rằng có một nguyên nhân nào đó mà
anh chưa rõ, anh sẽ về Drogheda hỏi cho biết. Dane có đúng thai tháng để tự do
suy nghĩ sẽ làm gì. Anh có ý định về Drogheda, trong những lúc phi ngựa qua các
bãi chăn cừu, anh sẽ suy nghĩ thật chín chắn vấn đề ấy. Anh cảm thấy rằng không
thể lấy quyết định trước khi trao đổi với mẹ. Nhưng trước đó, khi gặp mẹ anh sẽ
nói thế nào? Anh cần tập trung can đảm trước khi trở về. Dane rủ Justine cùng
đi Hy Lạp nghỉ ngơi trong mười lăm ngày, hy vọng Justine sẽ có cách làm cho
Dane thêm can đảm để lên máy bay về Drogheda gặp mẹ.
Lúc đầu Justine đồng ý với Dane và
thỏa thuận với Rainer là trong khi nàng đi Hy Lạp thì Rainer trở về với công
việc của anh ta ở Bonn. Nhưng cuộc chia tay giữa Rainer và Justine không suông
sẻ. Rainer chờ đến bảy năm quen nhau để tỏ tình với Justine nhưng vẫn bị
Justine từ chối. Rainer chờ lâu đến như thế vì anh không tự tin, biết mình xấu
trai và dư biết người mình yêu bất cần tiền bạc lẫn địa vị. Justine từ chối vì
trước hết đối với nàng, tình yêu là sự tước đoạt, gia đình là sự chấm dứt tự dọ
Vả lại nàng chưa tin chắc là nàng yêu Rainer.
Nhưng khi Rainer đi rồi, còn lại một
mình trong phòng khách sạn, nàng mới nhận ra sự trống vắng khủng khiếp trong
lòng.
Quái qui? nữa là chạm mặt ông cậu
nào họ cũng hỏi Rainer đâu.
- Rainer là một tay tuyệt lắm,
Hughie nói, đôi mắt sáng lên.
Kinh ngạc, bỗng chốc Justine hiểu
rằng tại sao trong những ngày qua nàng được các ông cậu quan tâm đến thế. Trước
kia giữa các ông cậu và nàng gần như không có một dính dấp nào. Dưới mắt các
ông, nàng trở nên quan trọng chỉ vì nàng đã gắn với một người đàn ông mà các
ông đón nhận làm thành viên của gia đình.
Trở lên phòng, đầu óc nàng quay
cuồng. Đúng là Rainer yêu mình.
Nhưng khi nàng muốn gặp Rainer qua
điện thoại thì cô phụ trách tổng đài cho biết Rainer đã rời khách sạn đi Bonn.
Justine quyết định không đi Hy Lạp với Dane và tin rằng Dane sẽ hiểu nàng. Dane
vẫn muốn nàng lấy Rainer làm chồng.
Rainer thân mến của em (bức thư ngắn
bắt đầu như thế), em rất ân hận tối hôm đó đã trốn chạy anh như một con dê cái
hốt hoảng; em không hiểu em đã mắc chứng gì. Có lẽ do một ngày mệt mỏi và bao
nhiêu chuyện tiếp đó. Em mong anh tha lỗi cho cách xử sự rất thiếu tế nhị của
em. Em thấy mắc cở vì một chuyện không đáng gì. Vì em nghĩ rằng buổi lễ và
những việc tiếp đó cũng làm cho chính anh mỏi mệt, từ đó mà có lời tỏ tình của
anh. Cho nên, em đề nghị: xin lỗi anh và về phía em, em cũng tha thứ cho anh.
Chúng ta vẫn là bạn với nhau, em mong như thế. Em không thể nào chịu đựng sự
lạnh nhạt với anh. Lần sau anh đến Luân Đôn, em chờ anh cùng ăn tối tại nhà em
và chúng ta sẽ lập lại hiệp ước hòa bình theo nghi thức hẳn hòi.
Như mọi khi, dưới bức thư ký Justinẹ
Nhận được thư, Rainer nhíu mày suy nghĩ, cố tìm hiểu ý nghĩa thật của những
dòng chữ tầm thường được viết vội vàng. Không thể chối cãi, đó là lời kêu gọi
thân thiện, nhưng ngoài ra còn gì nữa? Tại sao Justine không đi Hy Lạp với Dane
mà lại quay trở về Luân Đôn? Rainer không dám tin rằng Justine thay đổi quyết
định vì anh, nhưng anh vẫn để hy vọng len vào trong tâm tự
Chiều thứ bảy, Rainer từ Bonn đến La
Mã và trình diện với Justine tại nhà nàng. Cuộc gặp gỡ lần này kết thúc trên
giường.
Sáng hôm sau, Justine thú nhận:
- Em trở về Luân Đôn để nhận vai
Desdemona nhưng mặt khác cũng vì anh. Em không thể nào sống bình thường được từ
khi anh hôn em ở La Mã, anh dư biết điều ấy. Anh là một con người rất thông
minh, Rainer Moerling Hertheim.
- Vừa đủ thông minh để rằng anh muốn
em làm vợ ngay từ khi anh mới gặp em.
- Làm vợ? Nàng bật dậy hỏi.
- Vâng, làm vợ. Nếu anh có ý định
lấy em làm tình nhân thì anh đã chiếm đoạt em từ nhiều năm. Anh hoàn toàn có
khả năng làm việc đó. Anh biết bộ óc của em vận hành như thế nào; cũng tương
đối dễ thôi. Chỉ có một lý do duy nhất ngăn chặn anh, đó là vì anh muốn lấy em
làm vợ, mặc dù lúc đó anh vẫn biết em chưa có ý định lấy chồng.
- Bây giờ em vẫn không chắc có ý
định ấy.
- Justine, không phải một trò đùa
đâu và anh không phải là một người đàn ông để người khác đùa giỡn. Chúng ta có
thời giờ để suy nghĩ. Hơn ai hết em biết anh kiên nhẫn như thế nào. Riêng về
phía em, phải thấy rằng đám cưới là giải pháp duy nhất mà em có thể chọn lựa.
Hãy loại ra khỏi đầu em bất cứ ý tưởng nào khác. Anh không chấp nhận giữ vai
trò nào khác bên cạnh em ngoài vai trò làm chồng.
- Em sẽ không bao giờ chịu rời bỏ
sân khấu! Justine hét to lên, như sẵn sàng gây chuyện.
- Anh đòi hỏi chuyện đó bao giờ? Đã
đến lúc em phải khôn lớn lên chớ Justinẻ Mới thoạt nghe em, người ta tưởng anh
định kết án chung thân em trong vai nội trợ và bếp núc. Chúng ta không nghèo
khó đến thế đâu. Em có thể sử dụng bao nhiều người phục vụ tùy ý em, những vú
em cho các con và tất cả những gì em muốn.
- Không đâu! Justine kêu lên. Nàng
chưa nghĩ đến chuyện con cái.
Rainer cười ngất.
- Ồ! Đây đúng là cái mà người ta gọi
là sự phục thù của sáng ngày hôm sau! Anh lại hành động như một thằng ngốc đặt
em quá đột ngột trước những thực tế. Nhưng lúc này đây anh chỉ yêu cầu em hãy
nghĩ đến chuyện đó. Tuy nhiên, anh báo trước với em... Khi quyết định, em đừng
quên rằng nếu anh không làm chồng em, thì anh cũng không làgì hết.
Nàng choàng hai tay lên cổ Rainer,
bám chặt người anh như khống muốn buông ra.
- Ồ! Rainer! Anh đừng gây cho em
nhiều khó khăn như thế!
Một mình lái chiếc xe đua Lagonda,
Dane đi qua vùng Đông Bắc nước ý, ghé lại Trieste - thành phố mà anh rất thích
- hai ngày, nghỉ ngơi bên bờ biển Adriatic rồi tiếp tục cuộc hành trình vào
lãnh thổ Nam Tự Từ đây anh đến biên giới Hy Lạp, đi vào thị trấn Evzone giữa
lúc đất nước này đang sôi sục không khí cách mạng. Tại thị trấn Evzone ban đêm
hàng ngàn ngọn đuốc cháy đỏ rực, đám đông hô to từng lúc "Pap-anđre- ou!
Pap-anđre-ou!
Nóng lòng đến Athenes sớm, anh không
dừng trạm nào lâu. Tại thủ đô Hy Lạp, không khí còn sôi sục hơn, dân chúng
quyết tâm ủng hộ Papandreou lên nắm quyền. Dane không thích sự ồn ào, anh gởi
chiếc Lagonda vào một gara và lên tàu đi ra đảo Cretẹ Nơi đây giữ những cây
oliu, cây bách lý hương hoang dại và giữa núi non, Dane tìm được sự yên tĩnh.
Anh mướn một phòng nhỏ ở một quán trọ quét vôi màu trắng. Buổi trưa chỉ có
tiếng ve kêu.
Trong sự im vắng của sáng hừng đông,
Dane làm lễ một mình, sau đó đi dạo cả ngày. Không ai quấy rầy anh và anh không
quấy rầy ai. Nhưng trên đường đi qua, những cặp mắt u buồn của người dân quê ở
đảo tò mò nhìn theo anh và trên mặt nhăn nheo của họ cũng có những nụ cười.
Trời nóng, tất cả nghe yên tĩnh và uể oải.
âm thầm, Dane cầu nguyện trong trạng
thái xúc động. Lạy Chúa! Người đã ban phúc cho con hơn những gì con xứng đáng.
Con phải làm gì cho Người để bày tỏ với Người sự biết ơn của con? Con chưa trải
qua nhiều đau khổ, cuộc đời con chỉ là một niềm vui dài, vô tận, từ khi con bắt
đầu phụng sự. Người. Con phải khổ đau. Người biết điều ấy vì người đã khổ đau.
Chỉ qua sự đau khổ con mới có thể vượt lên trên chính bản thân mình và hiểu
được Người hơn. Thế mới là ý nghĩa của cuộc đời này: một giai đoạn chuyển tiếp
đưa đến sự cảm thông huyền bí của Người. Hãy cắm ngọn giáo vào lòng ngực con,
đâm sâu đến mức con không thể rút ra. Hãy làm cho con đau khổ... Vì Người, con
từ bỏ mọi kẻ khác, kể cả mẹ con, chị con và đức Hồng Ỵ Duy nhất Người là niềm
đau và cũng là niêm vui của con. Hãy lăng nhục con và con sẽ hát lên những lời
tán tụng Người. Hãy tiêu diệt con vàcon sẽ mãn nguyện. Con yêu Người, một mình
Người mà thôi.
Dane xuống một bãi nhỏ mà mấy ngày
qua anh vẫn thường tắm. Có hai thanh niên người Anh nằm phơi nắng, người đỏ như
tôm luộc, họ nói chuyện với nhau giọng Oxford; cách xa một chút, hai cô gái
đang trao đổi với nhau một cách lười biếng bằng tiếng Đức.
Dane nhìn vềphía hai cô gái, hơi rụt
rè, sửa lại cái quần tắm ngay ngắn. Hai cô gái ngưng không nói chuyện với nhau,
ngồi bật dậy chỉnh lại mái tóc rồi mỉm cười với Danẹ
- Chào các anh. Hôm nay thế nào?
Dane quen mặt hai anh chàng thanh niên này, không ngày nào thiếu mặt họ ở bãi.
- Tuyệt vời, ông bạn! Nhưng hãy coi
chừng nước xoáy... Tụi này không dám tắm. Chắc là có bão đâu đó ở ngoài khơi.
- Cảm ơn bạn, Dane cười đáp lại.
Anh chạy ra hướng những đợt sóng nhỏ
đang vỗ nhẹ vào bờ hiền hòa, rồi với sự tự tin của một tay bơi giỏi anh phóng
người xuống nước.
Kinh ngạc! Mặt nước phẳng lặng đến
mức Dane không nghĩ rằng phải tìm cách chống chỏi lại với dòng nước mạnh kéo
rút hai chân anh ở phía dưới. Tuy nhiên chẳng có gì đáng lo ngại, Dane là một
tay bơi cừ. Đầu nghiêng phân nửa dưới nước, anh rẽ sóng một cách thong thả, tận
hưởng cái mát rượi thấm vào da thịt và cảm giác thoải mái hoàn toàn. Khi anh
ngừng bơi, nhìn lên bờ, thì hai cô gái Đức vừa cột chặt xong mũ giữ cho tóc
không ướt, đang cười giỡn chạy xuống nước.
Dane dùng hai bàn tay làm loa hét to
bằng tiếng Đức báo cho hai người không nên ra xa, coi chừng nước rút. Hai cô
gái cười vang ra hiệu với Dane là đã hiểu. Ngả đầu phân nửa dưới nước, anh lại
tiếp tục bơi và hình như bên tai nghe một tiếng kêu cứu. Anh tiếp tục bơi một
đoạn rồi dừng lại, dùng hai chân đạp nước đứng tại chỗ. Đúng là có tiếng ai kêu
cứu. Quay đầu lại, anh thấy hai cô gái đang chới với, hoảng hốt, miệt hét liên
tục. Tay đưa cao lên, một trong hai người đang chìm xuống.
Anh bơi nhanh đến. Những cánh tay
cuống cuồng chụp lấy anh, kéo anh và nhận chìm xuống; anh tìm được cách kèm
chặt một người và đánh một cú đấm vào cằm; tiếp đó anh dùng đâu gối thúc mạnh
vào xương sống người kia khiến cô này cũng choáng váng. Anh bơi ngửa kéo cùng
lúc hai người - giờ đây không vùng vẫy nữa, lần vào trong cạn. Lúc đó mới thấy
hai thanh niên người Anh xuất hiện, tiếp tay đưa hai cô gái Đức lên bãi cát. Dù
mệt nhừ người, Dane vẫn mỉm cười. Phần của anh đã xong, bây giờ đến phần của
hai anh chàng người Anh. Trong khi anh thả người trên mặt nước để nghỉ mệt,
dòng nước lại cuốn rút anh một lần nữa. Hai châm anh không chạm được đất, suýt
nữa anh gặp nạn. Nếu không có anh, hai cô gái Đức chắc chắn đã bị chết đuối;
mấy thanh niên Anh không đủ sức và cũng không được tập dợt đầy đủ để cứu hai
người.
Giữa lúc Dane thả nổi trên mặt nước,
đột ngột một cơn đau nhói như có gì nổ tung lồng ngực, cảm giác đau nhức khủng
khiếp như có một ngọn giáo, một cây lao nướng đỏ cắm thẳng vào tim. Đau đớn
không thể chịu nổi, xé cả ruột gan. Anh thét lên, đưa hai tay cao khỏi đầu,
toàn thân cứng lại, bắp thịt co giật; cơn đau càng dữ dội buộc anh hạ hai tay
xuống, đan chéo nhau ôm lấy ngực, hai đầu gối rút lên bụng. ôi, tim tôi! Tôi bị
một cơn đau tim. Tôi sắp chết! Tôi không muốn chết đâu! Chưa muốn chết trước
khi tôi bắt đầu nhiệm vụ, khi mà tôi chưa kịp có những thử thách. Chúa nhân từ
hãy cứu con! Con không muốn chết, con không muốn chết.
Những cơn co giật thưa dần, người
mềm ra, Dane nằm ngửa, hai cánh tay giang rộng phập phồng trên mặt nước. Xuyên
qua hai hàng lông mi ướt đẫm, anh nhìn vòm trời ở xa, thật xa trên cao, thật
cao. Thế là đã kết thúc; đúng là ngọn lao của Người, ngọn lao mà lòng kiêu hãnh
của con đã van xin Người ban cho cách đây không đầy một tiếng đồng hồ. Hãy cho
con một đặc ân được đau đớn. Người hãy làm cho con đau đớn. Bây giờ khi sự đau
đớn xuất hiện, con lại cưỡng lại, không tận hưởng được tình yêu trọn vẹn. Chúa
nhân từ, nỗi đau của Người! Con phải đón lấy, con không được chống lại, con
không được chống lại ý muốn của Người! Nếu đó là ý muốn của Chúa thì ý muốn của
Người đã được thực hiện. Như một đứa trẻ, con xin trao thân này trong vòng tay
hộ mệnh của Người. Người vô cùng nhân đức đối với con. Tại sao Người ban cho
con nhiều thế trong khi con không xứng đáng nhận những ân sủng của Người? Sự
đau đớn, sự đau đớn! Người vô cùng nhân từ đối với con. Người đừng để kéo dài,
con van xin Người. Sự đau khổ của con sẽ ngắn và nhanh chóng kết thúc. Chẳng
bao lâu con sẽ nhìn được mặt Người, nhưng bây giờ, trong khi con còn ở cõi đời
này, con cảm ơn Người. Sự đau khổ! Đức Chúa Trời hiền lành của con. Người quá
nhân từ đối với con. Con yêu Người!
... Hai thanh niên người Anh báo với
một căn cứ không quân Mỹ đóng gần đó tìm kiếm Danẹ Xác của Dane được mang vào bờ
lúc năm giờ chiều, phân nửa mặt trời khuất sau vách đá.
Qua sổ thông hành của Dane, người ta
đọc thấy nơi ghi "thân nhân gần nhất" địa chỉ của Justine tại Anh.
Chương 40
Điện thoại reo. Lúc đó chín
giờ sáng, Justine còn đang ngủ. Nàng thầm rủa phương tiện văn minh quỷ quái
này, thề rằng sẽ cắt dây điện thoại không thèm sử dụng nó nữa.
Nhưng điện thoại vẫn reo liên tục Biết đâu người gọi đó là Rainer. ànghĩ đó kéo Justine trở về với cuộc sống.
- A lô, Justine O'' Neill?
- Phải rồi, Justine đây.
- Chúng tôi là Hội người Úc ở Aldwych.
Justine thất vọng vì không phải Rainer.
- Vâng, tôi nghe rõ.
Nàng chưa tỉnh ngủ, tiếp tục ngáp, mắt vẫn nhắm.
- Em trai cô có phải là ông Dane O'' Neill?
Mắt Justine mở ra.
- Đúng thế.
- Người đó đang ở Hy Lạp phải không cô O'' Neill?
Hai chân của Justine đang đứng trên thảm như lún xuống.
- Vâng, đúng thế.
Justine không muốn nghĩ đến việc giải thích với người đang liên lạc rằng đó là linh mục O'' Neill chứ không phải là ông O'' Neill.
- Cô O'' Neill, tôi rất tiếc phải báo với cô một tin không haỵ
- Một tin không hay? Một tin không hay à? Tin gì vậy? Có chuyện gì xảy ra? Dane đã bị gì?
- Tôi lấy làm tiếc mà tin cho cô hay rằng em trai của cô, ông Dane O'' Neill đã chết đuối ở Crete, trong một tình huống rất dũng cảm. Theo những tin tức tôi nhận được, ông ấy chết trong khi cứu một người đang lâm nguy ở bờ biển. Tuy nhiên, như cô đã biết, Hy Lạp dang có biến động cách mạng và các tin tức mà chúng tôi nhận được không đầy đủ, rất có thể không chính xác.
Máy điện thoại đặt trên chiếc bàn, sát vách tường mà Justine đang dựa vào, hai đầu gối của nàng cứ mềm ra. Justine tụt dần xuống đất, ngồi thu mình trên sàn nhà nấc lên những tiến đứt quãng nghe như vừa là tiếng cười vừa là tiếng khóc hòa lẫn tiếng thở hổn hển mệt nhọc. Dane chết đuối... Dane chết... Crete , Dane, chết đuối... Chết... chết.
- Cô O'' Neill? Cô còn đó không, cô O'' Neill? Bên kia đầu dây hỏi dồn dập.
- Chết. Chết đuối... Em trai tôi!
- Cô O'' Neill, hãy trả lời!
- Vâng, vâng, vâng! Trời ơi tôi vẫn ở đây.
- Theo chúng tôi biết, cô là thân nhân gần nhất của ông Dane O'' Neill. Chúng tôi phải xin ý kiến của cô về việc giải quyết như thế nào. Cô O'' Neill, cô vẫn chưa nghe chứ?
- Vâng, vâng...
- Cô muốn người ta giải quyết thế nào về xác ông ấy?
Xác! Em tôi là một cái xác! Và người ta cũng không cần phải nói rõ xác của em tôi mà chỉ là cái xác thôi. Dane, Dane của chị. Em là một cái xác.
- Thân nhân gần nhất của Dane? Tôi không phải là thân nhân gần nhất của Dane; tôi nghĩ đúng nhất là mẹ tôi.
Ngừng một lúc.
- Thế thì rất phiền phức, cô O'' Neill. Nêu cô không phải là thân nhân gần nhất của ông ấy, chúng tôi lại mất thêm một thời gian quí báu. Hình như cô không hiểu hiện nay cuộc cách mạng đang bùng nổ ở Hy Lạp và tai nạn lại xảy ra ở đây. Mọi liên lạc giữa đảo này với Athens hoàn toàn bị cắt và chúng tôi nhận được lệnh phải báo cho biết quyết định của thân nhân gần nhất liên quan đến thi thể nạn nhân. Mẹ cô có ở đấy không? Tôi có thể nói chuyện với bà không, rất cảm ơn.
- Nhưng mẹ tôi không có ở đây; bà hiện ở Úc.
- Ở Úc? Trời ơi, càng lúc càng rắc rối! Chúng tôi lại phải gởi một bức điện sang Úc, lại trễ nữa. Nếu cô không phải là thân nhân gần nhất, cô O'' Neill, thì tại sao em trai cô lại ghi tên cô nơi dành để ghi chú chi tiết này trên sổ thông hành?
- Tôi không biết - nàng nói, bất chợt nàng nhận ra mình đang cười.
- Cô cho tôi địa chỉ của mẹ cô ở Úc, chúng tôi sẽ đánh điện tín cho bà hay. Chúng tôi phải biết được một cách dứt khoát cách giải quyết thi thể của ông Dane như thế nào. Việc trao đổi điện tín trễ mất ít nhất cũng mười hai tiếng đồng hồ. Tôi rất mong cô hiểu cho. Mọi chuyện đã khó khăn rồi không kể việc bất trắc này nữa.
- Vậy ông nên gọi điện thoại cho mẹ tôi. Đừng mất thì giờ với những bức điện tín.
- Quỹ của chúng tôi không cho phép sử dụng các cuộc điện đàm quốc tế, cô O'' Neill ạ. Người liên hệ ở đầu dây nói bằng một giọng gay gắt. Xin cô vui lòng cho tôi địa chỉ của mẹ cô.
- Bà Meggie O'' Neill, Drogheda, Gillanbone, New South Wales, Úc.
Nàng nói một hơi như đọc kinh.
- Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng cô O'' Neill.
Justine buông điện thoại, ngồi phệt xuống đất. Chắc có một sự lầm lẫn nào đó, rồi tả cả chuyện này sẽ sáng tỏ. Dane bị chết đuối trong khi Dane lại lội giỏi như cá? Không, không thể được.
Nhưng đó là sự thật, Justine ơi, mày biết rõ như thế; mày từ chối không đi với Dane để bảo vệ Dane và Dane đã chết đuối. Mày là người che chở của Dane từ khi Dane còn bé và đáng lý mày phải có mặt ở đó. Nếu mày không thể cứu Dane thì mày cũng nên có đó để chết cùng Dane. Thế mà mày đã không đi cùng với Dane, chẳng qua chỉ vì mày muốn về Luân Đôn để ngủ với Rainer.
Thật khó tưởng tượng. Tất cả đều rất khó. Không có bộ phận nào trong người nàng chịu hoạt động, kể cả đôi chân. Justine ngồi dưới đất. Nàng không thể ngồi dậy. Nàng sẽ không bao giờ ngồi dậy được nữa. Trong tâm tưởng của nàng không có chỗ dành cho ai khác ngoài Dane, đâu óc nàng quay tròn càng lúc càng hẹp lại chung quanh Dane. Ôi, lạy Chúa! Tin tức sẽ về đến đó, sẽ gây đau thương cho mẹ và cho tất cả những người khác. Mẹ không có được niềm hạnh phúc ngắm nhìn lần cuối cùng gương mặt ngây ngất, nhập thần của Dane tại La Mã. Bức điện tín có thể đến đồn cảnh sát ở Gilly, nàng nghĩ bụng. Và ông trung sĩ già Ern sẽ lên xe hơi đi suốt đoạn đường dài đến Drogheda để báo với mẹ rằng con trai của bà đã chết. Ông ấy không phải là người thích hợp với nhiệm vụ này, ông là người xa lạ. Thưa bà O'' Neill, tôi xin phép được bày tỏ những lời chia buồn xúc động nhất, con trai bà đã chết. Những lời lẽ lễ phép, khuôn sáo, rỗng tuếch... Không! Tôi không thể để xảy ra như thế, bà cũng là mẹ của tôi! Không thể theo cái cách mà tôi đã nhận hung tin, không thể theo cách đó.
Nàng đặt máy điện thoại lên đầu gối, cầm ống nghe và quay số điện đàm quốc tế.
Chính Meggie nghe điện thoại, lúc ấy đã khuya. Fiona đã đi ngủ. Thời gian gần đây bà thường về phòng sớm, thích ngồi trên giườn nghe tiếng dế và ếch kêu rồi ngủ gà ngủ gật trên cuốn sách và nhớ lại chuyện xưa.
- A lô?
- Thưa bà O'' Neill, có điện thoại từ Luân Đôn. Tiếng nói của Hazel từ tổng đài ở Gilly.
- A lô, có phải Justine không? Meggie hỏi một cách bình thản vì thỉnh thoảng Justine vẫn điện thoại hỏi thăm bà.
- A lô, thưa mẹ. Có phải mẹ không?
- Mẹ đây, Meggie trả lời dịu dàng, bà nhận ra lời nói hoảng hốt của con gái.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi, Dane chết rồi, Dane chết rồi mẹ ơi!
Vực thẳm lộ ra dưới chân Meggie, và bà rơi xuống đó, tiếp tục rơi mãi, bởi vực thẳm không có đáy. Bà có cảm giác như mặt đất đã khép kín lại trên đầu và bà nhận ra rằng bà sẽ không bao giờ trồi lên được cho đến ngày nào bà vẫn còn sống. Các thánh thần còn có thể làm gì hơn nữa? Bà không biết được điều đó khi đặt ra câu hỏi. Nhưng tại sao bà lại đặt ra một câu hỏi như thế; tại sao bà lại không thể biết trước điều đó? Đừng thách thức các thánh thần, các vị chỉ chờ có thế. Chối từ đi La Mã để chia sẻ giây phút hạnh phúc nhất của đời con mình. Bà tưởng rằng như thế là đã nộp xong cống vật.
- Justine, con thương yêu, con hãy bình tĩnh. Meggie khuyên con giọng đều đều không thay đổi. Con bình tĩnh lại và nói rõ cho mẹ biết chuyện gì đã xảy ra. Con có biết chắc như thế không?
- Hội người Úc gọi điện thoại cho con... Họ tưởng rằng con là người thân nhất của Dane. Một thằng cha tàn nhẫn cứ hỏi luôn miệng con muốn giải quyết ra sao thi thể của Dane.
- Chuyện xảy ra như thế nào Justine? Ở đâu? ở La Mã à? Tại sao Ralph không gọi cho mẹ?
- Thưa mẹ không phải ở La Mã. Rất có thể Đức Hồng Y không hay biết. Ở Crete. Người đàn ông gọi điện thoại cho con bảo rằng Dane chết đuối trong lúc cứu một người khác. Con muốn ở lại Luân Đôn đóng vai Desdemona. Con muốn ở lại với Rainer. Phải chi con cùng đi với Dane! Phải chi con ở bên cạnh em con, biết đâu sẽ không có chuyện gì xảy ra. Ôi Chúa, bây giờ phải làm gì đây thưa mẹ?
- Dừng lại Justine! Meggie cản ngăn con một cách trìu mến. Đừng lẩn quẩn với ý nghĩ không hay nghe không? Dane rất ghét như thế, con biết rõ mà. Tai họa giáng xuống và chúng ta cũng không biết tại sao nhưng bây giờ con phải bình tĩnh lại, mẹ có mất cả hai con đâu. Con là tất cả những gì còn lại của mẹ. Justine con của mẹ. Justine! Sao con ở xa mẹ thế. Thế giới quá rộng lớn, quá rộng lớn. Con hãy trở về Drogheda, mẹ không muốn con cô độc một mình.
- Không thể được, mẹ. Con phải làm việc. Công việc là chiếc phao duy nhất hiện nay của con. Nếu không làm việc, con sẽ điên mất. Con không muốn gặp ai hết, con không cần sự an ủi, mẹ ạ! Làm sao chúng ta có thể sống được khi thiếu Dane?
- Justine thương yêu của mẹ, đừng khóc nữa. Con ráng dằn nỗi đau xuống. Dane không muốn con khóc như thế đâu, con dư biết điều đó mà. Con hãy trở về nhà và quên đi. Chúng ta sẽ đưa Dane về Drogheda, thế là tự nhiên Dane lại thuộc về mẹ. Giáo hội không có quyền ngăn trở mẹ, họ không có quyền. Mẹ sẽ gọi điện thoại cho hội người Úc ngay tức khắc và tòa đại sứ của ta tại Athenes nếu vẫn có thể liên lạc. Dane phải trở về nhà! Mẹ không muốn em con nằm xuống ở một nơi nào khác hơn là Drogheda. Chỉ có ở đây mà thôi và Dane phải về đây. Con cũng về ngay với em con chứ, Justine?
Ngồi dưới đất, Justine lắc đầu như thể mẹ nàng có thể nhìn thấy. Trở về nhà ư? Nàng sẽ không bao giờ về nhà. Nếu có Justine đi theo thì Dane đã không chết. Về nhà và phải nhìn nét mặt của mẹ suốt cuộc đời còn lại sao? Không, ngay trong ý nghĩ nàng đã không thể chịu đựng nổi điều đó.
- Không đâu, mẹ - Justine nói, gương mặt đầy nước mắt - Con sẽ ở lại đây và làm việc. Con sẽ trở về nhà với Dane nhưng sau đó con lại qua Luân Đôn, con không muốn sống ở Drogheda.
Ba ngày liên tiếp, mọi người chìm trong thứ không khí hoang mang và trống rỗng. Justine ở Luân Đôn, Meggie và gia đình ở Drogheda; tin tức về cái chết của Dane bị gián đoạn đã kéo dài hy vọng về một điều không thể xảy ra. Justine tưởng tượng Dane sẽ đập của phòng của nàng bước vào mỉm cười, giải thích chẳng qua là một sự lầm lẫn nào đấy. Tình hình Hy Lạp đang sôi sục, có biết bao nhiêu tin tức không chính xác kia mà.
Bốn ngày sau khi Justine nhận được tin tức về Dane, Justine như một cô gái già. Một buổi sáng nàng mệt mỏi nhắc điện thoại lên và xin liên lạc với Úc.
- Có phải mẹ không?
- Justine đó hả?
- Con đây, thưa mẹ. Dane đã được an táng, thế là chúng ta không thể đưa Dane về Drogheda. Bây giờ mình phải làm gì hả mẹ? Nhà chức trách không cho biết gì thêm mà cứ lặp lại là đảo Crete rất rộng và không biết được vùng đất Dane nằm là gì. Khi con nhận được điện tín, thì Dane đã đem đi chôn cất. Ngôi mộ của Dane ở một nơi nào đó người ta không nói rõ và trên bia không ghi một chữ nào. Con không xin được hộ chiếu đi Hy Lạp, không ai giúp con, đúng là hỗn loạn. Mình làm gì bây giờ hở mẹ?
- Con đến La Mã gặp mẹ, Justine, - Meggie nói với con gái.
Mọi người - ngoại trừ Anne Mueller - đều vây quanh điện thoại, trên mặt lộ rõ đau thương. Chỉ mới ba ngày mà thấy mấy người đàn ông trong nhà như già thêm hai mươi tuổi. Fiona thì co quắp lại như một con chim bị bệnh, xanh xao. Ba cau có, đi tới đi lui trong nhà, miệng lẩm bẩm:
- Tại sao tôi không chết thay cho nó? Tại sao nó phải chết? Tôi già rồi, già quá rồi! Để cho tôi ra đi có phải là đơn giản hơn không. Tại sao lại là nó mà không phải tôi?
Meggie lặng nhìn mọi người và đặt điện thoại xuống. Drogheda còn lại bấy nhiêu người và chỉ có bấy nhiêu, một nhóm nhỏ đàn ông lẫn đàn bà lớn tuổi mệt mỏi và không còn có thể sinh nở gì được.
- Dane đã mất rồi. Meggie nói. Không ai có thể tìm ra thi thể Dane được. Nó được chôn cất ở một nơi nào đó trên đảo Crete xa xôi! Không thể để Dane nằm xuống ở một nơi xa Drogheda đến thế? Tôi sẽ đi La Mã ngay gặp Ralph. Ông ấy là người duy nhất có thể giúp chúng tạ
Linh mục bí thư của Hồng Y De Bricassart bước vào phòng.
- Thưa Đức cha, con xin lỗi làm bận rộn Đức cha, nhưng có một bà nhất định muốn gặp cho được Đức cha. Con có giải thích với bà ấy rằng Đức cha đang chủ trì hội nghị giám mục, rằng Đức cha đang rất bận và không thể tiếp bất cứ ai lúc này. Nhưng bà ấy khăng khăng rằng bà sẽ ngồi mãi trước cửa phòng của Đức cha cho đến khi nào Đức cha có thể tiếp.
- Theo cha thì bà ấy có gặp chuyện phiền phức không?
- Chắc là bà gặp chuyện phiền phức lớn thưa Đức cha. Bà yêu cầu con nói với Đức cha tên bà là Meggie O'' Neill.
Hồng Y De Bricassart đứng phắt dậy; mặt ông biến sắc, trắng bệch như mái tóc đã ngả màu. Còn vị linh mục bí thư thì hốt hoảng:
- Thưa Đức cha, Đức cha có sao không?
- Không có gì đâu cha. Tôi vẫn bình thường xin cảm ơn. Cha hãy hủy bỏ các cuộc hẹn cho đến khi có lệnh mới và cha mời bà O'' Neill vào đây ngay. Đừng để cho ai quấy rầy, ngoại trừ Đức Thánh cha có chuyện gì cần đến.
Linh mục nghiêng người chào cha Ralph và bước ra.
Meggie bước vào, suýt chút nữa Ralph nhìn không ra. Mười ba năm rồi, ông không gặp lại Meggie. Bã đã năm mươi ba tuổi, còn ông bảy mươi mốt, không phải chỉ riêng mình Ralph mà cả Meggie cũng đã già. Trên gương mặt của Meggie ít có nét thay đổi nhưng sự nghiêm khắc đã thay thế cho sự dịu dàng; sự cứng rắn thay thế cho tâm lý âu yếm. Bà là hình ảnh của một người tử vì đạo rắn rỏi, có tuổi và cương quyết hơn là một nữ thánh vốn nhẫn nhục và trầm tư trong những giấc mơ của mình. Meggie vẫn đẹp lạ lùng hơn bao giờ hết, đôi mắt lanh lẹ vẫn màu nâu và mái tóc rực rỡ ngả sang màu xám nâu nhạt, hơi giống màu tóc của Dane. Và càng ngạc nhiên hơn, Meggie lại từ chối nhìn Ralph đủ lâu để ông có thể thỏa mãn sự khao khát sau bao nhiêu năm không gặp.
Trước một Meggie như xa lạ ấy, Ralph không thể nào đón tiếp tự nhiên được, ông chỉ cho bà ghế ngồi và không trở lại được cách xưng hô thân mật xưa kia.
- Mời bà ngồi.
- Cảm ơn, - bà nói cũng cầu kỳ không kém.
Khi Meggie ngồi xuống, ông có thể nhìn rõ bà và nhận ra bàn chân và cổ chân của Meggie sưng lên rất dữ.
- Meggie! ông kêu lên. Em đã đến thẳng... Không dừng lại nơi nào hết à? Có chuyện gì thế?
- Vâng, tôi đến thẳng đây. Suốt hai mươi chín giờ đồng hồ ngồi trên các máy bay từ Gilly đến La Mã tôi không biết làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng và suy nghĩ.
- Có chuyện gì? Ông lặp lại, sốt ruột, lo âu, sợ hãi.
Bà ngước nhìn lên, nhìn thẳng Ralph.
Trong đôi mắt lạnh lùng của Meggie, có cái gì đó thê thảm tận cùng khiến cho Ralph phải ớn lạnh. Ông đưa bàn tay đặt lên sau cổ.
- Dane đã chết. - Meggie nói.
Bàn tay đeo chiếc nhẫn Hồng Y tụt xuống, rơi thẳng trên đầu gối như bàn tay một con búp bê nhồi trấu, toàn thân ông mềm nhũn trên chiếc ghế bành.
- Chết à? Ông hỏi chậm rãi. Dane chết?
- Vâng. Nó chết đuối cách đây sáu ngày ở đảo Crete trong khi bơi ra cứu hai cô gái bị nước cuốn.
Ông nghiêng người ra phía trước, hai bàn tay đưa lên, chạm mặt.
- Chết? Miệng ông ấp úng. Dane! Dane chết? Thằng bé tuyệt vời ấy... Nó không thể chết được! Dane... linh mục hoàn toàn... tất cả những gì tôi không thể có được... Nó có tất cả những gì tôi không có... Nó luôn luôn có được điều đó... Chúng tôi đều biết như thế... Tất cả chúng tôi đều không phải là những linh mục thật hoàn chỉnh. Chết rồi ư? Ôi, Đức Chúa Trời nhân ái!
- Ông không có gì phải lo lắng về Đức Chúa Trời nhân ái của ông, Ralph ạ! Người phụ nữ có vẻ xa lạ ngồi trước mặt ông lên tiếng - Ông có chuyện khác cần làm hơn. Tôi đến đây để yêu cầu sự giúp đỡ của ông... chứ không phải làm chứng cho sự đau xót. Trong suốt những giờ ngồi trên máy bay, tôi không ngừng lặp đi lặp lại những lời lẽ mà tôi sẽ phải nói để báo tin này cho ông... Tất cả những giờ phút ấy tôi không thể làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng. Dane đã chết rồi. Sau một thử thách ghê gớm như thế, tôi chẳng cần gì đến nỗi đau xót của ông.
Khi Ralph ngước đầu lên thì trái tim tưởng chừng như chết lịm và băng giá của Meggie giật nẩy lên, se thắt lại. Đúng là gương mặt của Dane rồi nhưng sao lại hằn lên nét đau khổ.
- Anh có thể giúp được gì cho em, Meggie? ông hỏi giọng đều đều, kìm chết xúc động để có thể trở lại với vai trò người chăm lo về mặt tinh thần.
- Hy Lạp đang sôi sục cách mạng. Người ta chôn Dane một nơi nào đó ở Crete mà tôi không biết, chôn lúc nào tôi cũng chẳng hay. Vì không thể liên lạc, nên người ta tưởng nó đơn độc trên cõi đời này. Tôi muốn người ta trả lại con cho tôi, Ralph. Tôi muốn người ta tìm Dane và đưa trở về nhà để nó được yên nghỉ trên mảnh đất Drogheda thân yêu. Tôi đã hứa với Justine rằng em của nó sẽ được chôn ở Drogheda và chắc chắn phải như thế, cho dù tôi buộc phải đi bằng đầu gối tìm kiếm Dane khắp các nghĩa trang ở Crete. Không bao giờ tôi để cho nó nằm trong một ngôi mộ của người tu hành ở La Mã này. Không thể có chuyện đó ngày nào tôi còn thở để đòi lấy sự hợp lý này. Nó phải về nhà thôi, Ralph ạ.
- Không ai tước đi quyền ấy của em, Meggie - ông nói dịu dàng - Giáo hội chỉ buộc Dane được yên nghỉ trên đất thánh. Anh cũng thế, anh muốn được nằm xuống ở Drogheda.
- Tôi không mất thời gì vì những chuyện thủ tục hợp pháp - Bà nói tiếp không thèm để ý đến câu trả lời của Ralph - Tôi không biết nói tiếng Hy Lạp và cũng chẳng có quyền hành hay ảnh hưởng gì tại đây. Do đó, tôi phải nhờ vào quyền hành và ảnh hưởng của ông. Hãy mang trả lại con trai cho tôi, Ralph.
- Em đừng quá lo lắng, Meggie, Dane sẽ được trả lại cho em, nhưng có lẽ phải mất một ít thời gian. Cánh tả đang cầm quyền ở Hy Lạp và hiện nay họ chống giáo hội gay gắt. Tuy nhiên anh không thiếu bạn bè ở đấy và có thể giúp được. Em cứ để cho anh tiến hành ngay và đừng lo lắng nữa. Đây là chuyện liên quan đến Nhà thờ công giáo và người ta sẽ giao trả Dane cho chúng ta.
Đưa tay định nắm dây kéo chuông để gọi linh mục bí thư, nhưng trước cái nhìn lạnh lùng của Meggie, ông ngừng tay lại.
- Ông không hiểu gì hết, Ralph. Tôi không yêu cầu ông cho tiến hành. Tôi muốn lấy lại con tôi... Không phải trong tuần lễ tới hay tháng tới, mà ngay tức khắc. Ông biết nói tiếng Hy Lạp cũng như có thể xin các giấy nhập cảnh cho ông và cho tôi một cách dễ dàng. Tôi muốn ông cùng đi với tôi sang Hy Lạp ngay và ông giúp tôi tìm lại con tôi.
Ãnh mắt của Ralph chứa đựng nhiều tình cảm lẫn lộn: âu yếm, trắc ẩn, xúc động, xót xa. Trong ánh mắt ấy còn có cả sự tỉnh táo.
- Meggie, anh thương con em như con của anh, nhưng anh không thể rời La Mã lúc này. Anh không được tự do hành động theo ý muốn của anh... Đáng lý em biết rõ điều đó hơn ai hết. Tình cảm của anh đối với em thế nào em đã rõ và dù nỗi đau khổ của anh có nặng trĩu đến đâu, anh vẫn không thể rời La Mã ngay giữa thời kỳ hội nghị! Hội đồng giám mục. Anh đang làm phụ tá cho Đức Thánh Cha.
Ngồi bật ra phía sau, bàng hoàng như bị xúc phạm, Meggie lắc đầu, nhếch miệng cười mỉm cay đắng như đang chứng kiến một trò hề. Nàng bắt đầu run lên, liếm môi như sắp lấy một quyết định rồi ngồi thẳng, ngay ngắn, cứng nhắc.
- Có thật ông thương con của tôi như nó là con của ông không, Ralph? ông sẽ hành động ra sao nếu đó là con của chính ông? Có thể nào ông lại tiếp tục ngồi đây và nói với mẹ của nó rằng “Không, tôi lấy làm tiếc; tôi không thể nào bỏ công việc đượcâ€. Ông có thể nói như thế với mẹ của con ông chứ?
Đôi mắt của Dane - nhưng thật thật ra không phải của Dane - nhìn bà, hốt hoảng, tràn đầy đau khổ, bất lực.
- Anh không có con, ông nói. Nhưng anh đã học ở con em rất nhiều điều như phải biết vượt qua những khó khăn tệ hại nhất và luôn hướng về Chúa bằng tấm lòng chân thật.
- Dane chính là con của ông, - Meggie đột ngột nói.
Ralph nhìn bà bằng cái nhìn trống rỗng, nói hoảng hốt:
- Cái gì?
- Tôi muốn nói rằng Dane chính là con của anh. Khi em rời khỏi Matlock, em đã có thai, Dane là con của anh chứ không phải của Luke O'' Neill.
- Không thể... như thế được!
- Em không có ý định nói cho anh biết điều đó, ngay cả bây giờ em cũng chẳng muốn nói như thế đâu. Anh nghĩ em nói láo với anh chăng? Để làm gì?
-... Để tìm cách lấy lại Dane? Đúng thế. ông nói bằng một giọng rất thấp.
Meggie bước tới, đứng trước Ralph. Giờ đây ông ta chỉ còn là một khối bất động trong chiếc ghế bành bọc gấm màu vàng rực. Meggie cầm đôi bàn tay gầy, nhăn nheo đặt vào tay mình, nghiêng mình xuống và hôn chiếc nhẫn, hơi thở làm mờ viên hồng ngọc.
- Ralph à! Trên tất cả những điều thiêng liêng nhất, em xin thề rằng Dane là con của anh. Nó không phải và không thể nào là con của Luke được. Em xin thề với anh điều đó. Em xin thề trên vong hồn của con chúng ta như thế.
Tếng kêu rên siết của Ralph chẳng khác gì lời than vãn của một linh hồn vừa bước qua các cửa địa ngục. Ralph tuột khỏi chiếc ghế, buông người sụp xuống tấm thảm đỏ thắm, ông khóc, gương mặt giấu trong hai cánh tay khoanh lại, những ngón tay bấu chặt vào tóc.
- Phải, anh cứ khóc đi! Meggie nói. Bây giờ anh đã biết rồi thì anh cứ khóc! Cũng đúng thôi, một trong những người thân nhất của Dane được nhỏ những giọt nước mắt cho con. Khóc đi, Ralph. Trong suốt hai mươi sáu năm, em đã có đứa con, con của anh; nhưng còn anh thì không hề hay biết nó là con của anh. Anh không nhìn ra, anh không nhận ra nó là anh, là một nửa con người của anh! Khi mẹ em kéo Dane ra khỏi bụng em, mẹ đã biết ngay nó là con của anh, nhưng anh thì không hề biết. Bàn tay của anh, bàn chân của anh, gương mặt của anh, thân hình của anh. Chỉ có màu tóc là của em. Bây giờ thì anh đã hiểu rồi chứ? Khi em gởi Dane đến đây, em đã nói trong bức thư gởi anh: “Cái gì em đã đánh cắp của anh, em xin trả lại cho anh. Anh còn nhớ chứ? Cả hai chúng ta đã ăn cắp Dane, anh ạ. Chúng ta đã ăn cắp cái mà anh đã hiến cho Chúa, do đó cả hai chúng ta phải trả giá mà thôi.
Meggie quay trở lại ngồi vào chiếc ghế của mình, khắc khổ, tàn nhẫn, nhìn khối đỏ chói nằm rên rỉ dưới đất.
- Em đã yêu anh, Ralph, nhưng anh chưa bao giờ thuộc về em cả, Dane là tất cả những gì mà em có thể giành được ở anh. Em đã thề rằng anh sẽ không bao giờ biết được điều đó, rằng anh không bao giờ có khả năng lấy lại. Thế nhưng, nó đã tự nguyện về với anh, do chính ý muốn của nó. Nó coi anh như là hình ảnh của một linh mục lý tưởng. Em suýt nữa cười phì! Nhưng không đời nào em lại trao cho anh một thứ vũ khí bằng cách thú nhận với anh nó là con của anh, trừ khi sự việc đã xảy ra như thế này thì em mới thấy cần phải nói với anh điều đó, mặc dù bây giờ cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Dane không thuộc về ai trong hai chúng ta mà thuộc về Chúa.
Nhưng điện thoại vẫn reo liên tục Biết đâu người gọi đó là Rainer. ànghĩ đó kéo Justine trở về với cuộc sống.
- A lô, Justine O'' Neill?
- Phải rồi, Justine đây.
- Chúng tôi là Hội người Úc ở Aldwych.
Justine thất vọng vì không phải Rainer.
- Vâng, tôi nghe rõ.
Nàng chưa tỉnh ngủ, tiếp tục ngáp, mắt vẫn nhắm.
- Em trai cô có phải là ông Dane O'' Neill?
Mắt Justine mở ra.
- Đúng thế.
- Người đó đang ở Hy Lạp phải không cô O'' Neill?
Hai chân của Justine đang đứng trên thảm như lún xuống.
- Vâng, đúng thế.
Justine không muốn nghĩ đến việc giải thích với người đang liên lạc rằng đó là linh mục O'' Neill chứ không phải là ông O'' Neill.
- Cô O'' Neill, tôi rất tiếc phải báo với cô một tin không haỵ
- Một tin không hay? Một tin không hay à? Tin gì vậy? Có chuyện gì xảy ra? Dane đã bị gì?
- Tôi lấy làm tiếc mà tin cho cô hay rằng em trai của cô, ông Dane O'' Neill đã chết đuối ở Crete, trong một tình huống rất dũng cảm. Theo những tin tức tôi nhận được, ông ấy chết trong khi cứu một người đang lâm nguy ở bờ biển. Tuy nhiên, như cô đã biết, Hy Lạp dang có biến động cách mạng và các tin tức mà chúng tôi nhận được không đầy đủ, rất có thể không chính xác.
Máy điện thoại đặt trên chiếc bàn, sát vách tường mà Justine đang dựa vào, hai đầu gối của nàng cứ mềm ra. Justine tụt dần xuống đất, ngồi thu mình trên sàn nhà nấc lên những tiến đứt quãng nghe như vừa là tiếng cười vừa là tiếng khóc hòa lẫn tiếng thở hổn hển mệt nhọc. Dane chết đuối... Dane chết... Crete , Dane, chết đuối... Chết... chết.
- Cô O'' Neill? Cô còn đó không, cô O'' Neill? Bên kia đầu dây hỏi dồn dập.
- Chết. Chết đuối... Em trai tôi!
- Cô O'' Neill, hãy trả lời!
- Vâng, vâng, vâng! Trời ơi tôi vẫn ở đây.
- Theo chúng tôi biết, cô là thân nhân gần nhất của ông Dane O'' Neill. Chúng tôi phải xin ý kiến của cô về việc giải quyết như thế nào. Cô O'' Neill, cô vẫn chưa nghe chứ?
- Vâng, vâng...
- Cô muốn người ta giải quyết thế nào về xác ông ấy?
Xác! Em tôi là một cái xác! Và người ta cũng không cần phải nói rõ xác của em tôi mà chỉ là cái xác thôi. Dane, Dane của chị. Em là một cái xác.
- Thân nhân gần nhất của Dane? Tôi không phải là thân nhân gần nhất của Dane; tôi nghĩ đúng nhất là mẹ tôi.
Ngừng một lúc.
- Thế thì rất phiền phức, cô O'' Neill. Nêu cô không phải là thân nhân gần nhất của ông ấy, chúng tôi lại mất thêm một thời gian quí báu. Hình như cô không hiểu hiện nay cuộc cách mạng đang bùng nổ ở Hy Lạp và tai nạn lại xảy ra ở đây. Mọi liên lạc giữa đảo này với Athens hoàn toàn bị cắt và chúng tôi nhận được lệnh phải báo cho biết quyết định của thân nhân gần nhất liên quan đến thi thể nạn nhân. Mẹ cô có ở đấy không? Tôi có thể nói chuyện với bà không, rất cảm ơn.
- Nhưng mẹ tôi không có ở đây; bà hiện ở Úc.
- Ở Úc? Trời ơi, càng lúc càng rắc rối! Chúng tôi lại phải gởi một bức điện sang Úc, lại trễ nữa. Nếu cô không phải là thân nhân gần nhất, cô O'' Neill, thì tại sao em trai cô lại ghi tên cô nơi dành để ghi chú chi tiết này trên sổ thông hành?
- Tôi không biết - nàng nói, bất chợt nàng nhận ra mình đang cười.
- Cô cho tôi địa chỉ của mẹ cô ở Úc, chúng tôi sẽ đánh điện tín cho bà hay. Chúng tôi phải biết được một cách dứt khoát cách giải quyết thi thể của ông Dane như thế nào. Việc trao đổi điện tín trễ mất ít nhất cũng mười hai tiếng đồng hồ. Tôi rất mong cô hiểu cho. Mọi chuyện đã khó khăn rồi không kể việc bất trắc này nữa.
- Vậy ông nên gọi điện thoại cho mẹ tôi. Đừng mất thì giờ với những bức điện tín.
- Quỹ của chúng tôi không cho phép sử dụng các cuộc điện đàm quốc tế, cô O'' Neill ạ. Người liên hệ ở đầu dây nói bằng một giọng gay gắt. Xin cô vui lòng cho tôi địa chỉ của mẹ cô.
- Bà Meggie O'' Neill, Drogheda, Gillanbone, New South Wales, Úc.
Nàng nói một hơi như đọc kinh.
- Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng cô O'' Neill.
Justine buông điện thoại, ngồi phệt xuống đất. Chắc có một sự lầm lẫn nào đó, rồi tả cả chuyện này sẽ sáng tỏ. Dane bị chết đuối trong khi Dane lại lội giỏi như cá? Không, không thể được.
Nhưng đó là sự thật, Justine ơi, mày biết rõ như thế; mày từ chối không đi với Dane để bảo vệ Dane và Dane đã chết đuối. Mày là người che chở của Dane từ khi Dane còn bé và đáng lý mày phải có mặt ở đó. Nếu mày không thể cứu Dane thì mày cũng nên có đó để chết cùng Dane. Thế mà mày đã không đi cùng với Dane, chẳng qua chỉ vì mày muốn về Luân Đôn để ngủ với Rainer.
Thật khó tưởng tượng. Tất cả đều rất khó. Không có bộ phận nào trong người nàng chịu hoạt động, kể cả đôi chân. Justine ngồi dưới đất. Nàng không thể ngồi dậy. Nàng sẽ không bao giờ ngồi dậy được nữa. Trong tâm tưởng của nàng không có chỗ dành cho ai khác ngoài Dane, đâu óc nàng quay tròn càng lúc càng hẹp lại chung quanh Dane. Ôi, lạy Chúa! Tin tức sẽ về đến đó, sẽ gây đau thương cho mẹ và cho tất cả những người khác. Mẹ không có được niềm hạnh phúc ngắm nhìn lần cuối cùng gương mặt ngây ngất, nhập thần của Dane tại La Mã. Bức điện tín có thể đến đồn cảnh sát ở Gilly, nàng nghĩ bụng. Và ông trung sĩ già Ern sẽ lên xe hơi đi suốt đoạn đường dài đến Drogheda để báo với mẹ rằng con trai của bà đã chết. Ông ấy không phải là người thích hợp với nhiệm vụ này, ông là người xa lạ. Thưa bà O'' Neill, tôi xin phép được bày tỏ những lời chia buồn xúc động nhất, con trai bà đã chết. Những lời lẽ lễ phép, khuôn sáo, rỗng tuếch... Không! Tôi không thể để xảy ra như thế, bà cũng là mẹ của tôi! Không thể theo cái cách mà tôi đã nhận hung tin, không thể theo cách đó.
Nàng đặt máy điện thoại lên đầu gối, cầm ống nghe và quay số điện đàm quốc tế.
Chính Meggie nghe điện thoại, lúc ấy đã khuya. Fiona đã đi ngủ. Thời gian gần đây bà thường về phòng sớm, thích ngồi trên giườn nghe tiếng dế và ếch kêu rồi ngủ gà ngủ gật trên cuốn sách và nhớ lại chuyện xưa.
- A lô?
- Thưa bà O'' Neill, có điện thoại từ Luân Đôn. Tiếng nói của Hazel từ tổng đài ở Gilly.
- A lô, có phải Justine không? Meggie hỏi một cách bình thản vì thỉnh thoảng Justine vẫn điện thoại hỏi thăm bà.
- A lô, thưa mẹ. Có phải mẹ không?
- Mẹ đây, Meggie trả lời dịu dàng, bà nhận ra lời nói hoảng hốt của con gái.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi, Dane chết rồi, Dane chết rồi mẹ ơi!
Vực thẳm lộ ra dưới chân Meggie, và bà rơi xuống đó, tiếp tục rơi mãi, bởi vực thẳm không có đáy. Bà có cảm giác như mặt đất đã khép kín lại trên đầu và bà nhận ra rằng bà sẽ không bao giờ trồi lên được cho đến ngày nào bà vẫn còn sống. Các thánh thần còn có thể làm gì hơn nữa? Bà không biết được điều đó khi đặt ra câu hỏi. Nhưng tại sao bà lại đặt ra một câu hỏi như thế; tại sao bà lại không thể biết trước điều đó? Đừng thách thức các thánh thần, các vị chỉ chờ có thế. Chối từ đi La Mã để chia sẻ giây phút hạnh phúc nhất của đời con mình. Bà tưởng rằng như thế là đã nộp xong cống vật.
- Justine, con thương yêu, con hãy bình tĩnh. Meggie khuyên con giọng đều đều không thay đổi. Con bình tĩnh lại và nói rõ cho mẹ biết chuyện gì đã xảy ra. Con có biết chắc như thế không?
- Hội người Úc gọi điện thoại cho con... Họ tưởng rằng con là người thân nhất của Dane. Một thằng cha tàn nhẫn cứ hỏi luôn miệng con muốn giải quyết ra sao thi thể của Dane.
- Chuyện xảy ra như thế nào Justine? Ở đâu? ở La Mã à? Tại sao Ralph không gọi cho mẹ?
- Thưa mẹ không phải ở La Mã. Rất có thể Đức Hồng Y không hay biết. Ở Crete. Người đàn ông gọi điện thoại cho con bảo rằng Dane chết đuối trong lúc cứu một người khác. Con muốn ở lại Luân Đôn đóng vai Desdemona. Con muốn ở lại với Rainer. Phải chi con cùng đi với Dane! Phải chi con ở bên cạnh em con, biết đâu sẽ không có chuyện gì xảy ra. Ôi Chúa, bây giờ phải làm gì đây thưa mẹ?
- Dừng lại Justine! Meggie cản ngăn con một cách trìu mến. Đừng lẩn quẩn với ý nghĩ không hay nghe không? Dane rất ghét như thế, con biết rõ mà. Tai họa giáng xuống và chúng ta cũng không biết tại sao nhưng bây giờ con phải bình tĩnh lại, mẹ có mất cả hai con đâu. Con là tất cả những gì còn lại của mẹ. Justine con của mẹ. Justine! Sao con ở xa mẹ thế. Thế giới quá rộng lớn, quá rộng lớn. Con hãy trở về Drogheda, mẹ không muốn con cô độc một mình.
- Không thể được, mẹ. Con phải làm việc. Công việc là chiếc phao duy nhất hiện nay của con. Nếu không làm việc, con sẽ điên mất. Con không muốn gặp ai hết, con không cần sự an ủi, mẹ ạ! Làm sao chúng ta có thể sống được khi thiếu Dane?
- Justine thương yêu của mẹ, đừng khóc nữa. Con ráng dằn nỗi đau xuống. Dane không muốn con khóc như thế đâu, con dư biết điều đó mà. Con hãy trở về nhà và quên đi. Chúng ta sẽ đưa Dane về Drogheda, thế là tự nhiên Dane lại thuộc về mẹ. Giáo hội không có quyền ngăn trở mẹ, họ không có quyền. Mẹ sẽ gọi điện thoại cho hội người Úc ngay tức khắc và tòa đại sứ của ta tại Athenes nếu vẫn có thể liên lạc. Dane phải trở về nhà! Mẹ không muốn em con nằm xuống ở một nơi nào khác hơn là Drogheda. Chỉ có ở đây mà thôi và Dane phải về đây. Con cũng về ngay với em con chứ, Justine?
Ngồi dưới đất, Justine lắc đầu như thể mẹ nàng có thể nhìn thấy. Trở về nhà ư? Nàng sẽ không bao giờ về nhà. Nếu có Justine đi theo thì Dane đã không chết. Về nhà và phải nhìn nét mặt của mẹ suốt cuộc đời còn lại sao? Không, ngay trong ý nghĩ nàng đã không thể chịu đựng nổi điều đó.
- Không đâu, mẹ - Justine nói, gương mặt đầy nước mắt - Con sẽ ở lại đây và làm việc. Con sẽ trở về nhà với Dane nhưng sau đó con lại qua Luân Đôn, con không muốn sống ở Drogheda.
Ba ngày liên tiếp, mọi người chìm trong thứ không khí hoang mang và trống rỗng. Justine ở Luân Đôn, Meggie và gia đình ở Drogheda; tin tức về cái chết của Dane bị gián đoạn đã kéo dài hy vọng về một điều không thể xảy ra. Justine tưởng tượng Dane sẽ đập của phòng của nàng bước vào mỉm cười, giải thích chẳng qua là một sự lầm lẫn nào đấy. Tình hình Hy Lạp đang sôi sục, có biết bao nhiêu tin tức không chính xác kia mà.
Bốn ngày sau khi Justine nhận được tin tức về Dane, Justine như một cô gái già. Một buổi sáng nàng mệt mỏi nhắc điện thoại lên và xin liên lạc với Úc.
- Có phải mẹ không?
- Justine đó hả?
- Con đây, thưa mẹ. Dane đã được an táng, thế là chúng ta không thể đưa Dane về Drogheda. Bây giờ mình phải làm gì hả mẹ? Nhà chức trách không cho biết gì thêm mà cứ lặp lại là đảo Crete rất rộng và không biết được vùng đất Dane nằm là gì. Khi con nhận được điện tín, thì Dane đã đem đi chôn cất. Ngôi mộ của Dane ở một nơi nào đó người ta không nói rõ và trên bia không ghi một chữ nào. Con không xin được hộ chiếu đi Hy Lạp, không ai giúp con, đúng là hỗn loạn. Mình làm gì bây giờ hở mẹ?
- Con đến La Mã gặp mẹ, Justine, - Meggie nói với con gái.
Mọi người - ngoại trừ Anne Mueller - đều vây quanh điện thoại, trên mặt lộ rõ đau thương. Chỉ mới ba ngày mà thấy mấy người đàn ông trong nhà như già thêm hai mươi tuổi. Fiona thì co quắp lại như một con chim bị bệnh, xanh xao. Ba cau có, đi tới đi lui trong nhà, miệng lẩm bẩm:
- Tại sao tôi không chết thay cho nó? Tại sao nó phải chết? Tôi già rồi, già quá rồi! Để cho tôi ra đi có phải là đơn giản hơn không. Tại sao lại là nó mà không phải tôi?
Meggie lặng nhìn mọi người và đặt điện thoại xuống. Drogheda còn lại bấy nhiêu người và chỉ có bấy nhiêu, một nhóm nhỏ đàn ông lẫn đàn bà lớn tuổi mệt mỏi và không còn có thể sinh nở gì được.
- Dane đã mất rồi. Meggie nói. Không ai có thể tìm ra thi thể Dane được. Nó được chôn cất ở một nơi nào đó trên đảo Crete xa xôi! Không thể để Dane nằm xuống ở một nơi xa Drogheda đến thế? Tôi sẽ đi La Mã ngay gặp Ralph. Ông ấy là người duy nhất có thể giúp chúng tạ
Linh mục bí thư của Hồng Y De Bricassart bước vào phòng.
- Thưa Đức cha, con xin lỗi làm bận rộn Đức cha, nhưng có một bà nhất định muốn gặp cho được Đức cha. Con có giải thích với bà ấy rằng Đức cha đang chủ trì hội nghị giám mục, rằng Đức cha đang rất bận và không thể tiếp bất cứ ai lúc này. Nhưng bà ấy khăng khăng rằng bà sẽ ngồi mãi trước cửa phòng của Đức cha cho đến khi nào Đức cha có thể tiếp.
- Theo cha thì bà ấy có gặp chuyện phiền phức không?
- Chắc là bà gặp chuyện phiền phức lớn thưa Đức cha. Bà yêu cầu con nói với Đức cha tên bà là Meggie O'' Neill.
Hồng Y De Bricassart đứng phắt dậy; mặt ông biến sắc, trắng bệch như mái tóc đã ngả màu. Còn vị linh mục bí thư thì hốt hoảng:
- Thưa Đức cha, Đức cha có sao không?
- Không có gì đâu cha. Tôi vẫn bình thường xin cảm ơn. Cha hãy hủy bỏ các cuộc hẹn cho đến khi có lệnh mới và cha mời bà O'' Neill vào đây ngay. Đừng để cho ai quấy rầy, ngoại trừ Đức Thánh cha có chuyện gì cần đến.
Linh mục nghiêng người chào cha Ralph và bước ra.
Meggie bước vào, suýt chút nữa Ralph nhìn không ra. Mười ba năm rồi, ông không gặp lại Meggie. Bã đã năm mươi ba tuổi, còn ông bảy mươi mốt, không phải chỉ riêng mình Ralph mà cả Meggie cũng đã già. Trên gương mặt của Meggie ít có nét thay đổi nhưng sự nghiêm khắc đã thay thế cho sự dịu dàng; sự cứng rắn thay thế cho tâm lý âu yếm. Bà là hình ảnh của một người tử vì đạo rắn rỏi, có tuổi và cương quyết hơn là một nữ thánh vốn nhẫn nhục và trầm tư trong những giấc mơ của mình. Meggie vẫn đẹp lạ lùng hơn bao giờ hết, đôi mắt lanh lẹ vẫn màu nâu và mái tóc rực rỡ ngả sang màu xám nâu nhạt, hơi giống màu tóc của Dane. Và càng ngạc nhiên hơn, Meggie lại từ chối nhìn Ralph đủ lâu để ông có thể thỏa mãn sự khao khát sau bao nhiêu năm không gặp.
Trước một Meggie như xa lạ ấy, Ralph không thể nào đón tiếp tự nhiên được, ông chỉ cho bà ghế ngồi và không trở lại được cách xưng hô thân mật xưa kia.
- Mời bà ngồi.
- Cảm ơn, - bà nói cũng cầu kỳ không kém.
Khi Meggie ngồi xuống, ông có thể nhìn rõ bà và nhận ra bàn chân và cổ chân của Meggie sưng lên rất dữ.
- Meggie! ông kêu lên. Em đã đến thẳng... Không dừng lại nơi nào hết à? Có chuyện gì thế?
- Vâng, tôi đến thẳng đây. Suốt hai mươi chín giờ đồng hồ ngồi trên các máy bay từ Gilly đến La Mã tôi không biết làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng và suy nghĩ.
- Có chuyện gì? Ông lặp lại, sốt ruột, lo âu, sợ hãi.
Bà ngước nhìn lên, nhìn thẳng Ralph.
Trong đôi mắt lạnh lùng của Meggie, có cái gì đó thê thảm tận cùng khiến cho Ralph phải ớn lạnh. Ông đưa bàn tay đặt lên sau cổ.
- Dane đã chết. - Meggie nói.
Bàn tay đeo chiếc nhẫn Hồng Y tụt xuống, rơi thẳng trên đầu gối như bàn tay một con búp bê nhồi trấu, toàn thân ông mềm nhũn trên chiếc ghế bành.
- Chết à? Ông hỏi chậm rãi. Dane chết?
- Vâng. Nó chết đuối cách đây sáu ngày ở đảo Crete trong khi bơi ra cứu hai cô gái bị nước cuốn.
Ông nghiêng người ra phía trước, hai bàn tay đưa lên, chạm mặt.
- Chết? Miệng ông ấp úng. Dane! Dane chết? Thằng bé tuyệt vời ấy... Nó không thể chết được! Dane... linh mục hoàn toàn... tất cả những gì tôi không thể có được... Nó có tất cả những gì tôi không có... Nó luôn luôn có được điều đó... Chúng tôi đều biết như thế... Tất cả chúng tôi đều không phải là những linh mục thật hoàn chỉnh. Chết rồi ư? Ôi, Đức Chúa Trời nhân ái!
- Ông không có gì phải lo lắng về Đức Chúa Trời nhân ái của ông, Ralph ạ! Người phụ nữ có vẻ xa lạ ngồi trước mặt ông lên tiếng - Ông có chuyện khác cần làm hơn. Tôi đến đây để yêu cầu sự giúp đỡ của ông... chứ không phải làm chứng cho sự đau xót. Trong suốt những giờ ngồi trên máy bay, tôi không ngừng lặp đi lặp lại những lời lẽ mà tôi sẽ phải nói để báo tin này cho ông... Tất cả những giờ phút ấy tôi không thể làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng. Dane đã chết rồi. Sau một thử thách ghê gớm như thế, tôi chẳng cần gì đến nỗi đau xót của ông.
Khi Ralph ngước đầu lên thì trái tim tưởng chừng như chết lịm và băng giá của Meggie giật nẩy lên, se thắt lại. Đúng là gương mặt của Dane rồi nhưng sao lại hằn lên nét đau khổ.
- Anh có thể giúp được gì cho em, Meggie? ông hỏi giọng đều đều, kìm chết xúc động để có thể trở lại với vai trò người chăm lo về mặt tinh thần.
- Hy Lạp đang sôi sục cách mạng. Người ta chôn Dane một nơi nào đó ở Crete mà tôi không biết, chôn lúc nào tôi cũng chẳng hay. Vì không thể liên lạc, nên người ta tưởng nó đơn độc trên cõi đời này. Tôi muốn người ta trả lại con cho tôi, Ralph. Tôi muốn người ta tìm Dane và đưa trở về nhà để nó được yên nghỉ trên mảnh đất Drogheda thân yêu. Tôi đã hứa với Justine rằng em của nó sẽ được chôn ở Drogheda và chắc chắn phải như thế, cho dù tôi buộc phải đi bằng đầu gối tìm kiếm Dane khắp các nghĩa trang ở Crete. Không bao giờ tôi để cho nó nằm trong một ngôi mộ của người tu hành ở La Mã này. Không thể có chuyện đó ngày nào tôi còn thở để đòi lấy sự hợp lý này. Nó phải về nhà thôi, Ralph ạ.
- Không ai tước đi quyền ấy của em, Meggie - ông nói dịu dàng - Giáo hội chỉ buộc Dane được yên nghỉ trên đất thánh. Anh cũng thế, anh muốn được nằm xuống ở Drogheda.
- Tôi không mất thời gì vì những chuyện thủ tục hợp pháp - Bà nói tiếp không thèm để ý đến câu trả lời của Ralph - Tôi không biết nói tiếng Hy Lạp và cũng chẳng có quyền hành hay ảnh hưởng gì tại đây. Do đó, tôi phải nhờ vào quyền hành và ảnh hưởng của ông. Hãy mang trả lại con trai cho tôi, Ralph.
- Em đừng quá lo lắng, Meggie, Dane sẽ được trả lại cho em, nhưng có lẽ phải mất một ít thời gian. Cánh tả đang cầm quyền ở Hy Lạp và hiện nay họ chống giáo hội gay gắt. Tuy nhiên anh không thiếu bạn bè ở đấy và có thể giúp được. Em cứ để cho anh tiến hành ngay và đừng lo lắng nữa. Đây là chuyện liên quan đến Nhà thờ công giáo và người ta sẽ giao trả Dane cho chúng ta.
Đưa tay định nắm dây kéo chuông để gọi linh mục bí thư, nhưng trước cái nhìn lạnh lùng của Meggie, ông ngừng tay lại.
- Ông không hiểu gì hết, Ralph. Tôi không yêu cầu ông cho tiến hành. Tôi muốn lấy lại con tôi... Không phải trong tuần lễ tới hay tháng tới, mà ngay tức khắc. Ông biết nói tiếng Hy Lạp cũng như có thể xin các giấy nhập cảnh cho ông và cho tôi một cách dễ dàng. Tôi muốn ông cùng đi với tôi sang Hy Lạp ngay và ông giúp tôi tìm lại con tôi.
Ãnh mắt của Ralph chứa đựng nhiều tình cảm lẫn lộn: âu yếm, trắc ẩn, xúc động, xót xa. Trong ánh mắt ấy còn có cả sự tỉnh táo.
- Meggie, anh thương con em như con của anh, nhưng anh không thể rời La Mã lúc này. Anh không được tự do hành động theo ý muốn của anh... Đáng lý em biết rõ điều đó hơn ai hết. Tình cảm của anh đối với em thế nào em đã rõ và dù nỗi đau khổ của anh có nặng trĩu đến đâu, anh vẫn không thể rời La Mã ngay giữa thời kỳ hội nghị! Hội đồng giám mục. Anh đang làm phụ tá cho Đức Thánh Cha.
Ngồi bật ra phía sau, bàng hoàng như bị xúc phạm, Meggie lắc đầu, nhếch miệng cười mỉm cay đắng như đang chứng kiến một trò hề. Nàng bắt đầu run lên, liếm môi như sắp lấy một quyết định rồi ngồi thẳng, ngay ngắn, cứng nhắc.
- Có thật ông thương con của tôi như nó là con của ông không, Ralph? ông sẽ hành động ra sao nếu đó là con của chính ông? Có thể nào ông lại tiếp tục ngồi đây và nói với mẹ của nó rằng “Không, tôi lấy làm tiếc; tôi không thể nào bỏ công việc đượcâ€. Ông có thể nói như thế với mẹ của con ông chứ?
Đôi mắt của Dane - nhưng thật thật ra không phải của Dane - nhìn bà, hốt hoảng, tràn đầy đau khổ, bất lực.
- Anh không có con, ông nói. Nhưng anh đã học ở con em rất nhiều điều như phải biết vượt qua những khó khăn tệ hại nhất và luôn hướng về Chúa bằng tấm lòng chân thật.
- Dane chính là con của ông, - Meggie đột ngột nói.
Ralph nhìn bà bằng cái nhìn trống rỗng, nói hoảng hốt:
- Cái gì?
- Tôi muốn nói rằng Dane chính là con của anh. Khi em rời khỏi Matlock, em đã có thai, Dane là con của anh chứ không phải của Luke O'' Neill.
- Không thể... như thế được!
- Em không có ý định nói cho anh biết điều đó, ngay cả bây giờ em cũng chẳng muốn nói như thế đâu. Anh nghĩ em nói láo với anh chăng? Để làm gì?
-... Để tìm cách lấy lại Dane? Đúng thế. ông nói bằng một giọng rất thấp.
Meggie bước tới, đứng trước Ralph. Giờ đây ông ta chỉ còn là một khối bất động trong chiếc ghế bành bọc gấm màu vàng rực. Meggie cầm đôi bàn tay gầy, nhăn nheo đặt vào tay mình, nghiêng mình xuống và hôn chiếc nhẫn, hơi thở làm mờ viên hồng ngọc.
- Ralph à! Trên tất cả những điều thiêng liêng nhất, em xin thề rằng Dane là con của anh. Nó không phải và không thể nào là con của Luke được. Em xin thề với anh điều đó. Em xin thề trên vong hồn của con chúng ta như thế.
Tếng kêu rên siết của Ralph chẳng khác gì lời than vãn của một linh hồn vừa bước qua các cửa địa ngục. Ralph tuột khỏi chiếc ghế, buông người sụp xuống tấm thảm đỏ thắm, ông khóc, gương mặt giấu trong hai cánh tay khoanh lại, những ngón tay bấu chặt vào tóc.
- Phải, anh cứ khóc đi! Meggie nói. Bây giờ anh đã biết rồi thì anh cứ khóc! Cũng đúng thôi, một trong những người thân nhất của Dane được nhỏ những giọt nước mắt cho con. Khóc đi, Ralph. Trong suốt hai mươi sáu năm, em đã có đứa con, con của anh; nhưng còn anh thì không hề hay biết nó là con của anh. Anh không nhìn ra, anh không nhận ra nó là anh, là một nửa con người của anh! Khi mẹ em kéo Dane ra khỏi bụng em, mẹ đã biết ngay nó là con của anh, nhưng anh thì không hề biết. Bàn tay của anh, bàn chân của anh, gương mặt của anh, thân hình của anh. Chỉ có màu tóc là của em. Bây giờ thì anh đã hiểu rồi chứ? Khi em gởi Dane đến đây, em đã nói trong bức thư gởi anh: “Cái gì em đã đánh cắp của anh, em xin trả lại cho anh. Anh còn nhớ chứ? Cả hai chúng ta đã ăn cắp Dane, anh ạ. Chúng ta đã ăn cắp cái mà anh đã hiến cho Chúa, do đó cả hai chúng ta phải trả giá mà thôi.
Meggie quay trở lại ngồi vào chiếc ghế của mình, khắc khổ, tàn nhẫn, nhìn khối đỏ chói nằm rên rỉ dưới đất.
- Em đã yêu anh, Ralph, nhưng anh chưa bao giờ thuộc về em cả, Dane là tất cả những gì mà em có thể giành được ở anh. Em đã thề rằng anh sẽ không bao giờ biết được điều đó, rằng anh không bao giờ có khả năng lấy lại. Thế nhưng, nó đã tự nguyện về với anh, do chính ý muốn của nó. Nó coi anh như là hình ảnh của một linh mục lý tưởng. Em suýt nữa cười phì! Nhưng không đời nào em lại trao cho anh một thứ vũ khí bằng cách thú nhận với anh nó là con của anh, trừ khi sự việc đã xảy ra như thế này thì em mới thấy cần phải nói với anh điều đó, mặc dù bây giờ cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Dane không thuộc về ai trong hai chúng ta mà thuộc về Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét