Nguồn : Internet .
MỤC LỤC :
1. Củ khoai trong rừng sâu
2. Câu chuyện về người câu cá
3. Năm loại chất độc
4. Ngón tay cái của đức vua
5. Phải, bạn có thể
6. Hình phạt nặng nhất
7. Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình
8. Chiếc vĩ cầm một dây
9. Thiền sư và con vẹt
10. Nhà sư và cô lái đò
11. Ba đơn thuốc cho tâm hồn
12. Không thể xa rời đạo dù chỉ trong tích tắc
13. Chư thiên vấn Phật
14. Giá trị của một câu nói dịu dàng
15. Nhìn người
16. Hạt táo
17. Thiên đàng ở đâu
18. Người gác cổng
19. Vàng ngọc phải chăng là hạnh phúc?
20. Sự lạnh giá của tâm hồn
21. Đừng quên cái chính
22. Hai cái bị của người đời
23. Bảy bát nước cứu khổ
24. Có tàn nhẫn quá không?
25. Bài học từ Socrates
26. Bao nhiêu giày mới đủ?
27. Cái tâm của con người
28. Bức tranh của Goya
29. Bàn bạc với tâm mình
30. Một người bình thường là đủ rồi
31. Câu chuyện về một cốc sữa
32. Chiếc đồng hồ bị mất
33. Người đàn ông trên sa mạc
34. Ăn mày cửa Phật
35. Đóng cửa lại giùm
36. Tâm tịnh cõi nước tịnh
37. “Tôi đang chờ ngài nói lời cảm ơn”
38. Sức mạnh của lời nói
39. Câu chuyện về chữ Nhẫn
40. Sống tích cực – Đơn giản là ngước nhìn lên cao!
41. Nhất thiết không được để mất lương tâm
42. Có nhìn thấy không?
43. Hai USD và 1 giờ
44. Hãy thắp lên một que diêm
45. Lắng nghe hay là chờ một viên đá?
46. Tỉnh dậy
47. Ý nghĩa của sự bình yên
48. Chiếc lá hoàn hảo
49. Bài học về 1000 viên bi
50. Điều đó rồi cũng qua đi
51. Bằng lòng với cuộc sống
52. Mẹ lạnh lắm phải không?
53. Chuyện về hai linh hồn
54. Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?
55. Bồ Tát chỉ ngồi để thấy
56. Câu chuyện cậu bé đánh giày
57. Vị thần mạnh nhất
58. Ba người thầy vĩ đại
59. Ba câu hỏi của một nhà vua
60. Bức tranh bị bôi bẩn
61. Hãy sống trong hạnh phúc dù cuộc đời không như mơ
62. Hãy là một chiếc lá
63. Người đàn ông hạnh phúc
64. Nghịch lý
65. Hãy cảm ơn
66. Người ngồi trên tài năng
67. Tâm bình an trong hiện tại
1. Củ khoai trong rừng sâu
Tại một làng nọ,
có một người tiều phu nghèo khổ sống với vợ và đứa con nhỏ. Không may, người vợ
đổ bệnh, gia đình càng thêm khó khăn. Người tiều phu tìm mọi cách cứu chữa vợ
nhưng không hiệu quả, bệnh người vợ ngày một nặng thêm.
Ngày kia, có một
vị thầy thuốc vào núi kiếm cây thuốc. Khát quá, ông vào nhà người tiều phu xin
nước uống và vô tình biết được bệnh tình người vợ. Bắt mạch khám bệnh cho người
vợ, ông bảo người tiều phu chạy đi mua gấp thang thuốc ông kê.
Người tiều phu cầm
hết tiền trong nhà rồi chạy ra hiệu thuốc. Tuy nhiên, chừng đó cũng không đủ
tiền mua.
Nhìn người vợ đang
chết dần anh không cầm được nước mắt.
Trong làng có một
vị thương gia giàu có, thi thoảng vào rừng săn bắn và đi ngang qua nhà anh.
Người tiều phu chợt nhớ ra. Anh đánh bạo qua hỏi vay. Nhìn người tiều phu, vị
thương gia giàu có nhếch mép cười mỉa mai hỏi anh bằng cách nào anh trả nợ
được. Người tiều phu đáp anh sẽ chăm chỉ kiếm củi bán tích cóp để trả. Ông ta
ngửa mặt cười rồi xua tay nói anh không cần trả, coi như ông ta làm phúc. Người
tiều phu cảm động nói sẽ đền ơn ông khi có dịp, hoặc giúp đỡ khi ông gặp khó
khăn. Vị thương gia lại cười nắc nẻ cho rằng người như anh thì đền ơn thế nào
được, mà ông giàu có vậy sao có thể gặp khó khăn đến nỗi cần anh giúp. Người
tiều phu cảm ơn vị thương gia rồi cầm tiền đi mua thuốc cho vợ. Người vợ cuối
cùng cũng qua cơn bạo bệnh.
Vài năm sau, bệnh
dịch hoành hành cùng nạn đói xảy ra khiến nhiều người chết. Vị thương gia giàu
có tốn không biết bao nhiêu tài sản để cứu chữa cho vợ con. Sau đó, gia đình
ông còn bị cướp sạch của cải. Không còn chỗ nương tựa, lại đói khát, ông đưa vợ
con vào núi kiếm cái ăn. Trên đường, người vợ và đứa con nhỏ kiệt sức nằm lại
nghỉ, ông một mình tiến vào rừng sâu. Đói khát và mệt, ông gục xuống.
Tỉnh lại, ông thấy
có người đang cho mình uống nước. Anh ta đưa cho ông củ khoai. Ông ăn ngấu
nghiến, nhưng chợt nhớ ra còn vợ con, ông ngừng lại. Người này nhìn ông và bảo
cuộc đời không nói trước được điều gì, không ai biết được tương lai, đây là lúc
anh ta trả ơn người đã giúp mình. Vị thương gia bỗng sực tỉnh, ông nhận ra đó
là người tiều phu và nhớ lại câu chuyện năm nào. Hoá ra, khi gặp tai ương,
người tiều phu đã đưa vợ con vào trong núi để lánh dịch bệnh. Nếu không nhanh
trí, hẳn gia đình anh cũng khó thoát khỏi kiếp nạn và sống cho tới lúc này để
gặp lại vị thương gia kia mà trả cái ơn cũ.
Một củ khoai giữa
nạn đói cũng có thể cứu một mạng người. Sự trả ơn của người tiều phu cũng không
khác với sự giúp đỡ của vị thương gia cho anh lúc khốn khó. Vị thương gia tự
đắc rằng người nghèo như người tiều phu chắc hẳn chẳng bao giờ có thể trả nổi
số tiền anh ta vay, cũng chẳng có cơ hội để trả ơn hay giúp đỡ lại khi ông hoạn
nạn. Nhưng, mọi chuyện đều có thể xảy ra, vô thường luôn có mặt những lúc chúng ta
không ngờ nhất.
2. Câu chuyện về người câu cá
Ngày nọ, có một
ngư dân nằm trên bãi biển câu cá, với chiếc cần cắm trên bãi cát và sợi dây câu
bồng bềnh theo những đợt sóng xanh biếc lấp lánh. Ông tận hưởng cái ấm áp cảnh
chiều tà và niềm vui khi bắt được một con cá.
Cùng lúc đó, một
thương nhân đi dọc theo bờ biển để giải tỏa những căng thẳng sau ngày làm việc
mệt mỏi. Thấy người câu cá đang ngồi trên bãi biển, ông quyết định tìm hiểu lí
do tại sao người này lạị ngồi câu cá thay vì làm việc chăm chỉ hơn để kiếm sống
cho gia đình và bản thân.
“Ông sẽ không bắt
được nhiều cá bằng cách này đâu”. – Vị thương gia nói
Người câu cá nhìn
lên, mỉm cười nói: “Vậy tôi nên làm gì và sẽ được những gì?”
“Ông có thể kiếm
cái lưới lớn hơn và sẽ bắt được nhiều cá hơn đấy”. – Vị thương gia trả lời.
Người ngư dân vẫn
mỉm cười: “Sau đó tôi sẽ được những gì?”
– Ông sẽ kiếm được
nhiều tiền, ông có thể mua một con thuyền và tất nhiên sau đó sẽ bắt được nhiều
cá hơn bây giờ.
– Rồi tôi sẽ được
thêm những gì?
Người thương gia
có chút khó chịu với những câu hỏi ấy: “Ông sẽ kiếm được nhiều tiền, ông
có thể mua một chiếc thuyền lớn hơn và thuê người làm việc cho ông”.
“Thế rồi sao
nữa?”- Người ngư dân thản nhiên lặp lại.
Người doanh nhân
đã thực sự tức giận: “Ông không hiểu à? Ông có thể có một đội tàu đánh cá đi
khắp thế giới, ông chỉ cần thuê người làm việc cho mình”.
Ngư dân lại hỏi:
“Vậy cuối cùng tôi sẽ được cái gì?”
Người thương gia
bấy giờ đùng đùng nổi giận, hét vào mặt ngư dân.
“Ông không hiểu à?
Là ông sẽ trở nên giàu có và không phải làm việc nữa. Ông có thể dành hết phần
đời còn lại của mình để ngồi đây ngắm hoàng hôn, dành nhiều thời gian hơn cho
gia đình, vợ con. Ông sẽ không cần phải lo lắng gì về cuộc sống nữa”.
Người ngư dân
cười, vô tư gật đầu: “Vậy anh nghĩ tôi đang làm gì ngay lúc này? Sao tôi phải
đợi làm những việc như anh nói rồi mới có thể có được những điều đó?”
Sau đó ông ngước
nhìn hoàng hôn với chiếc cần câu và làn nước xanh biếc, chẳng thèm bận tâm gì
nữa và bước về ngôi nhà của mình.
Tri túc, biết đủ
và hiểu rằng chúng ta không cần phải thêm cái gì nữa để hạnh phúc, đó mới là
người thực sự biết tận hưởng cuộc sống. Kinh Thánh nói rằng có cơm ăn và áo
mặc, chúng ta hãy biết tự vừa lòng. Biết đủ trong đời đơn thuần nghĩa là chúng
ta luôn biết ơn và tôn trọng những gì mà ta đang có.
Không nhất thiết
là phải có một tài sản kếch xù hay một tài khoản ngân hàng thật khủng thì chúng
ta mới có thể hạnh phúc. Có gia đình, bạn bè, con cái, và có sức khỏe tốt
là đủ để thấy chúng ta đã được ưu ái trong đời rồi. Kẻ thù thường cho ta thấy những
gì ta không có và xúi giục chúng ta phải có những thứ ấy. Hắn
thường dùng sự ganh tỵ và tật đố để khiến chúng ta quên đi những thứ mình có và
cố tầm cầu thêm những thứ khác. Khi sự ganh tỵ và tật đố đã bắt rễ trong tâm,
không gì có thể lấp đầy cái vực thẳm tham cầu ấy. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ
thấy đủ vì thế nào cũng có ai đó có nhiều hơn ta. Đó là lý do vì sao mà chúng
ta phải nhận ra hạnh phúc, tự tại không liên quan đến quá nhiều sở hữu, mà thực
ra nó lại liên quan đến trạng thái của tâm hồn.
3. Năm loại chất độc
Một người Bà La
Môn đã tìm một Đức Phật xin chỉ bảo: “Vì sao những người lương thiện như tôi
lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt vậy?”
Đức Phật trả
lời:
– Nếu một
người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn
tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào,
như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy
khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người
lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là
người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là
người ác thật sự.
Có cảm giác như bị
xúc phạm, người Bà La Môn không phục, liền nói:
– Con sao có thể
là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!
Đức Phật trả lời:
– Nội tâm
không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con
đang tồn tại điều ác. Con hãy nói
về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.
Bà La Môn nói:
– Nỗi khổ của con
thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không
đủ rộng, thường xuyên có cảm giác thua thiệt bởi vậy trong tâm con thường cảm
thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này.
Trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn
bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có
một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe
lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…
Cứ như vậy, lần
lượt Bà La Môn kể hết với Đức Phật những nỗi thống khổ của mình.
Đức Phật gật đầu,
mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, ngài từ tốn nói với vị Bà la Môn:
“Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả
phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là
diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm
ấy. Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm
thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy,
con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.
Trong xã hội có
nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục,
đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con
tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo
mạn. Tâm
ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao,
đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu
có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm
ngu si cũng là ác tâm.
Người thân không
nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng.
Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng
mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như
con? Không
rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.
Lòng tham, tâm đố
kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa
đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể
loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.
Con đem niềm vui
và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem,
căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra
cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh
phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống
của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với
thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ;
nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.
Trong xã hội,
nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ,
nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người
khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười
trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện.
Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị.
Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!
Con cho rằng, con
có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng:
“Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ
không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu
sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản
thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự
mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường
cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể
nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có
thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
Kiếp trước làm
việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậu. Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa
lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu
muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật
sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới
có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành
vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng
hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.
Bầu trời có thể
bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu
đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi. Một người sống
trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói
của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải
tùy duyên tự tại. Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên
cưỡng cầu điều gì.
Nếu tâm một người
có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?”
Đức Phật nói xong
những điều nầy, tiếp tục nhìn người Bà La Môn với ánh mắt đầy nhân từ và bao
dung độ lượng.
Ngồi im lặng hồi
lâu. Xưa nay người Bà La Môn vẫn cho mình là một người rất lương thiện. Mãi đến
lúc này, phải!, chỉ đến lúc lúc này, ông ta mới biết được trong ông ta còn có
một con người rất xấu xa, rất độc ác. Bởi vì nội tâm của chứa những điều ác, nên
mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm không ác, sao có thể khổ chứ?
Người Bà La Môn
vội quỳ lạy đấng thế tôn và nói:
– Xin cảm tạ Đức
Phật, nếu không được ngài khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một
người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!
4. Ngón tay cái của đức vua
Đức vua ở một
vương quốc châu Phi nọ có một người bạn thân từ thời thơ ấu. Người bạn này có
thói quen rất kỳ lạ, khi gặp phải bất kỳ chuyện gì xảy ra trong cuộc sống, dù
may mắn hay xui xẻo, anh đều thốt lên: “Thật kỳ diệu!”.
Một hôm, đức vua
cùng người bạn này đi săn. Anh bạn là người chuẩn bị súng. Nhưng chắc chắn anh
đã làm điều gì đó bất cẩn vì một trong những khẩu súng đã nổ trong tay đức vua
và cướp đi ngón tay cái của Ngài. Như thường lệ, vào lúc xảy ra tai nạn, anh
bạn lại thốt lên: “Thật kỳ diệu!”.
Thấy vậy, đức vua,
khi đó đang trong cơn tức giận, liền gào lên: “Không, chẳng kỳ diệu chút nào!”
và chứng minh điều này bằng cách tống người bạn kia vào tù. Một năm sau, đức
vua đi săn ngoài vương quốc của mình. Ngài bị bộ lạc ăn thịt người bắt được và
giam cầm trong làng. Họ trói Ngài vào một thân cây, chất củi xung quanh và
chuẩn bị nướng Ngài để ăn thịt.
Nhưng khi chuẩn bị
nhóm lửa, họ nhận ra rằng tay đức vua thiếu một ngón cái. Bộ lạc này tin rằng
nếu ăn thịt vua, điều tương tự sẽ xảy ra với họ, vậy là họ cởi trói và trả tự
do cho Ngài. Trên đường trở về, choáng váng và mệt lả, đức vua nhớ lại tình
huống dẫn đến việc Ngài mất đi ngón tay cái.
Ngay khi về tới
vương quốc, Ngài lập tức yêu cầu binh lính dẫn đến nhà tù để nói chuyện với
người bạn thân. “Anh có lý, anh bạn ạ”, Ngài nói, “Mất đi ngón tay cái là một
điều kỳ diệu”.
Và đức vua kể lại
sự tình cho người bạn thân. “Xin hãy tha thứ cho ta vì đã chôn chân anh trong
tù lâu như vậy. Ta đã sai khi làm như vậy”. Nhưng anh bạn trả lời: “Không đâu,
ngược lại, điều này thật kỳ diệu!”.
– Ý anh là sao?
Anh bạn của ta, tại sao việc anh bị tống vào tù lại là điều kì diệu?
– Nếu thần không
bị bỏ tù, có lẽ thần đã đi săn cùng Ngài. Và bộ lạc kia đã ăn thịt thần mất rồi.
Thế đấy,
không phải mọi việc xảy ra trong cuộc sống của chúng ta đều thực sự tốt đẹp.
Nhưng nếu giữ thái độ tích cực, bạn sẽ tìm thấy ý nghĩa của chúng. Bạn sẽ nhận
ra điều kỳ diệu, nếu nỗ lực tìm kiếm nó.
5. Phải, bạn có thể!
16 cuộc phẫu
thuật sau tai nạn xe hơi đã làm Mitchell có một cơ thể bị phỏng hơn 60%, không
thể nhấc dù chỉ là muỗng thức ăn, không thể quay số điện thoại hay đi vào nhà
tắm mà không có người giúp.
Nhưng Mitchell,
nguyên là lính thuỷ, không bao giờ tin là mình đã bị đánh bại. “Tôi phải chịu
trách nhiệm về con tàu của mình”, – ông nói – “Nó là sự thành bại của tôi. Tôi
có thế như là khởi đầu lại từ điểm xuất phát”.
Sáu tháng sau, ông
đã lái máy bay được. Mitchell mua một căn nhà lớn tại Colorado, vài mảnh đất, một chiếc máy bay và
một quán bar. Sau đó kết hợp với hai người bạn, ông mở một công ty sản xuất đồ
gốm với số nhân công lớn thứ nhì Vermont.
Và bốn năm sau
ngày bị tai xe hơi, cái máy bay mà Mitchell lái đã bị rớt xuống đường băng khi
vừa cất cánh làm ông gãy 12 đốt xương sống vùng ngực và liệt hẳn nửa người bên
dưới. “Tôi không hiểu chuyện quái quỉ gì đã xảy ra. Tôi đã làm gì mà phải lãnh
kết quả như vậy?”.
Nhưng rồi không
nản lòng, Mitchell tập luyện ngày đêm để có thể lấy lại được sự độc lập cho
mình càng nhiều càng tốt. Ông được bầu làm thị trưởng của Crested Butte,
Colorado, để đấu tranh giữ cho thành phố thoát khỏi nguy cơ bị ô nhiễm bởi một
mỏ quặng sắp được khai thác. Mitchell còn ứng cử vài quốc hội, chuyển cái vẻ bề
ngoài khó coi của ông thành một sức mạnh qua khẩu hiệu: “Not just another pretty
face” (Không chỉ là một khuôn mặt đẹp nữa vào quốc hội).
Mặc cho vẻ bề
ngoài khó coi và khả năng hoạt động giới hạn, Mitchell vẫn tham gia đi hè, yêu
và lập gia đình, lấy được bằng cao học về công tác xã hội và tiếp tục bay, tích
cực bảo vệ môi trường và diễn thuyết.
Tinh thần mạnh mẽ
tích cực của Mitchell đã làm ông được mời lên truyền hình trong “Chương trình
hôm nay” và “Chào nước Mỹ”. Nhiều bài viết về ông đã được đăng trong các báo,
tạp chí như Parade, Times, The New York Times…
“Trước khi bị tai
nạn tôi có thể làm được 10.000 việc, bây giờ chỉ còn 9.000 thôi. Tôi có thể cứ
nghĩ đến 1.000 điều bị mất hay tập trung vào 9.000 điều tôi còn? Tôi biết mình
phải làm gì. Tôi vẫn nói với mọi người rằng tôi đã lãnh hai cú đập của số phận.
Nhưng tôi đã không dùng điều đó để bào chữa cho sự đào ngũ. Những kinh nghiệm
đau đớn đã có thể được nhìn với một góc độ mới. Nhìn một cách toàn diện hơn,
tôi có thể nói chúng cũng không tệ lắm”.
Xin nhớ rằng:
“Điều quan trọng không phải là điều xảy ra với bạn mà là điều bạn làm sau đó”.
6. Hình phạt nặng nhất
Vào một ngày Sabbath nọ [*], ông ta thèm được
chơi gôn quá. Nhưng tín ngưỡng Do Thái yêu cầu các tín đồ phải nghỉ ngơi
vào ngày lễ Sabbath và họ không được phép làm bất cứ điều gì.
Nhưng người này không thể cưỡng lại được ham muốn mạnh mẽ của mình
và quyết định lén ra sân gôn. Ông ta nghĩ rằng mình sẽ chỉ chơi một vài lỗ. Chỉ
có thế thôi.
Vì hôm đó là ngày lễ Sabbath và không có người Do Thái nào đi ra
ngoài, nên không có ai tại sân gôn. Vì vậy người này cảm thấy rằng sẽ không ai
biết ông phạm luật.
Tuy nhiên, khi ông ta chơi đến lỗ thứ hai thì một thiên sứ nhìn
thấy ông. Vị thiên sứ này rất giận và đi báo lại với Thượng Đế. Cô nói rằng có
một người không tuân theo luật của đạo Do Thái và dám chơi gôn vào ngày
Sabbath.
Thượng Đế nghe thiên sứ kể xong và nói với cô: “Thế thì ta sẽ phạt
người này thật nghiêm khắc”.
Kể từ lỗ thứ ba, ông ta chơi còn tốt hơn cả hoàn hảo. Ông đánh tất
cả bóng vào lỗ chỉ với một cú đánh. Người này rất cao hứng. Khi ông chơi đến lỗ
thứ bảy, vị thiên sứ kia đến gặp Thượng Đế và hỏi: “Kính thưa Thượng Đế, chẳng
phải Ngài định phạt ông ta sao? Vì sao con vẫn không nhìn thấy sự trừng phạt
nào vậy?” Thượng Đế đáp: “Ta đã phạt ông ta rồi.”
Cho đến lỗ thứ chín thì mọi lỗ người kia đều đánh vào chỉ với một cú
đánh.
Bởi vì ông ta đã chơi cực kỳ giỏi, giỏi hơn nhiều so với trình độ
của mình, người này quyết định chơi một ván thứ hai gồm chín lỗ nữa.
Vị thiên sứ lại đến gặp Thượng Đế: “Sự trừng phạt đâu thưa Ngài?”
Thượng Đế chỉ mỉm cười và không nói gì.
Đến khi chơi xong 18 lỗ, điểm số của ông ta cao hơn bất kỳ vận
động viên chơi gôn đẳng cấp quốc tế nào. Ông ta rất đỗi vui sướng.
Vị thiên sứ nổi giận và hỏi Thượng Đế: “Đây là sự trừng phạt mà
Ngài dành cho ông ta sao?”
Lần này, Thượng Đế nói: “Đúng thế, đây quả thật là một hình phạt.
Hãy nghĩ mà xem. Ông ta đã chơi một ván gôn phi thường và rất hứng khởi. Nhưng
ông ta không thể kể nó với ai hết. Chẳng phải đó là hình phạt nặng nề nhất đối
với ông ta hay sao?”
Tại sao Thượng Đế lại không để cho người ấy thất bại và chơi không
tốt? Sự trừng phạt trong nội tâm con người còn tồi tệ hơn trên thân xác! Vì vậy
hãy nghĩ về điều này. Tại sao bạn lại cảm thấy lo lắng hay bận tâm? Có thể đó
là một hình phạt từ Thượng Đế.
[*] Sabbath:
Ngày lễ thánh trong tuần để nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa của người Do Thái giáo
và Cơ Đốc giáo. Ngày này là thứ Bảy với người Do Thái và Chủ Nhật với người đạo
Cơ Đốc.
7. Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình
Ở một làng nọ, có
hai gia đình sống cạnh nhau nhưng lại rất trái ngược. Gia đình ông Vương sống ở
phía Đông thường xuyên xảy ra cãi vã, lâu lâu hàng xóm lại nghe thấy tiếng khóc
lóc, quát tháo inh ỏi, cuộc sống rất đau khổ. Còn ở phía Tây, gia đình ông Lý
thì ngược lại, rất đoàn kết và hòa ái, trên khuôn mặt họ lúc nào cũng nở một
cười tươi, cuộc sống vui vẻ, an lạc không gì bằng.
Một ngày nọ, ông
Vương do không chịu nổi những trận chiến liên miên không dứt trong gia đình,
liền đi sang nhà ông Lý xin thỉnh giáo.
“Gia đình ông làm
thế nào mà lúc nào cũng có thể luôn được vui vẻ dễ chịu như thế?”, ông
Vương hỏi.
“Bởi vì chúng tôi
thường xuyên để xảy ra những việc sai sót”, ông Lý cười trả lời.
Trong lúc ông
Vương còn đang cảm thấy ngơ ngác, khó hiểu thì bỗng dưng thấy cô con dâu của
gia đình ông Lý đang vội vàng đi từ ngoài vào, vào tới phòng khách do sơ ý
không cẩn thận nên bị ngã nhào. Mẹ chồng cô đang lau nhà thấy vậy vội vàng chạy
lại, đỡ con dâu lên và nói: “Đều là mẹ làm sai, mẹ lau nhà ướt quá đấy mà!”
Anh con trai đang
đứng ngoài cửa phòng khách, thấy vợ ngã nhào, cũng vội vàng chạy lại: “Đều là
lỗi của anh, anh đã không nói với em là phòng khách đang được lau, hại em bị
ngã!”.
Người con dâu sau
khi được đỡ dậy cũng tự trách mình và nói: “Không! Không! Là lỗi của con, là do
bản thân con không cẩn thận ạ!”.
Sau khi chứng kiến
hết sự việc ông Vương bỗng ngẩn người như hiểu ra gì đó.
Nếu ngay lúc đầu,
người mẹ chồng trách mắng con dâu khi bị ngã là: “Sao đi đứng không có mắt à?
Thật đáng đời!”. Những người khác trong gia đình nếu cũng không để ý tới cảm
nhận của cô ấy mà cười nhạo cô ấy, vậy thì gia đình ông Lý có thể có được không
khí nhẹ nhàng, ấm áp hay không?
Có rất nhiều người
luôn mang trong lòng tâm lý “đều do người khác làm sai” nên tự nhiên sinh
ra một cảm giác khó có thể tiếp xúc với người xung quanh.
Cổ nhân xưa có câu:
“Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình”, thật
vậy, nếu như sau khi tự xem xét lại chính mình, nhận thấy mình có chỗ thiếu
sót, cần phải thay đổi thì không chỉ có thể “chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa
không”, mà còn có thể càng ngày càng dành được sự tôn trọng từ người khác.
8. Chiếc vĩ cầm một dây
Niccolo Paganini,
một nghệ sỹ vĩ cầm đầy sắc thái và tài năng của thế kỷ 19 đang đứng chơi một
bản nhạc khó trong một khán phòng chật kín người. Một ban nhạc vây quanh cùng
hòa nhạc với ông. Bất chợt, một dây đàn bị đứt và treo lóng lánh dưới cần đàn
của Paganini.
Những giọt mồ hôi
từ trán ông tuôn ra. Ông lo lắng nhưng vẫn tiếp tục chơi, ứng biến một cách tốt
đẹp. Dây đàn thứ hai lại bị đứt trước sự ngạc nhiên của nhạc trưởng. Và ngay
sau đó là dây thứ ba. Giờ thì có ba dây đàn bị đứt đang đong đưa trên chiếc vĩ
cầm của Paganini, khi người nghệ sỹ bậc thầy này hoàn thành khúc cao trào với
chỉ một dây còn lại. Khán giả nhịp chân và trong phong cách lịch thiệp của người
Ý, đại sảnh đã ngập tràn những tiếng “hoan hô”.
Khi tiếng vỗ tay
khen ngợi lắng xuống, người nghệ sỹ vĩ cầm này yêu cầu mọi người ngồi xuống.
Mặc dù họ hiểu chẳng còn cách nào để mong ông biểu diễn phần còn lại, nhưng mọi
người đều yên lặng ngồi xuống chỗ ngồi của mình. Ông nâng đàn lên cao cho mọi
người nhìn thấy. Ông gật đầu với người chỉ huy dàn nhạc để bắt đầu chơi lại và
rồi quay mặt về đám đông. Với một ánh mắt ngời sáng, ông mỉm cười và nói to:
“Đây là Paganini với một dây đàn!”
Rồi ông đặt chiếc
đàn Stradivarius một dây dưới cằm và chơi nốt đoạn cuối với chỉ một dây đàn.
Trong lúc khán giả lắc đầu trong tột cùng kinh ngạc.
Cuộc sống của
chúng ta có lẽ luôn ngập tràn bao rắc rối, lo toan, thất vọng và những điều bất
cập. Thành thật mà nói, chúng ta mất hầu hết thời gian để tập trung và băn
khoăn về những dây đàn bị đứt đoạn, dở dang, và những điều bất chợt – tất cả
đều không thể đổi thay được.
Phải chăng bạn vẫn
đang buồn đau vì những cung đàn bị đứt đoạn trong đời?
Có phải chỉ với
dây đàn còn lại mà bạn sẽ chơi lạc điệu không? Nếu đúng thế, liệu tôi có thể
khuyên bạn đừng nản lòng, cứ tiếp tục và bắt đầu chơi lại chỉ với một dây đàn.
Hãy để nó ngân lên
một giai điệu ngọt ngào mà cả thế giới khát khao với đầy ngẫu hứng. Bạn có thể
làm được nếu bạn muốn.
9. Thiền sư và con vẹt
Thiền sư Ishu Sato
có nuôi một con vẹt tên là Zun. Nhưng nó chỉ có khả năng lặp lại tiếng sau cùng
trong câu nói.
Thiền sư Sato nói:
“Mô Phật”.
Con vẹt Zun nói:
“Phật!”
Thiền sư nói:
“Sống chết”.
Con vẹt nói:
“Chết!”
Thiền sư nói: “Nghe
không?”
Con vẹt nói:
“Không!”
Thiền sư nói một
tràng về lý thuyết nhà Phật: “Tánh không. Tâm không. Trí không. Chân không.
Tịnh không. Hoàn không. Huyền không. Thinh không.”
Con vẹt nói:
“Không, không, không, không…”
Bỗng dưng hôm sau,
con vẹt mất khả năng nghe và nói. Nó đậu trên nhánh Bồ Đề trong tu viện. Mắt
lim dim và dường như trong nó hoàn toàn vắng lặng.
Thiền sư nhìn con
vẹt thân yêu, dáng vẻ buồn buồn và nói: “Không biết bây giờ ta và nó, ai là
người an lạc và gần Phật hơn ai?!”
Người thị giả chắp
tay thưa: “Bạch sư ông, con Zun nói theo như vẹt còn ngài thì nói bằng trí tuệ
cao vời, làm sao mà so sánh được”.
Thiền sư Sato trả
lời: “Đạo Phật không phải là nói hay nghĩ bàn mà thực sự đang sống. Sống trong
vùng năng lượng lành để thu nhiễm tinh túy của môi trường sinh khởi. Kỳ dư tất
cả chỉ là phương tiện. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”.
Người thị
giả mỉm cười: “Có vẻ như Zun đắc đạo mà chúng ta thì đang tu…”.
Thiền sư cũng mỉm
cười im lặng.
10. Nhà sư và cô lái đò
Cô lái đò đưa
khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người. Sau hết đến nhà
sư. Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
Nhà sư ngạc nhiên
hỏi vì sao?
Cô lái mỉm cười:
– Vì thầy nhìn em…
Nhà sư nín lặng
trả tiền và bước lên bờ.
Một hôm nhà sư lại
qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba. Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái cười bảo:
– Lần này thầy
nhìn em dưới nước.
Nhà sư nín lặng
trả tiền và bước lên bờ.
Lần khác nhà sư
lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền
định.
Đò cập bến cô lái
đò thu tiền gấp năm lần. Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái đáp:
– Thầy không nhìn
nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và
lên bờ.
Một hôm nhà sư lại
qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò.
Đò cập bến, nhà sư
cười hỏi lần này phải trả bao nhiêu?
Cô lái đáp:
– Em xin đưa thầy
qua sông, không thu tiền.
Thiền sư hỏi:
– Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:
– Thầy nhìn mà
không còn nghĩ tới em nữa. Do vậy em xin đưa thầy qua sông mà thôi.
Quả thật cái tâm
luyến ái bên trong của con người mới là vấn đề cần phải giải quyết chứ không
phải là dáng vẻ bên ngoài. Phần lớn chúng ta chỉ chú ý dáng vẻ bên ngoài nhưng
ít ai chú ý đến cái tâm sâu thẳm bên trong. Dù thân xa lánh thế tục nhưng tâm
còn nhớ nghĩ thì cũng chưa phải là giải thoát. Mắt tuy nhắm nhưng tâm còn
nghĩ về, thì sóng ngầm cuộn xoáy tâm can còn dữ dội hơn.
Câu chuyện giữa
nhà sư và cô lái đò đối đáp mỗi lần qua sông thể hiện cho một quá trình tu tập
và chuyển hóa tư tưởng. Diễn biến đó cũng là quá trình tâm lý chuyển hóa
thành tâm linh. Sau cùng là sự đạt đạo cao nhất của nhà sư: nhìn thẳng vào
thực tại mà không hề có tư tưởng dính mắc, suy nghĩ, luyến ái. Còn các lần
trước hết dính mắc bằng mắt thì đến dính mắc bằng tâm. Ở đời hễ còn dính mắc
thì còn phải khổ lụy.
Nhà sư trả tiền
cho cô lái đò cũng cho thấy rằng hễ tâm ta còn tạo nghiệp dính mắc thì
sẽ có cái giá phải trả cho chính nó. Đó là triết lý sống
dành cho tất cả chúng ta
11. Ba đơn thuốc cho tâm hồn
Có một tỷ phú sống
trong căn biệt thư xa hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt
nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư
vô như mây khói.
Vì lo sợ sẽ không
sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi
bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không
thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà
làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo”.
Vị tỷ phú về nhà,
trong lòng phấp phỏng hy vọng. Ông lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc: “Hãy đến
một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy 21 ngày.” Mặc dù
thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi
ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô
cùng bao trọn thân thể ông. Vì trước đây công việc bận rộn nên ông không có cơ
hội nghỉ ngơi. Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu,
tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy…
Trái tim ông bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như
bây giờ.
Ngày thứ 22, ông
mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng
xuống biển, liên tục như vậy trong 21 ngày”. Trong lòng ông đầy rẫy những băn
khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi mua tôm cá rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng
con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc
động.
Ngày thứ 43, ông
đọc đơn thuốc thứ ba: “Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy
không hài lòng lên bãi cát”. Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn
tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi
lại viết, và lại cuốn đi… ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả. Khi về
nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự
tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.
Thì ra con người
ta chỉ cần học được 3 điều trên thì sẽ vui vẻ hạnh phúc:
Thứ nhất: Nghỉ ngơi
Phật giáo cho
rằng, trong xã hội này có hai loại người. Một là quá tham lam, mong muốn và
theo đuổi sự thành công, mong muốn kiếm tiền, ham muốn sao cho mình không ngừng
vươn xa hơn nữa. Còn loại người thứ hai sống không có mục đích,
không có chí tiến thủ.
Nhưng chúng ta cần
nhận thức rõ rằng, có người mới được ít đã thấy đủ; có người biết đủ và cảm
thấy vui vẻ, đây là hai dạng người không giống nhau. Người được ít mà thấy đủ
chính là người chỉ cần được chút ít đã xem là đủ; người biết đủ cảm thấy vui vẻ
chính là người có nhiều cũng cảm thấy đủ, có ít cũng cảm thấy đủ, có được nhiều
thì càng tốt, có được ít cũng không sao, họ không để mình cảm thấy đau khổ,
không làm tổn hại đến người khác, đó chính là biết đủ sẽ cảm thấy vui vẻ – tri
túc.
Nếu một người lao
đầu vào kiếm tiền, không chừa thủ đoạn nào để theo đuổi thành công và tài phúc
mà không biết dừng nghỉ sẽ có ngày cảm thấy vô cùng mỏi mệt. Theo đuổi những
chân trời viễn mộng khiến ta rất đau khổ, rất căng thẳng, bởi vì khi đã giành
được nó ta lại sợ sẽ mất đi, sau khi mất đi thì lại muốn giành được nó, cũng
gần giống như việc đánh bạc, mong muốn tất cả những đồng tiền ở túi kẻ khác là
tiền của mình, bị thua lại mong thắng, thắng được rồi lại muốn thắng nữa, không
bao giờ biết thỏa mãn.
Người thông
minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lý. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự
tại.
Thứ hai: Cho đi
Trong cuộc sống
này, những gì ta cho đi bằng tình người mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không
phải là sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, nếu ta biết
cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác
thì đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc bởi
trong ta không có sự toan tính.
Khi cho đi mà
chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào thì chính ngay
khi ấy chúng ta đã nuôi dưỡng được lòng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự
tính toán thì sự cho ấy mới là cao thượng nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh
phúc.
Thứ ba: Buông xuống
Nếu như con người
biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những
hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi
những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật thì sẽ tự tìm thấy cho mình
niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn.
Bởi khi biết buông
xả thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của
mạn nghi ác kiến để rồi nhìn thấy niềm vui xung quanh ta. Có buông xả được thì lòng ta mới
rộng mở, ai nói gì không vừa ý cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm
điều gì xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn thì chỉ một vài
phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời mình được
an vui.
Tham lam là một
liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi
vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ
những vật chất xa hoa… Nếu dục vọng không có điểm dừng thì con người vĩnh viễn
không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cũng không bao
giờ tìm kiếm được niềm vui. Hãy trân trọng những gì bạn đang có, bạn sẽ
thấy rằng bản thân mình là người giàu có nhất trên cõi đời này.
12. Không thể xa rời đạo dù chỉ trong tích tắc
Có thầy nọ sống
đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút
thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng
thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v…
Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có
thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như
thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh.
Thế rồi khuya hôm
nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc
lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp
khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ
ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những
tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi
gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp
hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.
Sáng hôm sau, thầy
tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không
lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở
tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa
nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông
đang tĩnh tâm hay cầu nguyện.
Nhân một lúc ngớt
khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn
nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp
sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá.
Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của
thầy.”
Thầy chiết dầu vừa
xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy
giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới
Trời, tới Phật không?”
Thầy bẽn lẽn: “Tôi
làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông,
mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật,
Trời.”
Chủ tiệm cười
hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng,
thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được
rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm
tôi lúc nào cũng nhớ Trời, nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách, tôi nguyện không
để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng,
tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính,
tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử
thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.
13. Chư thiên vấn Phật
Một thiên nhân
đến với Phật trong hóa thân một người Bà La Môn, với vẻ mặt rạng rỡ và bộ trang
phục trắng như tuyết. Vị thiên nhân hỏi những câu mà Ðức Phật trả lời sau đây.
Thiên nhân hỏi:- Thanh kiếm nào sắc bén nhất?
- Chất độc nào tàn hại nhất?
- Ngọn lửa nào dữ dội nhất?
- Bóng đêm nào đen tối nhất?
Ðức Phật trả lời:
- Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm
sắc bén nhất,
- Dục vọng là chất độc tàn hại nhất,
- Ðam mê là ngọn lửa dữ dội nhất,
- Vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
Vị thiên nhân lại hỏi:- Dục vọng là chất độc tàn hại nhất,
- Ðam mê là ngọn lửa dữ dội nhất,
- Vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
- Ai là người lợi lạc nhiều nhất?
– Ai là người chịu thiệt thòi nhất?
– Áo giáp nào không thể bị xuyên thủng?
– Vũ khí nào lợi hại nhất?
Ðức Phật trả lời:
– Người lợi
lạc nhiều nhất là người đã cho đi nhiều, mà không thấy đã cho.
- Kẻ chịu thiệt thòi nhất là kẻ chỉ biết nhận một cách tham lam không chút biết ơn.
– Nhẫn nhục là áo giáp không xuyên thủng được, và
- Trí tuệ là vũ khí lợi hại nhất.
Vị Thiên nhân hỏi:- Kẻ chịu thiệt thòi nhất là kẻ chỉ biết nhận một cách tham lam không chút biết ơn.
– Nhẫn nhục là áo giáp không xuyên thủng được, và
- Trí tuệ là vũ khí lợi hại nhất.
– Ai là kẻ trộm nguy hiểm nhất?
- Cái gì là kho tàng quý báu nhất?
– Ai đã thành công trong việc chiếm đoạt bằng vũ lực không chỉ trên thế giới này, mà còn trên thiên giới?
- Ðâu là nơi an toàn nhất để kho báu?
Ðức Phật trả lời:
– Những tư tưởng xấu xa là kẻ trộm nguy hiểm nhất.
- Ðức hạnh là kho tàng quý báu nhất.
- Tâm thức con người chiếm đoạt mọi sự không chỉ trên thế giới này, mà còn trên thiên giới.
- Đất Vô Sanh là nơi an toàn nhất để kho báu.
Thiên nhân hỏi:- Ðức hạnh là kho tàng quý báu nhất.
- Tâm thức con người chiếm đoạt mọi sự không chỉ trên thế giới này, mà còn trên thiên giới.
- Đất Vô Sanh là nơi an toàn nhất để kho báu.
– Cái gì là hấp dẫn?
- Cái gì là ghê tởm?
- Cái đau nào thống thiết nhất?
- Cái vui nào lớn nhất?
Ðức Phật trả lời:
– Thiện là hấp dẫn,
- Ác là ghê tởm;
- Một lương tâm bị dầy vò là nỗi đau thống thiết nhất,
- Sự giải thoát là cái vui lớn nhất.
Thiên nhân hỏi: - Ác là ghê tởm;
- Một lương tâm bị dầy vò là nỗi đau thống thiết nhất,
- Sự giải thoát là cái vui lớn nhất.
- Cái gì gây ra sự tàn phá trên thế giới?
- Cái gì làm tình bạn tan vỡ?
- Cơn sốt nào mãnh liệt nhất?
- Ai là vị thầy thuốc giỏi nhất?
Ðức Phật trả lời:
– Sự tăm tối, vô minh gây ra sự tàn phá trên thế giới.
– Sự ganh tị và ích kỷ làm tình bạn tan vỡ.
- Hận thù là cơn sốt mãnh liệt nhất, và
- Pháp vương là vị thầy thuốc giỏi nhất.
Vị thiên nhân lại hỏi:– Sự ganh tị và ích kỷ làm tình bạn tan vỡ.
- Hận thù là cơn sốt mãnh liệt nhất, và
- Pháp vương là vị thầy thuốc giỏi nhất.
- Bây giờ con chỉ còn một thắc mắc, xin Ðức Thế Tôn giải đáp cho:
Cái gì mà không bị lửa đốt cháy, không bị nước làm mòn, không bị gió làm đổ, mà lại có thể cải cách cả thế giới?
Ðức Thế Tôn trả lời:
– Phước đức. Không có lửa nào, nước nào, gió nào có thể hủy diệt được phước đức của một việc thiện, và những phước đức đó cải cách cả thế giới.
14. Giá trị của một câu nói dịu dàng
Nhiều năm về
trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là
đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không
ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có
tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là
Jim luôn lẩn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẩn tránh, người ta càng
nghi ngờ cậu.
Tài sản duy nhất
của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẩn tránh mọi người như chủ nó.
Jim không đối xử thô lỗ với Tige, nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc
mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì
để trút đi mọi nỗi uất ức.
Một hôm, Jim thấy
cô gái đang đi phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói
khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.
– Cảm ơn cậu bé,
cậu thật tốt – Cô gái cười và xoa đầu Jim.
Jim hoàn toàn sốc.
Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn
theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.
Jim huýt sáo gọi
Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng…
Jim ngồi xuống
cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt”. Jim cười
một mình, rồi cậu gọi: “Đến đây Tige”. Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và
nói: “Cảm ơn mày! Mày thật là tốt”.
Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh
lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẫy lia lịa. “Đến con chó cũng thích
nghe lời nói dịu dàng”. – Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu
bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn
vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi
mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: Cảm giác tự
trọng.
Từ khoảnh khắc đó,
cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói
dịu dàng.
Ngưng một lát, nhà
tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi
vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị
có thể thấy, chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng
nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế”.
15. Nhìn người
Có một giai thoại
về đại học Stanford, “Một câu chuyện thật thú vị”, nội dung như sau:
Một phụ nữ trong
bộ trang phục áo bằng vải lanh kẻ sọc và chồng mình trong bộ comple giản dị đã
mòn xơ cả chỉ, xuống ga tàu ở thành phố Boston
và rụt rè bước đi không hẹn trước tới văn phòng ở phía ngoài của đại học
Harvard. Trong chốc lát cô thư ký có thể nói rằng những người ở nông thôn lạc
hậu về văn hóa như thế không có việc gì phải bước chân vào đại học Harvard thậm
chí còn không xứng đáng được vào đại học Cambridge.
Cô thư ký mặt mày
cau có. Người đàn ông nói nhẹ nhàng:
– Chúng tôi muốn
gặp thầy hiệu trưởng.
Cô thư ký gắt gỏng
lên:
– Ông ấy bận rộn
cả ngày.
Người phụ nữ trả
lời:
– Chúng tôi sẽ
đợi.
Suốt nhiều giờ
trôi qua, cô thư ký không thèm để ý đến họ, trong lòng hy vọng rằng hai người
rốt cuộc sẽ nản lòng mà bỏ đi.
Nhưng hai người
vẫn không đi. Cô thư ký đã nản lòng, và cuối cùng quyết định phải quấy rầy vị
hiệu trưởng, mặc dù đó là công việc thường ngày mà cô luôn luôn thấy ân hận mỗi
khi làm. Cô nói với vị hiệu trưởng:
– Có thể nếu họ
gặp được thầy ít phút họ sẽ đi ngay.
Vị hiệu trưởng thở
dài bực tức, rồi gật đầu. Ai đó có vai trò quan trọng như ông ta thì rõ ràng là
không có thời gian để tiếp họ, thế nhưng ông ghét cay ghét đắng chiếc áo vải
lanh sọc và bộ comple đã sờn chỉ cứ phủ đầy bừa bãi căn phòng ở phía ngoài của ông
ta.
Vị hiệu trưởng với
gương mặt lạnh lùng đầy vẻ nghiêm nghị đi khệnh khạng về phía cặp vợ chồng.
Người phụ nữ nói với vị hiệu trưởng:
– Chúng tôi có một
đứa con trai đã từng theo học ở trường đại học Harvard một năm. Nó thực sự yêu
mến ngôi trường này. Nó cảm thấy hạnh phúc khi học ở đây. Thế nhưng, cách đây
một năm, nó đột nhiên bị giết chết. Và vợ chồng tôi rất muốn xây dựng một tấm
bia để tưởng nhớ con trai mình ở một nơi nào đó trong khuôn viên trường.
Vị hiệu trưởng
không động đậy, ông đã bị sốc. Ông nói một cách thô lỗ cộc cằn:
– Thưa bà, chúng
tôi không thể dựng tượng cho mỗi người đã từng theo học ở Harvard rồi sau đó bị
chết. Nếu chúng tôi làm như vậy thì ngôi trường này sẽ trông giống như một
nghĩa trang!
Người phụ nữ nhanh
chóng giải thích:
– Ồ, không phải
như vậy. Chúng tôi không có ý định xây dựng một bức tượng. Chúng tôi nghĩ sẽ
xây một tòa nhà cho nhà trường.
Vị hiệu trưởng
trợn tròn con mắt. Ông liếc nhìn chiếc áo vải lanh sọc và bộ comple đã sờn chỉ
rồi thốt lên:
– Một tòa nhà! Ông
bà có tưởng tượng được một tòa nhà trị giá bao nhiêu không? Chúng tôi phải đầu
tư hơn 7 triệu rưỡi đô la cho xưởng thiết bị vật lý ở Harvard.
Người phụ nữ im
lặng một lát. Vị hiệu trưởng có vẻ hài lòng. Bây giờ thì ông có thể rời khỏi họ.
Người phụ nữ quay lại phía chồng và nói nhỏ:
– Bắt đầu xây một
trường đại học tất cả chỉ tốn ngần ấy thôi sao? Tại sao chúng ta không xây một
trường đại học riêng?
Người chồng gật
đầu đồng ý.
Khuôn mặt của vị
hiệu trưởng thượt ra đầy bối rối và lúng túng. Và ông bà Leland Stanford đã bỏ
đi, đến thành phố Palo Alto, bang California, nơi đó họ lập nên trường đại học
mang tên mình, một đài tưởng niệm để tưởng nhớ đứa con của mình mà trường
Harvard không còn quan tâm đến nữa.
Vị hiệu trưởng đã
để vuột mất một cơ hội lớn để phát triển hơn nữa cho đại học Harvard, nhưng nỗi
đau không phải là sự mất mát mà là sự tủi nhục trong tâm hồn. Khi vị hiệu
trưởng thấy mình quá lớn lại là lúc nhận ra mình quá nhỏ, và bài học hôm nay
không phải đến từ bậc quân sư, mà chỉ là từ những con người xem ra thật bình
dị.
Cái gì ở
trong thẳm sâu tâm hồn thì khó thấy, nhưng đó lại là điều cao quý và bền vững
với thời gian. Đó là vẻ đẹp tâm
hồn mà chỉ có những ai sở hữu một tâm hồn cao đẹp mới “nhìn thấy” và “hiểu
được”.
16. Hạt táo
Tại một xứ nọ, có
một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của một người
khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho phép xin
một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: “Tâu bệ hạ, xin cho thần
được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, thành cây
và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho
thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế”.
Nhà vua truyền
lệnh cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn
cách trồng táo.
Ðúng giờ hẹn,
trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên trộm đào một cái lỗ
nhỏ và nói: “Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy của người khác, người đó
mới có thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm nên tôi không thể trồng
được hạt giống này”.
Nhà vua tin người
tử tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy.
Nhưng sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: “Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn
niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác… Thần cảm thấy mình không đủ
điều kiện để trồng hạt táo này”.
Nhà vua đảo mắt
nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt, ông nghĩ bụng: “May ra quan thủ kho
trong triều đình là người nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện”. Nhưng
cũng giống như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước
mặt mọi người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc.
Không còn tìm được
người nào có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nhà vua định cầm hạt
giống đến cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên
thiếu, ông cũng có lần đánh cắp một báu vật của vua cha.
Lúc bấy giờ, người
tử tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: “Các Ngài là những kẻ quyền
thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng không
thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của người
khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác để ăn
cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ”.
Nhà vua và cả
triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích cho người
ăn trộm.
17. Thiên đàng ở đâu?
Cha Gioan Tauler,
một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài
thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà
thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một
người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào
người hành khất:
– Chào ông, chúc
ông may mắn.
Người ăn mày thản
nhiên trả lời:
– Chào cha, tôi có
bị rủi ro bao giờ đâu.
– Vậy thì xin
Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
– Ồ, thưa cha, đời
tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất
ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
– Nếu Chúa bắt ông
xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất
trả lời không cần suy nghĩ:
– Nếu Chúa làm như
vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa
ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng
ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
– Này ông, ông có
thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây?
– Thưa Cha, tôi từ
Thiên Chúa mà đến.
– Nhưng ông tìm
thấy Thiên Chúa ở đâu?
– Ở ngay khúc
quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, Cha
Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
– Thế thì, ông là
ai?
Người ăn mày nói
một cách trịnh trọng:
– Tôi là vua.
Cha Tauler quỳ
xuống trước mặt người ăn mày:
– Tâu đức vua,
ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
– Vương quốc của
ta ở ngay trong tâm hồn ta.
18. Người gác cổng
Có một câu chuyện
kể về một ông già, cứ mỗi sáng, ông xách một giỏ thức ăn và một chai nước đi
ngang khu phố thị kia, tới bờ sông, ngồi lại đó. Đến chiều mặt trời lặn, ông đi
về. Đều đặn như thế. Anh gác cổng của một ngôi biệt thự nọ rất kinh ngạc. Một
hôm anh chặn ông già lại hỏi:
– Xin nói cho tôi
biết ông làm gì mà cứ sáng xách giỏ đi, chiều xách giỏ về. Tôi đã bỏ ra ba
ngày, ra bờ sông xem ông làm cái chi nhưng không thấy ông làm gì cả. Ông chỉ
ngồi chơi ngoài ấy, nhìn nước chảy, nhìn người qua lại, cười cợt với gió mây.
Hỏi ai, ai cũng bảo ông là người rất bình thường. Vậy xin nói tôi nghe ông làm
gì?
Ông già cười đáp:
– Trước khi tôi
nói cho anh biết tôi làm cái chi, anh nói cho tôi biết anh làm cái gì đi!
Anh kia đáp:– Giản
dị lắm, ông biết tôi ngồi nơi cổng này, tôi làm công việc của người gác cổng.
Người nào đi vào tôi biết họ đi vào. Người nào đi ra tôi nhìn thấy họ đi ra.
Giản dị vậy thôi!
Ông già nói:
– Ồ! Tôi cũng làm
công việc giống anh.
Anh kia đáp:
– Ông nói vô lý.
Ông đâu có cái cổng đặt bên ngoài toà biệt thự. Ông cũng không lãnh lương của
ai, và ông ngồi cũng đâu thấy ai đi qua đi lại. Nói ông là người gác cổng thì
không đúng.
– Ông hãy nghe tôi
giải thích! Ông gác cổng người bên ngoài. Tôi gác cổng người bên trong. Tôi chỉ
làm mỗi một việc là ngồi yên đấy, nhìn những người khách qua lại trong tâm thức
của tôi. Những ngày đầu tiên, tôi thấy nhiều người qua lại quá. Này anh khách
buồn, anh khách giận, anh khách ghét, thương, sầu tủi, bất an v.v.. luôn đi
ngang, có khi từng đoàn người, đếm không xuể. Có điều vui là đi bao nhiêu thì
cứ đi, tôi chỉ ngồi nhìn mỉm cười với những người khác đi qua ấy. Dần dần tôi
phát giác càng ngày người đi càng ít. Rồi đến một lúc, dăm ba hôm mới có một
người khách đến rồi đi. Người khách đó ở bên trong tôi. Ông thì ngồi gác cửa
bên ngoài, tôi làm người chủ gác cửa bên trong. Việc chúng ta giống như nhau.
Thế mà khác nhau vô cùng: Ông thì ra ngoài, tôi vào bên trong.
19. Vàng ngọc phải chăng là hạnh phúc?
Thời Phật tại thế,
có một vị Quốc vương tên là Ða Vị Tả kính thờ cả 69 dòng ngoại đạo. Bỗng một
ngày vua phát thiện tâm muốn bố thí rất nhiều, bao nhiêu của báu chất đấy như
núi, rao rằng hễ ai đến xin đều cho bốc đi một nắm.
Vì số người đến
xin đã dài ngày mà núi báu vẫn chưa suy suyển.
Ðức Phật biết Quốc
vương có nhiều phước duyên về trước có thể hóa độ, liền hóa làm một vị Phạm Chí
đến thăm. Vua rất mừng rỡ, làm lễ xong hỏi rằng:
– Ngài muốn cần
dùng gì xin cho tôi biết? Tôi vui lòng cúng dường.
Vị Phạm Chí đáp:
– Tôi từ xa đến
đây, cốt xin nhà vua ngọc báu để đổi lấy vật liệu làm nhà ở.
Vua đáp:
– Tôi rất vui lòng
xin Ngài bốc lấy một nắm.
Vị Phạm Chí bốc
một nắm, đi bảy bước, trở lại trả chỗ cũ.
Vua hỏi:
– Cớ sao Ngài
không lấy?
– Với số báu ấy
thật đủ làm nhà, nhưng khốn cho tôi về sau còn phải cưới vợ nữa, thì không đủ
dùng, nên tôi không lấy.
– Thôi, Ngài lấy
thêm ba nắm.
Vị Phạm Chí bốc ba
nắm, đi bảy bước trở lại trả chỗ cũ.
– Sao Ngài lại
thế?
– Với số báu vật
ấy thật đủ cả cưới vợ, nhưng lấy gì sắm ruộng đất, đầy tớ, trâu ngựa, tôi tính
không đủ, nên thôi là hơn.
– Thôi, Ngài lấy
thêm bảy nắm.
Vị Phạm Chí lấy
xong, đi bảy bước lại trở lại trả chỗ cũ.
– Cớ gì Ngài vẫn
chưa vừa ý?
Nếu tôi có con cái
phải lo cưới gả, sắm sửa, lại còn việc nhà đám kỵ, giao tiếp thân bằng, tôi
tính vẫn cứ thiếu, nên không lấy.
– Tôi vui lòng
cúng tất cả, Ngài lấy về dùng cho đủ!
Vị Phạm Chí bước
lên núi báu rồi trở xuống không nhận.
Nhà vua rất quái
lạ thưa rằng:
–
Ý Ngài thế nào, tôi
thật không hiểu.
–
– Bản ý tôi đến
xin Ngài để mưu cầu sự sống. Xong tôi xét lại mạng con người sống chẳng bao
lâu, muôn vật vô thường, sáng còn tối mất, khó giữ lâu bền.
Dầu tôi được cả
núi báu, vị tất đã lợi ích hoàn toàn cho bản thân. Lo toan tham muốn bao nhiêu,
luống công nhọc nhằn bấy nhiêu, chẳng bằng dứt bỏ dục vọng, cầu đạo giải thoát,
rèn luyện các đức tính tốt cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, đều hướng về
mục đích từ bi, trí tuệ là hơn, nên tôi không lấy.
Khi đó nhà vua
tỉnh ngộ, tâm ý sáng suốt cầu được nghe pháp.
Vị Phạm Chí liền
nói bài kệ rằng:
Tuy được núi
vàng báu
Chất cao đến
trời xanh.
Thế gian nhiều
như thế
Chẳng bằng
thấy nguồn đạo.
Ðời không lành
tưởng lành,
Ưa mà thấy như
ghét
Lấy khổ dùng
làm vui,
Cuồng phi bị
tai hại.
Nói bài kệ xong,
Ngài đã hiện Phật thân phóng hào quang sáng rực rỡ, vua và quần thần vui mừng
hớn hở xin thọ ngũ giới, chứng quả Tu Ðà Hoàn.
Viên Minh
“Ðời người ngắn
ngủi lắm, thoáng qua lẹ làng như bóng chớp. Không ai sống mãi mà khỏi chết, thì
con người có trường thọ được đâu. Vậy nên ta diệt lòng tham lam và bố thí cho
kẻ nghèo. Sự giàu sang phong phú không phải thuộc về ta mãi, mà thường thường
vì nó mà ta lụy thân.”
20. Sự lạnh giá của tâm hồn
Có câu chuyện kể
rằng: Sáu con người, do sự tình cờ của số phận, mắc kẹt vào cùng một cái hang
rất tối và lạnh. Mỗi người còn một que củi nhỏ trong khi đống lửa chính đang
lụi dần.
Người phụ nữ đầu
tiên định quẳng que củi vào lửa, nhưng đột nhiên rụt tay lại. Bà vừa nhìn thấy
một khuôn mặt da đen trong nhóm người da trắng.
Người thứ hai lướt
qua các bộ mặt quanh đống lửa, thấy một người trong số đó không đi chung nhà
thờ với ông ta. Vậy là thanh củi cũng bị thu về.
Người thứ ba trầm
ngâm trong một bộ quần áo nhàu nát. Ông ta kéo áo lên tận cổ, nhìn người đối
diện, nghĩ thầm: “Tại sao mình lại phải hy sinh thanh củi để sưởi ấm cho con
heo béo ị giàu có kia?”.
Người đàn ông giàu
lui lại một chút, nhẩm tính: “Thanh củi trong tay, phải khó nhọc lắm mới kiếm
được, tại sao ta phải chia sẻ nó với tên khố rách áo ôm lười biếng đó?”.
Ánh lửa bùng lên một
lần cuối, soi rõ khuôn mặt người da đen đang đanh lại, lộ ra những nét hằn thù:
“Không, ta không cho phép mình dùng thanh củi nầy sưởi ấm những gã da trắng!”.
Chỉ còn lại người
cuối cùng trong nhóm. Nhìn những người khác trầm ngâm trong im lặng, anh ta tự
nhủ: “Mình sẽ cho thanh củi, nếu có ai đó ném phần của họ vào đống lửa trước”.
Cứ thế, đêm xuống
dần. Sáu con người nhìn nhau căng thẳng, tay nắm chặt những khúc củi. Đống lửa
chỉ còn than đỏ rồi lụi tắt. Sáng hôm sau khi những người cứu hộ tới nơi, cả sáu
đều đã chết cóng.
21. Đừng quên cái chính
Một người đàn bà
nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng
nghe văng vẳng bên tai: “Ngươi có thể vào trong và
lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều, sau
khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn. Tuy vậy hãy lợi dụng cơ
hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.
Nghe lời bà ta đi
vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: Vàng bạc, châu báu,
kim cương… Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết
vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “Ngươi chỉ có 8 phút
thôi và đừng quên cái chính!”.
Sau khi đã nhét
đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang,
cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong
hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã.
Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.
Trong cuộc đời chúng
ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có
một âm thanh nhắc nhở chúng ta:
“ĐỪNG QUÊN CÁI
CHÍNH”.
Nhiều khi con
người vì ham kiếm thật nhiều tiền, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh
vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời. Đó là chăm chút đời sống tâm
linh, cho gia đình nhỏ, cho những người thân yêu là cha mẹ, con cái, chồng vợ…,
là giá trị của đạo đức làm người. Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp
nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn.
22. Hai cái bị của người đời
– Thưa Thầy, xin
Thầy chỉ dẫn cho phương pháp tu tập.
– Quý vị muốn
phương pháp tu tập với mục đích gì và tại sao lại chọn chúng tôi để đặt câu
hỏi?
– Tôi thấy cuộc
đời này sao mà khổ quá, như tôi đây cũng có trình độ học thức, có công ăn việc
làm tốt, gia cảnh đầm ấm, nhưng vẫn thấy khổ tâm nhiều chuyện, nhiều lúc cảm
thấy bất an đến độ ăn không ngon ngủ không yên, nhiều điều lo lắng, bực mình
lắm! Tôi muốn được an tâm nên đì tìm phương pháp tu tập để thoát khổ.
– Trên đời
này, người nào không có tâm cố chấp, không có tâm phân biệt, không mang nặng
hình thức thế gian thì người đó sống đời an lạc với hạnh phúc xuất thế gian.
– Kính xin Thầy
giảng rõ hơn.
– Người đời thường
mang hai cái bị. Một cái trước ngực chứa đầy lỗi lầm của người khác. Một cái sau lưng
chứa đầy lỗi lầm của chính bản thân. Do đó, người đời thường bực bội,
bất an trước các lỗi lầm quá dễ thấy của người khác. Trái lại, với các lỗi lầm
của chính bản thân, người đời thường che giấu, không muốn ai thấy, chính mình
cũng không thừa nhận, không nhận ra, cho nên khó khá được, cho nên khổ dài dài.
Muốn hết khổ, muốn bớt khổ, người đời nên đổi vị trí của hai cái bị nói trên.
Khi nhận thấy chính bản thân cũng có quá nhiều khuyết điểm, nhược điểm, người
đời chắc chắn không còn dám cất cao giọng chỉ trích nhục mạ người khác.
– Kính cảm tạ lời
chỉ giáo của Thầy. Thực hay quá! Nhưng riêng tôi, tôi không muốn đổi vị trí của
hai cái bị đó thì sao, thưa Thầy?
– À, quý vị không
muốn đổi vị trí của hai cái bị, thì quý vị đổi nội dung của chúng cũng được mà.
– Tôi chưa hiểu rõ
ý của Thầy?
– Nếu quý vị vẫn
giữ vị trí của hai cái bị: Cái bị trước ngực quý vị chứa đựng toàn
là ưu điểm của người khác. Cái bị sau lưng quý vị chứa đựng toàn là ưu điểm của
bản thân.
– Tôi vẫn chưa tỏ
tường?
– À, khi đó quý vị
sẽ thấy ưu điểm của người khác quá nhiều, lắm khi vượt trội hơn mình, mình thực
ra chẳng bằng nhiều người lắm. Từ đó, mình bớt đi tánh phê phán, phỉ báng người
khác – hãy thu mình lại, quan sát chính bản thân, quan sát chính bản tâm, mình
sẽ được bình an ngay.
– Thực là quý hoá,
tôi hiểu rồi. Nhưng, thưa Thầy, sao lộn xộn và rắc rối quá vậy? Lấy kéo cắt cái
đáy bị là xong ngay. Chuyện hay dở của người, của ta, cho nó rơi mất đi, đeo
chi cho nặng nhọc … Quăng bỏ hai cái bị, là đơn giản nhất!
– À, như vậy quý
vị đã giác ngộ rồi, Thầy còn gì để giảng dạy nữa.
23. Bảy bát nước cứu khổ
Ngày xửa ngày xưa,
tại một ngôi làng nọ có một gia đình bá hộ nổi tiếng giàu có nhất vùng.
Người người nể phục, nhà cao cửa rộng, đồng ruộng thì mênh mông bát ngát, thẳng
cánh có bay, gia súc thì từng đàn, lúa chất đầy bồ, trong nhà không thiếu thứ
gì, kẻ ăn người ở có tới chừng mấy mươi người. Cao lương mỹ vị ăn mãi không
hết.
Gia đình bá hộ có
hai người con, một trai một gái. Ai cũng khôi ngô tuấn tú, xinh đẹp và nết na.
Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống gia đình họ, khi người con gái vì uất ức với
mối tình cùng chàng thi sĩ mà quyên sinh, còn cậu con trai trong một lần đi săn
trong rừng sâu, bất cẩn bị sập bẫy mà trở thành kẻ tàn phế.
Người mẹ vô cùng
đau khổ và tuyệt vọng. Bà sống trong nỗi ám ảnh và oán hờn. Ngày ngày bà ăn
chay niệm Phật cầu xin được bình an và không còn phiền muộn. Rồi một ngày kia,
bà cho gọi tất cả những người dân mang nợ với gia đình bà đến và phán rằng:
– Từ xưa tới nay, gia
đình ta ăn ở có trên có dưới, ai khó khăn ta đều cứu giúp, cho vay bạc và lúa
gạo, sau mỗi lần thu hoạch thì gia đình các ngươi đều có trả nhưng vẫn không
thể hết. Nay ta cho gọi các ngươi tới để xóa tất cả các món nợ từ trước đến
nay. Dù nợ nhiều hay ít. Từ nay trở về sau, giữa gia đình ta và gia đình những
nông dân này không còn bất kỳ món nợ nào.
Những người nông
dân nghèo khổ vui mừng khôn xiết, tay bắt mặt mừng, có những người đã quỳ lạy
cảm tạ tấm lòng của bà mà khóc nức nở, nguyện làm thân trâu ngựa để báo đáp ơn
này. Nhưng bà một lòng từ chối: “Kẻ ăn người ở trong gia đình ta nay đã có đủ
vì vậy ta không cần thêm nữa, các ngươi hãy về lo làm ăn và sống cuộc sống như
mình mong muốn”.
Việc làm này của
bà, những tưởng rằng như vậy thì trong lòng bà sẽ thấy thanh thản nhưng sao vẫn
nặng trĩu một nỗi buồn.
Nhân dịp một lần
vào viếng chùa, bà đã xin gặp vị Hòa thượng và bạch rằng hãy cho bà xin một bài
thuốc để diệt trừ khổ đau và phiền não. Vị Hòa thượng mỉm cười hiền hậu nhìn
người phụ nữ sang trọng, quý phái nhưng có khuôn mặt đượm buồn mà nói bà hãy
tìm đến bảy gia đình chưa bao giờ biết khổ, xin mỗi gia đình một bát nước. Với
bảy bát nước đặc biệt này, tôi sẽ nấu thành một loại thuốc giải cứu những sầu
muộn trong lòng bà.
Ngay sau đó, bà
lên đường tới thăm gia đình thứ nhất mà bà quen biết bấy lâu nay, bà nghĩ rằng
ắt hẳn gia đình này đang hạnh phúc và bà có thể xin được một bát nước. Quả là
éo le, sau khi nghe bà trình bày, chủ nhà nhìn bà với ánh mắt ngấn lệ, rằng bà
đã đến không đúng nhà và tìm không đúng người. Lúc này, người chủ nhà bắt đầu
kể về câu chuyện gia đình, họ đã sống những ngày đau khổ, bất hạnh ra sao, con
cái khiến họ mệt mỏi và buồn phiền như thế nào v.v… Nghe xong, bà lại nói những
lời động viên, an ủi, vỗ về yêu thương trước khi bà tới thăm gia đình khác.
Cả ngày hôm ấy, bà
không xin được một bát nước nào. Nước là thứ đi đâu cũng có thể lấy, dễ tìm
nhưng bà không thể xin được. Gia đình nào cũng có nỗi sầu khổ riêng,
không ai giống ai và tất cả những điều ấy khiến bà chạnh lòng. Như một
phản xạ rất tự nhiên, của một người phụ nữ đã trải qua những mất mát những đau
thương trong cuộc sống, bà đều nói lời khích lệ tinh thần, hay đơn giản chỉ là
lắng nghe họ tâm sự đề thấu hiểu những gì họ đã trải qua bằng tất cả tình yêu
thương vốn có.
Suốt những tháng
ngày sau đó, bà kiên nhẫn đi xin, nhưng cũng không tìm thấy gia đình nào hạnh
phúc thật sự như bà vẫn thấy. Nơi nào cũng chất chứa nỗi niềm khổ đau và hờn
tủi. Bà luôn bận tâm suy nghĩ làm thế nào để an ủi, giúp mọi người thoát khỏi
phiền não, xoa dịu đau thương, và bà đã quên đi đau khổ của chính mình.
Giờ đây hơn bao
giờ hết, bà thấy lòng mình thật thanh thản, nhẹ nhàng. Khi ta cho đi cũng là
khi ta nhận lại nhiều hơn thế, nỗi buồn sẽ vơi đi khi ta cởi mở lòng mình, đón
nhận lời sẻ chia, lời thân thiện từ những người chung quanh.
Sẽ không có bất kỳ
loại thuốc nào có thể “chữa lành” những phiền muộn trong mỗi thân thể con
người. Sự từng trải, lòng khoan dung, tình yêu thương của một người đàn bà từng
làm vợ, làm mẹ của những đứa con, đã giúp bà nhận ra rất nhiều thứ xung quanh
cuộc sống này. Điều mà từ trước tới giờ bà chưa một lần được biết và thấu
hiểu. Nỗi đau mà bà đang chịu đựng rất nhỏ so với những người khác, phải
chăng đó là một điều hạnh phúc?
Đôi khi trong cuộc
sống, có những thời điểm mà tất cả mọi thứ chống lại bạn, đến nỗi bạn cảm tưởng
rằng mình không thể chịu đựng hơn được nữa, nhưng hãy cố gắng đừng buông xuôi
và bỏ cuộc, vì sớm muộn gì rồi mọi thứ cũng sẽ qua đi. Chính nụ cười của bạn
mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh, và tất nhiên nó cũng mang lại
hạnh phúc cho chính bản thân bạn nữa. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng đến phía
sau những nỗi cô đơn dù không thể diễn tả thành lời
24. Có tàn nhẫn quá không?
Thiền sư kể cho
các đệ tử của mình nghe một câu chuyện:
“Ngày xưa, có một
người làm công việc thu thuế, nhà rất giàu. Hắn ta rất độc ác. Người hắn lùn
tịt, béo quay. Hắn luôn tìm đủ mọi cách để lấy được nhiều tiền bạc từ những
người nông dân đến nộp thuế cho hắn.
Một hôm có một bác
nông dân dến xin khất hắn sang lần khác nộp tiền vì trong nhà bác không còn đến
một hột gạo mà ăn. Bác năn nỉ đến gẫy lưỡi hắn mới chấp nhận. Bác nông dân ra
về nhưng vô ý đánh rơi một đồng tiền vàng, nhiều gấp bao nhiêu lần số tiền bác
phải nộp thuế. Hắn nhìn thấy bèn lấy chân dẫm lên và tự nhủ: “Cho mày chết, có
tiền không chịu nộp thì ông lấy hết”.
Bác nông dân ra
khỏi cửa thấy mất tiền liền quay lại hỏi. Hắn nói: “Mày mà cũng có tiền để rơi
ở cửa quan à? Thôi xéo đi cho khuất mắt”.
Bác nông dân cố
nài nỉ: “Đó là tiền người ta nhờ tôi mua thuốc, ông có nhặt được làm ơn cho tôi
xin”. “Ta mà thèm sờ vào đồng tiền bẩn thỉu của nhà ngươi à? Thôi cút ngày”.
Bác nông dân không biết làm thế nào đành lủi thủi ra về.
Trời lũ lụt mất ba
hôm, tên thu thuế không về nhà được đành phải ở lại nơi làm việc. Khi trời
quang mây tạnh, hắn quay về nhà và thấy vợ hốc hác, đầu bù tóc rối. Nhà cửa
lung tung, lộn xộn. Hắn rất ngạc nhiên và hỏi vợ: “Con đâu, mình?”. Vợ hắn
trả lời: “Con chết rồi”. Hắn hét lên: “Chết rồi, tại sao nó chết, ôi đứa con
trai bé bỏng yêu quý của ta, tại sao nó chết?”.
Vợ hắn đau khổ trả
lời: “Trước khi bão lũ, con mình bị ốm, em đã nhờ bác hàng xóm đi mua thuốc hộ.
Em biết bác ấy không ưa anh nên dặn với vợ bác ấy đừng bảo là em nhờ. Nhưng
không hiểu sao, bác ấy bảo rằng, bác ấy đánh mất tiền ở chỗ làm việc của anh.
Sau đó bão lũ quá, em không thể mua thuốc cho con, nó ốm nặng quá và đã chết.”
Hắn đứng như trời trồng, mặt
xanh mét không nói được câu nào…”
Các đệ tử nhao nhao :
Đáng đời, đồ cái thằng độc
ác!
– Cho mày chết, tham cho lắm vào!
– Cho mày chết, tham cho lắm vào!
Riêng một một đệ
tử trẻ tuổi ngồi suy tư rồi quay sang thì thầm với bạn: “Tội nghiệp thằng bé
quá. Nó còn quá nhỏ để gánh chịu việc làm sai lầm của bố nó. Tại sao người ta
lại bắt nó chết như vậy? Có tàn nhẫn quá không hay đó quả thật chỉ là một sự tình
cờ?”.
25. Bài học từ Socrates (101 Truyện thiền )
26. Bao nhiêu giày mới đủ?
Có một hòa thượng
quyết định sang Tây phương lấy kinh, liền bái biệt sư phụ.
“Con dự định khi
nào sẽ khởi hành?”, sư phụ hỏi.
“Tuần sau, thưa
thầy”, vị hòa thượng cung kính trả lời.
“Bởi vì đường sá
xa xôi, vậy nên con đã nhờ người ta làm mấy đôi giày cỏ, tuần tới sau khi giao
hàng rồi, con sẽ khởi hành ngay”.
Sư phụ cúi đầu
trầm ngâm một lúc, nói: “Ừm, suy nghĩ của con thật là chu đáo. Không bằng như
vậy đi, cũng không cần nhờ người ta làm giày cỏ gì nữa cả, ta sẽ xin các tín
chúng quyên góp là được rồi, như vậy sẽ nhanh hơn”. Vị hòa thượng cảm thấy lời
kiến nghị của sư phụ quả thật là rất hay, liền nhận lời ngay.
Chỉ là không biết
sư phụ đã nói với bao nhiêu người, hôm đó lại có đến mấy chục vị tín chúng mang
giày cỏ đến tặng, từng đôi từng đôi giày cỏ chất đầy một góc nhỏ thiền phòng.
Sáng sớm hôm sau,
một tín chúng mang cây dù đến, tỏ ý muốn tặng cho hòa thượng. Hòa thượng không
hiểu tại sao, hỏi: “Dám hỏi thí chủ, sao ông lại muốn tặng dù?”.
“Sư phụ của ngài
nói rằng ngài sắp đi xa, trên đường e rằng ngài sẽ gặp phải mưa to, vì vậy ông
đã hỏi tôi có thể tặng dù cho ngài không. Tôi vô cùng kính phục quyết tâm của
ngài, liền nhận lời ngay”. Vị hòa thượng thu nhận cây dù, trong lòng vô cùng
cảm động trước sự chu đáo của sư phụ.
Tuy
nhiên, hôm nay không chỉ một người mang dù đến mà là mười người, hai mươi
người,… Đến buổi tối, trong thiền phòng của ông rốt cuộc đã chất đến gần năm
chục cây dù.
Sau buổi tối, sư
phụ bước vào thiền phòng của ông: “Đã chuẩn bị thế nào rồi? Giày cỏ và ô dù đã
đủ dùng chưa?”.
“Đủ rồi, đủ rồi,
thầy ạ”.
Vị hòa thượng chỉ
về số giày cỏ và ô dù ở trong phòng, đã được chất thành đống như một ngọn núi
nhỏ, nói: “Nhiều quá rồi, con không thể mang theo tất cả để khởi hành được”.
“Như vậy sao
được?”, sư phụ không đồng ý mà nói rằng: “Trời có giống bão không đoán trước
được, ai có thể biết được rằng con sẽ đi bao nhiêu dặm đường, trải bao
nhiêu mưa gió đây? Lỡ như giày cỏ đi rách hết rồi, dù cũng không còn nữa, lại
phải làm thế nào đây? Vẫn là hãy mang theo nhiều một chút, như vậy thỏa đáng
hơn”.
“Nhưng mà…”
“Đúng rồi!”, sư
phụ lại nói: “Con trên đường đi, nhất định sẽ gặp không ít những con sông con
suối khác nữa, bắt đầu từ ngày mai, thầy xin tín chúng quyên góp thuyền bè, con
cũng mang toàn bộ đi theo luôn”.
Vị hòa thượng lúc
này mới hiểu được dụng tâm của sư phụ, anh quỳ xuống đất, cung kính
nói: “Sư phụ, con đã minh bạch rồi! Đệ tử sẽ khởi hành ngay bây giờ, cái
gì cũng không mang theo cả”.
Bình
Điều sư phụ muốn
nói với tiểu hòa thượng chính là hành trình về trời tây này có thành công hay
không, điều quan trọng không phải là những vật ngoài thân có được trang bị đầy
đủ hay không, mà là có “quyết tâm” vững chắc hay không.
Mang theo nhiều
hành lý quá, gánh vác nặng nề, chắc chắn là không có cách nào để đi xa được.
Hành trình thật sự chính là như vậy, hành trình của cuộc đời cũng là như thế! Khi
gánh nặng trong tâm chúng ta quá nặng nề, có quá nhiều thứ “không bỏ được”, nó
sẽ khiến chúng ta không cách nào cất những bước chân nhẹ nhàng thoải mái.
Buông bỏ những
phiền não không cần thiết, chỉ mang theo một trái tim kiên định đi về phía
trước, bạn sẽ đạt đến mục tiêu mau chóng hơn.
27. Cái tâm của con người
Buổi trưa, tại sân
ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi
để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ
ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này. Chị
đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ
gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.
Trên sân ga, người
qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn
ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là
những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường
như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để
lạy lục, nhờ vả việc gì đó.
– Anh để ý đấy
nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình
để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô
duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau
xong thì mình không dám xin lại hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì
vài ngụm đã hết veo. Đúng là người nhà quê! – Một người phụ nữ ăn mặc trông có
vẻ sang trọng bĩm môi đánh thượt một cái và nói với người đàn ông cũng có vẻ
sang trọng bên cạnh mình.
– Xin chào… xin…
Quả nhiên người
phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị
nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác.
Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu
rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang
một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra
từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi”
Những người ngồi
trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu
xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả
vờ ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản.
“Mình đâu phải là
tên ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ?” – Người phụ nữ xót xa
nghĩ.
Chị ta lại đi qua
các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc
đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo.
Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ
xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói.
– Xin lỗi cậu, cậu
có thể giúp đỡ tôi được không?
Chàng trai bỏ tờ
báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:
– Xin lỗi, chị
đang hỏi tôi ạ?
Người phụ nữ gật đầu.
– Xin anh giúp đỡ
tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc
lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có
thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không?
Sau khi nghe xong
người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự.
Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng
thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của
mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người
phụ nữ.
– Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi
chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê
nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một
công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp
trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.
Người phụ nữ rưng
rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên
được hai tiếng “Cám ơn”.
Vừa quay gót đi về
phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta
hớt hải đi về phía chị và nói:
– Như thế này vậy,
chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.
– Thế còn cậu thì
sao? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
– Số tiền em vừa
đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy
cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là
con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà
trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống
tiền lẻ nào!
Nói xong, không
kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay
người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra
khỏi tàu và đến quầy bán vé.
Rất nhanh sau đó,
chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất
tiếng hỏi:
– Sao cậu lại làm
như thế, cậu không hối hận à?
Chàng trai lắc
đầu:
– Không, chị ạ.
Trong ánh mắt của
người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng
trai và nói:
– Anh bạn trẻ,
xuống đây với tôi một lát.
Người phụ nữ kéo
chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại
nhìn chàng trai:
– Cậu lên xe đi.
Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.
Hoá ra, người phụ
nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng. Để đi
tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga
suốt 3 ngày qua.
Chị nói rằng: “Các
bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra
nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra
rằng: Tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó.
Có thể, chàng
thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại
học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu
ấy có cái ‘tâm’. Có cái ‘tâm’ trong cuộc sống thì mới có cái ‘tâm’ trong công
việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi cần”.
Các bạn thấy đấy,
một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây
chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất
yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó
mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta
có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế mà điều quan trọng là anh đã biết chia
sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.
28. Bức tranh của Goya
Trong một tiết học
của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả
thân phận con người của Goya, hoạ sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha. Bức tranh
mang tên “Fight with Cudgels” (Đánh nhau bằng gậy).
Trong bức tranh,
Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trên tay một chiếc
dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời trong
xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta không đoán được trời sắp
giông bão hay sáng rực nữa.

Cả lớp nhốn nháo.
Ai nấy đều nhao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh
diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh bảo tồn sinh mạng”. Sinh
viên khác: “Bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh
phúc là đấu tranh”. Sinh viên khác nữa lại phân tích: “Bức tranh muốn diễn tả
chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở
đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy”.
Vị giáo sư ra hiệu
cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa. Cả
lớp im lặng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: “Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây
chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng nó có một chi
tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: Hai người nông dân đang hằm hằm sát
khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát
bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay
biết”.
Vị giáo sư ngừng
lại hồi lâu rồi nói tiếp: “Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông
dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát
bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết,
họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ, họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của
danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh của nhân loại chúng ta đang trải qua.
Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất,
khủng bố, chiến tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ
không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng
đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh.
Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm
nơi từng con người.
Một trong những
cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một
người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để
bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này”.
29. Bàn bạc với tâm mình
Một hôm, một đệ tử
đem đến cho vị thiền sư già, người đã sáng lập viện và dạy dỗ cho nhiều thế hệ
thiền sinh một tin buồn như sau: “Thưa sư phụ, đại sư huynh, người môn sinh
xuất sắc sẽ kế tục Người, đã lặng lẽ bỏ đi vào đêm qua”.
Nghe xong, vị
thiền sư già bình thản trở lại với công việc đang làm. Ông chẳng để lộ mảy may
xúc động hay buồn phiền.
Người đệ tử lòng
chưa hết bang hoàng, liền hỏi:
“Thưa sư phụ, sư
huynh là người đệ tử đầu tiên của Người. Sư huynh lại đức độ hơn người, có thể
gánh vác trọng trách mai này. Nay sư huynh bất thần bỏ đi, sư phụ không thấy
mất mát sao?”
Vị thiền sư già ôn
tồn giải thích:
“Sư huynh của con
chỉ dời chỗ ở chứ không bị tiêu diệt, sao gọi là mất mát?”
Người đệ tử vẫn
thắc mắc:
“Nhưng thưa sư
phụ, sư huynh ra đi mà không có lý do chính đáng, nếu mọi người biết được, đệ
tử e rằng thiên hạ sẽ thị phi đàm tiếu nhiều điều gây tổn hại đến thanh danh
của sư phụ, sư phụ nghĩ sao?”
“Thanh danh thì
cũng là hư danh. Người ta sanh ra thanh danh rồi thì người ta cũng có thể đổi
nó thành xú danh. Sao con lại quan tâm?”
Người đệ tử vẫn
chưa hết lo âu:
“Vậy thì sư phụ
không lo cho sư huynh sao? Liệu sư huynh có an lạc khi rời bỏ nơi này chăng?”
Vị thiền sư ung
dung trả lời:
“Sư huynh của con
phải thấy rằng tâm không còn an lạc khi ở đây thì mới ra đi. Ta chẳng hề lo
lắng. Nơi nào an lạc ắt đấy là nhà con ạ”.
Người đệ tử vẫn
chưa hết ấm ức:
“Thưa sư phụ, xin
cho con hỏi một câu cuối: Sư phụ không thấy một chút khó chịu nào hết khi sư
huynh của con làm một quyết định quan trọng như thế mà không hề bàn bạc với sư
phụ sao?”
Vị thiền sư già
cười một cách hiền hòa:
“Con ơi, trên
đời này chẳng có gì quan trọng hơn sự an lạc của mỗi chúng sanh. Con
nên nhớ rằng, con phải tự đi tìm an lạc cho chính mình. Ta hiểu và thông cảm
với sư huynh của con. Trong cuộc đời của mỗi con người, có những
quyết định mà ta không thể nào bàn bạc với ai khác ngoại trừ với chính cái tâm
của mình”.
30. Một người bình thường là đủ rồi
Một bà cụ nặng
nhọc lê bước trên phố. Bà cụ đi chân đất. Trên tuyết.
Một đôi trẻ, tay
xách lỉnh kỉnh những túi to – vừa nói chuyện vừa cười đến nỗi không để ý thấy
bà cụ. Một người mẹ dẫn hai đứa con nhỏ tới nhà bà ngoại. Họ quá vội nên cũng
không để ý. Một viên chức ôm một chồng sách đi qua, mãi suy nghĩ nên cũng không
để ý. Bà cụ dùng cả hai tay để khép vạt áo đứt hết khuy, rồi dừng lại, nép vào
một góc ở bến xe buýt. Một quý ông ăn mặc lịch lãm cũng đứng đợi xe buýt. Ông
cố đứng tránh xa bà cụ một chút. Tất nhiên là bà già rồi, chẳng làm hại được
ai, nhưng nhỡ bà ấy bị bệnh lây nhiễm thì sao. Một cô gái cũng đứng đợi xe
buýt. Cô liên tục liếc xuống chân bà cụ, nhưng cũng không nói gì.
Xe buýt tới và bà
cụ nặng nhọc bước lên xe. Bà ngồi trên chiếc ghế ngay sau người lái xe. Một phụ
nữ mặc áo choàng lông thì thầm:
– Bà cụ này chắc
phải có con cái trưởng thành rồi chứ! Con cái của bà ấy nên cảm thấy xấu hổ mới
phải.
Người phụ nữ này
bỗng cảm thấy mình quả là người tốt, vì mình luôn quan tâm đầy đủ đến mẹ mình. Một
doanh nhân hào phóng bỗng cảm thấy ái ngại. Ông lấy trong ví ra một tờ mười đô
la, ấn vào bàn tay nhăn nheo của bà cụ, nói giọng hãnh diện:
– Đây, biếu bà. Bà
nhớ mua đôi giày mà đi.
Rồi ông ta quay về
chỗ ngồi, cảm thấy hài lòng và tự hào về mình.
Xe buýt dừng lại
khi tới bến và một vài người khách bước lên. Trong số đó có một cậu bé khoảng
16, 17 tuổi. Cậu ta mặc chiếc áo khoác to màu xanh và đeo balô cũng to, đang
nghe headphone. Cậu trả tiền xe buýt và ngồi ngay vào ghế ngang hàng với bà cụ.
Rồi cậu nhìn thấy bà cụ đi chân đất. Cậu tắt nhạc, cảm thấy lạnh người. Cậu
nhìn từ chân bà cụ sang chân mình. Cậu đang đi một đôi giày cổ lông dành cho
trời tuyết. Đôi giày mới tinh và rất ấm chân. Cậu phải tiết kiệm tiền tiêu
vặt khá lâu mới mua được. Bạn bè đứa nào cũng khen.
Nhưng cậu cúi
xuống và bắt đầu cởi giày, cởi tất, rồi ngồi xuống sàn xe, bên cạnh bà cụ. Cậu
nói:
– Bà, cháu có giày
đây này!
Một cách cẩn thận,
cậu ta nhấc bàn chân lạnh cóng, co quắp của bà cụ lên, đi tất và đi giày vào
chân bà. Bà cụ sững người, chỉ khe khẽ gật đầu và nói lời cảm ơn rất nhỏ. Lúc
đó, xe buýt dừng. Cậu thanh niên chào bà cụ và xuống xe. Đi chân đất trên
tuyết. Những người khách trên xe thò đầu ra cửa sổ, nhìn đôi chân cậu thanh
niên, xôn xao bình phẩm.
– Cậu ta làm sao
thế nhỉ?- Một người hỏi.
– Một thiên thần
chăng? Hay là con của Chúa?
Nhưng một cậu bé
quay sang nói với mẹ:
– Không phải đâu
mẹ ạ! Con đã nhìn rõ rồi mà. Anh ấy là người bình thường thôi.
Và việc làm đó,
thật sự, cũng chỉ cần một người bình thường. Chẳng cần phải là một thế lực
cao siêu nào, chúng ta đều có thể là thiên thần của một ai đó.
31. Câu chuyện về một cốc sữa
Có một cậu bé
nghèo hàng ngày thường đi đến từng nhà gõ cửa để bán báo trên đường tới trường
học. Một hôm, chiếc dạ dày lép xẹp của cậu đột nhiên dở chứng. Cậu bé thò tay
vào túi, chỉ còn lại duy nhất một đôla cuối cùng. Cậu định dành dụm 1 đôla để
mua thức ăn cho mấy đứa em ở nhà. Tần ngần một lát, cậu bé quyết định đi đến
một ngôi nhà phía trước để xin chút đồ ăn. Thế nhưng cậu hầu như mất hết can
đảm khi mở cửa cho cậu là một cô bé xinh đẹp, dễ thương. Bối rối và ngập ngừng,
nên thay vì hỏi xin thức ăn, cậu bé chỉ dám xin một cốc nước.
Cô bé trông thấy
dáng vẻ nghèo khổ và đói lả đi của cậu, nên thay vì mang nước cô đã đem lại cho
cậu bé nghèo một cốc sữa lớn. Cậu bé uống một cách ngon lành và chậm rãi.
Sau đó, cậu mới rụt rè hỏi cô gái: “Tôi nợ cô bao nhiêu?”
“Bạn không nợ tôi
cái gì cả”, cô gái trả lời: “Mẹ đã dạy chúng tôi là không bao giờ được chấp
nhận trả cho một lòng tốt”.
Cậu bé cảm động
nói: “Từ sâu thẳm trái tim, tôi thành thực biết ơn cô”.
Sau đó, Howard
Kelly – tên của cậu bé, rời khỏi ngôi nhà cô bé tốt bụng đó, nhưng cậu không
chỉ cảm nhận được sự khỏe khoắn trở lại của cơ thể, mà cậu còn có lòng tin
tưởng hơn vào lòng tốt của con người. Điều đó giúp cậu mạnh mẽ hơn, không chịu
khuất phục và từ bỏ số phận.
Nhiều năm sau đó,
cô gái trẻ tốt bụng mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ địa phương đã cố
gắng nhưng cũng không thể làm thuyên giảm bệnh. Cuối cùng họ quyết định chuyển
cô gái lên bệnh viện thành phố – nơi các chuyên gia có thể chữa khỏi cho cô.
Trong số các bác sĩ, bác sĩ Howard Kelly cũng được mời hội chẩn. Khi anh nghe
tới cái tên địa danh nơi mà cô gái sống, có một tia sáng chợt lóe lên trong mắt
anh. Ngay lập tức anh đứng bật dậy, chạy xuống đại sảnh bệnh viện và bước vào
phòng cô gái. Trong chiếc áo choàng bác sĩ, anh bước tới gần giường bệnh cô
gái. Và ngay lập tức anh đã nhận ra cô. Sau một thoáng, anh quay trở lại phòng
hội chẩn và đề nghị được là người phụ trách ca bệnh đó, và anh sẽ làm hết sức
mình để cứu sống cô gái. Kể từ hôm đó, anh luôn có một sự quan tâm đặc biết tới
ca bệnh của cô gái.
Sau một thời gian
chống chọi, cô bé thuyên giảm bệnh và cuối cùng khỏi hoàn toàn. Trước ngày cô
gái xuất viện, bác sĩ Kelly đã yêu cầu nhân viên quầy thu ngân chuyển hóa đơn
tới phòng của anh. Vị bác sĩ nhìn lên tờ hóa đơn, sau đó, anh viết lên mặt hóa
đơn trước khi nó được gửi tới phòng bệnh của cô gái. Cô gái e dè mở ra đọc, và
cô chắc mẩm rằng có lẽ cô sẽ phải làm việc cật lực cả đời mới trả hết hóa đơn
này. Cuối cùng, cô cũng can đảm nhìn thẳng vào tờ hóa đơn, nhưng cô thật sự ngỡ
ngàng khi trên phần đầu hóa đơn ghi dòng chữ:
“Hóa đơn đã được thanh
toán bằng một cốc sữa”
Ký tên : Bác
sĩ Howard Kelly
32. Chiếc đồng hồ bị mất
Một lần nọ, có một
người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không phải là một
cái đồng hồ thông thường bởi nó còn có giá trị về mặt tình cảm đối với ông. Sau
một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của
những đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị
mất sẽ được thưởng.
Nghe thấy vậy, đám
trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục
tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn không
thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy
tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.
Người nông dân
nhìn đứa bé và nghĩ: “Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ
khá chân thành”. Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra
và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc
nhiên, ông hỏi cậu bé: “Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn
khác đã từ bỏ?”.
Cậu bé đáp: “Cháu
không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy
tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó”.
Sự tĩnh lặng
trong tâm hồn có thể sẽ tốt hơn so với một trí não luôn hoạt động. Hãy để cho tâm trí của bạn những phút giây nghỉ ngơi,
thư giãn hàng ngày. Và hãy xem, sự hiệu quả mà nó đem lại khi giúp bạn xây dựng
cuộc sống hằng mong đợi của mình.
33. Người đàn ông trên sa mạc
Một người đàn ông
bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Ông mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất
kỳ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát. Đi mãi đi mãi, đến khi đôi chân ông đã
sưng lên nhức nhối, thì ông thấy một căn lều cũ, rách nát, không cửa sổ. Ông
nhìn quanh căn lều và thấy ở một góc tối, có một cái máy bơm nước cũ và gỉ sét.
Tất cả mọi thứ trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm. Người đàn ông vội vã bước
tới, vịn chặt tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có một giọt nước nào chảy ra cả.
Thất vọng, ông
nhìn quanh căn lều. Lúc này, ông mới để ý thấy một cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi
cát trên bình, ông đọc được dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng cách lấy viên đá
cào lên: “Hãy đổ hết nước trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy
nhớ đổ nước đầy vào chiếc bình này”.
Người đàn ông bật
nắp bình ra, và đúng thật, trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, người đàn ông
rơi vào một tình thế bấp bênh. Nếu ông uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn
ông có thể sống sót. Nhưng nếu ông đổ hết nước vào cái máy bơm cũ gỉ, có thể nó
sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất – rất nhiều nước. Ông cân
nhắc khả năng cả hai sự lựa chọn: nên mạo hiểm rót nước vào máy bơm để có nguồn
nước trong lành, hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời
chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có
còn chính xác nữa không?
Nhưng rồi cuối
cùng, ông cũng quyết định rót hết nước vào cái máy bơm. Rồi ông tiếp tục nhấn
mạnh cái cần máy bơm, một lần, hai lần… chẳng có gì xảy ra cả! Tuy hoảng hốt,
nhưng nếu dừng lại, ông sẽ không còn một nguồn hi vọng nào nữa, nên người đàn
ông kiên trì bơm lên xuống, lần nữa, lần nữa… Nước mát trong lành bắt đầu chảy
ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Người đàn ông vội vã hứng nước vào bình và uống.
Rồi ông hứng nước
đầy bình, dành cho người nào đó không may mắn bị lạc đường như ông sẽ đến đây.
Ông đậy nắp bình, rồi viết thêm một câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình: “Hãy
làm theo chỉ dẫn trên. Bạn cần phải cho trước khi bạn có thể nhận”.
34. Ăn mày cửa Phật
Có một ông lão kéo
một xe gạo nặng nề đang lê bước trên đường vừa đi vừa thở hổn hển, trông có vẻ
rất mệt, bánh xe chao đảo va vào một cục đá bên đường làm cả xe gạo đổ nhào
xuống hết. Ông lão cố hết sức nâng xe gạo lên nhưng trong tình thế bất lực và
mệt mỏi mồ hôi nhễ nhại, trời thì nắng chang chang. Thế là ông ngồi bệt
xuống đất.
Khi nhìn xung
quanh, ông thấy một ngôi chùa, bên ngoài ngôi chùa là những chiếc xe ô tô đậu
san sát nhau. Vẻ mặt đăm chiêu và phiền não, ông suy nghĩ và nói
thầm: “Người vừa sinh ra thì đã giàu, còn kẻ làm lụng vất vả cả đời lại
chẳng có gì”.
Một phật tử nghe
thấy và nói: “Ông đã đến cửa Phật sao không vào thành tâm cầu nguyện, lại ngồi
đây than thân trách phận? Ông có thấy chùa Phúc Lai bên kia đường không? Tôi
nghe bảo chùa đó rất thiêng, chả thế mà khách thập phương cứ kéo đến ùn ùn”.
Đứng từ xa nhìn
ông có vẻ ngơ ngác, một vị tăng bước tới và nói: “Thí chủ lần đầu tiên đến đây
phải không?”
Ông lão: “Vâng!
Thưa Thầy lần đầu con đến nơi cửa Phật nên chẳng biết cầu nguyện ra làm sao.
Mong Thầy chỉ dạy”.
Vị tăng: “Thí chủ
thỉnh cầu điều gì?”. Ông lão quay nhìn những người kia và nói: “Con cầu xin đức
Phật ban phát sự công bằng”.
Vị tăng: “Công
bằng ư?”
Ông lão: “Vâng!
Thưa Thầy, con sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bần hàn không được học
hành tử tế, từ bé đã phải tự mưu sinh. Lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai
lưng làm lụng như trâu bò, để nuôi bầy con nheo nhóc. Cuộc đời khốn khổ cơ hàn
cứ thế bám theo con dai dẳng. Trong khi có biết bao nhiêu người khác sinh ra
trong một gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung
lụa. Như vậy không Công Bằng! Nếu đức Phật linh thiêng xin Người hãy ban cho
con một ít may mắn của những người kia.”
Vị tăng: “Như
người kia ư?”
Ông lão: “Chỉ cần
nhìn họ là đủ biết họ giàu sang quý phái cỡ nào rồi! Nhưng người nghèo khổ
như con không thể hiểu nổi họ làm gì mà giàu sang lắm vậy?”
Vị tăng: “Cái đó
ta không biết, nhưng khi tới đây họ cũng chỉ là ăn mày cả thôi!”
Ông lão: “Ăn mày ư
thưa Thầy?”
Vị tăng: “Đúng. Ăn
mày Cửa Phật!”
Ông lão: “Nhưng
nhìn họ giàu sang quý phái có thiếu gì mà phải đi ăn mày?”
Vị tăng: “Sống
trên cõi đời này mấy ai thỏa mãn với những gì mình đang có. Không tin thí chủ
cứ lại gần họ xem”.
Ông lão tò mò đi
tới gần mọi người, ép sát và lắng tai nghe thử họ đang nói gì.
Một anh chàng
thanh niên lớn tuổi mặc áo vest, thắt cà vạt trong rất chỉnh tề và lịch sự nói:
“Cầu xin đức Phật cứu giúp công ty con khỏi bị phá sản, hàng trăm gia đình công
nhân đang trong chờ vào công ty, đang trông chờ vào sự chèo lái của con. Mô
Phật!”
Một người Phụ nữ
bên cạnh lớn tuổi khóc thút thít và nói: “Xin người rủ lòng từ bi cho con sức
mạnh để chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Xin người đừng để con phải chịu
những cơn đâu hành hạ, dày vò”.
Một cô gái trẻ
tuổi đứng gần đó khuôn mặt có vẻ buồn rầu ủ rũ cũng nói: “Năm nay con đã gần 30
tuổi mà vẫn chưa có người yêu thương. Con vô cùng buồn tủi, con chỉ xin Ngài
linh thiêng cho con chút dung mạo để con tìm được một tấm chồng. Xin Người ban
phước, mô Phật!”
Ông lão nghe những
lời ấy mà lòng cảm động rơi nước mắt. Ông nói lên một tiếng: “Tội nghiệp quá!”
và đứng dậy bỏ đi tới chỗ vị tăng ngồi.
“Thưa Thầy họ cầu
xin rất nhiều điều hóa ra họ toàn là ăn mày thật. Con cứ nghĩ trên đời này ai
cũng hạnh phúc hơn con, chứ ai biết được họ cũng có nhiều nỗi khổ đến thế. Ngẫm
ra con còn có nhiều điều hơn họ như sức khỏe, sự vô tư chẳng hạn”.
Vị tăng: “Đúng
vậy! Cuộc đời công bằng với tất cả mọi người. An phận với thực tại và cố gắng
hết sức mình để tự mình hóa giải những khó khăn trong cuộc sống. Đó mới
chính là một cuộc đời hoàn mỹ!”
Ông lão nghe xong
tỉnh ngộ. Tiếng chuông vẫn vang trong không gian ngày một xa dần.
35. Đóng cửa lại giùm
Vào một đêm nọ có
một tên trộm luồn lách đột nhập một ngôi chùa định trộm đồ vật, nhưng lục tung
mọi thứ mà chẳng có đồ vật nào giá trị để trộm, bắt buộc phải rút lui. Đang lúc
chuẩn bị đi, thiền sư Vô Tướng ngủ ở trên giường mở miệng nói:
– Này! Anh
bạn, khi đã ra ngoài, xin thuận tay đóng cửa lại giùm nhé!
Tên trộm ngẩn
người ra, liền nói:
– Hóa ra
ông lười biếng như thế, ngay cả cánh cửa cũng phải nhờ người khác đóng lại
giùm, chẳng trách trong chùa của ông không có một vật nhỏ mọn nào có giá trị.
Thiền sư Vô Tướng
nói:
– Anh bạn
này thật quá đáng, chẳng nhẽ già cả như ta mà mỗi ngày khổ cực kiếm tiền mua
vật quý để cho anh trộm lấy sao?
Tên trộm thầm
nghĩ, gặp phải tên hòa thượng này thật không còn gì để nói.
Lời bình: Thiền sư chẳng phải không có đồ vật quý mà có cả kho
báu vô tận mà người khác không lấy trộm được. Người ở thế gian chỉ biết gom
góp, có người vì tiền mà chết, tâm bị vật làm phiền lụy, người có nhiều tiền,
liền đó kẻ trộm chẳng buông tha. Chi bằng có kho báu trí tuệ vô hạn trong bản
tánh của mình, chẳng có ai trộm lấy được.
36. Tâm tịnh cõi nước tịnh
Có một vị Phật tử
rất thuần thành, mỗi ngày đều hái hoa trong vườn nhà mình mang đến
chùa dâng cúng Phật. Một hôm khi cô đang mang hoa tươi đến cúng Phật,
tình cờ gặp thiền sư từ giảng đường đi ra. Thiền sư hoan hỷ nói:
– Con mỗi
ngày đều chí thành mang hoa hương đến cúng Phật như thế, y theo lời
ghi: “Người nào thường dùng hoa hương cúng Phật, đời sau sẽ được quả
báo tướng mạo xinh đẹp”.
Cô Phật tử rất
vui đáp:
– Đây là việc
nên làm, con mỗi ngày khi đến chùa lễ Phật, tự cảm thấy trong tâm mát mẻ,
giống như đã tẩy sạch hết các lỗi lầm, nhưng về đến nhà thì tâm khởi
lên buồn phiền, vì gia đình chúng con ở giữa phố thị ồn ào
thì làm sao giữ được tâm thuần trong sáng thanh tịnh được.
Thiền sư hỏi:
– Con dâng hoa
tươi cúng Phật, chắc là con có chút hiểu biết về hoa. Bây giờ thầy hỏi con, làm
thế nào để giữ gìn cho hoa thường được tươi đẹp.
Phật tử đáp:
– Phương pháp giữ
cho đóa hoa tươi đẹp là mỗi ngày phải thay nước và cắt bỏ một phần
dưới của thân hoa, vì phần dưới thân ngâm trong nước nên dễ bị hư thối, khi hư
thối thì không hút được chất dinh dưỡng, dẫn đến hoa mau héo tàn.
Thiền sư nói:
– Việc giữ gìn tâm
trong sáng thanh tịnh cũng như thế. Hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta cũng giống
như nước trong bình. Chúng ta chính là hoa, chỉ có thường xuyên thanh lọc thân
tâm thanh tịnh, sửa đổi tập khí và không ngừng sám hối, tự kiểm điểm,
cải thiện tật xấu, khuyết điểm, mới có thể thu nhập được nhiều hạnh
phúc an vui.
Phật tử nghe xong,
hoan hỷ lễ tạ, nói:
– Cảm ơn
thầy đã chỉ dạy. Hy vọng sau này con có cơ hội sống gần thầy, được
làm người tu thiền sinh hoạt trong thiền viện của thầy, được thưởng thức
tiếng chuông trống sớm khuya, yên tĩnh đọc lời kinh tiếng kệ.
Thiền sư nói:
– Con hít vào
thở ra mà tâm không dính mắc chuyện đời là đọc kinh. Tim đập mạch máu
động là tiếng trống. Thân thể là thiền viện. Hai tai là Bồ đề. Làm được như thế thì ở đâu cũng được an vui, cần gì
phải đợi đến được sinh hoạt ở thiền viện.
37. “Tôi đang chờ ngài nói lời cảm ơn”
Một người đàn ông
thò cổ ra khỏi cửa xe nói: “Ai có thể giúp tôi chui vào gầm xe vặn lại một con
vít bị lỏng”.
Một quý phụ ngồi
cạnh khẽ nói: “Việc gì anh phải cuống lên như vậy, cứ trọng thưởng đi sẽ có
người làm”. Người đàn ông liền lấy ra một tờ giấy bạc trị giá 100 đồng, nói
lớn: “Ai vặn giúp tôi con vít, số tiền này sẽ thuộc về người đó”.
Một cậu bé định
nhấc chân, nhưng bạn cậu ta níu lại: “Lời nói của kẻ có tiền liệu có tin được
không?”. Nhưng cậu bé kia vẫn bước tới và nói: “Để tôi làm!”.
Thao tác rất đơn
giản, loáng một cái cậu bé đã vặn chặt được con vít. Sau khi bò ra khỏi gầm xe,
cậu bé giương mắt nhìn người đàn ông, chờ đợi… Người này vừa định đưa tờ giấy
bạc cho cậu thì vị quý phụ ngăn lại: “Anh định cho nó 100 đồng à? Cho nó 5 đồng
là đủ lắm rồi”.
Người đàn ông nhận
tiền lẻ từ tay người đàn bà rồi đưa cho cậu bé, nhưng cậu lắc đầu không nhận.
Nghe tiếng cười la của đám đông, người đàn ông đưa thêm 5 đồng nữa. Nhưng cậu
bé vẫn lắc đầu không nhận. Người đàn ông hơi bực tức nói: “Cậu chê ít à? Nếu
chê ít thì ngay 10 đồng này cùng không cho nữa”.
– Không, tôi không
chê ít. Thày giáo của tôi dạy: Giúp người không được lấy thù lao.
Người đàn ông như
không hiểu hỏi: “Thế thì vì sao cậu vẫn chưa đi?”.
Cậu bé nói : “Tôi
đang chờ ngài nói lời cám ơn!”.
38. Sức mạnh của lời nói
Một bầy ếch đi dạo
trong rừng và có hai con bị rơi xuống một cái hố sâu. Tất cả các con ếch còn
lại trong bầy đều bu quanh miệng hố để kéo chúng lên. Nhưng khi thấy cái hố quá
sâu, cả bầy liền nói với hai con ếch rằng chúng chỉ còn nước chết mà thôi.
Hai con ếch bỏ
ngoài tai những lời bình luận đó và cố hết sức nhảy lên khỏi hố. Những con ếch
kia lại nói với chúng đừng nên phí sức, rằng chúng chỉ còn nước chết.
Sau cùng, một con
ếch phía dưới nghe theo những gì cả bầy đã nói, nó bỏ cuộc và ngã lăn ra chết
trong sự tuyệt vọng.
Con ếch còn lại
tiếp tục cố gắng nhảy. Một lần nữa cả bầy xúm lại và thét lên khuyên nó hãy
thôi. Nó càng nhảy mạnh hơn nữa. Cuối cùng nó nhảy được lên bờ. Cả bầy vây
quanh và hỏi nó: “Anh không nghe tụi tôi nói gì hay sao?”. Thì ra con ếch này
bị nặng tai. Nó tưởng cả bầy ếch đã động viên nó suốt khoảng thời gian vừa qua.
Có một sức mạnh
sống và chết nơi miệng lưỡi chúng ta. Một lời động viên khích lệ cho một người
đang bế tắc có thể vực người ấy dậy và giúp anh ta vượt qua khó khăn.
Nhưng cũng lời nói có thể giết chết một người trong cơn tuyệt vọng. Do đó, hãy
cẩn thận với những gì chúng ta nói ra. Bất kỳ người nào cũng có thể nói
những lời hủy diệt để cướp đi tinh thần của những người đang ở trong hoàn cảnh
khốn khó. Quý báu thay là những ai dành thì giờ để động viên và khích lệ người
khác.
39. Câu chuyện về chữ Nhẫn
Có một nhà sư chọn
tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật. Sau nhiều năm tháng nỗ lực tu tập thì sư cũng
thành tựu được rất nhiều công hạnh, trụ vững như kim cương, bình an trước mọi
nghịch cảnh, bị người khách ganh ghét, lăng nhục, mưu hại, sư vẫn luôn nở nụ
cười trên môi thản nhiên như không.
Rất nhiều người
tán thán sư và thường xuyên đến chỗ sư để đàm đào và thực tập hạnh tu này, sư
luôn vui vẻ tiếp đón và chia sẻ những kinh nghiệm thực tập được cho họ.
Một hôm có một
thanh niên đến tham quan chùa, anh ngưỡng mộ hạnh tu của sư nhưng vì mới tìm
hiểu đạo nên không biết chuyện gì để tham vấn, nhìn quanh thấy trên tường treo
tấm bảng gỗ có một chữ sư viết rất bay bướm, anh liền hỏi:
– Thưa Thầy, đây
là chữ gì ạ?
Sư trả lời đầy vẻ
tự hào:
– Chữ Nhẫn viết
theo lối thư pháp, ta phải tập viết hàng trăm lần mới được như ý đấy con à.
Anh gật gù vẻ tán
thưởng, sau khi đi lòng vòng ngó nghiêng đây đó anh đứng trước tấm bảng gỗ gãi
đầu gãi tai:
– Thưa Thầy chữ gì
đây ạ?
Nhà sư tươi cười
trả lời:
– Ta tu hạnh nhẫn
nhục nên viết chữ Nhẫn đó mà.
Một chút sau, anh
lại ngắm nghía tấm bảng và hỏi:
– Thưa Thầy, thầy
viết chữ gì đây ạ?
– Chữ Nhẫn!
Trước khi ra về
anh lại tần ngần trước tấm bảng:
– Thưa Thầy, chữ
gì đây ạ?
Nhà sư không chịu
nổi nữa, nộ khí xung thiên:
– Chữ Nhẫn! Nhẫn!
Nhẫn! Đồ ngu, ngu gia truyền! Có một chữ mà nãy giờ hỏi hoài, hỏi hoài! Cút
ngay!!!

(Chữ Nhẫn được
ghép từ hai chữ: Đao ở trên, Tâm ở dưới. Tâm, tức trái tim. Tâm không chịu yên
thì Đao, tức con dao, sẽ phập xuống tức thì. Vậy đấy, tự mình mà nhẫn nhịn được
thì đao kề cổ vẫn bình yên vô sự, bằng không thì tai họa sẽ giáng xuống đầu
mình trước tiên.)
40. Sống tích cực – Đơn giản là ngước nhìn lên cao!
Chuyện về
loài chim ó:
Nếu bạn đặt một
con chim ó vào một chiếc lồng, với kích thước khoảng 2m x 2,5m, và hoàn toàn
không có nóc, tức là phần trên được mở toang; thì cho dù vẫn có khả năng bay
lên, nhưng con chim này sẽ hoàn toàn trở thành một… tù nhân.
Lý do là một con
chim ó luôn bắt đầu bay từ mặt đất lên, với đoạn “chạy đà” khoảng 3- 4m. Không
có quãng đường để chạy, thì theo thói quen, chú chim thậm chí chẳng buồn cố
gắng thử bay lên, mà sẽ chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một “nhà giam” nhỏ
chẳng hề có mái!
Câu chuyện
về con dơi:
Một con dơi bình
thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi
đến mức ấn tượng.
Tuy nhiên, nó
không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc
một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một
cách vô vọng, và, tất nhiên, một cách đau khổ.
Cho đến khi nó tìm
được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể
tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.
Câu chuyện
về loài ong nghệ:
Một con ong nghệ,
nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến khi chết, trừ
phi chúng ta lôi nó ra.
Nó không bao giờ
nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà cứ khăng khăng cố gắng tìm cách nào đó
thoát ra qua các mặt bên, hoặc qua… đáy cốc. Nó sẽ tìm một con đường ở nơi mà
không có con đường nào tồn tại, cho đến khi nó hoàn toàn tự hủy hoại mình.
Và câu
chuyện về con người…
Theo nhiều cách,
chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ. Chúng ta vật lộn
với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra
rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn –
hãy nhìn hướng tới phía trước.
Nhìn ngược lại có
thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy
nhìn lên cao, và nhìn tới phía trước, đó là cách sống lạc quan. Và tinh
thần tích cực, nhiều hy vọng chính sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết
các trường hợp.
Chỉ cần bạn nhìn
lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi
ngay trước mắt mình, Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, nói lời
tới phía trước. Đó là câu trả lời cho mọi vấn đề.
41. Nhất thiết không được để mất lương tâm
Một tài xế lái xe
chở hàng hóa, một hôm xe đang bon bon chạy trên đường bỗng nhiên “khực” một cái
rồi dừng lại. Hỏng rồi! Anh xuống xe đến bên vệ đường vác hai hòn đá to chặn
bánh sau lại rồi chui vào gầm sửa xe. Khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì xong.
Anh lên xe nổ máy chuẩn bị đi tiếp.
Đúng lúc đó , một
ông lão chăn bò bên cạnh đường chạy đến đập đập tay vào cửa xe, nói rất to:
“Này anh lái xe, anh đánh rơi đồ kìa!”. Ông lão vừa nói vừa chỉ chỉ về phía sau
xe. Anh đoán ông lão nhắc đến hai hòn đá chặn bánh sau xe mà mình vác ra lúc
nãy. Anh toét miệng cười, nói do vội đi nên quên mất. Nói vậy song anh ta vẫn
cố ý nhấn ga cho xe chạy.
Ông lão vừa đuổi
theo vừa quát to: “Anh làm người như thế à? Làm người phải có lương tâm chứ?
Anh bỏ hai hòn đá to ở trên đường để cho người ta…”
Những lời trách cứ
của ông lão chăn bò bị bỏ lại cùng đám bụi phía sau xe. Anh cười thầm trong
bụng: “Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân?”.
Chạy hơn trăm cây
số vào thành phố, đến trạm kiểm tra của cảnh sát, anh hết sờ túi này lại nắn
túi nọ, tìm mãi không thấy giấy phép lái xe đâu. Anh thừ người ra: “Giấy phép
lái xe rõ ràng là để trong chiếc ví da lúc nào cũng mang trong người, vậy sao
lại tìm không thấy?”. Cẩn thận nhớ lại, anh mới chắc là chiếc ví da đã bị rơi
khi mình chui vào gầm xe sửa chữa. Đành phải để xe lại trạm cảnh sát, anh vội
vã vẫy taxi quay lại chỗ sửa xe.
Khi quay lại chỗ
sửa xe ban sáng, anh tìm khắp nơi không thấy cái ví cũng không thấy ông lão
chăn bò đâu. Hai hòn đá chặn bánh xe đã được ai đó khuân vào để bên vệ đường.
Trên hòn đá thấy dán mảnh giấy có mấy chữ xiêu xiêu vẹo vẹo: “Muốn lấy lại giấy
tờ thì phải vác hòn đá này lên trên đồi”.
Ôi mẹ ơi! Hòn đá
vừa to vừa nặng, ngọn đồi trước mặt lại vừa cao vừa dốc, vác hòn đá này liệu có
bò lên được trên đó không? Anh kêu to lên: “Đừng bắt ép người ta như thế! Cần
bao nhiêu tiền cứ ra giá đi!”.
Khi anh vác hòn đá
đến chân đồi thì thấy một cái mũ lá có kẹp một tờ giấy viết mấy chữ: “Đừng nói
đến tiền, xin mời lên đồi”. Anh tiếp tục đi, được một đoạn lại thấy cái mũ lá
cũng có tờ giấy yêu cầu anh cứ vác đá lên đồi, các chuyện khác miễn bàn. Không
còn cách nào khác, anh đành phải bê hòn đá vất vả từng bước bò lên.
Lên được đỉnh đồi
thật không dễ gì. Vậy mà trên đó không thấy có người cũng không thấy giấy tờ
lái xe, chỉ thấy có tờ giấy dán trên một thân cây yêu cầu anh vác hòn đá theo
hướng chỉ dẫn đi xuống phía dưới.
Xuống được dưới
chân đồi vẫn không thấy giấy tờ, ngoài một tờ giấy yêu cầu anh vác hòn đá đi
ngược trở lên. Cứ như thế theo hướng chỉ dẫn trên các tờ giấy, anh vác hòn đá
đi qua mấy quả đồi nhỏ, mệt tưởng chết, cuối cùng mới thấy cái ví da của mình
đặt trên một nấm mồ đất trơ trọi. Giấy tờ đủ cả, tiền bạc không thiếu một xu.
Dưới cái ví tiền
còn có một tờ giấy viết: “Cái ví này là do tôi nhặt được, bây giờ nó đã trở về
với chủ của nó. Anh có biết vì sao tôi lại bắt anh vác hòn đá đi một quãng
đường xa đến trước nấm mồ này không? Đây là mộ của con trai tôi. Cách đây hai
năm , một đêm nó đi xe máy về nhà, vấp phải hòn đá của một kẻ nào đó không có
lương tâm bỏ ở trên đường, bị ngã mà chết. Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai
tôi là mong anh hiểu rõ một đạo lý: Lương tâm là vô giá, làm người có thể để mất
bất cứ cái gì nhưng nhất thiết không được để mất lương tâm”.
42. Có nhìn thấy không?
Có một thiền sinh
vào tham vấn với vị thầy của mình. Anh ta than phiền là sau nhiều năm dụng công
tu tập anh cảm thấy bế tắt, vẫn không lãnh hội và thấy được đạo pháp.
Vị thầy im lặng
lắng nghe rồi nhìn anh nói, “Nếu con nghĩ rằng tu tập có nghĩa là mình phải cố
sức tìm kiếm để đạt được được một điều gì đó, thì việc ấy rất sai lầm”.
“Thưa thầy, con
không hiểu ý thầy…”. Người thiền sinh lộ vẻ bối rối.
Vị thầy đứng dậy
bảo anh theo ông bước ra ngoài vườn. Cả hai đứng yên ngước nhìn lên cao, dưới
một bầu trời đêm lấp lánh ngàn vì sao vụn vỡ.
“Con có thấy những
vì sao ấy không?”, vị thầy hỏi.
“Dạ thưa có!”
“Con có thấy hết
tất cả những vì sao ấy không?”
“Dạ thưa, con thấy
hết tất cả những vì sao nào mà mắt con có thể nhìn thấy được…” Anh ta dè dặt
trả lời.
“À, mà ta không
biết con có nhìn thấy vì sao này không?” Vị thầy đưa tay chỉ lên bầu trời đêm.
Người thiền sinh
trẻ nhìn theo hướng vị thầy chỉ và thấy có một ngôi sao sáng lấp lánh. Anh đáp,
“Dạ thưa con thấy.”
“Và con có thấy vì
sao nằm ngay sát ở cạnh bên nó không?”
Người thiền sinh
cố nhìn một hồi, rồi đáp rằng không có một ngôi sao nào khác ở cạnh bên hết.
“Có chứ! Mà con đừng nên cố gắng gì hết, cứ nhìn lại đi rồi sẽ thấy.” Vị thầy
nói.
Người thiền sinh
nghe lời và buông bỏ hết những cố gắng của mình, đứng yên nhìn lại một hồi. Và
anh chợt khám phá ra là có một vị sao thật mờ ở ngay cạnh bên ngôi sao sáng
kia. Và vì ngôi sao ấy rất yếu, nên nếu nhìn thẳng vào nó ta sẽ không thể nào
thấy được. Mắt ta chỉ có thể thấy được vì sao ấy khi mình không cố gắng tập
trung thẳng vào nó, mà hướng nhìn xích qua phía bên một chút.
“Dạ thưa thầy, con
đã thấy vì sao mờ cạnh bên đó rồi!”
“Con biết không,
sự tu học của con cũng giống như những vì sao trên bầu trời vậy. Càng cố sức
tìm kiếm, ta lại càng vô tình làm ngăn trở đi cái thấy của mình. Nhờ không dụng
công vô ích mà cái thấy của con được trọn vẹn hơn. Con có hiểu không?”
Người thiền sinh
trẻ cảm thấy như tâm mình bừng vỡ trước lời giải thích của vị thầy. Nhưng làm
sao thầy mình lại biết được là ngay cạnh bên vì sao sáng ấy lại có một ngôi sao
khác mờ hơn ở kề bên?
“Con biết không,
trên bầu trời này có hằng hà sa số những vì tinh tú,” vị thầy đáp, “mà thật ra
ta không biết chắc là hai người có thể cùng nhìn thấy chung một vì sao không
nữa! Những vì sao có mặt, chúng nhiều hơn là những gì ta có thể nhìn thấy được
gấp triệu lần. Vì vậy, ta biết chắc rằng mỗi ngôi sao đều có một vì sao khác
cạnh bên, dù rất mờ ảo, và mình chỉ có thể thấy được nếu ta biết chuyển hướng
nhìn sang bên một chút. Và đó cũng là một sự thật về cuộc sống,
chúng ta thường chỉ nhìn thấy những gì mình muốn tìm kiếm, mà lại đánh mất đi
những cái khác.”
43. Hai USD và 1 giờ
Một người cha đi
làm về rất muộn, mệt mỏi và bực bội sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về
đến nhà, đứa con trai năm tuổi đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:
– Bố ơi, con hỏi bố một câu được không?– Được chứ, con hỏi gì – Ông bố đáp.
– Bố ơi, bố làm được bao nhiêu tiền một tiếng đồng hồ?
– Đó không phải là việc của con. Mà tại sao con lại hỏi một việc như thế hả? – Ông bố hết kiên nhẫn.
– Con muốn biết mà – Đứa con nài nỉ.
– Nếu con cứ khăng khăng đòi biết, thì bố sẽ nói. Bố làm được hai đôla một giờ đồng hồ.
– Ôi – đứa bé rụt rè hỏi – Bố cho con vay một đôla được không?
Ông bố rất bực mình:
– Nếu lý do duy nhất con muốn biết bố làm được bao nhiêu tiền, chỉ là để vay mà mua mấy thứ đồ chơi vớ vẩn, thế thì mời con đi ngay vào phòng mình và ngủ đi. Hãy nghĩ xem tại sao con lại ích kỷ đến thế? Bố làm việc vất vả cả ngày, và không có thời gian cho những chuyện ấy đâu!
Đứa bé đi vào phòng đóng cửa. Ông bố ngồi xuống càng nghĩ càng cáu. Tại sao đứa con lại dám hỏi mình một câu như thế chứ?
Một giờ sau, khi đã bình tĩnh lại, ông bố nghĩ có thể đứa con rất cần tiền để mua một thứ gì đó, và nghĩ rằng mình đã quá nghiêm khắc với nó. Ông đi vào phòng con:
– Con ngủ chưa?
– Chưa ạ, con còn thức! – Cậu bé nằm trên giường đáp.
– Bố suy nghĩ rồi, có thể bố đã quá nghiêm khắc. Đây là một đôla cho con.
Cậu bé cầm lấy rồi thò tay xuống dưới gối, lôi ra thêm mấy tờ tiền lẻ nữa.
Ông bố thấy con có tiền từ trước lại cáu. Khi đứa con xếp thành một xấp tiền ngay ngắn, ông bố càu nhàu:
– Tại sao con lại vay thêm tiền khi con đã có rồi?
– Vì con chưa có đủ ạ! – Bỗng đứa trẻ ngẩng lên vui sướng – Bây giờ thì con có đủ rồi! Bố ơi, đây là hai đô la, con có thể mua một giờ trong thời gian của bố không?
Bình : Bạn biết đó, tiền có thể mua được nhiều thứ
nhưng để có tiền, con người ta luôn phải đánh đổi
những điều quý giá như thời gian, sức khỏe, tình cảm với những người
yêu thương… Trân trọng những gì ta đang có, gần gũi xung quanh ta hơn là
chạy theo sự mời gọi ngọt ngào của tiền bạc, vật chất, đó mới là điều
bạn nên làm trong cuộc sống này.
44. Hãy thắp lên một que diêm
Một bữa tối tại
vận động trường Los Angeles,
Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết trình trước
khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
– Bây giờ xin các
bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân
vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:
– Bây giờ tôi đốt
lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô
to “Đã thấy!”.
Một que diêm được
bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”. Sau khi đèn được bật sáng trở
lại, ông John Keller giải thích:
– Ánh sáng của một
hành động nhân ái dù nhỏ bé như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm
tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất
cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên:
– Tất cả những ai
ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc cả vận
động trường rực sáng. Ông John Keller kết luận:
– Tất cả chúng ta
cùng hợp lực nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và
oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của
chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hòa
bình không chỉ là cuộc sống chung không tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa
người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi
con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để
xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm
với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như
những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những
ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng
tối của những đau khổ và cái ác.
45. Lắng nghe hay là chờ một viên đá?
Một quan chức trẻ
ngồi trong chiếc xe hơi đắt tiền chạy khá nhanh trên đường phố. Từ phía trước,
ông nhìn thấy một đứa trẻ đang chạy ra từ giữa mấy chiếc xe đang đậu bên lề.
Ông giảm tốc độ nhưng khi xe chạy ngang chỗ ông đã nhìn thấy đứa trẻ, thì chẳng
thấy ai cả. Đột nhiên, ông nghe có tiếng đá ném vào cửa xe mình. Ông đạp thắng,
cho xe vòng trở lại chỗ viên đá được ném ra. Quả là có một đứa trẻ, đang đứng
bên những chiếc xe đậu. Nhảy bổ ra khỏi xe, không kịp quan sát xung quanh, ông
tóm lấy đứa trẻ, đè dí nó vào một chiếc xe gần đó và hét lên: “Cái gì thế? Mày
làm cái quỷ gì thế hả?”. Cơn nóng giận bốc ngược lên đỉnh đầu, ông tiếp: “Chiếc
xe này mới toanh, mày sẽ phải trả cả đống tiền vì cái viên đá đấy”.
“Làm ơn, thưa ông,
làm ơn. Con xin lỗi. Con không biết làm cách gì khác hơn.” – cậu bé van vỉ –
“Con ném viên đá là vì con đã từng vẫy ra hiệu nhưng không có một người nào
dừng xe lại…”. Nước mắt lăn dài trên má cậu bé khi nó chỉ tay về phía vỉa hè.
“Nó là em con” – cậu bé nói – “Chiếc xe lăn từ trên lề đường xuống, nó bị ngã
ra khỏi xe lăn, nhưng con không thể nâng nó dậy nổi”. Vừa thổn thức, cậu bé vừa
năn nỉ ông: “Ông làm ơn hãy giúp con đặt nó vào chiếc xe lăn. Nó đang bị đau,
và nó quá nặng đối với con”.
Tiến lại chỗ đứa
bé bị ngã, người đàn ông cố gắng nuốt trôi một thứ gì đó như đang chẹn ngang cổ
họng mình. Ông ta nâng đứa bé lên đặt vào chiếc xe lăn, rút khăn ra và cố gắng
lau sạch các vết dơ một cách ngượng nghịu, kiểm tra mọi thứ một cách cẩn thận.
“Cám ơn rất nhiều! Ông thật
tốt bụng”, đứa trẻ nói với ông cùng ánh nhìn biết ơn rồi đẩy em nó đi về phía
những ngôi nhà.
Người đàn ông đứng
nhìn mãi theo.
Sau cùng ông ta
cũng cất bước. Đi chậm, rất chậm về phía xe của mình. Dường như đoạn đường đó
rất, rất dài.
Về sau, dù đã
nhiều lần đưa xe đi sơn, sửa lại, nhưng ông không bao giờ sửa dấu vết mà viên
đá của cậu bé nọ để lại. Ông giữ lại vết lõm như một lời nhắc nhở với
chính mình suốt cả cuộc đời: Người nào đó ném vào mình một viên đá tức là họ
đang cần một sự giúp đỡ.
Lời nhắn với bạn:
Đôi khi, bạn không có thời gian để lắng nghe cho đến khi có một “viên đá” ném
vào bạn. Bạn sẽ chọn điều gì: Lắng nghe hay là chờ một viên đá…
46. Tỉnh dậy
Thế gian này có
quá nhiều chuyện phiền não, vì vậy, rất nhiều người đi gặp Phật tổ cùng hỏi về
một vấn đề.
“Con nên làm thế
nào mới không còn những điều phiền muộn?”
Phật tổ cho đáp án
đều như nhau: “Chỉ cần buông tay, con sẽ thôi không phiền não nữa”.
Có một người thanh
niên, cho rằng mình thông minh nên tỏ ý không phục, bèn đi gặp Phật tổ và hỏi:
“Trên thế gian này có hàng ngàn hàng vạn người, thì sẽ có hàng ngàn hàng vạn
điều phiền não. Nhưng, Người cho họ giải pháp đều hoàn toàn như nhau, vậy đó chẳng
khác gì buồn cười lắm hay sao?”
Phật tổ không nổi
giận, chỉ hỏi ngược lại chàng thanh niên: “Buổi tối con ngủ có thường hay nằm
mơ không?”
“Đương nhiên là
có!”, chàng trai trả lời.
“Vậy, mỗi buổi tối
nằm mơ, giấc mơ đều như nhau không?”- Phật tổ lại hỏi.
“Đương nhiên là
khác nhau rồi.”, chàng trai trả lời, “Con ngủ hàng ngàn hàng vạn lần, thì sẽ mơ
hàng ngàn hàng vạn lần giấc mơ”.
Phật tổ mỉm cười
nói: “Nhưng cách kết thúc giấc mơ, đều như nhau cả, đó là: Tỉnh dậy”.
47. Ý nghĩa của sự bình yên
Một vị vua treo
giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên.
Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.
Nhà vua ngắm tất
cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức
tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao
chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng.
Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên
thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng
có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên
trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách
núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên
chút nào.
Nhưng khi nhà vua
ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt
của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác
trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình…
Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh
này – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn
ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở
trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính
là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.
48. Chiếc lá hoàn hảo
Có một cậu sinh
viên và một người thầy lớn tuổi đang trao đổi với nhau về sự hoàn hảo.
Chàng thanh niên
với sức khỏe và lòng nhiệt huyết luôn muốn đi tìm cho mình mọi sự hoàn hảo.
Người thầy đã chú ý lắng nghe và thấu hiểu cậu sinh viên. Với bao nhiêu năm
sống và hiểu biết bao chuyện xảy ra, ông nhẹ nhàng nói với cậu sinh viên:
– Tôi có thể đề
nghị cậu làm một việc không, con trai?
– Dạ. Em rất sẵn
lòng.
– Phía trước mặt
chúng ta là sân cỏ. Cậu có thể ngắt cho tôi một lá cỏ mà cậu cho là đẹp nhất và
hoàn hảo nhất không? Với điều kiện cậu chỉ được đi thẳng về phía trước và chọn,
không được bước lùi lại.
Cậu thanh niên
đứng dậy và bắt đầu tìm kiếm. Bước bước chân đầu tiên vào sân cỏ, cậu nhìn
xuống chân và thấy một lá cỏ thật xanh mướt, cậu toan đưa tay định ngắt lá cỏ.
Nhưng… cậu phóng tầm mắt lên phía trước, toàn một màu xanh ngắt và những lá cỏ
đẹp hơn.
Cậu thanh niên bắt
đầu bước tiếp bước chân thứ 2… rồi bước chân thứ 3… nhưng cũng như những lần
trước, khi định ngắt những lá cỏ dưới chân, cậu lại thấy những lá khác phía
trước…
… Cứ thế…
… Cứ thế…
Cậu rảo bước, tìm
kiếm… tìm một lá cỏ thật hoàn hảo. Nhưng… cậu có biết đâu, mãi mê tìm kiếm, cậu
đã đi đến phía bên kia khoảng sân. Ở bước chân cuối cùng ấy, với một khoảng cỏ
nhỏ nhoi trước mặt, cậu đành ngắt một lá cỏ đẹp nhất trong đó và trở lại nơi
người thầy. Mặt cậu không còn hào hứng như lúc đầu, có lẽ cậu đã hiểu ý nghĩa
công việc cậu vừa làm. Lặng lẽ đến bên người thầy, cậu đưa ra lá cỏ. Cầm lá cỏ
trên tay, người thầy mỉm cười hiền hòa bảo cậu ngồi xuống và nhẹ nhàng:
“Thế đấy con
trai. Trong cuộc đời mỗi con người là vô số sự lựa chọn. Cũng như lựa chọn một
lá cỏ, nếu con biết bằng lòng và không mải tìm kiếm hẳn con đã có được một lá
cỏ hoàn hảo hơn rồi. Con người cũng vậy, họ luôn để cơ hội qua đi rồi mới bắt
đầu nuối tiếc. Hãy suy nghĩ về câu chuyện ngày hôm nay, con trai nhé!”.
Thật ra, luôn
có sự hoàn hảo. Chỉ là bản thân mỗi người không tự bằng lòng với sự hoàn hảo
ấy. Chợt nhớ đã nghe đâu đó:
“Đừng để đến khi vụt mất rồi mới vội quay lưng tìm kiếm”.
Trong cuộc đời mỗi
con người là vô số sự lựa chọn. Cũng như lựa chọn một lá cỏ, nếu con biết bằng
lòng và không mãi tìm kiếm hẳn đã có được một lá cỏ hoàn hảo hơn rồi.
49. Bài học về 1000 viên bi
Vài tuần trước,
tôi bước về phía căn nhà dưới tầng hầm, trên hai tay là cốc cà phê và tờ báo
buổi sáng. Những điều bắt đầu trong buổi sáng thứ bảy bình thường hôm ấy đã trở
thành một trong những bài học mà thi thoảng cuộc sống vẫn gửi tới cho ta.
Tôi dò sóng đài
trên điện thoại để nghe chương trình phát sáng thứ bảy. Trong lúc dò, chợt tôi
phát hiện giọng nói có vẻ của một người đã cao tuổi, có gì thật hấp dẫn và đó
quả là một chất giọng vàng.
Bạn biết đấy, với
chất giọng như vậy, có lẽ ông ta đang làm trong ngành phát thanh. Ông đang kể
cho mọi người nghe về việc đã nói với ai đó câu chuyện một nghìn viên bi.
Tò mò, tôi ngồi
xuống và nghe ông nói. “Này Tom, hình như anh đang rất bận việc thì phải. Tôi
chắc rằng họ trả anh cũng khá phải không, nhưng thật xấu hổ nếu anh cứ suốt
ngày vắng nhà vì công việc như vậy. Không thể tin được một người trẻ tuổi như
anh lại cứ quần quật làm việc mỗi tuần từ 60 đến 70 tiếng để trang trải mọi
thứ. Sẽ thật tồi tệ nếu anh quên không tham dự buổi biểu diễn khiêu vũ của con
gái anh”.
Ông tiếp tục, “Tôi
sẽ kể cho anh nghe điều này Tom ạ, một điều đã giúp tôi luôn biết nhìn trước
những thứ cần ưu tiên trong cuộc sống của mình”. Và khi đó, ông lão bắt đầu
giải thích lý thuyết một nghìn viên bi. “Anh biết không, một ngày nọ tôi đã
ngồi làm thử một bài toán nhỏ. Mỗi người trung bình sống được khoảng 75 năm.
Tôi biết cũng có người sống thọ hơn và cũng có người chết sớm hơn nhưng về
trung bình, người ta có thể sống được khoảng 75 năm”.
“Sau đó, tôi nhân
75 năm đó với 52 tuần thì được 3900, đó chính là số ngày thứ bảy mỗi người bình
thường có được trong cả cuộc đời của họ. Nào tập trung vào câu chuyện của tôi
đi Tom, tôi đang chuyển sang phần quan trọng rồi đây”.
“Phải đến năm 55
tuổi tôi mới có thể suy nghĩ về mọi việc kỹ càng như vậy”, ông tiếp tục, “và
cho tới lúc đó, tôi hiểu mình chỉ còn 1.000 ngày thứ bảy còn lại nữa mà thôi”.
“Và rồi tôi tới
một cửa hàng đồ chơi, mua tất cả những viên bi họ có. Phải đi tới ba cửa hàng
tôi mới mua đủ 1000 viên bi cho mình. Tôi đem chúng về nhà, bỏ vào chiếc hộp
nhựa lớn, rỗng trong xưởng làm việc, ngay cạnh chiếc đài. Từ đó, khi mỗi ngày
thứ bảy qua đi, tôi lại lấy ra một viên bi ra và ném đi”.
“Tôi nhận ra rằng, khi nhìn số lượng những
viên bi ngày một giảm dần, tôi đã biết tập trung hơn cho những điều thật sự quan
trọng trong cuộc sống. Không gì giống như việc nhìn thời gian tồn tại của mình
trên trái đất này cứ vơi dần và nó giúp bạn biết ưu tiên mọi việc thật mau
chóng”.
“Bây giờ, tôi sẽ
kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để
đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng. Sáng nay, tôi đã nhặt viên bi cuối
cùng ra khỏi chiếc hộp. Tôi hình dung nếu tôi có thể giữ nó cho tới sáng thứ
bảy sau nữa thì tức là, Thượng Đế đã ban cho tôi thêm một chút thời gian để
được ở lại bên những người thân yêu…”
“Thật tuyệt khi
được trò chuyện với anh Tom ạ, tôi mong anh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho
những người thân yêu của anh và tôi cũng hy vọng, một ngày nào đó sẽ gặp lại
anh. Chúc buổi sáng tốt lành!”.
Bạn có thể nghe
thấy rõ tiếng gác ống nghe khi ông ấy kết thúc cuộc trò chuyện. Ngay cả người
điều phối chương trình cũng lặng đi trong vài giây. Tôi biết ông ấy đã khiến
chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.
Sáng hôm đó, tôi
đã định làm một số việc, sau đó tới phòng tập thể dục. Nhưng rồi, tôi quyết
định chạy lên gác, đánh thức vợ bằng một cái hôn. “Dậy thôi em yêu, anh sẽ đưa
em và các con đi ăn sáng”.
“Có chuyện gì đặc
biệt hả anh?”, cô ấy hỏi và cười.
“Không, không có
gì đặc biệt cả”, tôi nói, “Chỉ vì đã lâu lắm rồi hai vợ chồng mình chưa đi ăn cùng
các con. À, khi đi mình dừng lại ở cửa hàng đồ chơi một chút nhé, anh muốn mua
một vài viên bi”.
50. Điều đó rồi cũng qua đi
Một
ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cần thần thân tín của
mình. Vua bèn nói với ông: “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc
vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó”.
Benaiah
trả lời: “Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm
thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?”.
Nhà
vua đáp: “Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy
buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui”. Vua Salomon biết rằng sẽ
không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông
muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa
xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra
một chiếc vòng như thế.
Vào
đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất
của Jerusalem.
Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm
bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: “Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc
vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau
khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?”. Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một
chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc
vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.
Đêm đó
toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. “Nào, ông bạn của ta – vua
Salomon hỏi – ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?”. Tất cả cận thần có mặt
đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.
Trước
sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây, thưa
đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua.
Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: “Điều đó rồi cũng qua đi”.Vào chính
giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả
và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát
bụi…
51. Bằng lòng với cuộc sống
Sau
một thời gian cần cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu
có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc
mua được một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết
đây. Anh đến một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật
đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là
ngôi nhà của người giàu có nhất trong làng.
Anh
bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết chí làm ăn, dành dụm để có thể
may ra xây được một ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng
bên cạnh. Không mấy chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi
nhà sang trọng đẹp đẽ hơn mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữa.
Lần này,
anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng
thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ
bụng: Cho dù có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể
xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh
bèn tiu nghỉu đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp
tai nạn, anh đành phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi
làng cũ của mình. Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, ngựa cũng lăn ra chết.
Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Đêm
đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến
và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới
nhận ra rằng có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng
cực hơn.
Anh ái
ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc: “Thưa ông, làm sao ông có thể sống
được trong cảnh cùng cực như thế này?”.
Nhà ẩn
sĩ mỉm cười đáp: “Tôi bằng lòng với cuộc sống… Thế còn ông, xem chừng như
ông không được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm”.
Người
đàn ông ngạc nhiên hỏi: “Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?”.
Nhà ẩn
sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói: “Tôi nhìn thấy
điều đó trong đôi mắt của ông. Đôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự
giàu sang không bao giờ đến với ông… Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy
những ánh sáng yếu ớt đang chiếu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình
đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những
tia sáng hoàng hôn biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu
trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đầu tắt
ngụm. Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy
chốc, mặt trời mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mất. Nếu những
thứ ánh sáng trên đây đều biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ
tìm thấy nụ cười đã đánh mất”.
Nghe
câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng
nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn
sĩ tiếp tục câu chuyện: “Ông có biết rằng sánh với tôi, ông là vua
không?”.
Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến.
Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến.
Ông
cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình. Dưới ánh
đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi
chân để có thể di chuyển một cách bình thường.
52. Mẹ lạnh lắm phải không?
Vào
một đêm trước lễ Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người
bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một con mương sâu với
cây cầu bắc ngang, người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn
đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị
bò phía bên dưới cầu.
Ðơn
độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những
chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa
con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một
miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.
Sáng
hôm sau, một phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra
khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống
cầu để tìm. Nơi đó bà nhìn thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm,
còn người mẹ đã chết cóng.
Bà đem
đứa bé về nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu
chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là ngày sinh nhật thứ
12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bảo mẹ
nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và
khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé
lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.
“Chắc
là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!”. Song cậu
bé tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ
trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “Mẹ đã lạnh hơn
con lúc này, phải không mẹ?”. Và cậu bé òa khóc. “Mẹ lạnh lắm phải không?”
53. Chuyện về hai linh hồn
Chiếc xe tải mất
lái đâm vào một người mù đang được con chó dẫn đường. Người mù chết ngay. Con
chó xông vào cứu chủ nên cũng bị chẹt chết. Linh hồn hai kẻ bị nạn bay lên
trời, tới lối vào cổng thiên đường.
Thiên thần gác
cổng chặn lại: “Xin lỗi, bây giờ danh sách lên thiên đường chỉ còn lại một
suất. Một trong hai ngươi phải xuống địa ngục”.
Người chủ chó hỏi:
“Con chó của tôi chưa hề biết thiên đường là gì, địa ngục là gì. Có thể để cho
tôi quyết định ai được lên thiên đường hay không ạ?”
Thiên thần nhìn
người mù, chau mày nói: “Rất tiếc! Đã là linh hồn thì đều bình đẳng với nhau.
Các ngươi phải qua một cuộc thi để chọn ra kẻ được lên thiên đường”.Người mù
thất vọng hỏi: “Thi thế nào ạ?”
“Rất đơn giản, thi chạy. Từ đây chạy tới cổng
thiên đường, ai tới trước thì được lên thiên đường. Nhưng ngươi cũng đừng lo,
vì ngươi đã chết rồi nên không còn là kẻ mù nữa, và tốc độ chạy của linh hồn
thì không liên quan gì tới thể xác; linh hồn nào càng trong sạch lương thiện
thì chạy càng nhanh”. Người mù nghĩ ngợi giây lát rồi đồng ý.
Khi tuyên bố cuộc
chạy đua bắt đầu, thiên thần cứ tưởng người mù sẽ khôn ngoan ráng sức chạy thật
nhanh, ai ngờ người đó vẫn đi thong thả chậm rãi. Kỳ lạ hơn là con chó dẫn
đường kia cũng không chạy mà chỉ đi cùng với chủ của nó, không hề rời một bước.
Bấy giờ thiên thần mới hiểu ra: bao năm nay con chó ấy đã tập được thói quen
mãi mãi làm theo chủ nó, luôn luôn đi đằng trước để dẫn đường cho chủ, người
chủ bảo gì thì nó nghe theo ngay. Rõ ràng, nếu là kẻ có tâm địa độc ác thì khi
tới cổng thiên đường người chủ sẽ bảo con chó đứng lại để người đó dễ dàng
thắng cuộc thi chạy này.
Thiên thần thương
hại nhìn con chó và lớn tiếng bảo nó: “Mày đã vì cứu chủ mà hiến dâng tính mạng
của mình, bây giờ chủ mày đã hết mù rồi, mày chẳng cần dẫn đường cho ông ta
nữa, mày chạy nhanh lên nào!” Thế nhưng người chủ cũng như con chó, cả hai
dường như chẳng nghe thấy thiên thần nói gì cả, vẫn cứ thong thả như đi dạo.
Khi tới cách cổng
thiên đường vài bước chân, người chủ ra lệnh cho con chó dừng lại. Nó bèn ngoan
ngoãn ngồi xuống.
Người chủ nhoẻn
miệng cười quay lại bảo thiên thần: “Tôi sắp sửa tiễn con chó của mình lên
thiên đường. Bây giờ điều tôi lo nhất là nó thật sự không muốn lên đấy mà chỉ
thích ở bên tôi … Chính vì thế mà tôi muốn quyết định thay cho nó”.
Thiên thần ngạc
nhiên đứng sững lại.
Người chủ nhìn con
chó với ánh mắt lưu luyến, lại nói: “Thật tốt là ta có thể dùng cách chạy thi
để quyết định thắng thua. Ít nhất tôi cũng có thể bảo con chó kia bước thêm vài
bước nữa, như vậy nó có thể lên thiên đường được rồi. Có điều con chó này đi
cùng tôi đã bao năm nay mà bây giờ lần đầu tiên tôi mới hết mù và được nhìn
thấy nó bằng chính mắt của mình. Bởi vậy tôi muốn đi thong thả một chút để được
nhìn nó lâu hơn. Nếu được phép thì có lẽ tôi thật sự muốn mãi mãi được nhìn
thấy nó. Nhưng bây giờ đã tới cổng thiên đường rồi. Đây mới là nơi nó cần được
đến. Xin thiên thần làm ơn chăm nom nó giúp tôi!”
Nói dứt lời, người
chủ ra lệnh cho con chó tiến lên phía trước. Khi con chó tới cổng thiên đường
thì người chủ rơi xuống địa ngục như một chiếc lá rụng. Con chó quay đầu nhìn
thấy chủ nó rơi xuống bèn chạy đuổi theo chủ.
Lúc bấy giờ, vị
thiên thần lòng đầy hối hận vội giương cánh bay theo định túm lấy con chó dẫn
đường. Nhưng vì con chó ấy vốn có linh hồn trong sạch nhất, lương thiện nhất,
cho nên nó chạy nhanh hơn bất cứ thiên thần nào. Và thế là rốt cuộc con chó dẫn
đường ấy lại trở về bên người chủ của nó. Dù là ở dưới địa ngục, nó cũng sẽ mãi
mãi bảo vệ chủ của mình.
Thiên thần đứng
rất lâu nhìn theo hai linh hồn đáng thương kia và lẩm bẩm: “Ngay từ đầu ta đã
phạm sai lầm. Hai linh hồn ấy là một thể thống nhất không thể tách rời nhau.
Được cùng ở bên nhau thì dù là thiên đường hay địa ngục chúng cũng bằng lòng”.
54. Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?
Khi nghe cha mẹ
bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc
bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi
phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia
đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: “Chỉ có phép mầu nhiệm mới
có thể cứu được thằng bé thôi”.
Tess và phòng mình
và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra
cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa
hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng
chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động… nhưng vô ích. Cuối
cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó
chịu: “Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người
anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?”. Tess cũng trả lời với vẻ bực bội:
“Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị
bệnh và cháu đến đây để mua … phép mầu nhiệm”.
“Cháu muốn mua gì?”. Người dược sĩ tròn mắt
tỏ vẻ không hiểu.
“Tên của anh cháu
là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng
chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao
nhiêu hả bác?”.
“Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ” – giọng
người dược sĩ nhỏ đi.
“Nhưng bác này,
cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn
thêm” – giọng Tess như van nài.
Người anh của ông
dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi
Tess: “Thế cháu có bao nhiêu?”. “1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng
cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?”. Tess trả lời như muốn
khóc.
“Ồ, thật trùng
hợp”, người đàn ông mỉm cười “1 đô và 11 xu – một số tiền chính xác để mua phép
màu nhiệm cho anh cháu”. Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề
nghị: “Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để
xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!”.
Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ rất nổi
tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí
nào. Anh trai Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào
hết. Mẹ em thì thầm: “Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải
trả bao nhiêu tiền đây? “.
Tess mỉm cười tinh
nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó… 1 đô và 11 xu… cộng thêm sự chân thành
của một đứa trẻ.
55. Bồ Tát chỉ ngồi để thấy
Một người nọ nhìn
thấy cái kén của con bướm. Sau đó, anh thấy một cái lỗ nhỏ xuất hiện. Anh
ngồi chăm chú theo dõi con bướm trong vài giờ đồng hồ và thấy nó cố gắng vùng
vẫy tìm cách chui ra ngoài qua cái lỗ nhỏ đó. Rồi dường như nó không có thêm
một tiến triển nào nữa. Trông cứ như thể nó đã làm hết mức có thể rồi và không
thể xoay xở gì thêm được.
Thấy tội nghiệp
nên người đàn ông quyết định giúp con bướm. Anh lấy một cái kéo và cắt cái kén.
Con bướm dễ dàng thoát ra. Nhưng nó có một cái thân căng phồng và đôi cánh nhỏ
bé, teo quắt. Thế là, con bướm đó sẽ phải bỏ ra suốt cả cuộc đời nó chỉ để bò
trườn với cơ thể sưng phồng và đôi cánh co lại. Nó không bao giờ bay được…
Cho nên Quy tắc thứ ba của người Ấn Độ: “Trong mỗi khoảnh khắc mọi sự đều bắt đầu
vào đúng thời điểm”.
Người đàn ông tốt
bụng đã không hiểu rằng chiếc kén chật hẹp và sự vùng vẫy của con bướm để chui
qua được cái lỗ nhỏ ấy chính là cái cách mà Tạo Hóa buộc chất lỏng trong thân
con bướm chảy vào cánh để sẵn sàng cho nó có đủ sức mạnh để cất cánh bay.
Vì vậy, đừng
bao giờ tin vào quan niệm Bồ Tát độ mình cả, nếu Bồ Tát đến độ mình tức là Bồ
Tát can thiệp vào việc mình cần phải làm là để thoát ra khỏi cái kén (thoát
khỏi vô minh) chính mình là người cần phải mở ra mọi cái mà mình đã trói buộc
vào, không có Bồ Tát nào làm thay cho mình.
Quan niệm Bồ Tát
cứu độ bị hiểu sai kiểu như người mẹ giúp con: “Thôi con đừng đánh vần để mẹ
đánh vần cho… Con đừng làm toán để mẹ làm toán cho…vân vân…và vân vân…”
Bồ Tát chỉ
ngồi để thấy, để xem mình đau khổ như thế nào và thoát khỏi đau khổ như thế
nào… mà tâm Ngài vẫn hoàn toàn bất động, đó mới chính là Bồ Tát chân chính
nhất.
Qua câu chuyện
trên, con nhộng chỉ cần đợi thêm một chút nữa, nó có thể tự vùng vẫy thoát ra
khỏi cái kén, thì nó mới đủ sức mạnh cất cánh bay cao, cũng như con người ta
cần phải chịu đựng đau khổ thêm một chút nữa thì mới có được bài học Giác Ngộ
cho chính mình. Thế cho nên, Bồ Tát chỉ khai thị mà không có cứu độ, khai thị cho mọi
người thấy ra mọi cái đã có sẵn nơi mỗi người, và để mọi người biết tự trở về
với chính mình.
Chân lý chính là
Thực Tế chứ không phải ảo tưởng.
Thiền sư Viên
Minh
56. Câu chuyện cậu bé đánh giày
Năm 12 tuổi, vào 1
buổi xế chiều có 1 người khách là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu
cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhìn vào 3 cặp mắt van xin khẩn
khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói: “Đứa nào
cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy và sẽ trả công 2 đồng.”
Công đánh 1 đôi
giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên.
Một đứa nhỏ nói:
“Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay,
cháu sẽ chết đói!”
Đứa khác nói: “Nhà
cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn
cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…”
Cậu Lula nhìn vào
2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói: “Nếu cháu được ông
cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đứa đó mỗi đứa 1 đồng!”
Câu nói của Lula làm
ông chủ tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất ngạc nhiên.
Cậu giải thích
thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu
thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó. Ông
cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”.
Cảm động trước câu
nói của thằng nhỏ, ông chủ tiệm đã trả cho Lula 2 đồng bạc sau khi được cậu bé
đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn
mỗi đứa 1 đồng.
Vài ngày sau, ông chủ tiệm đã tìm đến thằng
nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của
ông ta và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp nhưng so
với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.
Thằng bé hiểu rằng
“Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho
mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.”
Từ đó, miễn là có
khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn
mình. Sau, Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy. Để bênh vực cho quyền lợi
của những người thợ, cậu ta tham gia vào công đoàn.
Năm 45 tuổi, Lula
lập ra đảng Lao-Công.
Năm 2002, trong
cuộc ứng cử tổng thống, khẩu hiệu của Lula là: “Ba bữa cơm no cho tất cả những
người trong quốc gia này”. Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil. Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2,
cho 4 năm tới.
Trong 8 năm tại chức, ông đã thực hiện đúng
lời mình đã hứa: 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Thực hành
đúng tâm niệm: Giúp đời!
Và nước Ba-tây
dưới sự lãnh đạo của ông đã không còn là “Con khủng long nhai cỏ” mà đã
trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu”. Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế
giới.
Luiz Inácio Lula da Silva: Đó là tên của vị tổng thống
Brazil
giải nhiệm vào 31.12.2010.
57. Vị thần mạnh nhất
Các vị thần ở trên
cõi trời, có một lần tranh nhau quyền bá chủ thế gian. Bất kỳ vị nào, cũng cho
mình là quyền lực trên tất cả Trời Đất. Các vị thần quyết định bầu một người
làm trọng tài trong cuộc tuyển chọn ai được làm bá chủ. Vị trọng tài này có trí
phán đoán và tính ngay thẳng đặc biệt, lại cũng là người cao tuổi hơn hết.
Trong các vị thần,
một vị bước ra nói: “Các ngài hãy xem đây, sẽ thấy rõ sức mạnh phi thường
của tôi như thế nào”.
Tức thời, một ánh
sáng chớp lạnh xương, liền theo đó, tiếng sấm nổ vang, làm rung động cả không
trung, dường như cả thế gian đều rung rinh sắp đổ. Các vị thần đều tái mặt. Lúc
bấy giờ, không còn một ai còn dám nghĩ là mình là người bất khả xâm phạm nữa.
Vị thần Bão tố,
bước ra nói: “Sức mạnh của tôi, còn ghê gớm hơn nữa. Hãy xem dưới kia,
cánh đồng mênh mông lặng lẽ”.
Nói vừa dứt lời,
bỗng mặt nước biển dâng lên. Ban đầu từ từ, kế đó sóng nổi gió tung. Nước càng
dâng, gió càng lớn, sóng càng to, cuồn cuộn ầm ầm, chỉ thấy còn có một vùng
nước mênh mông trắng dã. Những ngọn núi cao, sóng đánh lấn riết, không còn thấy
mặt. Sóng càng lúc càng cao, gió càng lúc càng lớn, lăm le chìm ngập đến cõi
trời. Các vị thần thất sắc, cầu khẩn xin tha. Thần Bão tố vẫy tay một cái: sóng
lặn, gió êm. Bấy giờ nước biển lao xao, sóng chạy lăn tăn trên bãi cát.
Các vị thần vừa
tỉnh trí hoàn hồn, thì nghe có một giọng lảnh lót cất lên:
“Sức mạnh không phải ở nơi sự phô trương của sức bạo tàn, vì nó chỉ có phá hoại mà không tạo lập. Sức mạnh ở cái thuật khuất phục con người và giữ gìn họ ở trong khuất phục ấy bằng ý muốn của họ. Người ta cảm vì sự dịu dàng mà chịu khuất phục chớ không phải vì bị khủng khiếp mà chịu khuất phục”.
“Sức mạnh không phải ở nơi sự phô trương của sức bạo tàn, vì nó chỉ có phá hoại mà không tạo lập. Sức mạnh ở cái thuật khuất phục con người và giữ gìn họ ở trong khuất phục ấy bằng ý muốn của họ. Người ta cảm vì sự dịu dàng mà chịu khuất phục chớ không phải vì bị khủng khiếp mà chịu khuất phục”.
Dứt lời, vị thần
Âm nhạc lấy ống tiêu thổi lên một hơi, nhẹ nhàng êm ái như thế nào mà hết thảy
các vị thần mê mẩn tâm thần, như ngây, như dại. Tất cả đều như bị sức âm nhạc
lôi cuốn vào giấc ngủ thôi miên.
Nhưng có một vị
thần thái độ huyền bí, dường như thản nhiên bất động. Vị này không thấy
sấm sét mà choá mắt. Sóng bủa, nước dâng cũng không khiến gương mặt trầm
tĩnh của ông thay đổi. Mà tiếng nhạc du dương, thâm trầm, huyền hảo kia
cũng không cảm động lòng ông chút nào cả.
Vị trọng tài day
qua hỏi:
– Ngài có phải bị
mù, điếc gì không?
– Không. Tôi thấy
và tôi nghe.
– Tại sao Ngài
không động lòng. Sấm nổ, nước dâng không làm cho quả tim Ngài dao động lên sao?
Nhạc thần, tiêu thánh không làm cho tâm hồn Ngài xao xuyến sao?
– Ngài lầm! Quả
tim tôi cũng đập, tâm hồn tôi cũng xao.
– Nhưng sao gương
mặt Ngài, tôi không thấy lộ vẻ lo sợ hay vui sướng gì cả?
– Không. Tôi là
“Điềm Đạm”. Tôi là kẻ huấn luyện cảm giác tôi, tôi là kẻ đã làm chủ cảm giác
tôi. Còn các Ngài, các Ngài chỉ là những người làm tôi mọi nó vì chính các Ngài
đã không thể chế ngự nó. Có ích gì lo đi chế ngự sự vật quanh mình, trong
lúc mà, một tiếng nhạc tiêu tao cũng đủ làm cho cái tay cầm sấm sét kia phải
rụng rời như rũ liệt. Còn nói đến uy lực nỗi gì, kẻ có tài ảo hoặc người
kia, khi thấy nước dâng, nghe sấm nổ, cũng vẫn lao nhao lo sợ như ai.
Các vị thần, cúi
mặt làm thinh.
Vị trọng tài nói
tiếp:
– Quyền bá chủ, là
người này. Sức mạnh thật ở nơi tâm hồn điềm tĩnh của người này! Hơn cả sự điều
khiển vạn vật, người này đã khéo léo biết điều khiển dục tính của mình. Bất kỳ
một thế lực nào, nếu còn bị một thế lực khác đánh ngã, không còn đáng gọi là
sức mạnh nữa. Người này không phô trương những thế lực vô ích như thế, rõ người
có sức mạnh trên hết. Bất kỳ những ám thị, những dẫn dụ nào, cũng không làm nao
núng tâm hồn người này được. Trái lại, người này đã thấy hết, và đã khéo lợi
dụng cả thảy để làm tôi mọi cho mình. Nếu các anh em, tin cậy nơi sự phê phán
của tôi, thì tôi xin nói thật: “Vị thần Điềm Đạm này là chúa tể của chúng ta cả
thảy”.
58. Ba người thầy vĩ đại
Khi
Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: “Thưa Hasan,
ai là thầy của ngài?”
Hasan
đáp: “Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy
hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn
rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.
Người
đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến
được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng
ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta
hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: “Khuya khoắt thế này thật
khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với
một tên trộm.”
Người
đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta
lại bảo: “Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!” Mỗi khi ông ta
trở về ta đều hỏi: “Có trộm được gì không?” và ông ta đều đáp: “Hôm nay thì
chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ”. Ta chưa bao giờ thấy ông ta
trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.
Có lần
ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một
chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ
mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến
tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!”
Người
thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất
hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của
mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy.
Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng,
nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được
gửi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.
Người
thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên
tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: “Con tự
thắp cây nến này phải không?” Đứa bé đáp: “Thưa phải.” Đoạn ta hỏi: “Lúc nãy
nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh
sáng từ đâu đến không?”
Đứa bé
cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: “Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài
bảo ánh sáng đã đi đâu?”
Cái
tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ
theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả
những tự hào về kiến thức của mình.
Đúng
là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta
không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta
luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây
ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng
triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là
luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi,
luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.
59. Ba câu hỏi của một nhà vua
( Câu chuyện do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại)
Nhà
vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời
được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc
nào. Ba câu hỏi ấy là:
1. Làm sao để
biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2. Làm sao để
biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3.
Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực
hiện?
Nghĩ thế, vua liền
ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho
kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.
Các bậc hiền nhân
đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả
lời khác nhau.
Về câu
hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận
lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ
năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công
việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những
việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà
nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần
thiết.
Có kẻ
lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng
không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt,
do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến
cáo của họ.
Lại có
kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào
có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà
muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xảy ra, do đó, nhà
vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.
Về câu
hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những
nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều
đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người
nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.
Về câu
hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là
quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói
chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.
Vì các
câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả,
và chẳng ban thưởng cho ai hết.
Sau
nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo
này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi
ba câu hỏi kia.
Vị đạo
sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân
nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang
làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình
vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.
Nhà
vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật
đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã
già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì
ông lại thở hổn hển.
Nhà
vua tới gần ông đạo và nói: “Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba
câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi
sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều
hơn cả? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên?”
Ông
đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống
tiếp tục cuốc đất.
Nhà
vua nói: “Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát”. Vị đạo
sĩ cám ơn và trao cuốc cho vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai
vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời,
chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: “Bây giờ bác phải nghỉ, đến
phiên tôi cuốc”. Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc
đất.
Một
giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà
vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo: “Tôi tới để xin ông đạo trả
lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin
cho biết để tôi còn về nhà”.
Ông
đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: “Bác thử xem có ai
chạy lên kìa”. Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp
sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy
tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.
Vua và
ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị
thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả
áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng
chảy.
Lúc
bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước
suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự
tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên
giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và
cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến
nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được
mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị
thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.
Người đó thấy vua
tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt: “Xin bệ hạ tha
tội cho thần”.
“Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?”
“Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?”
“Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết
bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng
được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần
và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa”.
“Hạ
thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục
quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở
xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích.
Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho
nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có
bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm
hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây
giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ
suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha
tội cho hạ thần”.
Thấy
mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không
những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi
ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
Sau
khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào.
Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ
gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.
Vị đạo
sĩ đứng dậy nhìn vua: “Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà”.
Vua hỏi: “Trả lời bao giờ đâu nào ?”
Vua hỏi: “Trả lời bao giờ đâu nào ?”
“Hôm
qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất
này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua
sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời
gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công
việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương
nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta,
bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ổng thì ổng sẽ chết và vua không có
dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và
công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất.
Xin
vua hãy nhớ kỹ điều này: “Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó
là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi
vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật
quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì
ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai.
Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta,
đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.
60. Bức tranh bị bôi bẩn
Có một
anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi
một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống
thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa
nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say
mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên
tuổi của chàng sống mãi với thời gian.
Một
buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ
trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám
đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng
ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ
lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép
sân thượng.
Trong
số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người
phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là
chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy nhiên, không
ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa
sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.
Một sự
im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến
tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc
lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy.
Người
họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay
người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn
ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ
lấy người họa sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế.
Rồi
một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: “Trong cuộc
đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức
tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những
điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề,
thậm chí là ngay dưới chân mình”.
Vậy
nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công
tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực
tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân
bạn.
61. Hãy sống trong hạnh phúc dù cuộc đời không như mơ
Nữ nhà
văn Mỹ Hellen Keller đã từng nói: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho
đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đeo giày”.
Nếu
bạn hỏng xe dọc đường, phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra được người giúp
đỡ. Hãy nghĩ tới những ai liệt cả đôi chân, luôn khao khát được bước đi
như bạn. Đó là lúc khó khăn của bạn, đôi chân của bạn có thể đưa bạn đến
bất cứ nơi đâu, đó là hạnh phúc và may mắn khi bạn sinh ra trên đời được có
quyền đứng trên đôi chân của mình để đi. Khi không may đôi chân phải nặng nề
hơn trên con đường đang bước thì hãy chớ vội nản lòng, khó chịu bởi đằng kia có
rất rất nhiều người đang khao khát được bước và được đi như bạn dù chỉ một bước
chân…
Nếu
bạn cảm thấy đời mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa kiếp người. Xin bạn
hãy biết ơn cuộc sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ của
mình để có những trải nghiệm như bạn. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình kém may mắn
trong cuộc đời này, hãy biết trân trọng từng phút giây khi được sinh ra trên
cuộc đời này.
Nếu
bạn cảm thấy mình là nạn nhân của những ai hay cay nghiệt, dốt nát, nhỏ nhen,
nghi kỵ. Hãy nhớ rằng việc đời có khi còn tệ hại hơn thế rất nhiều. Sống
là động nhưng lòng không dao động.
Mỗi
sớm mai thức dậy việc đầu tiên mà ta phải làm là hãy nở một nụ cười thật tươi
để trả lại cho cuộc sống đã cho ta được sinh ra trên cuộc đời này, có được một đôi chân vững chãi để bước
đi, có được một đôi tay lành lặn để ôm ấp những người mà ta yêu thương, có được
một đôi mắt sáng để nhìn ngắm thế giới xung quanh, có được niềm tin và nghị lực
trong mỗi chặng đường đời để cảm thấy mình hạnh phúc dù ở trong hoàn cảnh nào.
Hãy biết nâng niu và trân trọng từng phút giây mà bạn đang có để biết yêu
thương được đong đầy như thế nào trong cuộc đời mình.
Hiện
tại của bạn đang là một niềm mơ ước của nhiều người. Xin hãy trân trọng và sống
trọn vẹn ngay thực tại, bây giờ và ở đây.
62. Hãy là một chiếc lá
Có một
chàng thanh niên kia buồn bã tìm đến một vị thiền sư hỏi rằng: “Thưa sư phụ, có
những lúc con tưởng chừng như cuộc sống và con người muốn nhấn chìm con, vậy
những lúc như thế con phải làm gì ạ?”.
Vị
thiền sư không nói gì, đi lấy 2 cái thùng, một thùng có nước và một thùng trống
không, rồi người thả chiếc lá vào cái thùng không đó. Đoạn người xách
chiếc thùng đầy nước kia từ từ đổ vào cái thùng có chiếc lá. Chiếc lá bị nước
đổ vào cuốn xoáy trong nước, nhiều lần cứ lặn hụp như thế, nhưng khi nước đã đổ
vào đầy hết, thì chiếc lá vẫn lặng lẽ trôi ung dung trên mặt nước.
Rồi
người chỉ vào chiếc lá trong thùng nước và ôn tồn nói: “Con thấy đấy, nếu con
biết thả tâm của mình nhẹ nhàng như chiếc lá này, thì dù mọi thứ có chuyển biến
nghiệt ngã đến đâu cũng không thể nào nhấn chìm con được”.
Hóa thành một chiếc lá rơi . Sống mà được thế thảnh thơi, nhẹ nhàng…
63. Người đàn ông hạnh phúc
Một cụ ông 92
tuổi, nhỏ người, rất tự hào, ăn mặc chỉnh tề, mỗi buổi sáng cạo râu lúc 8 giờ.
Hôm nay ông dọn đến ở tại một chung cư dành cho những người cao tuổi. Vợ ông 70
tuổi vừa mới qua đời nên ông buộc ḷòng
phải rời khỏi căn nhà của ông.
Sau nhiều giờ ngồi
chờ đợi trong hành lang của chung cư, ông cười rất tươi khi chúng tôi đến nói
với ông rằng căn phòng của ông đă sẵn sàng. Bởi vì ông phải dùng thang máy với
tôi là người dẫn đường, tôi tả cho ông sơ về căn phòng nhỏ của ông, kể cả tấm
khăn trải giường treo ở cửa sổ thay cho màn cửa. “Tôi thích căn phòng này lắm”,
ông nói với niềm hân hoan như một bé trai 8 tuổi vừa được ai đó cho một con chó
nhỏ.
“Thưa ông Gagné,
ông chưa thấy căn phòng của ông mà, xin ông đợi một tí”.
“Điều đó không
liên hệ gì với nhau cả”, ông nói: “Hạnh phúc là cái gì đó tôi đã chọn trước
rồi, tôi thích hay không thích căn phòng của tôi không phải do đồ gỗ giường tủ
hay đồ trang trí, mà tùy thuộc trước tiên về cách cảm nhận của tôi đối với hạnh
phúc”.
“Chính tôi đă
quyết định trong đầu của tôi rằng tôi thích căn phòng của tôi, đó là một quyết
định tôi thường làm mỗi buổi sáng khi tôi thức dậy. Tôi đă chọn: Hoặc tôi có
thể nằm cả ngày trên giường để đếm những khó khăn mà các bộ phận trong cơ thể
của tôi không còn có thể hoạt động được nữa, hoặc tôi vùng dậy và cám ơn trời
đất về những cơ phận của tôi còn hoạt động được.”
“Mỗi ngày là một
quà tặng và cũng đã từ lâu, tôi vẫn có thể mở mắt thức dậy, tôi đặt tiêu điểm
cho ngày mới và kiểm lại những kỷ niệm tốt đẹp mà tôi đă có trong suốt cuộc đời
của tôi.”
“Tuổi già giống
như một tài khoản ngân hàng, bạn sẽ rút ra những gì bạn đă ký gởi vào đó.” Và
đây là lời khuyên của tôi dành cho bạn: Hãy ký gởi nhiều kỷ niệm hạnh phúc vào
tài khoản ngân hàng của bạn.
Bình : Chúng ta ai cũng có quyền lựa chọn cuộc sống hạnh
phúc cho mình. Điều đó phụ thuộc vào chính sự suy nghĩ và nhìn nhận của chúng ta
về cuộc sống. Đừng trông mong vào hạnh phúc ở bên ngoài mà hãy tìm ra
hạnh phúc từ trong chính bạn. 
64. Nghịch lý
Có nhiều nghịch lý
trong cuộc sống. Có những nghịch lý tự nó là nghịch lý. Có những nghịch lý do
con người tạo ra. Có những điều con người không hiểu rồi cho là nghịch lý.
Ngày nay, con người Có ít
nhưng xài nhiều, mua nhiều nhưng sử dụng ít. Có nhà rộng nhưng mái ấm lại hẹp;
có tiện nghi nhưng ít thời gian. Có nhiều bằng cấp nhưng lại có ít tri thức. Có
nhiều chữ nhưng kiến thức thì ít; Có nhiều kiến thức nhưng lại thiếu suy xét
hơn. Có học nhiều hơn, bằng cấp nhiều hơn nhưng chất lượng lại kém đi. Có nhiều
chuyên gia hơn nhưng cũng có nhiều vấn nạn hơn. Đã viết và lách nhiều hơn nhưng
chất lượng lại kém hơn.
Ngày nay, con người Làm ra
những thứ lớn hơn nhưng chưa chắc chất lượng hơn. Làm những việc lớn hơn nhưng
chưa chắc đã tốt hơn. Làm giàu tài sản nhưng lại làm nghèo giá trị bản thân. Nói
quá nhiều, mà yêu thương quá ít và thường hay ghen ghét. Uống quá nhiều, hút
quá nhiều, xài tiền quá nhiều nhưng cười ít, chia sẻ ít, nhường nhịn ít. Có
nhiều thuốc men, nhưng sức khoẻ lại kém hơn. Kéo dài tuổi thọ nhưng không sống
đúng ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chinh phục không gian vũ trụ nhưng lại bỏ
trống không gian tâm hồn. Cố làm sạch không khí nhưng lại làm vẩn đục tâm hồn. Xây
nhà cao hơn nhưng lại hạ thấp tâm tính; xây đường rộng hơn nhưng lại thu hẹp
tầm nhìn.
Ngày nay, con người Biết chăm
sóc yêu quý và tin tưởng động vật hơn cả con người. Biết chất chồng thêm mỗi
năm vào cuộc đời mà chẳng biết bổ sung cuộc đời vào dòng thời gian. Biết lên
mặt trăng và quay trở về, nhưng lại thấy khó và quên đường đến những người hàng
xóm. Biết dự tính hơn nhưng thực hiện lại ít hơn. Biết vội vã mà không biết chờ
đợi.
Ngày nay, con người Học cách
tiến nhanh về phía trước mà chưa học cách biết chờ đợi. Học cách để nói nhưng
lại không học cách lắng nghe. Học cách kiếm sống mà không học cách phải sống. Trở
nên thừa về số lượng, nhưng lại thiếu về chất lượng. Có nhiều thời gian rảnh
rỗi, nhưng lại ít thú vui lành mạnh.
Con người ngày nay sống trong
thời của thế giới hoà bình, nhưng nội chiến thì triền miên. Con người ngày nay
có tới hai nguồn thu nhập từ vợ chồng, nhưng ly dị vẫn nhiều hơn. Thời của
những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm lại bị đổ vỡ, tan rã. Có mái nhà nhưng
không có mái ấm. Con người ngày nay thích sử dụng và hưởng thụ, nhưng lại không
muốn làm và chịu trách nhiệm. Con người ngày nay có nhiều chuyến du hí chớp
nhoáng, những chỗ dừng qua đêm dọc đường, của sự buông trôi đạo đức, của những
cơ thể béo phì và của những loại thuốc kích thích, an thần và giết người. Ðây
là thời đại của thức ăn nhanh nhưng tiêu hoá chậm; của những con người to hơn
nhưng nhân cách nhỏ lại; tài sản rất đầy nhưng tình thương lại vơi.
Bằng con đường
tình yêu ta mới có thể xoá đi cái nghịch vốn rất nghịch lý ấy mà thôi.
65. Hãy cảm ơn
Hãy cảm ơn vì bạn chưa
có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để
trông chờ và hy vọng nữa đâu.
Hãy cảm ơn vì còn
nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì
để học hỏi nữa sao?
Hãy cảm ơn những
lúc khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng
thành được không?
Hãy cảm ơn vì bạn còn
có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng
còn cơ hội để tiến bộ, để cải thiện bản thân.
Hãy cảm ơn những
thử thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây
dựng nên sức mạnh và cá tính của bạn?
Hãy cảm ơn những
lỗi lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho
bạn những bài học đáng giá như thế đây?
Hãy cảm ơn những
khi bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm
việc gì hay sao?
Thật là dễ nếu cảm
ơn những thứ tốt đẹp, nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người
cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực thành
tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng
có thể giúp ích nhiều cho bạn đấy!
Trước người
thất ý đừng nói chuyện đắc ý, vì
như thế chỉ làm tăng thêm nỗi buồn của đối phương. Vì vậy cho dù vạn sự như ý
thì cũng nên cố ý nói những điều buồn khổ cho đối phương nghe.
Trước người
đắc ý đừng nói chuyện thất ý, vì
người đắc ý thường không thể thông cảm với nỗi buồn khổ của người thất ý.
Vì vậy cho dù có
nhiều điều không như ý thì cũng phải cố gắng phấn chấn tinh thần lên.
Bạn bè kết giao
lúc thất ý thì lúc đắc ý thường dễ mất đi, vì người đó cảm thấy cuộc sống của
bạn tốt đẹp hơn, không còn là bạn. .. nối khố của mình nữa, người đó không muốn
trèo cao, kết thân với người cao sang, và cũng không thể trèo cao, nếu bạn có
những lời nói hay hành động vô tâm có thể khiến người ấy mặc cảm tự ti.
Mắc lỗi với bạn bè
lúc đắc ý thì lúc thất ý cũng khó vãn hồi, người ta cảm thấy cái uy phong khí
thế ngày xưa của bạn mất đi, không phải do bạn trở nên khiêm tốn, nhũn nhặn hơn
mà là vì bạn bế tắc hết đường mới quay lui xây đắp lại mối giao hảo xưa. Ngày
xưa bạn không nhận họ thì hôm nay họ không nhận bạn!
66. Người ngồi trên tài năng
Có một người đàn
ông thường chơi piano trong quán bar của thị trấn. Anh ta chơi piano rất hay,
và nhiều người đến quán bar này cũng chỉ để nghe anh ta chơi piano. Quán bar cứ
đông khách nườm nượp cũng nhờ vậy. Thế mà một buổi tối nọ, một ông khách quen
lại không muốn nghe anh ta chơi đàn nữa. Ông ta cứ đòi người chơi piano phải
hát.
– Tôi không biết
hát! – Người đàn piano lắc đầu – Tôi chưa bao giờ hát ở những nơi đông
người cả.
Nhưng ông khách cứ
khăng khăng bảo người chủ quán bar:
– Tôi chán nghe
piano rồi, tôi muốn nghe anh ta hát xem sao.
Những người khách
khác trong quán cũng tò mò nên đồng loạt yêu cầu người chơi piano hát. Người
chủ quán đành gọi với ra:
– Này anh bạn, anh
đành phải hát thôi, các vị khách quý của chúng ta đã muốn thế mà. Nếu không là
tôi trừ lương đấy!
Người chơi đàn miễn
cưỡng hát một bài. Đây là lần đầu tiên anh ta hát trước mặt nhiều người đến
vậy, và đó cũng là lần đầu tiên mọi người được nghe bài hát “Mona Lisa” hay đến
như vậy!!
Bởi đó chính là Nat King Cole – sau này là
một nghệ sĩ piano và ca sĩ nhạc jazz nổi tiếng, đã bán được hơn 50 triệu đĩa và
từng được tổng thống Kennedy mời đến biểu diễn.
Anh ta có tài
nhưng anh ta không bao giờ khám phá ra điều đó, và anh ta đã có thể sống hết
cuộc đời mình chỉ như một người đàn piano vô danh trong một quán bar vô danh. Nhưng
chỉ vì một lần anh buộc phải hát mà anh ta đã trở thành một trong những nghệ sĩ
nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc nước Mỹ.
Cả bạn cũng vậy,
bạn cũng có thể có những kỹ năng hay khả năng. Bạn có thể cảm thấy “tài năng”
của bạn chẳng có gì đặc biệt nhưng bản thân nó lại có thể đặc biệt hơn bạn
nghĩ. Ngoài ra, bạn có thể chẳng có khả năng nào nếu bạn cứ “ngồi lên” bất kỳ
tài năng nào mà bạn có. Câu hỏi mà bạn nên đặt ra không phải là: “Mình có khả
năng gì có ích?”, mà là: “Làm sao để mình sử dụng được mọi khả
năng mình có?”
67. Tâm bình an trong hiện tại
Chuyện xưa kể
rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về
kho báu và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong
cuộc sống; các vị quan trở thành mối nghi ngờ, và tương lai trở thành nỗi ám
ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện
nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ở họ toát
lên nỗi đơn sơ, chất phác và không một chút lo lắng cho tương lai. Quá tò mò
lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm
hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an như vậy.
Ngày kia, vua giả
dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn
mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua
giả dạng hỏi: “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”. Người nghèo đáp: “Tôi có
một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay”.
Vị vua giả dạng hỏi tiếp: “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ
tiền mua bánh mì?”. “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ
tốt đẹp”, người thợ đáp.
Sau khi ra về, vị
vua muốn thử niềm tin của người thợ giày. Vua ra lệnh cấm những người sửa giày
dép hành nghề. Khi biết bộ luật mới ban, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày
từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”. Ngay lập tức ông thấy một vài
phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và
hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Trời tối, vị vua
dưới dạng người ăn mày lại tới thăm người nghèo. Người thợ sửa giày vẫn giữ
thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua cho ra lệnh
cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay
đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào
triết lý sống từng ngày của mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình
an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn
thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”.
Vì quá tò mò trước
triết lý sống của người nghèo này, đức vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo
làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương
hằng ngày, mà phải hết tháng ông mới nhận được thù lao. Mặc dù vậy, ông đã bán
lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh
mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng tới thăm ông
và hỏi, “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”. “Tôi được làm lính
cho vua”, người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhưng nhận lương
vào cuối tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một
tháng Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm thật và như thế tôi sẽ có
cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.” Nhà vua giả dạng
hỏi tiếp, “Nhưng nếu ông phải sử dụng tới gươm vào ngày mai thì sao?”. Người
thợ sửa giày đợt trước vần thản nhiên: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt
đẹp”.
Quả thật, hôm sau
người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo
trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm
gỗ, người đàn ông này sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ. Và như vậy để xem
niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp được hay không?
Tên tử tội quỳ
xuống chân anh lính và van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Người đàn
ông nhà nghèo trong trang phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn: “Lạy
Đấng tối cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con
được phép thi hành lệnh của vua. Còn nếu anh ta vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm
này thành gươm gỗ”. Ngay tức khắc, ông rút lưỡi gươm ra và quả thực thanh gươm
bằng sắt đã biến thành gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: “Đây là phép lạ”.
Vị vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận
rằng: “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm
muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm. Ngươi hãy dạy cho ta cách sống lạc
quan và bình an”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét