19/12/18

67 CHUYỆN THIỀN DÀI


Nguồn : Internet .

 

MỤC LỤC : 

1. Củ khoai trong rừng sâu

2. Câu chuyện về người câu cá

3. Năm loại chất độc

4. Ngón tay cái của đức vua

5. Phải, bạn có thể

6. Hình phạt nặng nhất

7. Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình

8. Chiếc vĩ cầm một dây

9. Thiền sư và con vẹt

10. Nhà sư và cô lái đò

11. Ba đơn thuốc cho tâm hồn

12. Không thể xa rời đạo dù chỉ trong tích tắc

13. Chư thiên vấn Phật

14. Giá trị của một câu nói dịu dàng

15. Nhìn người

16. Hạt táo

17. Thiên đàng ở đâu

18. Người gác cổng

19. Vàng ngọc phải chăng là hạnh phúc?

20. Sự lạnh giá của tâm hồn

21. Đừng quên cái chính

22. Hai cái bị của người đời

23. Bảy bát nước cứu khổ

24. Có tàn nhẫn quá không?

25. Bài học từ Socrates

26. Bao nhiêu giày mới đủ?

27. Cái tâm của con người

28. Bức tranh của Goya

29. Bàn bạc với tâm mình

30. Một người bình thường là đủ rồi

31. Câu chuyện về một cốc sữa

32. Chiếc đồng hồ bị mất

33. Người đàn ông trên sa mạc

34. Ăn mày cửa Phật

35. Đóng cửa lại giùm

36. Tâm tịnh cõi nước tịnh

37. “Tôi đang chờ ngài nói lời cảm ơn”

38. Sức mạnh của lời nói

39. Câu chuyện về chữ Nhẫn

40. Sống tích cực – Đơn giản là ngước nhìn lên cao!

41. Nhất thiết không được để mất lương tâm

42. Có nhìn thấy không?

43. Hai USD và 1 giờ

44. Hãy thắp lên một que diêm

45. Lắng nghe hay là chờ một viên đá?

46. Tỉnh dậy

47. Ý nghĩa của sự bình yên

48. Chiếc lá hoàn hảo

49. Bài học về 1000 viên bi

50. Điều đó rồi cũng qua đi

51. Bằng lòng với cuộc sống

52. Mẹ lạnh lắm phải không?

53. Chuyện về hai linh hồn

54. Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?

55. Bồ Tát chỉ ngồi để thấy

56. Câu chuyện cậu bé đánh giày

57. Vị thần mạnh nhất

58. Ba người thầy vĩ đại

59. Ba câu hỏi của một nhà vua

60. Bức tranh bị bôi bẩn

61. Hãy sống trong hạnh phúc dù cuộc đời không như mơ

62. Hãy là một chiếc lá

63. Người đàn ông hạnh phúc

64. Nghịch lý

65. Hãy cảm ơn

66. Người ngồi trên tài năng

67. Tâm bình an trong hiện tại

 

1. Củ khoai trong rừng sâu

Tại một làng nọ, có một người tiều phu nghèo khổ sống với vợ và đứa con nhỏ. Không may, người vợ đổ bệnh, gia đình càng thêm khó khăn. Người tiều phu tìm mọi cách cứu chữa vợ nhưng không hiệu quả, bệnh người vợ ngày một nặng thêm.
Ngày kia, có một vị thầy thuốc vào núi kiếm cây thuốc. Khát quá, ông vào nhà người tiều phu xin nước uống và vô tình biết được bệnh tình người vợ. Bắt mạch khám bệnh cho người vợ, ông bảo người tiều phu chạy đi mua gấp thang thuốc ông kê.
Người tiều phu cầm hết tiền trong nhà rồi chạy ra hiệu thuốc. Tuy nhiên, chừng đó cũng không đủ tiền mua.
Nhìn người vợ đang chết dần anh không cầm được nước mắt.
Trong làng có một vị thương gia giàu có, thi thoảng vào rừng săn bắn và đi ngang qua nhà anh. Người tiều phu chợt nhớ ra. Anh đánh bạo qua hỏi vay. Nhìn người tiều phu, vị thương gia giàu có nhếch mép cười mỉa mai hỏi anh bằng cách nào anh trả nợ được. Người tiều phu đáp anh sẽ chăm chỉ kiếm củi bán tích cóp để trả. Ông ta ngửa mặt cười rồi xua tay nói anh không cần trả, coi như ông ta làm phúc. Người tiều phu cảm động nói sẽ đền ơn ông khi có dịp, hoặc giúp đỡ khi ông gặp khó khăn. Vị thương gia lại cười nắc nẻ cho rằng người như anh thì đền ơn thế nào được, mà ông giàu có vậy sao có thể gặp khó khăn đến nỗi cần anh giúp. Người tiều phu cảm ơn vị thương gia rồi cầm tiền đi mua thuốc cho vợ. Người vợ cuối cùng cũng qua cơn bạo bệnh.
Vài năm sau, bệnh dịch hoành hành cùng nạn đói xảy ra khiến nhiều người chết. Vị thương gia giàu có tốn không biết bao nhiêu tài sản để cứu chữa cho vợ con. Sau đó, gia đình ông còn bị cướp sạch của cải. Không còn chỗ nương tựa, lại đói khát, ông đưa vợ con vào núi kiếm cái ăn. Trên đường, người vợ và đứa con nhỏ kiệt sức nằm lại nghỉ, ông một mình tiến vào rừng sâu. Đói khát và mệt, ông gục xuống.
Tỉnh lại, ông thấy có người đang cho mình uống nước. Anh ta đưa cho ông củ khoai. Ông ăn ngấu nghiến, nhưng chợt nhớ ra còn vợ con, ông ngừng lại. Người này nhìn ông và bảo cuộc đời không nói trước được điều gì, không ai biết được tương lai, đây là lúc anh ta trả ơn người đã giúp mình. Vị thương gia bỗng sực tỉnh, ông nhận ra đó là người tiều phu và nhớ lại câu chuyện năm nào. Hoá ra, khi gặp tai ương, người tiều phu đã đưa vợ con vào trong núi để lánh dịch bệnh. Nếu không nhanh trí, hẳn gia đình anh cũng khó thoát khỏi kiếp nạn và sống cho tới lúc này để gặp lại vị thương gia kia mà trả cái ơn cũ.
Một củ khoai giữa nạn đói cũng có thể cứu một mạng người. Sự trả ơn của người tiều phu cũng không khác với sự giúp đỡ của vị thương gia cho anh lúc khốn khó. Vị thương gia tự đắc rằng người nghèo như người tiều phu chắc hẳn chẳng bao giờ có thể trả nổi số tiền anh ta vay, cũng chẳng có cơ hội để trả ơn hay giúp đỡ lại khi ông hoạn nạn. Nhưng, mọi chuyện đều có thể xảy ra, vô thường luôn có mặt những lúc chúng ta không ngờ nhất.

 

2. Câu chuyện về người câu cá

Ngày nọ, có một ngư dân nằm trên bãi biển câu cá, với chiếc cần cắm trên bãi cát và sợi dây câu bồng bềnh theo những đợt sóng xanh biếc lấp lánh. Ông tận hưởng cái ấm áp cảnh chiều tà và niềm vui khi bắt được một con cá.
Cùng lúc đó, một thương nhân đi dọc theo bờ biển để giải tỏa những căng thẳng sau ngày làm việc mệt mỏi. Thấy người câu cá đang ngồi trên bãi biển, ông quyết định tìm hiểu lí do tại sao người này lạị ngồi câu cá thay vì làm việc chăm chỉ hơn để kiếm sống cho gia đình và bản thân.
“Ông sẽ không bắt được nhiều cá bằng cách này đâu”. – Vị thương gia nói
Người câu cá nhìn lên, mỉm cười nói: “Vậy tôi nên làm gì và sẽ được những gì?”
“Ông có thể kiếm cái lưới lớn hơn và sẽ bắt được nhiều cá hơn đấy”. – Vị thương gia trả lời.
Người ngư dân vẫn mỉm cười: “Sau đó tôi sẽ được những gì?”
– Ông sẽ kiếm được nhiều tiền, ông có thể mua một con thuyền và tất nhiên sau đó sẽ bắt được nhiều cá hơn bây giờ.
– Rồi tôi sẽ được thêm những gì?
Người thương gia có chút khó chịu với những câu hỏi ấy: “Ông sẽ kiếm được nhiều tiền, ông có thể mua một chiếc thuyền lớn hơn và thuê người làm việc cho ông”.
“Thế rồi sao nữa?”- Người ngư dân thản nhiên lặp lại.
Người doanh nhân đã thực sự tức giận: “Ông không hiểu à? Ông có thể có một đội tàu đánh cá đi khắp thế giới, ông chỉ cần thuê người làm việc cho mình”.
Ngư dân lại hỏi: “Vậy cuối cùng tôi sẽ được cái gì?”
Người thương gia bấy giờ đùng đùng nổi giận, hét vào mặt ngư dân.
“Ông không hiểu à? Là ông sẽ trở nên giàu có và không phải làm việc nữa. Ông có thể dành hết phần đời còn lại của mình để ngồi đây ngắm hoàng hôn, dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, vợ con. Ông sẽ không cần phải lo lắng gì về cuộc sống nữa”.
Người ngư dân cười, vô tư gật đầu: “Vậy anh nghĩ tôi đang làm gì ngay lúc này? Sao tôi phải đợi làm những việc như anh nói rồi mới có thể có được những điều đó?”
Sau đó ông ngước nhìn hoàng hôn với chiếc cần câu và làn nước xanh biếc, chẳng thèm bận tâm gì nữa và bước về ngôi nhà của mình.
Tri túc, biết đủ và hiểu rằng chúng ta không cần phải thêm cái gì nữa để hạnh phúc, đó mới là người thực sự biết tận hưởng cuộc sống. Kinh Thánh nói rằng có cơm ăn và áo mặc, chúng ta hãy biết tự vừa lòng. Biết đủ trong đời đơn thuần nghĩa là chúng ta luôn biết ơn và tôn trọng những gì mà ta đang có.
Không nhất thiết là phải có một tài sản kếch xù hay một tài khoản ngân hàng thật khủng thì chúng ta mới có thể hạnh phúc. Có gia đình, bạn bè, con cái, và có sức khỏe tốt là đủ để thấy chúng ta đã được ưu ái trong đời rồi. Kẻ thù thường cho ta thấy những gì ta không có  và xúi giục chúng ta phải có những thứ ấy. Hắn thường dùng sự ganh tỵ và tật đố để khiến chúng ta quên đi những thứ mình có và cố tầm cầu thêm những thứ khác. Khi sự ganh tỵ và tật đố đã bắt rễ trong tâm, không gì có thể lấp đầy cái vực thẳm tham cầu ấy. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy đủ vì thế nào cũng có ai đó có nhiều hơn ta. Đó là lý do vì sao mà chúng ta phải nhận ra hạnh phúc, tự tại không liên quan đến quá nhiều sở hữu, mà thực ra nó lại liên quan đến trạng thái của tâm hồn.

 

3. Năm loại chất độc

Một người Bà La Môn đã tìm một Đức Phật xin chỉ bảo: “Vì sao những người lương thiện như tôi lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt vậy?”
 Đức Phật trả lời:
– Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.
Có cảm giác như bị xúc phạm, người Bà La Môn không phục, liền nói:
– Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!
Đức Phật trả lời:
– Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.
Bà La Môn nói:
– Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có cảm giác thua thiệt bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này. Trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…
Cứ như vậy, lần lượt Bà La Môn kể hết với Đức Phật những nỗi thống khổ của mình.
Đức Phật gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, ngài từ tốn nói với vị Bà la Môn: “Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy. Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.
Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm.
Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.
Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.
Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.
Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện. Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!
Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.
Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi. Một người sống trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại. Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.
Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?”
Đức Phật nói xong những điều nầy, tiếp tục nhìn người Bà La Môn với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.
Ngồi im lặng hồi lâu. Xưa nay người Bà La Môn vẫn cho mình là một người rất lương thiện. Mãi đến lúc này, phải!, chỉ đến lúc lúc này, ông ta mới biết được trong ông ta còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác. Bởi vì nội tâm của chứa những điều ác, nên mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm không ác, sao có thể khổ chứ?
Người Bà La Môn vội quỳ lạy đấng thế tôn và nói:
– Xin cảm tạ Đức Phật, nếu không được ngài khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!

 

4. Ngón tay cái của đức vua

Đức vua ở một vương quốc châu Phi nọ có một người bạn thân từ thời thơ ấu. Người bạn này có thói quen rất kỳ lạ, khi gặp phải bất kỳ chuyện gì xảy ra trong cuộc sống, dù may mắn hay xui xẻo, anh đều thốt lên: “Thật kỳ diệu!”.
Một hôm, đức vua cùng người bạn này đi săn. Anh bạn là người chuẩn bị súng. Nhưng chắc chắn anh đã làm điều gì đó bất cẩn vì một trong những khẩu súng đã nổ trong tay đức vua và cướp đi ngón tay cái của Ngài. Như thường lệ, vào lúc xảy ra tai nạn, anh bạn lại thốt lên: “Thật kỳ diệu!”.
Thấy vậy, đức vua, khi đó đang trong cơn tức giận, liền gào lên: “Không, chẳng kỳ diệu chút nào!” và chứng minh điều này bằng cách tống người bạn kia vào tù. Một năm sau, đức vua đi săn ngoài vương quốc của mình. Ngài bị bộ lạc ăn thịt người bắt được và giam cầm trong làng. Họ trói Ngài vào một thân cây, chất củi xung quanh và chuẩn bị nướng Ngài để ăn thịt.
Nhưng khi chuẩn bị nhóm lửa, họ nhận ra rằng tay đức vua thiếu một ngón cái. Bộ lạc này tin rằng nếu ăn thịt vua, điều tương tự sẽ xảy ra với họ, vậy là họ cởi trói và trả tự do cho Ngài. Trên đường trở về, choáng váng và mệt lả, đức vua nhớ lại tình huống dẫn đến việc Ngài mất đi ngón tay cái.
Ngay khi về tới vương quốc, Ngài lập tức yêu cầu binh lính dẫn đến nhà tù để nói chuyện với người bạn thân. “Anh có lý, anh bạn ạ”, Ngài nói, “Mất đi ngón tay cái là một điều kỳ diệu”.
Và đức vua kể lại sự tình cho người bạn thân. “Xin hãy tha thứ cho ta vì đã chôn chân anh trong tù lâu như vậy. Ta đã sai khi làm như vậy”. Nhưng anh bạn trả lời: “Không đâu, ngược lại, điều này thật kỳ diệu!”.
– Ý anh là sao? Anh bạn của ta, tại sao việc anh bị tống vào tù lại là điều kì diệu?
– Nếu thần không bị bỏ tù, có lẽ thần đã đi săn cùng Ngài. Và bộ lạc kia đã ăn thịt thần mất rồi.
Thế đấy, không phải mọi việc xảy ra trong cuộc sống của chúng ta đều thực sự tốt đẹp. Nhưng nếu giữ thái độ tích cực, bạn sẽ tìm thấy ý nghĩa của chúng. Bạn sẽ nhận ra điều kỳ diệu, nếu nỗ lực tìm kiếm nó.

 

5. Phải, bạn có thể!

16 cuộc phẫu thuật sau tai nạn xe hơi đã làm Mitchell có một cơ thể bị phỏng hơn 60%, không thể nhấc dù chỉ là muỗng thức ăn, không thể quay số điện thoại hay đi vào nhà tắm mà không có người giúp.
Nhưng Mitchell, nguyên là lính thuỷ, không bao giờ tin là mình đã bị đánh bại. “Tôi phải chịu trách nhiệm về con tàu của mình”, – ông nói – “Nó là sự thành bại của tôi. Tôi có thế như là khởi đầu lại từ điểm xuất phát”.
Sáu tháng sau, ông đã lái máy bay được. Mitchell mua một căn nhà lớn tại Colorado, vài mảnh đất, một chiếc máy bay và một quán bar. Sau đó kết hợp với hai người bạn, ông mở một công ty sản xuất đồ gốm với số nhân công lớn thứ nhì Vermont.
Và bốn năm sau ngày bị tai xe hơi, cái máy bay mà Mitchell lái đã bị rớt xuống đường băng khi vừa cất cánh làm ông gãy 12 đốt xương sống vùng ngực và liệt hẳn nửa người bên dưới. “Tôi không hiểu chuyện quái quỉ gì đã xảy ra. Tôi đã làm gì mà phải lãnh kết quả như vậy?”.
Nhưng rồi không nản lòng, Mitchell tập luyện ngày đêm để có thể lấy lại được sự độc lập cho mình càng nhiều càng tốt. Ông được bầu làm thị trưởng của Crested Butte, Colorado, để đấu tranh giữ cho thành phố thoát khỏi nguy cơ bị ô nhiễm bởi một mỏ quặng sắp được khai thác. Mitchell còn ứng cử vài quốc hội, chuyển cái vẻ bề ngoài khó coi của ông thành một sức mạnh qua khẩu hiệu: “Not just another pretty face” (Không chỉ là một khuôn mặt đẹp nữa vào quốc hội).
Mặc cho vẻ bề ngoài khó coi và khả năng hoạt động giới hạn, Mitchell vẫn tham gia đi hè, yêu và lập gia đình, lấy được bằng cao học về công tác xã hội và tiếp tục bay, tích cực bảo vệ môi trường và diễn thuyết.
Tinh thần mạnh mẽ tích cực của Mitchell đã làm ông được mời lên truyền hình trong “Chương trình hôm nay” và “Chào nước Mỹ”. Nhiều bài viết về ông đã được đăng trong các báo, tạp chí như Parade, Times, The New York Times…
“Trước khi bị tai nạn tôi có thể làm được 10.000 việc, bây giờ chỉ còn 9.000 thôi. Tôi có thể cứ nghĩ đến 1.000 điều bị mất hay tập trung vào 9.000 điều tôi còn? Tôi biết mình phải làm gì. Tôi vẫn nói với mọi người rằng tôi đã lãnh hai cú đập của số phận. Nhưng tôi đã không dùng điều đó để bào chữa cho sự đào ngũ. Những kinh nghiệm đau đớn đã có thể được nhìn với một góc độ mới. Nhìn một cách toàn diện hơn, tôi có thể nói chúng cũng không tệ lắm”.
Xin nhớ rằng: “Điều quan trọng không phải là điều xảy ra với bạn mà là điều bạn làm sau đó”.
6. Hình phạt nặng nhất
Vào một ngày Sabbath nọ [*], ông ta thèm được chơi gôn quá. Nhưng tín ngưỡng Do Thái yêu cầu các tín đồ phải nghỉ ngơi vào ngày lễ Sabbath và họ không được phép làm bất cứ điều gì.
Nhưng người này không thể cưỡng lại được ham muốn mạnh mẽ của mình và quyết định lén ra sân gôn. Ông ta nghĩ rằng mình sẽ chỉ chơi một vài lỗ. Chỉ có thế thôi.
Vì hôm đó là ngày lễ Sabbath và không có người Do Thái nào đi ra ngoài, nên không có ai tại sân gôn. Vì vậy người này cảm thấy rằng sẽ không ai biết ông phạm luật.
Tuy nhiên, khi ông ta chơi đến lỗ thứ hai thì một thiên sứ nhìn thấy ông. Vị thiên sứ này rất giận và đi báo lại với Thượng Đế. Cô nói rằng có một người không tuân theo luật của đạo Do Thái và dám chơi gôn vào ngày Sabbath.
Thượng Đế nghe thiên sứ kể xong và nói với cô: “Thế thì ta sẽ phạt người này thật nghiêm khắc”.
Kể từ lỗ thứ ba, ông ta chơi còn tốt hơn cả hoàn hảo. Ông đánh tất cả bóng vào lỗ chỉ với một cú đánh. Người này rất cao hứng. Khi ông chơi đến lỗ thứ bảy, vị thiên sứ kia đến gặp Thượng Đế và hỏi: “Kính thưa Thượng Đế, chẳng phải Ngài định phạt ông ta sao? Vì sao con vẫn không nhìn thấy sự trừng phạt nào vậy?” Thượng Đế đáp: “Ta đã phạt ông ta rồi.”
Cho đến lỗ thứ chín thì mọi lỗ người kia đều đánh vào chỉ với một cú đánh.
Bởi vì ông ta đã chơi cực kỳ giỏi, giỏi hơn nhiều so với trình độ của mình, người này quyết định chơi một ván thứ hai gồm chín lỗ nữa.
Vị thiên sứ lại đến gặp Thượng Đế: “Sự trừng phạt đâu thưa Ngài?”
Thượng Đế chỉ mỉm cười và không nói gì.
Đến khi chơi xong 18 lỗ, điểm số của ông ta cao hơn bất kỳ vận động viên chơi gôn đẳng cấp quốc tế nào. Ông ta rất đỗi vui sướng.
Vị thiên sứ nổi giận và hỏi Thượng Đế: “Đây là sự trừng phạt mà Ngài dành cho ông ta sao?”
Lần này, Thượng Đế nói: “Đúng thế, đây quả thật là một hình phạt. Hãy nghĩ mà xem. Ông ta đã chơi một ván gôn phi thường và rất hứng khởi. Nhưng ông ta không thể kể nó với ai hết. Chẳng phải đó là hình phạt nặng nề nhất đối với ông ta hay sao?”
Tại sao Thượng Đế lại không để cho người ấy thất bại và chơi không tốt? Sự trừng phạt trong nội tâm con người còn tồi tệ hơn trên thân xác! Vì vậy hãy nghĩ về điều này. Tại sao bạn lại cảm thấy lo lắng hay bận tâm? Có thể đó là một hình phạt từ Thượng Đế.
[*] Sabbath: Ngày lễ thánh trong tuần để nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa của người Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Ngày này là thứ Bảy với người Do Thái và Chủ Nhật với người đạo Cơ Đốc.

 

7. Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình

Ở một làng nọ, có hai gia đình sống cạnh nhau nhưng lại rất trái ngược. Gia đình ông Vương sống ở phía Đông thường xuyên xảy ra cãi vã, lâu lâu hàng xóm lại nghe thấy tiếng khóc lóc, quát tháo inh ỏi, cuộc sống rất đau khổ. Còn ở phía Tây, gia đình ông Lý thì ngược lại, rất đoàn kết và hòa ái, trên khuôn mặt họ lúc nào cũng nở một cười tươi, cuộc sống vui vẻ, an lạc không gì bằng.
Một ngày nọ, ông Vương do không chịu nổi những trận chiến liên miên không dứt trong gia đình, liền đi sang nhà ông Lý xin thỉnh giáo.
“Gia đình ông làm thế nào mà lúc nào cũng có thể luôn được vui vẻ dễ chịu như thế?”, ông Vương hỏi.
“Bởi vì chúng tôi thường xuyên để xảy ra những việc sai sót”, ông Lý cười trả lời.
Trong lúc ông Vương còn đang cảm thấy ngơ ngác, khó hiểu thì bỗng dưng thấy cô con dâu của gia đình ông Lý đang vội vàng đi từ ngoài vào, vào tới phòng khách do sơ ý không cẩn thận nên bị ngã nhào. Mẹ chồng cô đang lau nhà thấy vậy vội vàng chạy lại, đỡ con dâu lên và nói: “Đều là mẹ làm sai, mẹ lau nhà ướt quá đấy mà!”
Anh con trai đang đứng ngoài cửa phòng khách, thấy vợ ngã nhào, cũng vội vàng chạy lại: “Đều là lỗi của anh, anh đã không nói với em là phòng khách đang được lau, hại em bị ngã!”.
Người con dâu sau khi được đỡ dậy cũng tự trách mình và nói: “Không! Không! Là lỗi của con, là do bản thân con không cẩn thận ạ!”.
Sau khi chứng kiến hết sự việc ông Vương bỗng ngẩn người như hiểu ra gì đó.
Nếu ngay lúc đầu, người mẹ chồng trách mắng con dâu khi bị ngã là: “Sao đi đứng không có mắt à? Thật đáng đời!”. Những người khác trong gia đình nếu cũng không để ý tới cảm nhận của cô ấy mà cười nhạo cô ấy, vậy thì gia đình ông Lý có thể có được không khí nhẹ nhàng, ấm áp hay không?
Có rất nhiều người luôn mang trong lòng tâm lý “đều do người khác làm sai” nên tự nhiên sinh ra một cảm giác khó có thể tiếp xúc với người xung quanh.
Cổ nhân xưa có câu: “Kẻ tiểu nhân trách người, người quân tử tự trách mình”, thật vậy, nếu như sau khi tự xem xét lại chính mình, nhận thấy mình có chỗ thiếu sót, cần phải thay đổi thì không chỉ có thể “chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không”, mà còn có thể càng ngày càng dành được sự tôn trọng từ người khác.

 

8. Chiếc vĩ cầm một dây

Niccolo Paganini, một nghệ sỹ vĩ cầm đầy sắc thái và tài năng của thế kỷ 19 đang đứng chơi một bản nhạc khó trong một khán phòng chật kín người. Một ban nhạc vây quanh cùng hòa nhạc với ông. Bất chợt, một dây đàn bị đứt và treo lóng lánh dưới cần đàn của Paganini.
Những giọt mồ hôi từ trán ông tuôn ra. Ông lo lắng nhưng vẫn tiếp tục chơi, ứng biến một cách tốt đẹp. Dây đàn thứ hai lại bị đứt trước sự ngạc nhiên của nhạc trưởng. Và ngay sau đó là dây thứ ba. Giờ thì có ba dây đàn bị đứt đang đong đưa trên chiếc vĩ cầm của Paganini, khi người nghệ sỹ bậc thầy này hoàn thành khúc cao trào với chỉ một dây còn lại. Khán giả nhịp chân và trong phong cách lịch thiệp của người Ý, đại sảnh đã ngập tràn những tiếng “hoan hô”.
Khi tiếng vỗ tay khen ngợi lắng xuống, người nghệ sỹ vĩ cầm này yêu cầu mọi người ngồi xuống. Mặc dù họ hiểu chẳng còn cách nào để mong ông biểu diễn phần còn lại, nhưng mọi người đều yên lặng ngồi xuống chỗ ngồi của mình. Ông nâng đàn lên cao cho mọi người nhìn thấy. Ông gật đầu với người chỉ huy dàn nhạc để bắt đầu chơi lại và rồi quay mặt về đám đông. Với một ánh mắt ngời sáng, ông mỉm cười và nói to: “Đây là Paganini với một dây đàn!”
Rồi ông đặt chiếc đàn Stradivarius một dây dưới cằm và chơi nốt đoạn cuối với chỉ một dây đàn. Trong lúc khán giả lắc đầu trong tột cùng kinh ngạc.
Cuộc sống của chúng ta có lẽ luôn ngập tràn bao rắc rối, lo toan, thất vọng và những điều bất cập. Thành thật mà nói, chúng ta mất hầu hết thời gian để tập trung và băn khoăn về những dây đàn bị đứt đoạn, dở dang, và những điều bất chợt – tất cả đều không thể đổi thay được.
Phải chăng bạn vẫn đang buồn đau vì những cung đàn bị đứt đoạn trong đời?
Có phải chỉ với dây đàn còn lại mà bạn sẽ chơi lạc điệu không? Nếu đúng thế, liệu tôi có thể khuyên bạn đừng nản lòng, cứ tiếp tục và bắt đầu chơi lại chỉ với một dây đàn.
Hãy để nó ngân lên một giai điệu ngọt ngào mà cả thế giới khát khao với đầy ngẫu hứng. Bạn có thể làm được nếu bạn muốn.

9. Thiền sư và con vẹt

Thiền sư Ishu Sato có nuôi một con vẹt tên là Zun. Nhưng nó chỉ có khả năng lặp lại tiếng sau cùng trong câu nói.
Thiền sư Sato nói: “Mô Phật”.
Con vẹt Zun nói: “Phật!”
Thiền sư nói: “Sống chết”.
Con vẹt nói: “Chết!”
Thiền sư nói: “Nghe không?”
Con vẹt nói: “Không!”
Thiền sư nói một tràng về lý thuyết nhà Phật: “Tánh không. Tâm không. Trí không. Chân không. Tịnh không. Hoàn không. Huyền không. Thinh không.”
Con vẹt nói: “Không, không, không, không…”
Bỗng dưng hôm sau, con vẹt mất khả năng nghe và nói. Nó đậu trên nhánh Bồ Đề trong tu viện. Mắt lim dim và dường như trong nó hoàn toàn vắng lặng.
Thiền sư nhìn con vẹt thân yêu, dáng vẻ buồn buồn và nói: “Không biết bây giờ ta và nó, ai là người an lạc và gần Phật hơn ai?!”
Người thị giả chắp tay thưa: “Bạch sư ông, con Zun nói theo như vẹt còn ngài thì nói bằng trí tuệ cao vời, làm sao mà so sánh được”.
Thiền sư Sato trả lời: “Đạo Phật không phải là nói hay nghĩ bàn mà thực sự đang sống. Sống trong vùng năng lượng lành để thu nhiễm tinh túy của môi trường sinh khởi. Kỳ dư tất cả chỉ là phương tiện. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”.
Người thị giả mỉm cười: “Có vẻ như Zun đắc đạo mà chúng ta thì đang tu…”.
Thiền sư cũng mỉm cười im lặng.

 

10. Nhà sư và cô lái đò

Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người. Sau hết đến nhà sư. Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
Nhà sư ngạc nhiên hỏi vì sao?
Cô lái mỉm cười:
– Vì thầy nhìn em…
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba. Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái cười bảo:
– Lần này thầy nhìn em dưới nước.
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
Lần khác nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.
Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần. Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái đáp:
– Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và lên bờ.
Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò.
Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần này phải trả bao nhiêu?
Cô lái đáp:
– Em xin đưa thầy qua sông, không thu tiền.
Thiền sư hỏi:
– Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:
– Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa. Do vậy em xin đưa thầy qua sông mà thôi.
Quả thật cái tâm luyến ái bên trong của con người mới là vấn đề cần phải giải quyết chứ không phải là dáng vẻ bên ngoài. Phần lớn chúng ta chỉ chú ý dáng vẻ bên ngoài nhưng ít ai chú ý đến cái tâm sâu thẳm bên trong. Dù thân xa lánh thế tục nhưng tâm còn nhớ nghĩ thì cũng chưa phải là giải thoát. Mắt tuy nhắm nhưng tâm còn nghĩ về, thì sóng ngầm cuộn xoáy tâm can còn dữ dội hơn.
Câu chuyện giữa nhà sư và cô lái đò đối đáp mỗi lần qua sông thể hiện cho một quá trình tu tập và chuyển hóa tư tưởng. Diễn biến đó cũng là quá trình tâm lý chuyển hóa thành tâm linh. Sau cùng là sự đạt đạo cao nhất của nhà sư: nhìn thẳng vào thực tại mà không hề có tư tưởng dính mắc, suy nghĩ, luyến ái. Còn các lần trước hết dính mắc bằng mắt thì đến dính mắc bằng tâm. Ở đời hễ còn dính mắc thì còn phải khổ lụy.
Nhà sư trả tiền cho cô lái đò cũng cho thấy rằng hễ tâm ta còn tạo nghiệp dính mắc thì sẽ có cái giá phải trả cho chính nó. Đó là triết lý sống dành cho tất cả chúng ta

 

11. Ba đơn thuốc cho tâm hồn

Có một tỷ phú sống trong căn biệt thư xa hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.
Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo”.
Vị tỷ phú về nhà, trong lòng phấp phỏng hy vọng. Ông lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc: “Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy 21 ngày.” Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn thân thể ông. Vì trước đây công việc bận rộn nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi. Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim ông bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như bây giờ.
Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng xuống biển, liên tục như vậy trong 21 ngày”. Trong lòng ông đầy rẫy những băn khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi mua tôm cá rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc động.
Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba: “Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy không hài lòng lên bãi cát”. Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi lại viết, và lại cuốn đi… ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả. Khi về nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.
Thì ra con người ta chỉ cần học được 3 điều trên thì sẽ vui vẻ hạnh phúc:
Thứ nhất: Nghỉ ngơi
Phật giáo cho rằng, trong xã hội này có hai loại người. Một là quá tham lam, mong muốn và theo đuổi sự thành công, mong muốn kiếm tiền, ham muốn sao cho mình không ngừng vươn xa hơn nữa. Còn loại người thứ hai sống không có mục đích, không có chí tiến thủ.
Nhưng chúng ta cần nhận thức rõ rằng, có người mới được ít đã thấy đủ; có người biết đủ và cảm thấy vui vẻ, đây là hai dạng người không giống nhau. Người được ít mà thấy đủ chính là người chỉ cần được chút ít đã xem là đủ; người biết đủ cảm thấy vui vẻ chính là người có nhiều cũng cảm thấy đủ, có ít cũng cảm thấy đủ, có được nhiều thì càng tốt, có được ít cũng không sao, họ không để mình cảm thấy đau khổ, không làm tổn hại đến người khác, đó chính là biết đủ sẽ cảm thấy vui vẻ – tri túc.
Nếu một người lao đầu vào kiếm tiền, không chừa thủ đoạn nào để theo đuổi thành công và tài phúc mà không biết dừng nghỉ sẽ có ngày cảm thấy vô cùng mỏi mệt. Theo đuổi những chân trời viễn mộng khiến ta rất đau khổ, rất căng thẳng, bởi vì khi đã giành được nó ta lại sợ sẽ mất đi, sau khi mất đi thì lại muốn giành được nó, cũng gần giống như việc đánh bạc, mong muốn tất cả những đồng tiền ở túi kẻ khác là tiền của mình, bị thua lại mong thắng, thắng được rồi lại muốn thắng nữa, không bao giờ biết thỏa mãn.
Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lý. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.
Thứ hai: Cho đi
Trong cuộc sống này, những gì ta cho đi bằng tình người mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không phải là sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, nếu ta biết cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác thì đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc bởi trong ta không có sự toan tính.
Khi cho đi mà chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào thì chính ngay khi ấy chúng ta đã nuôi dưỡng được lòng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự tính toán thì sự cho ấy mới là cao thượng nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh phúc.
Thứ ba: Buông xuống
Nếu như con người biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật thì sẽ tự tìm thấy cho mình niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn.
Bởi khi biết buông xả thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của mạn nghi ác kiến để rồi nhìn thấy niềm vui xung quanh ta. Có buông xả được thì lòng ta mới rộng mở, ai nói gì không vừa ý cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm điều gì xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn thì chỉ một vài phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời mình được an vui.
Tham lam là một liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ những vật chất xa hoa… Nếu dục vọng không có điểm dừng thì con người vĩnh viễn không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cũng không bao giờ tìm kiếm được niềm vui. Hãy trân trọng những gì bạn đang có, bạn sẽ thấy rằng bản thân mình là người giàu có nhất trên cõi đời này.

 

 

12. Không thể xa rời đạo dù chỉ trong tích tắc

Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh.
Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.
Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện.
Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”
Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời, tới Phật không?”
Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật, Trời.”
Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời, nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách, tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng, tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.

 

13. Chư thiên vấn Phật

Một thiên nhân đến với Phật trong hóa thân một người Bà La Môn, với vẻ mặt rạng rỡ và bộ trang phục trắng như tuyết. Vị thiên nhân hỏi những câu mà Ðức Phật trả lời sau đây.
Thiên nhân hỏi:
- Thanh kiếm nào sắc bén nhất?
- Chất độc nào tàn hại nhất?
- Ngọn lửa nào dữ dội nhất?
- Bóng đêm nào đen tối nhất?

Ðức Phật trả lời:
- Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm sắc bén nhất,
- Dục vọng là chất độc tàn hại nhất,
- Ðam mê là ngọn lửa dữ dội nhất,
- Vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
Vị thiên nhân lại hỏi:
- Ai là người lợi lạc nhiều nhất?
– Ai là người chịu thiệt thòi nhất?
– Áo giáp nào không thể bị xuyên thủng?
– Vũ khí nào lợi hại nhất?

Ðức Phật trả lời:
– Người lợi lạc nhiều nhất là người đã cho đi nhiều, mà không thấy đã cho.
- Kẻ chịu thiệt thòi nhất là kẻ chỉ biết nhận một cách tham lam không chút biết ơn.
– Nhẫn nhục là áo giáp không xuyên thủng được, và
- Trí tuệ là vũ khí lợi hại nhất.
Vị Thiên nhân hỏi:
– Ai là kẻ trộm nguy hiểm nhất?
- Cái gì là kho tàng quý báu nhất?
– Ai đã thành công trong việc chiếm đoạt bằng vũ lực không chỉ trên thế giới này, mà còn trên thiên giới?
- Ðâu là nơi an toàn nhất để kho báu?

Ðức Phật trả lời:
– Những tư tưởng xấu xa là kẻ trộm nguy hiểm nhất.
- Ðức hạnh là kho tàng quý báu nhất.
- Tâm thức con người chiếm đoạt mọi sự không chỉ trên thế giới này, mà còn trên thiên giới.
- Đất Vô Sanh là nơi an toàn nhất để kho báu.
Thiên nhân hỏi:
– Cái gì là hấp dẫn?
- Cái gì là ghê tởm?
- Cái đau nào thống thiết nhất?
- Cái vui nào lớn nhất?

Ðức Phật trả lời:
– Thiện là hấp dẫn,
- Ác là ghê tởm;
- Một lương tâm bị dầy vò là nỗi đau thống thiết nhất,
- Sự giải thoát là cái vui lớn nhất.
Thiên nhân hỏi:
- Cái gì gây ra sự tàn phá trên thế giới?
- Cái gì làm tình bạn tan vỡ?
- Cơn sốt nào mãnh liệt nhất?
- Ai là vị thầy thuốc giỏi nhất?

Ðức Phật trả lời:
– Sự tăm tối, vô minh gây ra sự tàn phá trên thế giới.
– Sự ganh tị và ích kỷ làm tình bạn tan vỡ.
- Hận thù là cơn sốt mãnh liệt nhất, và
- Pháp vương là vị thầy thuốc giỏi nhất.
Vị thiên nhân lại hỏi:
- Bây giờ con chỉ còn một thắc mắc, xin Ðức Thế Tôn giải đáp cho:
Cái gì mà không bị lửa đốt cháy, không bị nước làm mòn, không bị gió làm đổ, mà lại có thể cải cách cả thế giới?

Ðức Thế Tôn trả lời:
Phước đức. Không có lửa nào, nước nào, gió nào có thể hủy diệt được phước đức của một việc thiện, và những phước đức đó cải cách cả thế giới.

 

14. Giá trị của một câu nói dịu dàng

Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẩn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẩn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.
Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẩn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige, nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.
Một hôm, Jim thấy cô gái đang đi phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.
– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt – Cô gái cười và xoa đầu Jim.
Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.
Jim huýt sáo gọi Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng…
Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt”. Jim cười một mình, rồi cậu gọi: “Đến đây Tige”. Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói: “Cảm ơn mày! Mày thật là tốt”.
Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẫy lia lịa. “Đến con chó cũng thích nghe lời nói dịu dàng”. – Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: Cảm giác tự trọng.
Từ khoảnh khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói dịu dàng.
Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy, chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế”.

15. Nhìn người

Có một giai thoại về đại học Stanford, “Một câu chuyện thật thú vị”, nội dung như sau:
Một phụ nữ trong bộ trang phục áo bằng vải lanh kẻ sọc và chồng mình trong bộ comple giản dị đã mòn xơ cả chỉ, xuống ga tàu ở thành phố Boston và rụt rè bước đi không hẹn trước tới văn phòng ở phía ngoài của đại học Harvard. Trong chốc lát cô thư ký có thể nói rằng những người ở nông thôn lạc hậu về văn hóa như thế không có việc gì phải bước chân vào đại học Harvard thậm chí còn không xứng đáng được vào đại học Cambridge.
Cô thư ký mặt mày cau có. Người đàn ông nói nhẹ nhàng:
– Chúng tôi muốn gặp thầy hiệu trưởng.
Cô thư ký gắt gỏng lên:
– Ông ấy bận rộn cả ngày.
Người phụ nữ trả lời:
– Chúng tôi sẽ đợi.
Suốt nhiều giờ trôi qua, cô thư ký không thèm để ý đến họ, trong lòng hy vọng rằng hai người rốt cuộc sẽ nản lòng mà bỏ đi.
Nhưng hai người vẫn không đi. Cô thư ký đã nản lòng, và cuối cùng quyết định phải quấy rầy vị hiệu trưởng, mặc dù đó là công việc thường ngày mà cô luôn luôn thấy ân hận mỗi khi làm. Cô nói với vị hiệu trưởng:
– Có thể nếu họ gặp được thầy ít phút họ sẽ đi ngay.
Vị hiệu trưởng thở dài bực tức, rồi gật đầu. Ai đó có vai trò quan trọng như ông ta thì rõ ràng là không có thời gian để tiếp họ, thế nhưng ông ghét cay ghét đắng chiếc áo vải lanh sọc và bộ comple đã sờn chỉ cứ phủ đầy bừa bãi căn phòng ở phía ngoài của ông ta.
Vị hiệu trưởng với gương mặt lạnh lùng đầy vẻ nghiêm nghị đi khệnh khạng về phía cặp vợ chồng. Người phụ nữ nói với vị hiệu trưởng:
– Chúng tôi có một đứa con trai đã từng theo học ở trường đại học Harvard một năm. Nó thực sự yêu mến ngôi trường này. Nó cảm thấy hạnh phúc khi học ở đây. Thế nhưng, cách đây một năm, nó đột nhiên bị giết chết. Và vợ chồng tôi rất muốn xây dựng một tấm bia để tưởng nhớ con trai mình ở một nơi nào đó trong khuôn viên trường.
Vị hiệu trưởng không động đậy, ông đã bị sốc. Ông nói một cách thô lỗ cộc cằn:
– Thưa bà, chúng tôi không thể dựng tượng cho mỗi người đã từng theo học ở Harvard rồi sau đó bị chết. Nếu chúng tôi làm như vậy thì ngôi trường này sẽ trông giống như một nghĩa trang!
Người phụ nữ nhanh chóng giải thích:
– Ồ, không phải như vậy. Chúng tôi không có ý định xây dựng một bức tượng. Chúng tôi nghĩ sẽ xây một tòa nhà cho nhà trường.
Vị hiệu trưởng trợn tròn con mắt. Ông liếc nhìn chiếc áo vải lanh sọc và bộ comple đã sờn chỉ rồi thốt lên:
– Một tòa nhà! Ông bà có tưởng tượng được một tòa nhà trị giá bao nhiêu không? Chúng tôi phải đầu tư hơn 7 triệu rưỡi đô la cho xưởng thiết bị vật lý ở Harvard.
Người phụ nữ im lặng một lát. Vị hiệu trưởng có vẻ hài lòng. Bây giờ thì ông có thể rời khỏi họ. Người phụ nữ quay lại phía chồng và nói nhỏ:
– Bắt đầu xây một trường đại học tất cả chỉ tốn ngần ấy thôi sao? Tại sao chúng ta không xây một trường đại học riêng?
Người chồng gật đầu đồng ý.
Khuôn mặt của vị hiệu trưởng thượt ra đầy bối rối và lúng túng. Và ông bà Leland Stanford đã bỏ đi, đến thành phố Palo Alto, bang California, nơi đó họ lập nên trường đại học mang tên mình, một đài tưởng niệm để tưởng nhớ đứa con của mình mà trường Harvard không còn quan tâm đến nữa.
Vị hiệu trưởng đã để vuột mất một cơ hội lớn để phát triển hơn nữa cho đại học Harvard, nhưng nỗi đau không phải là sự mất mát mà là sự tủi nhục trong tâm hồn. Khi vị hiệu trưởng thấy mình quá lớn lại là lúc nhận ra mình quá nhỏ, và bài học hôm nay không phải đến từ bậc quân sư, mà chỉ là từ những con người xem ra thật bình dị.
Cái gì ở trong thẳm sâu tâm hồn thì khó thấy, nhưng đó lại là điều cao quý và bền vững với thời gian. Đó là vẻ đẹp tâm hồn mà chỉ có những ai sở hữu một tâm hồn cao đẹp mới “nhìn thấy” và “hiểu được”.

16. Hạt táo

Tại một xứ nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của một người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: “Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, thành cây và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế”.
Nhà vua truyền lệnh cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn cách trồng táo.
Ðúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: “Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy của người khác, người đó mới có thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm nên tôi không thể trồng được hạt giống này”.
Nhà vua tin người tử tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: “Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác… Thần cảm thấy mình không đủ điều kiện để trồng hạt táo này”.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt, ông nghĩ bụng: “May ra quan thủ kho trong triều đình là người nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện”. Nhưng cũng giống như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc.
Không còn tìm được người nào có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nhà vua định cầm hạt giống đến cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng có lần đánh cắp một báu vật của vua cha.
Lúc bấy giờ, người tử tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: “Các Ngài là những kẻ quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng không thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ”.
Nhà vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích cho người ăn trộm.

 

17. Thiên đàng ở đâu?

Cha Gioan Tauler, một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào người hành khất:
– Chào ông, chúc ông may mắn.
Người ăn mày thản nhiên trả lời:
– Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.
– Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
– Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
– Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:
– Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
– Này ông, ông có thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây?
– Thưa Cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.
– Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?
– Ở ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, Cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
– Thế thì, ông là ai?
Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:
– Tôi là vua.
Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:
– Tâu đức vua, ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
– Vương quốc của ta ở ngay trong tâm hồn ta.

 

18. Người gác cổng

Có một câu chuyện kể về một ông già, cứ mỗi sáng, ông xách một giỏ thức ăn và một chai nước đi ngang khu phố thị kia, tới bờ sông, ngồi lại đó. Đến chiều mặt trời lặn, ông đi về. Đều đặn như thế. Anh gác cổng của một ngôi biệt thự nọ rất kinh ngạc. Một hôm anh chặn ông già lại hỏi:
– Xin nói cho tôi biết ông làm gì mà cứ sáng xách giỏ đi, chiều xách giỏ về. Tôi đã bỏ ra ba ngày, ra bờ sông xem ông làm cái chi nhưng không thấy ông làm gì cả. Ông chỉ ngồi chơi ngoài ấy, nhìn nước chảy, nhìn người qua lại, cười cợt với gió mây. Hỏi ai, ai cũng bảo ông là người rất bình thường. Vậy xin nói tôi nghe ông làm gì?
Ông già cười đáp:
– Trước khi tôi nói cho anh biết tôi làm cái chi, anh nói cho tôi biết anh làm cái gì đi!
Anh kia đáp:– Giản dị lắm, ông biết tôi ngồi nơi cổng này, tôi làm công việc của người gác cổng. Người nào đi vào tôi biết họ đi vào. Người nào đi ra tôi nhìn thấy họ đi ra. Giản dị vậy thôi!
Ông già nói:
– Ồ! Tôi cũng làm công việc giống anh.
Anh kia đáp:
– Ông nói vô lý. Ông đâu có cái cổng đặt bên ngoài toà biệt thự. Ông cũng không lãnh lương của ai, và ông ngồi cũng đâu thấy ai đi qua đi lại. Nói ông là người gác cổng thì không đúng.
– Ông hãy nghe tôi giải thích! Ông gác cổng người bên ngoài. Tôi gác cổng người bên trong. Tôi chỉ làm mỗi một việc là ngồi yên đấy, nhìn những người khách qua lại trong tâm thức của tôi. Những ngày đầu tiên, tôi thấy nhiều người qua lại quá. Này anh khách buồn, anh khách giận, anh khách ghét, thương, sầu tủi, bất an v.v.. luôn đi ngang, có khi từng đoàn người, đếm không xuể. Có điều vui là đi bao nhiêu thì cứ đi, tôi chỉ ngồi nhìn mỉm cười với những người khác đi qua ấy. Dần dần tôi phát giác càng ngày người đi càng ít. Rồi đến một lúc, dăm ba hôm mới có một người khách đến rồi đi. Người khách đó ở bên trong tôi. Ông thì ngồi gác cửa bên ngoài, tôi làm người chủ gác cửa bên trong. Việc chúng ta giống như nhau. Thế mà khác nhau vô cùng: Ông thì ra ngoài, tôi vào bên trong.

 

19. Vàng ngọc phải chăng là hạnh phúc?

Thời Phật tại thế, có một vị Quốc vương tên là Ða Vị Tả kính thờ cả 69 dòng ngoại đạo. Bỗng một ngày vua phát thiện tâm muốn bố thí rất nhiều, bao nhiêu của báu chất đấy như núi, rao rằng hễ ai đến xin đều cho bốc đi một nắm.
Vì số người đến xin đã dài ngày mà núi báu vẫn chưa suy suyển.
Ðức Phật biết Quốc vương có nhiều phước duyên về trước có thể hóa độ, liền hóa làm một vị Phạm Chí đến thăm. Vua rất mừng rỡ, làm lễ xong hỏi rằng:
– Ngài muốn cần dùng gì xin cho tôi biết? Tôi vui lòng cúng dường.
Vị Phạm Chí đáp:
– Tôi từ xa đến đây, cốt xin nhà vua ngọc báu để đổi lấy vật liệu làm nhà ở.
Vua đáp:
– Tôi rất vui lòng xin Ngài bốc lấy một nắm.
Vị Phạm Chí bốc một nắm, đi bảy bước, trở lại trả chỗ cũ.
Vua hỏi:
– Cớ sao Ngài không lấy?
– Với số báu ấy thật đủ làm nhà, nhưng khốn cho tôi về sau còn phải cưới vợ nữa, thì không đủ dùng, nên tôi không lấy.
– Thôi, Ngài lấy thêm ba nắm.
Vị Phạm Chí bốc ba nắm, đi bảy bước trở lại trả chỗ cũ.
– Sao Ngài lại thế?
– Với số báu vật ấy thật đủ cả cưới vợ, nhưng lấy gì sắm ruộng đất, đầy tớ, trâu ngựa, tôi tính không đủ, nên thôi là hơn.
– Thôi, Ngài lấy thêm bảy nắm.
Vị Phạm Chí lấy xong, đi bảy bước lại trở lại trả chỗ cũ.
– Cớ gì Ngài vẫn chưa vừa ý?
Nếu tôi có con cái phải lo cưới gả, sắm sửa, lại còn việc nhà đám kỵ, giao tiếp thân bằng, tôi tính vẫn cứ thiếu, nên không lấy.
– Tôi vui lòng cúng tất cả, Ngài lấy về dùng cho đủ!
Vị Phạm Chí bước lên núi báu rồi trở xuống không nhận.
Nhà vua rất quái lạ thưa rằng:
      Ý Ngài thế nào, tôi thật không hiểu.
      – Bản ý tôi đến xin Ngài để mưu cầu sự sống. Xong tôi xét lại mạng con người sống chẳng bao lâu, muôn vật vô thường, sáng còn tối mất, khó giữ lâu bền.
Dầu tôi được cả núi báu, vị tất đã lợi ích hoàn toàn cho bản thân. Lo toan tham muốn bao nhiêu, luống công nhọc nhằn bấy nhiêu, chẳng bằng dứt bỏ dục vọng, cầu đạo giải thoát, rèn luyện các đức tính tốt cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, đều hướng về mục đích từ bi, trí tuệ là hơn, nên tôi không lấy.
Khi đó nhà vua tỉnh ngộ, tâm ý sáng suốt cầu được nghe pháp.
Vị Phạm Chí liền nói bài kệ rằng:
Tuy được núi vàng báu
Chất cao đến trời xanh.
Thế gian nhiều như thế
Chẳng bằng thấy nguồn đạo.
Ðời không lành tưởng lành,
Ưa mà thấy như ghét
Lấy khổ dùng làm vui,
Cuồng phi bị tai hại.
Nói bài kệ xong, Ngài đã hiện Phật thân phóng hào quang sáng rực rỡ, vua và quần thần vui mừng hớn hở xin thọ ngũ giới, chứng quả Tu Ðà Hoàn.
Viên Minh
“Ðời người ngắn ngủi lắm, thoáng qua lẹ làng như bóng chớp. Không ai sống mãi mà khỏi chết, thì con người có trường thọ được đâu. Vậy nên ta diệt lòng tham lam và bố thí cho kẻ nghèo. Sự giàu sang phong phú không phải thuộc về ta mãi, mà thường thường vì nó mà ta lụy thân.”

20. Sự lạnh giá của tâm hồn

Có câu chuyện kể rằng: Sáu con người, do sự tình cờ của số phận, mắc kẹt vào cùng một cái hang rất tối và lạnh. Mỗi người còn một que củi nhỏ trong khi đống lửa chính đang lụi dần.
Người phụ nữ đầu tiên định quẳng que củi vào lửa, nhưng đột nhiên rụt tay lại. Bà vừa nhìn thấy một khuôn mặt da đen trong nhóm người da trắng.
Người thứ hai lướt qua các bộ mặt quanh đống lửa, thấy một người trong số đó không đi chung nhà thờ với ông ta. Vậy là thanh củi cũng bị thu về.
Người thứ ba trầm ngâm trong một bộ quần áo nhàu nát. Ông ta kéo áo lên tận cổ, nhìn người đối diện, nghĩ thầm: “Tại sao mình lại phải hy sinh thanh củi để sưởi ấm cho con heo béo ị giàu có kia?”.
Người đàn ông giàu lui lại một chút, nhẩm tính: “Thanh củi trong tay, phải khó nhọc lắm mới kiếm được, tại sao ta phải chia sẻ nó với tên khố rách áo ôm lười biếng đó?”.
Ánh lửa bùng lên một lần cuối, soi rõ khuôn mặt người da đen đang đanh lại, lộ ra những nét hằn thù: “Không, ta không cho phép mình dùng thanh củi nầy sưởi ấm những gã da trắng!”.
Chỉ còn lại người cuối cùng trong nhóm. Nhìn những người khác trầm ngâm trong im lặng, anh ta tự nhủ: “Mình sẽ cho thanh củi, nếu có ai đó ném phần của họ vào đống lửa trước”.
Cứ thế, đêm xuống dần. Sáu con người nhìn nhau căng thẳng, tay nắm chặt những khúc củi. Đống lửa chỉ còn than đỏ rồi lụi tắt. Sáng hôm sau khi những người cứu hộ tới nơi, cả sáu đều đã chết cóng.

 

21. Đừng quên cái chính

Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai: “Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều, sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn. Tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.
Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: Vàng bạc, châu báu, kim cương… Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “Ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính!”.
Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.
Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta:
“ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH”.
Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời. Đó là chăm chút đời sống tâm linh, cho gia đình nhỏ, cho những người thân yêu là cha mẹ, con cái, chồng vợ…, là giá trị của đạo đức làm người. Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn.

 

22. Hai cái bị của người đời

– Thưa Thầy, xin Thầy chỉ dẫn cho phương pháp tu tập.
– Quý vị muốn phương pháp tu tập với mục đích gì và tại sao lại chọn chúng tôi để đặt câu hỏi?
– Tôi thấy cuộc đời này sao mà khổ quá, như tôi đây cũng có trình độ học thức, có công ăn việc làm tốt, gia cảnh đầm ấm, nhưng vẫn thấy khổ tâm nhiều chuyện, nhiều lúc cảm thấy bất an đến độ ăn không ngon ngủ không yên, nhiều điều lo lắng, bực mình lắm! Tôi muốn được an tâm nên đì tìm phương pháp tu tập để thoát khổ.
– Trên đời này, người nào không có tâm cố chấp, không có tâm phân biệt, không mang nặng hình thức thế gian thì người đó sống đời an lạc với hạnh phúc xuất thế gian.
– Kính xin Thầy giảng rõ hơn.
– Người đời thường mang hai cái bị. Một cái trước ngực chứa đầy lỗi lầm của người khác. Một cái sau lưng chứa đầy lỗi lầm của chính bản thân. Do đó, người đời thường bực bội, bất an trước các lỗi lầm quá dễ thấy của người khác. Trái lại, với các lỗi lầm của chính bản thân, người đời thường che giấu, không muốn ai thấy, chính mình cũng không thừa nhận, không nhận ra, cho nên khó khá được, cho nên khổ dài dài. Muốn hết khổ, muốn bớt khổ, người đời nên đổi vị trí của hai cái bị nói trên. Khi nhận thấy chính bản thân cũng có quá nhiều khuyết điểm, nhược điểm, người đời chắc chắn không còn dám cất cao giọng chỉ trích nhục mạ người khác.
– Kính cảm tạ lời chỉ giáo của Thầy. Thực hay quá! Nhưng riêng tôi, tôi không muốn đổi vị trí của hai cái bị đó thì sao, thưa Thầy?
– À, quý vị không muốn đổi vị trí của hai cái bị, thì quý vị đổi nội dung của chúng cũng được mà.
– Tôi chưa hiểu rõ ý của Thầy?
– Nếu quý vị vẫn giữ vị trí của hai cái bị: Cái bị trước ngực quý vị chứa đựng toàn là ưu điểm của người khác. Cái bị sau lưng quý vị chứa đựng toàn là ưu điểm của bản thân.
– Tôi vẫn chưa tỏ tường?
– À, khi đó quý vị sẽ thấy ưu điểm của người khác quá nhiều, lắm khi vượt trội hơn mình, mình thực ra chẳng bằng nhiều người lắm. Từ đó, mình bớt đi tánh phê phán, phỉ báng người khác – hãy thu mình lại, quan sát chính bản thân, quan sát chính bản tâm, mình sẽ được bình an ngay.
– Thực là quý hoá, tôi hiểu rồi. Nhưng, thưa Thầy, sao lộn xộn và rắc rối quá vậy? Lấy kéo cắt cái đáy bị là xong ngay. Chuyện hay dở của người, của ta, cho nó rơi mất đi, đeo chi cho nặng nhọc … Quăng bỏ hai cái bị, là đơn giản nhất!
– À, như vậy quý vị đã giác ngộ rồi, Thầy còn gì để giảng dạy nữa.

23. Bảy bát nước cứu khổ

Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có một gia đình bá hộ nổi tiếng giàu có nhất vùng. Người người nể phục, nhà cao cửa rộng, đồng ruộng thì mênh mông bát ngát, thẳng cánh có bay, gia súc thì từng đàn, lúa chất đầy bồ, trong nhà không thiếu thứ gì, kẻ ăn người ở có tới chừng mấy mươi người. Cao lương mỹ vị ăn mãi không hết.
Gia đình bá hộ có hai người con, một trai một gái. Ai cũng khôi ngô tuấn tú, xinh đẹp và nết na. Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống gia đình họ, khi người con gái vì uất ức với mối tình cùng chàng thi sĩ mà quyên sinh, còn cậu con trai trong một lần đi săn trong rừng sâu, bất cẩn bị sập bẫy mà trở thành kẻ tàn phế.
Người mẹ vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Bà sống trong nỗi ám ảnh và oán hờn. Ngày ngày bà ăn chay niệm Phật cầu xin được bình an và không còn phiền muộn. Rồi một ngày kia, bà cho gọi tất cả những người dân mang nợ với gia đình bà đến và phán rằng:
– Từ xưa tới nay, gia đình ta ăn ở có trên có dưới, ai khó khăn ta đều cứu giúp, cho vay bạc và lúa gạo, sau mỗi lần thu hoạch thì gia đình các ngươi đều có trả nhưng vẫn không thể hết. Nay ta cho gọi các ngươi tới để xóa tất cả các món nợ từ trước đến nay. Dù nợ nhiều hay ít. Từ nay trở về sau, giữa gia đình ta và gia đình những nông dân này không còn bất kỳ món nợ nào.
Những người nông dân nghèo khổ vui mừng khôn xiết, tay bắt mặt mừng, có những người đã quỳ lạy cảm tạ tấm lòng của bà mà khóc nức nở, nguyện làm thân trâu ngựa để báo đáp ơn này. Nhưng bà một lòng từ chối: “Kẻ ăn người ở trong gia đình ta nay đã có đủ vì vậy ta không cần thêm nữa, các ngươi hãy về lo làm ăn và sống cuộc sống như mình mong muốn”.
Việc làm này của bà, những tưởng rằng như vậy thì trong lòng bà sẽ thấy thanh thản nhưng sao vẫn nặng trĩu một nỗi buồn.
Nhân dịp một lần vào viếng chùa, bà đã xin gặp vị Hòa thượng và bạch rằng hãy cho bà xin một bài thuốc để diệt trừ khổ đau và phiền não. Vị Hòa thượng mỉm cười hiền hậu nhìn người phụ nữ sang trọng, quý phái nhưng có khuôn mặt đượm buồn mà nói bà hãy tìm đến bảy gia đình chưa bao giờ biết khổ, xin mỗi gia đình một bát nước. Với bảy bát nước đặc biệt này, tôi sẽ nấu thành một loại thuốc giải cứu những sầu muộn trong lòng bà.
Ngay sau đó, bà lên đường tới thăm gia đình thứ nhất mà bà quen biết bấy lâu nay, bà nghĩ rằng ắt hẳn gia đình này đang hạnh phúc và bà có thể xin được một bát nước. Quả là éo le, sau khi nghe bà trình bày, chủ nhà nhìn bà với ánh mắt ngấn lệ, rằng bà đã đến không đúng nhà và tìm không đúng người. Lúc này, người chủ nhà bắt đầu kể về câu chuyện gia đình, họ đã sống những ngày đau khổ, bất hạnh ra sao, con cái khiến họ mệt mỏi và buồn phiền như thế nào v.v… Nghe xong, bà lại nói những lời động viên, an ủi, vỗ về yêu thương trước khi bà tới thăm gia đình khác.
Cả ngày hôm ấy, bà không xin được một bát nước nào. Nước là thứ đi đâu cũng có thể lấy, dễ tìm nhưng bà không thể xin được. Gia đình nào cũng có nỗi sầu khổ riêng, không ai giống ai và tất cả những điều ấy khiến bà chạnh lòng. Như một phản xạ rất tự nhiên, của một người phụ nữ đã trải qua những mất mát những đau thương trong cuộc sống, bà đều nói lời khích lệ tinh thần, hay đơn giản chỉ là lắng nghe họ tâm sự đề thấu hiểu những gì họ đã trải qua bằng tất cả tình yêu thương vốn có.
Suốt những tháng ngày sau đó, bà kiên nhẫn đi xin, nhưng cũng không tìm thấy gia đình nào hạnh phúc thật sự như bà vẫn thấy. Nơi nào cũng chất chứa nỗi niềm khổ đau và hờn tủi. Bà luôn bận tâm suy nghĩ làm thế nào để an ủi, giúp mọi người thoát khỏi phiền não, xoa dịu đau thương, và bà đã quên đi đau khổ của chính mình.
Giờ đây hơn bao giờ hết, bà thấy lòng mình thật thanh thản, nhẹ nhàng. Khi ta cho đi cũng là khi ta nhận lại nhiều hơn thế, nỗi buồn sẽ vơi đi khi ta cởi mở lòng mình, đón nhận lời sẻ chia, lời thân thiện từ những người chung quanh.
Sẽ không có bất kỳ loại thuốc nào có thể “chữa lành” những phiền muộn trong mỗi thân thể con người. Sự từng trải, lòng khoan dung, tình yêu thương của một người đàn bà từng làm vợ, làm mẹ của những đứa con, đã giúp bà nhận ra rất nhiều thứ xung quanh cuộc sống này. Điều mà từ trước tới giờ bà chưa một lần được biết và thấu hiểu. Nỗi đau mà bà đang chịu đựng rất nhỏ so với những người khác, phải chăng đó là một điều hạnh phúc?
Đôi khi trong cuộc sống, có những thời điểm mà tất cả mọi thứ chống lại bạn, đến nỗi bạn cảm tưởng rằng mình không thể chịu đựng hơn được nữa, nhưng hãy cố gắng đừng buông xuôi và bỏ cuộc, vì sớm muộn gì rồi mọi thứ cũng sẽ qua đi. Chính nụ cười của bạn mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh, và tất nhiên nó cũng mang lại hạnh phúc cho chính bản thân bạn nữa. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng đến phía sau những nỗi cô đơn dù không thể diễn tả thành lời

24. Có tàn nhẫn quá không?

Thiền sư kể cho các đệ tử của mình nghe một câu chuyện:
“Ngày xưa, có một người làm công việc thu thuế, nhà rất giàu. Hắn ta rất độc ác. Người hắn lùn tịt, béo quay. Hắn luôn tìm đủ mọi cách để lấy được nhiều tiền bạc từ những người nông dân đến nộp thuế cho hắn.
Một hôm có một bác nông dân dến xin khất hắn sang lần khác nộp tiền vì trong nhà bác không còn đến một hột gạo mà ăn. Bác năn nỉ đến gẫy lưỡi hắn mới chấp nhận. Bác nông dân ra về nhưng vô ý đánh rơi một đồng tiền vàng, nhiều gấp bao nhiêu lần số tiền bác phải nộp thuế. Hắn nhìn thấy bèn lấy chân dẫm lên và tự nhủ: “Cho mày chết, có tiền không chịu nộp thì ông lấy hết”.
Bác nông dân ra khỏi cửa thấy mất tiền liền quay lại hỏi. Hắn nói: “Mày mà cũng có tiền để rơi ở cửa quan à? Thôi xéo đi cho khuất mắt”.
Bác nông dân cố nài nỉ: “Đó là tiền người ta nhờ tôi mua thuốc, ông có nhặt được làm ơn cho tôi xin”. “Ta mà thèm sờ vào đồng tiền bẩn thỉu của nhà ngươi à? Thôi cút ngày”. Bác nông dân không biết làm thế nào đành lủi thủi ra về.
Trời lũ lụt mất ba hôm, tên thu thuế không về nhà được đành phải ở lại nơi làm việc. Khi trời quang mây tạnh, hắn quay về nhà và thấy vợ hốc hác, đầu bù tóc rối. Nhà cửa lung tung, lộn xộn. Hắn rất ngạc nhiên và hỏi vợ: “Con đâu, mình?”. Vợ hắn trả lời: “Con chết rồi”. Hắn hét lên: “Chết rồi, tại sao nó chết, ôi đứa con trai bé bỏng yêu quý của ta, tại sao nó chết?”.
Vợ hắn đau khổ trả lời: “Trước khi bão lũ, con mình bị ốm, em đã nhờ bác hàng xóm đi mua thuốc hộ. Em biết bác ấy không ưa anh nên dặn với vợ bác ấy đừng bảo là em nhờ. Nhưng không hiểu sao, bác ấy bảo rằng, bác ấy đánh mất tiền ở chỗ làm việc của anh. Sau đó bão lũ quá, em không thể mua thuốc cho con, nó ốm nặng quá và đã chết.”
Hắn đứng như trời trồng, mặt xanh mét không nói được câu nào…”
Các đệ tử nhao nhao :
Đáng đời, đồ cái thằng độc ác!
– Cho mày chết, tham cho lắm vào!
Riêng một một đệ tử trẻ tuổi ngồi suy tư rồi quay sang thì thầm với bạn: “Tội nghiệp thằng bé quá. Nó còn quá nhỏ để gánh chịu việc làm sai lầm của bố nó. Tại sao người ta lại bắt nó chết như vậy? Có tàn nhẫn quá không hay đó quả thật chỉ là một sự tình cờ?”.

25. Bài học từ Socrates (101 Truyện thiền )

26. Bao nhiêu giày mới đủ?

Có một hòa thượng quyết định sang Tây phương lấy kinh, liền bái biệt sư phụ.
“Con dự định khi nào sẽ khởi hành?”, sư phụ hỏi.
“Tuần sau, thưa thầy”, vị hòa thượng cung kính trả lời.
Sư phụ lại hỏi: “Tại sao lại là tuần sau?”
“Bởi vì đường sá xa xôi, vậy nên con đã nhờ người ta làm mấy đôi giày cỏ, tuần tới sau khi giao hàng rồi, con sẽ khởi hành ngay”.
Sư phụ cúi đầu trầm ngâm một lúc, nói: “Ừm, suy nghĩ của con thật là chu đáo. Không bằng như vậy đi, cũng không cần nhờ người ta làm giày cỏ gì nữa cả, ta sẽ xin các tín chúng quyên góp là được rồi, như vậy sẽ nhanh hơn”. Vị hòa thượng cảm thấy lời kiến nghị của sư phụ quả thật là rất hay, liền nhận lời ngay.
Chỉ là không biết sư phụ đã nói với bao nhiêu người, hôm đó lại có đến mấy chục vị tín chúng mang giày cỏ đến tặng, từng đôi từng đôi giày cỏ chất đầy một góc nhỏ thiền phòng.
Sáng sớm hôm sau, một tín chúng mang cây dù đến, tỏ ý muốn tặng cho hòa thượng. Hòa thượng không hiểu tại sao, hỏi: “Dám hỏi thí chủ, sao ông lại muốn tặng dù?”.
“Sư phụ của ngài nói rằng ngài sắp đi xa, trên đường e rằng ngài sẽ gặp phải mưa to, vì vậy ông đã hỏi tôi có thể tặng dù cho ngài không. Tôi vô cùng kính phục quyết tâm của ngài, liền nhận lời ngay”. Vị hòa thượng thu nhận cây dù, trong lòng vô cùng cảm động trước sự chu đáo của sư phụ.
Tuy nhiên, hôm nay không chỉ một người mang dù đến mà là mười người, hai mươi người,… Đến buổi tối, trong thiền phòng của ông rốt cuộc đã chất đến gần năm chục cây dù.
Sau buổi tối, sư phụ bước vào thiền phòng của ông: “Đã chuẩn bị thế nào rồi? Giày cỏ và ô dù đã đủ dùng chưa?”.
“Đủ rồi, đủ rồi, thầy ạ”.
Vị hòa thượng chỉ về số giày cỏ và ô dù ở trong phòng, đã được chất thành đống như một ngọn núi nhỏ, nói: “Nhiều quá rồi, con không thể mang theo tất cả để khởi hành được”.
“Như vậy sao được?”, sư phụ không đồng ý mà nói rằng: “Trời có giống bão không đoán trước được, ai có thể biết được rằng con sẽ đi bao nhiêu dặm đường, trải bao nhiêu mưa gió đây? Lỡ như giày cỏ đi rách hết rồi, dù cũng không còn nữa, lại phải làm thế nào đây? Vẫn là hãy mang theo nhiều một chút, như vậy thỏa đáng hơn”.
“Nhưng mà…”
“Đúng rồi!”, sư phụ lại nói: “Con trên đường đi, nhất định sẽ gặp không ít những con sông con suối khác nữa, bắt đầu từ ngày mai, thầy xin tín chúng quyên góp thuyền bè, con cũng mang toàn bộ đi theo luôn”.
Vị hòa thượng lúc này mới hiểu được dụng tâm của sư phụ, anh quỳ xuống đất, cung kính nói: “Sư phụ, con đã minh bạch rồi! Đệ tử sẽ khởi hành ngay bây giờ, cái gì cũng không mang theo cả”.
Bình
Điều sư phụ muốn nói với tiểu hòa thượng chính là hành trình về trời tây này có thành công hay không, điều quan trọng không phải là những vật ngoài thân có được trang bị đầy đủ hay không, mà là có “quyết tâm” vững chắc hay không.
Mang theo nhiều hành lý quá, gánh vác nặng nề, chắc chắn là không có cách nào để đi xa được. Hành trình thật sự chính là như vậy, hành trình của cuộc đời cũng là như thế! Khi gánh nặng trong tâm chúng ta quá nặng nề, có quá nhiều thứ “không bỏ được”, nó sẽ khiến chúng ta không cách nào cất những bước chân nhẹ nhàng thoải mái.
Buông bỏ những phiền não không cần thiết, chỉ mang theo một trái tim kiên định đi về phía trước, bạn sẽ đạt đến mục tiêu mau chóng hơn.

27. Cái tâm của con người

Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này. Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.
Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.
– Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là người nhà quê! – Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng bĩm môi đánh thượt một cái và nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình.
– Xin chào… xin…
Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi”
Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vờ ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản.
“Mình đâu phải là tên ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ?” – Người phụ nữ xót xa nghĩ.
Chị ta lại đi qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói.
– Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không?
Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:
– Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ?
Người phụ nữ gật đầu.
– Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không?
Sau khi nghe xong người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ.
– Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.
Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.
Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói:
– Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.
– Thế còn cậu thì sao? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
– Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống tiền lẻ nào!
Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra khỏi tàu và đến quầy bán vé.
Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi:
– Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à?
Chàng trai lắc đầu:
– Không, chị ạ.
Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói:
– Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát.
Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai:
– Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.
Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng. Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.
Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó.
Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có cái ‘tâm’. Có cái ‘tâm’ trong cuộc sống thì mới có cái ‘tâm’ trong công việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi cần”.
Các bạn thấy đấy, một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.

 

28. Bức tranh của Goya

Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, hoạ sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha. Bức tranh mang tên “Fight with Cudgels” (Đánh nhau bằng gậy).
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta không đoán được trời sắp giông bão hay sáng rực nữa.
Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều nhao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh bảo tồn sinh mạng”. Sinh viên khác: “Bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh”. Sinh viên khác nữa lại phân tích: “Bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy”.
Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa. Cả lớp im lặng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: “Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng nó có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: Hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết”.
Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: “Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ, họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh của nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.
Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này”.

29. Bàn bạc với tâm mình

Một hôm, một đệ tử đem đến cho vị thiền sư già, người đã sáng lập viện và dạy dỗ cho nhiều thế hệ thiền sinh một tin buồn như sau: “Thưa sư phụ, đại sư huynh, người môn sinh xuất sắc sẽ kế tục Người, đã lặng lẽ bỏ đi vào đêm qua”.
Nghe xong, vị thiền sư già bình thản trở lại với công việc đang làm. Ông chẳng để lộ mảy may xúc động hay buồn phiền.
Người đệ tử lòng chưa hết bang hoàng, liền hỏi:
“Thưa sư phụ, sư huynh là người đệ tử đầu tiên của Người. Sư huynh lại đức độ hơn người, có thể gánh vác trọng trách mai này. Nay sư huynh bất thần bỏ đi, sư phụ không thấy mất mát sao?”
Vị thiền sư già ôn tồn giải thích:
“Sư huynh của con chỉ dời chỗ ở chứ không bị tiêu diệt, sao gọi là mất mát?”
Người đệ tử vẫn thắc mắc:
“Nhưng thưa sư phụ, sư huynh ra đi mà không có lý do chính đáng, nếu mọi người biết được, đệ tử e rằng thiên hạ sẽ thị phi đàm tiếu nhiều điều gây tổn hại đến thanh danh của sư phụ, sư phụ nghĩ sao?”
“Thanh danh thì cũng là hư danh. Người ta sanh ra thanh danh rồi thì người ta cũng có thể đổi nó thành xú danh. Sao con lại quan tâm?”
Người đệ tử vẫn chưa hết lo âu:
“Vậy thì sư phụ không lo cho sư huynh sao? Liệu sư huynh có an lạc khi rời bỏ nơi này chăng?”
Vị thiền sư ung dung trả lời:
“Sư huynh của con phải thấy rằng tâm không còn an lạc khi ở đây thì mới ra đi. Ta chẳng hề lo lắng. Nơi nào an lạc ắt đấy là nhà con ạ”.
Người đệ tử vẫn chưa hết ấm ức:
“Thưa sư phụ, xin cho con hỏi một câu cuối: Sư phụ không thấy một chút khó chịu nào hết khi sư huynh của con làm một quyết định quan trọng như thế mà không hề bàn bạc với sư phụ sao?”
Vị thiền sư già cười một cách hiền hòa:
“Con ơi, trên đời này chẳng có gì quan trọng hơn sự an lạc của mỗi chúng sanh. Con nên nhớ rằng, con phải tự đi tìm an lạc cho chính mình. Ta hiểu và thông cảm với sư huynh của con. Trong cuộc đời của mỗi con người, có những quyết định mà ta không thể nào bàn bạc với ai khác ngoại trừ với chính cái tâm của mình”.

30. Một người bình thường là đủ rồi

Một bà cụ nặng nhọc lê bước trên phố. Bà cụ đi chân đất. Trên tuyết.
Một đôi trẻ, tay xách lỉnh kỉnh những túi to – vừa nói chuyện vừa cười đến nỗi không để ý thấy bà cụ. Một người mẹ dẫn hai đứa con nhỏ tới nhà bà ngoại. Họ quá vội nên cũng không để ý. Một viên chức ôm một chồng sách đi qua, mãi suy nghĩ nên cũng không để ý. Bà cụ dùng cả hai tay để khép vạt áo đứt hết khuy, rồi dừng lại, nép vào một góc ở bến xe buýt. Một quý ông ăn mặc lịch lãm cũng đứng đợi xe buýt. Ông cố đứng tránh xa bà cụ một chút. Tất nhiên là bà già rồi, chẳng làm hại được ai, nhưng nhỡ bà ấy bị bệnh lây nhiễm thì sao. Một cô gái cũng đứng đợi xe buýt. Cô liên tục liếc xuống chân bà cụ, nhưng cũng không nói gì.
Xe buýt tới và bà cụ nặng nhọc bước lên xe. Bà ngồi trên chiếc ghế ngay sau người lái xe. Một phụ nữ mặc áo choàng lông thì thầm:
– Bà cụ này chắc phải có con cái trưởng thành rồi chứ! Con cái của bà ấy nên cảm thấy xấu hổ mới phải.
Người phụ nữ này bỗng cảm thấy mình quả là người tốt, vì mình luôn quan tâm đầy đủ đến mẹ mình. Một doanh nhân hào phóng bỗng cảm thấy ái ngại. Ông lấy trong ví ra một tờ mười đô la, ấn vào bàn tay nhăn nheo của bà cụ, nói giọng hãnh diện:
– Đây, biếu bà. Bà nhớ mua đôi giày mà đi.
Rồi ông ta quay về chỗ ngồi, cảm thấy hài lòng và tự hào về mình.
Xe buýt dừng lại khi tới bến và một vài người khách bước lên. Trong số đó có một cậu bé khoảng 16, 17 tuổi. Cậu ta mặc chiếc áo khoác to màu xanh và đeo balô cũng to, đang nghe headphone. Cậu trả tiền xe buýt và ngồi ngay vào ghế ngang hàng với bà cụ. Rồi cậu nhìn thấy bà cụ đi chân đất. Cậu tắt nhạc, cảm thấy lạnh người. Cậu nhìn từ chân bà cụ sang chân mình. Cậu đang đi một đôi giày cổ lông dành cho trời tuyết. Đôi giày mới tinh và rất ấm chân. Cậu phải tiết kiệm tiền tiêu vặt khá lâu mới mua được. Bạn bè đứa nào cũng khen.
Nhưng cậu cúi xuống và bắt đầu cởi giày, cởi tất, rồi ngồi xuống sàn xe, bên cạnh bà cụ. Cậu nói:
– Bà, cháu có giày đây này!
Một cách cẩn thận, cậu ta nhấc bàn chân lạnh cóng, co quắp của bà cụ lên, đi tất và đi giày vào chân bà. Bà cụ sững người, chỉ khe khẽ gật đầu và nói lời cảm ơn rất nhỏ. Lúc đó, xe buýt dừng. Cậu thanh niên chào bà cụ và xuống xe. Đi chân đất trên tuyết. Những người khách trên xe thò đầu ra cửa sổ, nhìn đôi chân cậu thanh niên, xôn xao bình phẩm.
– Cậu ta làm sao thế nhỉ?- Một người hỏi.
– Một thiên thần chăng? Hay là con của Chúa?
Nhưng một cậu bé quay sang nói với mẹ:
– Không phải đâu mẹ ạ! Con đã nhìn rõ rồi mà. Anh ấy là người bình thường thôi.
Và việc làm đó, thật sự, cũng chỉ cần một người bình thường. Chẳng cần phải là một thế lực cao siêu nào, chúng ta đều có thể là thiên thần của một ai đó.

31. Câu chuyện về một cốc sữa

Có một cậu bé nghèo hàng ngày thường đi đến từng nhà gõ cửa để bán báo trên đường tới trường học. Một hôm, chiếc dạ dày lép xẹp của cậu đột nhiên dở chứng. Cậu bé thò tay vào túi, chỉ còn lại duy nhất một đôla cuối cùng. Cậu định dành dụm 1 đôla để mua thức ăn cho mấy đứa em ở nhà. Tần ngần một lát, cậu bé quyết định đi đến một ngôi nhà phía trước để xin chút đồ ăn. Thế nhưng cậu hầu như mất hết can đảm khi mở cửa cho cậu là một cô bé xinh đẹp, dễ thương. Bối rối và ngập ngừng, nên thay vì hỏi xin thức ăn, cậu bé chỉ dám xin một cốc nước.
Cô bé trông thấy dáng vẻ nghèo khổ và đói lả đi của cậu, nên thay vì mang nước cô đã đem lại cho cậu bé nghèo một cốc sữa lớn. Cậu bé uống một cách ngon lành và chậm rãi. Sau đó, cậu mới rụt rè hỏi cô gái: “Tôi nợ cô bao nhiêu?”
“Bạn không nợ tôi cái gì cả”, cô gái trả lời: “Mẹ đã dạy chúng tôi là không bao giờ được chấp nhận trả cho một lòng tốt”.
Cậu bé cảm động nói: “Từ sâu thẳm trái tim, tôi thành thực biết ơn cô”.
Sau đó, Howard Kelly – tên của cậu bé, rời khỏi ngôi nhà cô bé tốt bụng đó, nhưng cậu không chỉ cảm nhận được sự khỏe khoắn trở lại của cơ thể, mà cậu còn có lòng tin tưởng hơn vào lòng tốt của con người. Điều đó giúp cậu mạnh mẽ hơn, không chịu khuất phục và từ bỏ số phận.
Nhiều năm sau đó, cô gái trẻ tốt bụng mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ địa phương đã cố gắng nhưng cũng không thể làm thuyên giảm bệnh. Cuối cùng họ quyết định chuyển cô gái lên bệnh viện thành phố – nơi các chuyên gia có thể chữa khỏi cho cô. Trong số các bác sĩ, bác sĩ Howard Kelly cũng được mời hội chẩn. Khi anh nghe tới cái tên địa danh nơi mà cô gái sống, có một tia sáng chợt lóe lên trong mắt anh. Ngay lập tức anh đứng bật dậy, chạy xuống đại sảnh bệnh viện và bước vào phòng cô gái. Trong chiếc áo choàng bác sĩ, anh bước tới gần giường bệnh cô gái. Và ngay lập tức anh đã nhận ra cô. Sau một thoáng, anh quay trở lại phòng hội chẩn và đề nghị được là người phụ trách ca bệnh đó, và anh sẽ làm hết sức mình để cứu sống cô gái. Kể từ hôm đó, anh luôn có một sự quan tâm đặc biết tới ca bệnh của cô gái.
Sau một thời gian chống chọi, cô bé thuyên giảm bệnh và cuối cùng khỏi hoàn toàn. Trước ngày cô gái xuất viện, bác sĩ Kelly đã yêu cầu nhân viên quầy thu ngân chuyển hóa đơn tới phòng của anh. Vị bác sĩ nhìn lên tờ hóa đơn, sau đó, anh viết lên mặt hóa đơn trước khi nó được gửi tới phòng bệnh của cô gái. Cô gái e dè mở ra đọc, và cô chắc mẩm rằng có lẽ cô sẽ phải làm việc cật lực cả đời mới trả hết hóa đơn này. Cuối cùng, cô cũng can đảm nhìn thẳng vào tờ hóa đơn, nhưng cô thật sự ngỡ ngàng khi trên phần đầu hóa đơn ghi dòng chữ:
“Hóa đơn đã được thanh toán bằng một cốc sữa”
Ký tên : Bác sĩ Howard Kelly

32. Chiếc đồng hồ bị mất

Một lần nọ, có một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không phải là một cái đồng hồ thông thường bởi nó còn có giá trị về mặt tình cảm đối với ông. Sau một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.
Nghe thấy vậy, đám trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.
Người nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: “Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ khá chân thành”. Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: “Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn khác đã từ bỏ?”.
Cậu bé đáp: “Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó”.
Sự tĩnh lặng trong tâm hồn có thể sẽ tốt hơn so với một trí não luôn hoạt động. Hãy để cho tâm trí của bạn những phút giây nghỉ ngơi, thư giãn hàng ngày. Và hãy xem, sự hiệu quả mà nó đem lại khi giúp bạn xây dựng cuộc sống hằng mong đợi của mình.

 

33. Người đàn ông trên sa mạc

Một người đàn ông bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Ông mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất kỳ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát. Đi mãi đi mãi, đến khi đôi chân ông đã sưng lên nhức nhối, thì ông thấy một căn lều cũ, rách nát, không cửa sổ. Ông nhìn quanh căn lều và thấy ở một góc tối, có một cái máy bơm nước cũ và gỉ sét. Tất cả mọi thứ trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm. Người đàn ông vội vã bước tới, vịn chặt tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có một giọt nước nào chảy ra cả.
Thất vọng, ông nhìn quanh căn lều. Lúc này, ông mới để ý thấy một cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, ông đọc được dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng cách lấy viên đá cào lên: “Hãy đổ hết nước trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy nhớ đổ nước đầy vào chiếc bình này”.
Người đàn ông bật nắp bình ra, và đúng thật, trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, người đàn ông rơi vào một tình thế bấp bênh. Nếu ông uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn ông có thể sống sót. Nhưng nếu ông đổ hết nước vào cái máy bơm cũ gỉ, có thể nó sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất – rất nhiều nước. Ông cân nhắc khả năng cả hai sự lựa chọn: nên mạo hiểm rót nước vào máy bơm để có nguồn nước trong lành, hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có còn chính xác nữa không?
Nhưng rồi cuối cùng, ông cũng quyết định rót hết nước vào cái máy bơm. Rồi ông tiếp tục nhấn mạnh cái cần máy bơm, một lần, hai lần… chẳng có gì xảy ra cả! Tuy hoảng hốt, nhưng nếu dừng lại, ông sẽ không còn một nguồn hi vọng nào nữa, nên người đàn ông kiên trì bơm lên xuống, lần nữa, lần nữa… Nước mát trong lành bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Người đàn ông vội vã hứng nước vào bình và uống.
Rồi ông hứng nước đầy bình, dành cho người nào đó không may mắn bị lạc đường như ông sẽ đến đây. Ông đậy nắp bình, rồi viết thêm một câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình: “Hãy làm theo chỉ dẫn trên. Bạn cần phải cho trước khi bạn có thể nhận”.

 

34. Ăn mày cửa Phật

Có một ông lão kéo một xe gạo nặng nề đang lê bước trên đường vừa đi vừa thở hổn hển, trông có vẻ rất mệt, bánh xe chao đảo va vào một cục đá bên đường làm cả xe gạo đổ nhào xuống hết. Ông lão cố hết sức nâng xe gạo lên nhưng trong tình thế bất lực và mệt mỏi mồ hôi nhễ nhại, trời thì nắng chang chang. Thế là ông ngồi bệt xuống đất.
Khi nhìn xung quanh, ông thấy một ngôi chùa, bên ngoài ngôi chùa là những chiếc xe ô tô đậu san sát nhau. Vẻ mặt đăm chiêu và phiền não, ông suy nghĩ và nói thầm: “Người vừa sinh ra thì đã giàu, còn kẻ làm lụng vất vả cả đời lại chẳng có gì”.
Một phật tử nghe thấy và nói: “Ông đã đến cửa Phật sao không vào thành tâm cầu nguyện, lại ngồi đây than thân trách phận? Ông có thấy chùa Phúc Lai bên kia đường không? Tôi nghe bảo chùa đó rất thiêng, chả thế mà khách thập phương cứ kéo đến ùn ùn”.
Đứng từ xa nhìn ông có vẻ ngơ ngác, một vị tăng bước tới và nói: “Thí chủ lần đầu tiên đến đây phải không?”
Ông lão: “Vâng! Thưa Thầy lần đầu con đến nơi cửa Phật nên chẳng biết cầu nguyện ra làm sao. Mong Thầy chỉ dạy”.
Vị tăng: “Thí chủ thỉnh cầu điều gì?”. Ông lão quay nhìn những người kia và nói: “Con cầu xin đức Phật ban phát sự công bằng”.
Vị tăng: “Công bằng ư?”
Ông lão: “Vâng! Thưa Thầy, con sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bần hàn không được học hành tử tế, từ bé đã phải tự mưu sinh. Lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai lưng làm lụng như trâu bò, để nuôi bầy con nheo nhóc. Cuộc đời khốn khổ cơ hàn cứ thế bám theo con dai dẳng. Trong khi có biết bao nhiêu người khác sinh ra trong một gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung lụa. Như vậy không Công Bằng! Nếu đức Phật linh thiêng xin Người hãy ban cho con một ít may mắn của những người kia.”
Vị tăng: “Như người kia ư?”
Ông lão: “Chỉ cần nhìn họ là đủ biết họ giàu sang quý phái cỡ nào rồi! Nhưng người nghèo khổ như con không thể hiểu nổi họ làm gì mà giàu sang lắm vậy?”
Vị tăng: “Cái đó ta không biết, nhưng khi tới đây họ cũng chỉ là ăn mày cả thôi!”
Ông lão: “Ăn mày ư thưa Thầy?”
Vị tăng: “Đúng. Ăn mày Cửa Phật!”
Ông lão: “Nhưng nhìn họ giàu sang quý phái có thiếu gì mà phải đi ăn mày?”
Vị tăng: “Sống trên cõi đời này mấy ai thỏa mãn với những gì mình đang có. Không tin thí chủ cứ lại gần họ xem”.
Ông lão tò mò đi tới gần mọi người, ép sát và lắng tai nghe thử họ đang nói gì.
Một anh chàng thanh niên lớn tuổi mặc áo vest, thắt cà vạt trong rất chỉnh tề và lịch sự nói: “Cầu xin đức Phật cứu giúp công ty con khỏi bị phá sản, hàng trăm gia đình công nhân đang trong chờ vào công ty, đang trông chờ vào sự chèo lái của con. Mô Phật!”
Một người Phụ nữ bên cạnh lớn tuổi khóc thút thít và nói: “Xin người rủ lòng từ bi cho con sức mạnh để chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Xin người đừng để con phải chịu những cơn đâu hành hạ, dày vò”.
Một cô gái trẻ tuổi đứng gần đó khuôn mặt có vẻ buồn rầu ủ rũ cũng nói: “Năm nay con đã gần 30 tuổi mà vẫn chưa có người yêu thương. Con vô cùng buồn tủi, con chỉ xin Ngài linh thiêng cho con chút dung mạo để con tìm được một tấm chồng. Xin Người ban phước, mô Phật!”
Ông lão nghe những lời ấy mà lòng cảm động rơi nước mắt. Ông nói lên một tiếng: “Tội nghiệp quá!” và đứng dậy bỏ đi tới chỗ vị tăng ngồi.
“Thưa Thầy họ cầu xin rất nhiều điều hóa ra họ toàn là ăn mày thật. Con cứ nghĩ trên đời này ai cũng hạnh phúc hơn con, chứ ai biết được họ cũng có nhiều nỗi khổ đến thế. Ngẫm ra con còn có nhiều điều hơn họ như sức khỏe, sự vô tư chẳng hạn”.
Vị tăng: “Đúng vậy! Cuộc đời công bằng với tất cả mọi người. An phận với thực tại và cố gắng hết sức mình để tự mình hóa giải những khó khăn trong cuộc sống. Đó mới chính là một cuộc đời hoàn mỹ!”
Ông lão nghe xong tỉnh ngộ. Tiếng chuông vẫn vang trong không gian ngày một xa dần.

 

35. Đóng cửa lại giùm

Vào một đêm nọ có một tên trộm luồn lách đột nhập một ngôi chùa định trộm đồ vật, nhưng lục tung mọi thứ mà chẳng có đồ vật nào giá trị để trộm, bắt buộc phải rút lui. Đang lúc chuẩn bị đi, thiền sư Vô Tướng ngủ ở trên giường mở miệng nói:
–   Này! Anh bạn, khi đã ra ngoài, xin thuận tay đóng cửa lại giùm nhé!
Tên trộm ngẩn người ra, liền nói:
–   Hóa ra ông lười biếng như thế, ngay cả cánh cửa cũng phải nhờ người khác đóng lại giùm, chẳng trách trong chùa của ông không có một vật nhỏ mọn nào có giá trị.
Thiền sư Vô Tướng nói:
–   Anh bạn này thật quá đáng, chẳng nhẽ già cả như ta mà mỗi ngày khổ cực kiếm tiền mua vật quý để cho anh trộm lấy sao?
Tên trộm thầm nghĩ, gặp phải tên hòa thượng này thật không còn gì để nói.
Lời bình: Thiền sư chẳng phải không có đồ vật quý mà có cả kho báu vô tận mà người khác không lấy trộm được. Người ở thế gian chỉ biết gom góp, có người vì tiền mà chết, tâm bị vật làm phiền lụy, người có nhiều tiền, liền đó kẻ trộm chẳng buông tha. Chi bằng có kho báu trí tuệ vô hạn trong bản tánh của mình, chẳng có ai trộm lấy được.

36. Tâm tịnh cõi nước tịnh

Có một vị Phật tử rất thuần thành, mỗi ngày đều hái hoa trong vườn nhà mình mang đến chùa dâng cúng Phật. Một hôm khi cô đang mang hoa tươi đến cúng Phật, tình cờ gặp thiền sư từ giảng đường đi ra. Thiền sư hoan hỷ nói:
– Con mỗi ngày đều chí thành mang hoa hương đến cúng Phật như thế, y theo lời ghi: “Người nào thường dùng hoa hương cúng Phật, đời sau sẽ được quả báo tướng mạo xinh đẹp”.
Cô Phật tử rất vui đáp:
– Đây là việc nên làm, con mỗi ngày khi đến chùa lễ Phật, tự cảm thấy trong tâm mát mẻ, giống như đã tẩy sạch hết các lỗi lầm, nhưng về đến nhà thì tâm khởi lên buồn phiền, vì gia đình chúng con ở giữa phố thị ồn ào thì làm sao giữ được tâm thuần trong sáng thanh tịnh được.
Thiền sư hỏi:
– Con dâng hoa tươi cúng Phật, chắc là con có chút hiểu biết về hoa. Bây giờ thầy hỏi con, làm thế nào để giữ gìn cho hoa thường được tươi đẹp.
Phật tử đáp:
– Phương pháp giữ cho đóa hoa tươi đẹp là mỗi ngày phải thay nước và cắt bỏ một phần dưới của thân hoa, vì phần dưới thân ngâm trong nước nên dễ bị hư thối, khi hư thối thì không hút được chất dinh dưỡng, dẫn đến hoa mau héo tàn.
Thiền sư nói:
– Việc giữ gìn tâm trong sáng thanh tịnh cũng như thế. Hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta cũng giống như nước trong bình. Chúng ta chính là hoa, chỉ có thường xuyên thanh lọc thân tâm thanh tịnh, sửa đổi tập khí và không ngừng sám hối, tự kiểm điểm, cải thiện tật xấu, khuyết điểm, mới có thể thu nhập được nhiều hạnh phúc an vui.
Phật tử nghe xong, hoan hỷ lễ tạ, nói:
– Cảm ơn thầy đã chỉ dạy. Hy vọng sau này con có cơ hội sống gần thầy, được làm người tu thiền sinh hoạt trong thiền viện của thầy, được thưởng thức tiếng chuông trống sớm khuya, yên tĩnh đọc lời kinh tiếng kệ.
Thiền sư nói:
– Con hít vào thở ra mà tâm không dính mắc chuyện đời là đọc kinh. Tim đập mạch máu động là tiếng trống. Thân thể là thiền viện. Hai tai là Bồ đề. Làm được như thế thì ở đâu cũng được an vui, cần gì phải đợi đến được sinh hoạt ở thiền viện.

 

37. “Tôi đang chờ ngài nói lời cảm ơn”

Một người đàn ông thò cổ ra khỏi cửa xe nói: “Ai có thể giúp tôi chui vào gầm xe vặn lại một con vít bị lỏng”.
Một quý phụ ngồi cạnh khẽ nói: “Việc gì anh phải cuống lên như vậy, cứ trọng thưởng đi sẽ có người làm”. Người đàn ông liền lấy ra một tờ giấy bạc trị giá 100 đồng, nói lớn: “Ai vặn giúp tôi con vít, số tiền này sẽ thuộc về người đó”.
Một cậu bé định nhấc chân, nhưng bạn cậu ta níu lại: “Lời nói của kẻ có tiền liệu có tin được không?”. Nhưng cậu bé kia vẫn bước tới và nói: “Để tôi làm!”.
Thao tác rất đơn giản, loáng một cái cậu bé đã vặn chặt được con vít. Sau khi bò ra khỏi gầm xe, cậu bé giương mắt nhìn người đàn ông, chờ đợi… Người này vừa định đưa tờ giấy bạc cho cậu thì vị quý phụ ngăn lại: “Anh định cho nó 100 đồng à? Cho nó 5 đồng là đủ lắm rồi”.
Người đàn ông nhận tiền lẻ từ tay người đàn bà rồi đưa cho cậu bé, nhưng cậu lắc đầu không nhận. Nghe tiếng cười la của đám đông, người đàn ông đưa thêm 5 đồng nữa. Nhưng cậu bé vẫn lắc đầu không nhận. Người đàn ông hơi bực tức nói: “Cậu chê ít à? Nếu chê ít thì ngay 10 đồng này cùng không cho nữa”.
– Không, tôi không chê ít. Thày giáo của tôi dạy: Giúp người không được lấy thù lao.
Người đàn ông như không hiểu hỏi: “Thế thì vì sao cậu vẫn chưa đi?”.
Cậu bé nói : “Tôi đang chờ ngài nói lời cám ơn!”.

 

38. Sức mạnh của lời nói

Một bầy ếch đi dạo trong rừng và có hai con bị rơi xuống một cái hố sâu. Tất cả các con ếch còn lại trong bầy đều bu quanh miệng hố để kéo chúng lên. Nhưng khi thấy cái hố quá sâu, cả bầy liền nói với hai con ếch rằng chúng chỉ còn nước chết mà thôi.
Hai con ếch bỏ ngoài tai những lời bình luận đó và cố hết sức nhảy lên khỏi hố. Những con ếch kia lại nói với chúng đừng nên phí sức, rằng chúng chỉ còn nước chết.
Sau cùng, một con ếch phía dưới nghe theo những gì cả bầy đã nói, nó bỏ cuộc và ngã lăn ra chết trong sự tuyệt vọng.
Con ếch còn lại tiếp tục cố gắng nhảy. Một lần nữa cả bầy xúm lại và thét lên khuyên nó hãy thôi. Nó càng nhảy mạnh hơn nữa. Cuối cùng nó nhảy được lên bờ. Cả bầy vây quanh và hỏi nó: “Anh không nghe tụi tôi nói gì hay sao?”. Thì ra con ếch này bị nặng tai. Nó tưởng cả bầy ếch đã động viên nó suốt khoảng thời gian vừa qua.
Có một sức mạnh sống và chết nơi miệng lưỡi chúng ta. Một lời động viên khích lệ cho một người đang bế tắc có thể vực người ấy dậy và giúp anh ta vượt qua khó khăn. Nhưng cũng lời nói có thể giết chết một người trong cơn tuyệt vọng. Do đó, hãy cẩn thận với những gì chúng ta nói ra. Bất kỳ người nào cũng có thể nói những lời hủy diệt để cướp đi tinh thần của những người đang ở trong hoàn cảnh khốn khó. Quý báu thay là những ai dành thì giờ để động viên và khích lệ người khác.

 

39. Câu chuyện về chữ Nhẫn

Có một nhà sư chọn tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật. Sau nhiều năm tháng nỗ lực tu tập thì sư cũng thành tựu được rất nhiều công hạnh, trụ vững như kim cương, bình an trước mọi nghịch cảnh, bị người khách ganh ghét, lăng nhục, mưu hại, sư vẫn luôn nở nụ cười trên môi thản nhiên như không.
Rất nhiều người tán thán sư và thường xuyên đến chỗ sư để đàm đào và thực tập hạnh tu này, sư luôn vui vẻ tiếp đón và chia sẻ những kinh nghiệm thực tập được cho họ.
Một hôm có một thanh niên đến tham quan chùa, anh ngưỡng mộ hạnh tu của sư nhưng vì mới tìm hiểu đạo nên không biết chuyện gì để tham vấn, nhìn quanh thấy trên tường treo tấm bảng gỗ có một chữ sư viết rất bay bướm, anh liền hỏi:
– Thưa Thầy, đây là chữ gì ạ?
Sư trả lời đầy vẻ tự hào:
– Chữ Nhẫn viết theo lối thư pháp, ta phải tập viết hàng trăm lần mới được như ý đấy con à.
Anh gật gù vẻ tán thưởng, sau khi đi lòng vòng ngó nghiêng đây đó anh đứng trước tấm bảng gỗ gãi đầu gãi tai:
– Thưa Thầy chữ gì đây ạ?
Nhà sư tươi cười trả lời:
– Ta tu hạnh nhẫn nhục nên viết chữ Nhẫn đó mà.
Một chút sau, anh lại ngắm nghía tấm bảng và hỏi:
– Thưa Thầy, thầy viết chữ gì đây ạ?
– Chữ Nhẫn!
Trước khi ra về anh lại tần ngần trước tấm bảng:
– Thưa Thầy, chữ gì đây ạ?
Nhà sư không chịu nổi nữa, nộ khí xung thiên:
– Chữ Nhẫn! Nhẫn! Nhẫn! Đồ ngu, ngu gia truyền! Có một chữ mà nãy giờ hỏi hoài, hỏi hoài! Cút ngay!!!
(Chữ Nhẫn được ghép từ hai chữ: Đao ở trên, Tâm ở dưới. Tâm, tức trái tim. Tâm không chịu yên thì Đao, tức con dao, sẽ phập xuống tức thì. Vậy đấy, tự mình mà nhẫn nhịn được thì đao kề cổ vẫn bình yên vô sự, bằng không thì tai họa sẽ giáng xuống đầu mình trước tiên.)

40. Sống tích cực – Đơn giản là ngước nhìn lên cao!

Chuyện về loài chim ó:
Nếu bạn đặt một con chim ó vào một chiếc lồng, với kích thước khoảng 2m x 2,5m, và hoàn toàn không có nóc, tức là phần trên được mở toang; thì cho dù vẫn có khả năng bay lên, nhưng con chim này sẽ hoàn toàn trở thành một… tù nhân.
Lý do là một con chim ó luôn bắt đầu bay từ mặt đất lên, với đoạn “chạy đà” khoảng 3- 4m. Không có quãng đường để chạy, thì theo thói quen, chú chim thậm chí chẳng buồn cố gắng thử bay lên, mà sẽ chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một “nhà giam” nhỏ chẳng hề có mái!
Câu chuyện về con dơi:
Một con dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi đến mức ấn tượng.
Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng, và, tất nhiên, một cách đau khổ.
Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.
Câu chuyện về loài ong nghệ:
Một con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến khi chết, trừ phi chúng ta lôi nó ra.
Nó không bao giờ nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà cứ khăng khăng cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt bên, hoặc qua… đáy cốc. Nó sẽ tìm một con đường ở nơi mà không có con đường nào tồn tại, cho đến khi nó hoàn toàn tự hủy hoại mình.
Và câu chuyện về con người…
Theo nhiều cách, chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ. Chúng ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn – hãy nhìn hướng tới phía trước.
Nhìn ngược lại có thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy nhìn lên cao, và nhìn tới phía trước, đó là cách sống lạc quan. Và tinh thần tích cực, nhiều hy vọng chính sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết các trường hợp.
Chỉ cần bạn nhìn lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi ngay trước mắt mình, Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, nói lời tới phía trước. Đó là câu trả lời cho mọi vấn đề.

41. Nhất thiết không được để mất lương tâm

Một tài xế lái xe chở hàng hóa, một hôm xe đang bon bon chạy trên đường bỗng nhiên “khực” một cái rồi dừng lại. Hỏng rồi! Anh xuống xe đến bên vệ đường vác hai hòn đá to chặn bánh sau lại rồi chui vào gầm sửa xe. Khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì xong. Anh lên xe nổ máy chuẩn bị đi tiếp.
Đúng lúc đó , một ông lão chăn bò bên cạnh đường chạy đến đập đập tay vào cửa xe, nói rất to: “Này anh lái xe, anh đánh rơi đồ kìa!”. Ông lão vừa nói vừa chỉ chỉ về phía sau xe. Anh đoán ông lão nhắc đến hai hòn đá chặn bánh sau xe mà mình vác ra lúc nãy. Anh toét miệng cười, nói do vội đi nên quên mất. Nói vậy song anh ta vẫn cố ý nhấn ga cho xe chạy.
Ông lão vừa đuổi theo vừa quát to: “Anh làm người như thế à? Làm người phải có lương tâm chứ? Anh bỏ hai hòn đá to ở trên đường để cho người ta…”
Những lời trách cứ của ông lão chăn bò bị bỏ lại cùng đám bụi phía sau xe. Anh cười thầm trong bụng: “Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân?”.
Chạy hơn trăm cây số vào thành phố, đến trạm kiểm tra của cảnh sát, anh hết sờ túi này lại nắn túi nọ, tìm mãi không thấy giấy phép lái xe đâu. Anh thừ người ra: “Giấy phép lái xe rõ ràng là để trong chiếc ví da lúc nào cũng mang trong người, vậy sao lại tìm không thấy?”. Cẩn thận nhớ lại, anh mới chắc là chiếc ví da đã bị rơi khi mình chui vào gầm xe sửa chữa. Đành phải để xe lại trạm cảnh sát, anh vội vã vẫy taxi quay lại chỗ sửa xe.
Khi quay lại chỗ sửa xe ban sáng, anh tìm khắp nơi không thấy cái ví cũng không thấy ông lão chăn bò đâu. Hai hòn đá chặn bánh xe đã được ai đó khuân vào để bên vệ đường. Trên hòn đá thấy dán mảnh giấy có mấy chữ xiêu xiêu vẹo vẹo: “Muốn lấy lại giấy tờ thì phải vác hòn đá này lên trên đồi”.
Ôi mẹ ơi! Hòn đá vừa to vừa nặng, ngọn đồi trước mặt lại vừa cao vừa dốc, vác hòn đá này liệu có bò lên được trên đó không? Anh kêu to lên: “Đừng bắt ép người ta như thế! Cần bao nhiêu tiền cứ ra giá đi!”.
Khi anh vác hòn đá đến chân đồi thì thấy một cái mũ lá có kẹp một tờ giấy viết mấy chữ: “Đừng nói đến tiền, xin mời lên đồi”. Anh tiếp tục đi, được một đoạn lại thấy cái mũ lá cũng có tờ giấy yêu cầu anh cứ vác đá lên đồi, các chuyện khác miễn bàn. Không còn cách nào khác, anh đành phải bê hòn đá vất vả từng bước bò lên.
Lên được đỉnh đồi thật không dễ gì. Vậy mà trên đó không thấy có người cũng không thấy giấy tờ lái xe, chỉ thấy có tờ giấy dán trên một thân cây yêu cầu anh vác hòn đá theo hướng chỉ dẫn đi xuống phía dưới.
Xuống được dưới chân đồi vẫn không thấy giấy tờ, ngoài một tờ giấy yêu cầu anh vác hòn đá đi ngược trở lên. Cứ như thế theo hướng chỉ dẫn trên các tờ giấy, anh vác hòn đá đi qua mấy quả đồi nhỏ, mệt tưởng chết, cuối cùng mới thấy cái ví da của mình đặt trên một nấm mồ đất trơ trọi. Giấy tờ đủ cả, tiền bạc không thiếu một xu.
Dưới cái ví tiền còn có một tờ giấy viết: “Cái ví này là do tôi nhặt được, bây giờ nó đã trở về với chủ của nó. Anh có biết vì sao tôi lại bắt anh vác hòn đá đi một quãng đường xa đến trước nấm mồ này không? Đây là mộ của con trai tôi. Cách đây hai năm , một đêm nó đi xe máy về nhà, vấp phải hòn đá của một kẻ nào đó không có lương tâm bỏ ở trên đường, bị ngã mà chết. Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai tôi là mong anh hiểu rõ một đạo lý: Lương tâm là vô giá, làm người có thể để mất bất cứ cái gì nhưng nhất thiết không được để mất lương tâm”.

 

42. Có nhìn thấy không?

Có một thiền sinh vào tham vấn với vị thầy của mình. Anh ta than phiền là sau nhiều năm dụng công tu tập anh cảm thấy bế tắt, vẫn không lãnh hội và thấy được đạo pháp.
Vị thầy im lặng lắng nghe rồi nhìn anh nói, “Nếu con nghĩ rằng tu tập có nghĩa là mình phải cố sức tìm kiếm để đạt được được một điều gì đó, thì việc ấy rất sai lầm”.
“Thưa thầy, con không hiểu ý thầy…”. Người thiền sinh lộ vẻ bối rối.
Vị thầy đứng dậy bảo anh theo ông bước ra ngoài vườn. Cả hai đứng yên ngước nhìn lên cao, dưới một bầu trời đêm lấp lánh ngàn vì sao vụn vỡ.
“Con có thấy những vì sao ấy không?”, vị thầy hỏi.
“Dạ thưa có!”
“Con có thấy hết tất cả những vì sao ấy không?”
“Dạ thưa, con thấy hết tất cả những vì sao nào mà mắt con có thể nhìn thấy được…” Anh ta dè dặt trả lời.
“À, mà ta không biết con có nhìn thấy vì sao này không?” Vị thầy đưa tay chỉ lên bầu trời đêm.
Người thiền sinh trẻ nhìn theo hướng vị thầy chỉ và thấy có một ngôi sao sáng lấp lánh. Anh đáp, “Dạ thưa con thấy.”
“Và con có thấy vì sao nằm ngay sát ở cạnh bên nó không?”
Người thiền sinh cố nhìn một hồi, rồi đáp rằng không có một ngôi sao nào khác ở cạnh bên hết. “Có chứ! Mà con đừng nên cố gắng gì hết, cứ nhìn lại đi rồi sẽ thấy.” Vị thầy nói.
Người thiền sinh nghe lời và buông bỏ hết những cố gắng của mình, đứng yên nhìn lại một hồi. Và anh chợt khám phá ra là có một vị sao thật mờ ở ngay cạnh bên ngôi sao sáng kia. Và vì ngôi sao ấy rất yếu, nên nếu nhìn thẳng vào nó ta sẽ không thể nào thấy được. Mắt ta chỉ có thể thấy được vì sao ấy khi mình không cố gắng tập trung thẳng vào nó, mà hướng nhìn xích qua phía bên một chút.
“Dạ thưa thầy, con đã thấy vì sao mờ cạnh bên đó rồi!”
“Con biết không, sự tu học của con cũng giống như những vì sao trên bầu trời vậy. Càng cố sức tìm kiếm, ta lại càng vô tình làm ngăn trở đi cái thấy của mình. Nhờ không dụng công vô ích mà cái thấy của con được trọn vẹn hơn. Con có hiểu không?”
Người thiền sinh trẻ cảm thấy như tâm mình bừng vỡ trước lời giải thích của vị thầy. Nhưng làm sao thầy mình lại biết được là ngay cạnh bên vì sao sáng ấy lại có một ngôi sao khác mờ hơn ở kề bên?
“Con biết không, trên bầu trời này có hằng hà sa số những vì tinh tú,” vị thầy đáp, “mà thật ra ta không biết chắc là hai người có thể cùng nhìn thấy chung một vì sao không nữa! Những vì sao có mặt, chúng nhiều hơn là những gì ta có thể nhìn thấy được gấp triệu lần. Vì vậy, ta biết chắc rằng mỗi ngôi sao đều có một vì sao khác cạnh bên, dù rất mờ ảo, và mình chỉ có thể thấy được nếu ta biết chuyển hướng nhìn sang bên một chút. Và đó cũng là một sự thật về cuộc sống, chúng ta thường chỉ nhìn thấy những gì mình muốn tìm kiếm, mà lại đánh mất đi những cái khác.

 

43. Hai USD và 1 giờ

Một người cha đi làm về rất muộn, mệt mỏi và bực bội sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về đến nhà, đứa con trai năm tuổi đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:
– Bố ơi, con hỏi bố một câu được không?
– Được chứ, con hỏi gì – Ông bố đáp.
– Bố ơi, bố làm được bao nhiêu tiền một tiếng đồng hồ?
– Đó không phải là việc của con. Mà tại sao con lại hỏi một việc như thế hả? – Ông bố hết kiên nhẫn.
– Con muốn biết mà – Đứa con nài nỉ.
– Nếu con cứ khăng khăng đòi biết, thì bố sẽ nói. Bố làm được hai đôla một giờ đồng hồ.
– Ôi – đứa bé rụt rè hỏi – Bố cho con vay một đôla được không?
Ông bố rất bực mình:
– Nếu lý do duy nhất con muốn biết bố làm được bao nhiêu tiền, chỉ là để vay mà mua mấy thứ đồ chơi vớ vẩn, thế thì mời con đi ngay vào phòng mình và ngủ đi. Hãy nghĩ xem tại sao con lại ích kỷ đến thế? Bố làm việc vất vả cả ngày, và không có thời gian cho những chuyện ấy đâu!
Đứa bé đi vào phòng đóng cửa. Ông bố ngồi xuống càng nghĩ càng cáu. Tại sao đứa con lại dám hỏi mình một câu như thế chứ?
Một giờ sau, khi đã bình tĩnh lại, ông bố nghĩ có thể đứa con rất cần tiền để mua một thứ gì đó, và nghĩ rằng mình đã quá nghiêm khắc với nó. Ông đi vào phòng con:
– Con ngủ chưa?
– Chưa ạ, con còn thức! – Cậu bé nằm trên giường đáp.
– Bố suy nghĩ rồi, có thể bố đã quá nghiêm khắc. Đây là một đôla cho con.
Cậu bé cầm lấy rồi thò tay xuống dưới gối, lôi ra thêm mấy tờ tiền lẻ nữa.
Ông bố thấy con có tiền từ trước lại cáu. Khi đứa con xếp thành một xấp tiền ngay ngắn, ông bố càu nhàu:
– Tại sao con lại vay thêm tiền khi con đã có rồi?
– Vì con chưa có đủ ạ! – Bỗng đứa trẻ ngẩng lên vui sướng – Bây giờ thì con có đủ rồi! Bố ơi, đây là hai đô la, con có thể mua một giờ trong thời gian của bố không?
Bình : Bạn biết đó, tiền có thể mua được nhiều thứ nhưng để có tiền, con người ta luôn phải đánh đổi những điều quý giá như thời gian, sức khỏe, tình cảm với những người yêu thương… Trân trọng những gì ta đang có, gần gũi xung quanh ta hơn là chạy theo sự mời gọi ngọt ngào của tiền bạc, vật chất, đó mới là điều bạn nên làm trong cuộc sống này.

44. Hãy thắp lên một que diêm

Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
– Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:
– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to “Đã thấy!”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”. Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
– Ánh sáng của một hành động nhân ái dù nhỏ bé như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên:
– Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng. Ông John Keller kết luận:
– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hòa bình không chỉ là cuộc sống chung không tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của những đau khổ và cái ác.

 

45. Lắng nghe hay là chờ một viên đá?

Một quan chức trẻ ngồi trong chiếc xe hơi đắt tiền chạy khá nhanh trên đường phố. Từ phía trước, ông nhìn thấy một đứa trẻ đang chạy ra từ giữa mấy chiếc xe đang đậu bên lề. Ông giảm tốc độ nhưng khi xe chạy ngang chỗ ông đã nhìn thấy đứa trẻ, thì chẳng thấy ai cả. Đột nhiên, ông nghe có tiếng đá ném vào cửa xe mình. Ông đạp thắng, cho xe vòng trở lại chỗ viên đá được ném ra. Quả là có một đứa trẻ, đang đứng bên những chiếc xe đậu. Nhảy bổ ra khỏi xe, không kịp quan sát xung quanh, ông tóm lấy đứa trẻ, đè dí nó vào một chiếc xe gần đó và hét lên: “Cái gì thế? Mày làm cái quỷ gì thế hả?”. Cơn nóng giận bốc ngược lên đỉnh đầu, ông tiếp: “Chiếc xe này mới toanh, mày sẽ phải trả cả đống tiền vì cái viên đá đấy”.
“Làm ơn, thưa ông, làm ơn. Con xin lỗi. Con không biết làm cách gì khác hơn.” – cậu bé van vỉ – “Con ném viên đá là vì con đã từng vẫy ra hiệu nhưng không có một người nào dừng xe lại…”. Nước mắt lăn dài trên má cậu bé khi nó chỉ tay về phía vỉa hè. “Nó là em con” – cậu bé nói – “Chiếc xe lăn từ trên lề đường xuống, nó bị ngã ra khỏi xe lăn, nhưng con không thể nâng nó dậy nổi”. Vừa thổn thức, cậu bé vừa năn nỉ ông: “Ông làm ơn hãy giúp con đặt nó vào chiếc xe lăn. Nó đang bị đau, và nó quá nặng đối với con”.
Tiến lại chỗ đứa bé bị ngã, người đàn ông cố gắng nuốt trôi một thứ gì đó như đang chẹn ngang cổ họng mình. Ông ta nâng đứa bé lên đặt vào chiếc xe lăn, rút khăn ra và cố gắng lau sạch các vết dơ một cách ngượng nghịu, kiểm tra mọi thứ một cách cẩn thận.
“Cám ơn rất nhiều! Ông thật tốt bụng”, đứa trẻ nói với ông cùng ánh nhìn biết ơn rồi đẩy em nó đi về phía những ngôi nhà.
Người đàn ông đứng nhìn mãi theo.
Sau cùng ông ta cũng cất bước. Đi chậm, rất chậm về phía xe của mình. Dường như đoạn đường đó rất, rất dài.
Về sau, dù đã nhiều lần đưa xe đi sơn, sửa lại, nhưng ông không bao giờ sửa dấu vết mà viên đá của cậu bé nọ để lại. Ông giữ lại vết lõm như một lời nhắc nhở với chính mình suốt cả cuộc đời: Người nào đó ném vào mình một viên đá tức là họ đang cần một sự giúp đỡ.
Lời nhắn với bạn: Đôi khi, bạn không có thời gian để lắng nghe cho đến khi có một “viên đá” ném vào bạn. Bạn sẽ chọn điều gì: Lắng nghe hay là chờ một viên đá…

 

46. Tỉnh dậy

Thế gian này có quá nhiều chuyện phiền não, vì vậy, rất nhiều người đi gặp Phật tổ cùng hỏi về một vấn đề.
“Con nên làm thế nào mới không còn những điều phiền muộn?”
Phật tổ cho đáp án đều như nhau: “Chỉ cần buông tay, con sẽ thôi không phiền não nữa”.
Có một người thanh niên, cho rằng mình thông minh nên tỏ ý không phục, bèn đi gặp Phật tổ và hỏi: “Trên thế gian này có hàng ngàn hàng vạn người, thì sẽ có hàng ngàn hàng vạn điều phiền não. Nhưng, Người cho họ giải pháp đều hoàn toàn như nhau, vậy đó chẳng khác gì buồn cười lắm hay sao?”
Phật tổ không nổi giận, chỉ hỏi ngược lại chàng thanh niên: “Buổi tối con ngủ có thường hay nằm mơ không?”
“Đương nhiên là có!”, chàng trai trả lời.
“Vậy, mỗi buổi tối nằm mơ, giấc mơ đều như nhau không?”- Phật tổ lại hỏi.
“Đương nhiên là khác nhau rồi.”, chàng trai trả lời, “Con ngủ hàng ngàn hàng vạn lần, thì sẽ mơ hàng ngàn hàng vạn lần giấc mơ”.
Phật tổ mỉm cười nói: “Nhưng cách kết thúc giấc mơ, đều như nhau cả, đó là: Tỉnh dậy”.

 

47. Ý nghĩa của sự bình yên

Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.
Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh này – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.

 

48. Chiếc lá hoàn hảo

Có một cậu sinh viên và một người thầy lớn tuổi đang trao đổi với nhau về sự hoàn hảo.
Chàng thanh niên với sức khỏe và lòng nhiệt huyết luôn muốn đi tìm cho mình mọi sự hoàn hảo. Người thầy đã chú ý lắng nghe và thấu hiểu cậu sinh viên. Với bao nhiêu năm sống và hiểu biết bao chuyện xảy ra, ông nhẹ nhàng nói với cậu sinh viên:
– Tôi có thể đề nghị cậu làm một việc không, con trai?
– Dạ. Em rất sẵn lòng.
– Phía trước mặt chúng ta là sân cỏ. Cậu có thể ngắt cho tôi một lá cỏ mà cậu cho là đẹp nhất và hoàn hảo nhất không? Với điều kiện cậu chỉ được đi thẳng về phía trước và chọn, không được bước lùi lại.
Cậu thanh niên đứng dậy và bắt đầu tìm kiếm. Bước bước chân đầu tiên vào sân cỏ, cậu nhìn xuống chân và thấy một lá cỏ thật xanh mướt, cậu toan đưa tay định ngắt lá cỏ. Nhưng… cậu phóng tầm mắt lên phía trước, toàn một màu xanh ngắt và những lá cỏ đẹp hơn.
Cậu thanh niên bắt đầu bước tiếp bước chân thứ 2… rồi bước chân thứ 3… nhưng cũng như những lần trước, khi định ngắt những lá cỏ dưới chân, cậu lại thấy những lá khác phía trước…
… Cứ thế…
… Cứ thế…
Cậu rảo bước, tìm kiếm… tìm một lá cỏ thật hoàn hảo. Nhưng… cậu có biết đâu, mãi mê tìm kiếm, cậu đã đi đến phía bên kia khoảng sân. Ở bước chân cuối cùng ấy, với một khoảng cỏ nhỏ nhoi trước mặt, cậu đành ngắt một lá cỏ đẹp nhất trong đó và trở lại nơi người thầy. Mặt cậu không còn hào hứng như lúc đầu, có lẽ cậu đã hiểu ý nghĩa công việc cậu vừa làm. Lặng lẽ đến bên người thầy, cậu đưa ra lá cỏ. Cầm lá cỏ trên tay, người thầy mỉm cười hiền hòa bảo cậu ngồi xuống và nhẹ nhàng:
“Thế đấy con trai. Trong cuộc đời mỗi con người là vô số sự lựa chọn. Cũng như lựa chọn một lá cỏ, nếu con biết bằng lòng và không mải tìm kiếm hẳn con đã có được một lá cỏ hoàn hảo hơn rồi. Con người cũng vậy, họ luôn để cơ hội qua đi rồi mới bắt đầu nuối tiếc. Hãy suy nghĩ về câu chuyện ngày hôm nay, con trai nhé!”.
Thật ra, luôn có sự hoàn hảo. Chỉ là bản thân mỗi người không tự bằng lòng với sự hoàn hảo ấy. Chợt nhớ đã nghe đâu đó: “Đừng để đến khi vụt mất rồi mới vội quay lưng tìm kiếm”.
Trong cuộc đời mỗi con người là vô số sự lựa chọn. Cũng như lựa chọn một lá cỏ, nếu con biết bằng lòng và không mãi tìm kiếm hẳn đã có được một lá cỏ hoàn hảo hơn rồi.

49. Bài học về 1000 viên bi

Vài tuần trước, tôi bước về phía căn nhà dưới tầng hầm, trên hai tay là cốc cà phê và tờ báo buổi sáng. Những điều bắt đầu trong buổi sáng thứ bảy bình thường hôm ấy đã trở thành một trong những bài học mà thi thoảng cuộc sống vẫn gửi tới cho ta.
Tôi dò sóng đài trên điện thoại để nghe chương trình phát sáng thứ bảy. Trong lúc dò, chợt tôi phát hiện giọng nói có vẻ của một người đã cao tuổi, có gì thật hấp dẫn và đó quả là một chất giọng vàng.
Bạn biết đấy, với chất giọng như vậy, có lẽ ông ta đang làm trong ngành phát thanh. Ông đang kể cho mọi người nghe về việc đã nói với ai đó câu chuyện một nghìn viên bi.
Tò mò, tôi ngồi xuống và nghe ông nói. “Này Tom, hình như anh đang rất bận việc thì phải. Tôi chắc rằng họ trả anh cũng khá phải không, nhưng thật xấu hổ nếu anh cứ suốt ngày vắng nhà vì công việc như vậy. Không thể tin được một người trẻ tuổi như anh lại cứ quần quật làm việc mỗi tuần từ 60 đến 70 tiếng để trang trải mọi thứ. Sẽ thật tồi tệ nếu anh quên không tham dự buổi biểu diễn khiêu vũ của con gái anh”.
Ông tiếp tục, “Tôi sẽ kể cho anh nghe điều này Tom ạ, một điều đã giúp tôi luôn biết nhìn trước những thứ cần ưu tiên trong cuộc sống của mình”. Và khi đó, ông lão bắt đầu giải thích lý thuyết một nghìn viên bi. “Anh biết không, một ngày nọ tôi đã ngồi làm thử một bài toán nhỏ. Mỗi người trung bình sống được khoảng 75 năm. Tôi biết cũng có người sống thọ hơn và cũng có người chết sớm hơn nhưng về trung bình, người ta có thể sống được khoảng 75 năm”.
“Sau đó, tôi nhân 75 năm đó với 52 tuần thì được 3900, đó chính là số ngày thứ bảy mỗi người bình thường có được trong cả cuộc đời của họ. Nào tập trung vào câu chuyện của tôi đi Tom, tôi đang chuyển sang phần quan trọng rồi đây”.
“Phải đến năm 55 tuổi tôi mới có thể suy nghĩ về mọi việc kỹ càng như vậy”, ông tiếp tục, “và cho tới lúc đó, tôi hiểu mình chỉ còn 1.000 ngày thứ bảy còn lại nữa mà thôi”.
“Và rồi tôi tới một cửa hàng đồ chơi, mua tất cả những viên bi họ có. Phải đi tới ba cửa hàng tôi mới mua đủ 1000 viên bi cho mình. Tôi đem chúng về nhà, bỏ vào chiếc hộp nhựa lớn, rỗng trong xưởng làm việc, ngay cạnh chiếc đài. Từ đó, khi mỗi ngày thứ bảy qua đi, tôi lại lấy ra một viên bi ra và ném đi”.
 “Tôi nhận ra rằng, khi nhìn số lượng những viên bi ngày một giảm dần, tôi đã biết tập trung hơn cho những điều thật sự quan trọng trong cuộc sống. Không gì giống như việc nhìn thời gian tồn tại của mình trên trái đất này cứ vơi dần và nó giúp bạn biết ưu tiên mọi việc thật mau chóng”.
“Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng. Sáng nay, tôi đã nhặt viên bi cuối cùng ra khỏi chiếc hộp. Tôi hình dung nếu tôi có thể giữ nó cho tới sáng thứ bảy sau nữa thì tức là, Thượng Đế đã ban cho tôi thêm một chút thời gian để được ở lại bên những người thân yêu…”
“Thật tuyệt khi được trò chuyện với anh Tom ạ, tôi mong anh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho những người thân yêu của anh và tôi cũng hy vọng, một ngày nào đó sẽ gặp lại anh. Chúc buổi sáng tốt lành!”.
Bạn có thể nghe thấy rõ tiếng gác ống nghe khi ông ấy kết thúc cuộc trò chuyện. Ngay cả người điều phối chương trình cũng lặng đi trong vài giây. Tôi biết ông ấy đã khiến chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.
Sáng hôm đó, tôi đã định làm một số việc, sau đó tới phòng tập thể dục. Nhưng rồi, tôi quyết định chạy lên gác, đánh thức vợ bằng một cái hôn. “Dậy thôi em yêu, anh sẽ đưa em và các con đi ăn sáng”.
“Có chuyện gì đặc biệt hả anh?”, cô ấy hỏi và cười.
“Không, không có gì đặc biệt cả”, tôi nói, “Chỉ vì đã lâu lắm rồi hai vợ chồng mình chưa đi ăn cùng các con. À, khi đi mình dừng lại ở cửa hàng đồ chơi một chút nhé, anh muốn mua một vài viên bi”.

50. Điều đó rồi cũng qua đi

Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cần thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó”.
Benaiah trả lời: “Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?”.
Nhà vua đáp: “Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui”. Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.
Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: “Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?”. Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. “Nào, ông bạn của ta – vua Salomon hỏi – ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?”. Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây, thưa đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: “Điều đó rồi cũng qua đi”.Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát bụi…

51. Bằng lòng với cuộc sống

Sau một thời gian cần cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình. 
Từ lúc mua được một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây. Anh đến một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là ngôi nhà của người giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết chí làm ăn, dành dụm để có thể may ra xây được một ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh. Không mấy chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ hơn mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữa.
Lần này, anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ bụng: Cho dù có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh đành phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi làng cũ của mình. Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, ngựa cũng lăn ra chết. Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Đêm đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
Anh ái ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc:  “Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh cùng cực như thế này?”.
Nhà ẩn sĩ mỉm cười đáp: “Tôi bằng lòng với cuộc sống… Thế còn ông, xem chừng như ông không được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm”. 
Người đàn ông ngạc nhiên hỏi: “Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?”.
Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói: “Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của ông. Đôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không bao giờ đến với ông… Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những ánh sáng yếu ớt đang chiếu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đầu tắt ngụm. Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mất. Nếu những thứ ánh sáng trên đây đều biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm thấy nụ cười đã đánh mất”.
Nghe câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục câu chuyện: “Ông có biết rằng sánh với tôi, ông là vua không?”.
Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến.
Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình. Dưới ánh đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi chân để có thể di chuyển một cách bình thường.

 

52. Mẹ lạnh lắm phải không?

Vào một đêm trước lễ Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một con mương sâu với cây cầu bắc ngang, người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò phía bên dưới cầu. 
Ðơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.
Sáng hôm sau, một phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà nhìn thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.
Bà đem đứa bé về nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là ngày sinh nhật thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.
“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!”. Song cậu bé tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?”. Và cậu bé òa khóc. “Mẹ lạnh lắm phải không?”

 

53. Chuyện về hai linh hồn

Chiếc xe tải mất lái đâm vào một người mù đang được con chó dẫn đường. Người mù chết ngay. Con chó xông vào cứu chủ nên cũng bị chẹt chết. Linh hồn hai kẻ bị nạn bay lên trời, tới lối vào cổng thiên đường.
Thiên thần gác cổng chặn lại: “Xin lỗi, bây giờ danh sách lên thiên đường chỉ còn lại một suất. Một trong hai ngươi phải xuống địa ngục”.
Người chủ chó hỏi: “Con chó của tôi chưa hề biết thiên đường là gì, địa ngục là gì. Có thể để cho tôi quyết định ai được lên thiên đường hay không ạ?”
Thiên thần nhìn người mù, chau mày nói: “Rất tiếc! Đã là linh hồn thì đều bình đẳng với nhau. Các ngươi phải qua một cuộc thi để chọn ra kẻ được lên thiên đường”.Người mù thất vọng hỏi: “Thi thế nào ạ?”
 “Rất đơn giản, thi chạy. Từ đây chạy tới cổng thiên đường, ai tới trước thì được lên thiên đường. Nhưng ngươi cũng đừng lo, vì ngươi đã chết rồi nên không còn là kẻ mù nữa, và tốc độ chạy của linh hồn thì không liên quan gì tới thể xác; linh hồn nào càng trong sạch lương thiện thì chạy càng nhanh”. Người mù nghĩ ngợi giây lát rồi đồng ý.
Khi tuyên bố cuộc chạy đua bắt đầu, thiên thần cứ tưởng người mù sẽ khôn ngoan ráng sức chạy thật nhanh, ai ngờ người đó vẫn đi thong thả chậm rãi. Kỳ lạ hơn là con chó dẫn đường kia cũng không chạy mà chỉ đi cùng với chủ của nó, không hề rời một bước. Bấy giờ thiên thần mới hiểu ra: bao năm nay con chó ấy đã tập được thói quen mãi mãi làm theo chủ nó, luôn luôn đi đằng trước để dẫn đường cho chủ, người chủ bảo gì thì nó nghe theo ngay. Rõ ràng, nếu là kẻ có tâm địa độc ác thì khi tới cổng thiên đường người chủ sẽ bảo con chó đứng lại để người đó dễ dàng thắng cuộc thi chạy này.
Thiên thần thương hại nhìn con chó và lớn tiếng bảo nó: “Mày đã vì cứu chủ mà hiến dâng tính mạng của mình, bây giờ chủ mày đã hết mù rồi, mày chẳng cần dẫn đường cho ông ta nữa, mày chạy nhanh lên nào!” Thế nhưng người chủ cũng như con chó, cả hai dường như chẳng nghe thấy thiên thần nói gì cả, vẫn cứ thong thả như đi dạo.
Khi tới cách cổng thiên đường vài bước chân, người chủ ra lệnh cho con chó dừng lại. Nó bèn ngoan ngoãn ngồi xuống.
Người chủ nhoẻn miệng cười quay lại bảo thiên thần: “Tôi sắp sửa tiễn con chó của mình lên thiên đường. Bây giờ điều tôi lo nhất là nó thật sự không muốn lên đấy mà chỉ thích ở bên tôi … Chính vì thế mà tôi muốn quyết định thay cho nó”.
Thiên thần ngạc nhiên đứng sững lại.
Người chủ nhìn con chó với ánh mắt lưu luyến, lại nói: “Thật tốt là ta có thể dùng cách chạy thi để quyết định thắng thua. Ít nhất tôi cũng có thể bảo con chó kia bước thêm vài bước nữa, như vậy nó có thể lên thiên đường được rồi. Có điều con chó này đi cùng tôi đã bao năm nay mà bây giờ lần đầu tiên tôi mới hết mù và được nhìn thấy nó bằng chính mắt của mình. Bởi vậy tôi muốn đi thong thả một chút để được nhìn nó lâu hơn. Nếu được phép thì có lẽ tôi thật sự muốn mãi mãi được nhìn thấy nó. Nhưng bây giờ đã tới cổng thiên đường rồi. Đây mới là nơi nó cần được đến. Xin thiên thần làm ơn chăm nom nó giúp tôi!”
Nói dứt lời, người chủ ra lệnh cho con chó tiến lên phía trước. Khi con chó tới cổng thiên đường thì người chủ rơi xuống địa ngục như một chiếc lá rụng. Con chó quay đầu nhìn thấy chủ nó rơi xuống bèn chạy đuổi theo chủ.
Lúc bấy giờ, vị thiên thần lòng đầy hối hận vội giương cánh bay theo định túm lấy con chó dẫn đường. Nhưng vì con chó ấy vốn có linh hồn trong sạch nhất, lương thiện nhất, cho nên nó chạy nhanh hơn bất cứ thiên thần nào. Và thế là rốt cuộc con chó dẫn đường ấy lại trở về bên người chủ của nó. Dù là ở dưới địa ngục, nó cũng sẽ mãi mãi bảo vệ chủ của mình.
Thiên thần đứng rất lâu nhìn theo hai linh hồn đáng thương kia và lẩm bẩm: “Ngay từ đầu ta đã phạm sai lầm. Hai linh hồn ấy là một thể thống nhất không thể tách rời nhau. Được cùng ở bên nhau thì dù là thiên đường hay địa ngục chúng cũng bằng lòng”.

54. Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?

Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: “Chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể cứu được thằng bé thôi”.
Tess và phòng mình và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động… nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: “Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?”. Tess cũng trả lời với vẻ bực bội: “Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị bệnh và cháu đến đây để mua … phép mầu nhiệm”.
“Cháu muốn mua gì?”. Người dược sĩ tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.
“Tên của anh cháu là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao nhiêu hả bác?”.
 “Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ” – giọng người dược sĩ nhỏ đi.
“Nhưng bác này, cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm” – giọng Tess như van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi Tess: “Thế cháu có bao nhiêu?”. “1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?”. Tess trả lời như muốn khóc.
“Ồ, thật trùng hợp”, người đàn ông mỉm cười “1 đô và 11 xu – một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho anh cháu”. Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề nghị: “Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!”.
Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ rất nổi tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Anh trai Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết. Mẹ em thì thầm: “Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền đây? “.
Tess mỉm cười tinh nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó… 1 đô và 11 xu… cộng thêm sự chân thành của một đứa trẻ.

 

55. Bồ Tát chỉ ngồi để thấy

Một người nọ nhìn thấy cái kén của con bướm. Sau đó, anh thấy một cái lỗ nhỏ xuất hiện. Anh ngồi chăm chú theo dõi con bướm trong vài giờ đồng hồ và thấy nó cố gắng vùng vẫy tìm cách chui ra ngoài qua cái lỗ nhỏ đó. Rồi dường như nó không có thêm một tiến triển nào nữa. Trông cứ như thể nó đã làm hết mức có thể rồi và không thể xoay xở gì thêm được.
Thấy tội nghiệp nên người đàn ông quyết định giúp con bướm. Anh lấy một cái kéo và cắt cái kén. Con bướm dễ dàng thoát ra. Nhưng nó có một cái thân căng phồng và đôi cánh nhỏ bé, teo quắt. Thế là, con bướm đó sẽ phải bỏ ra suốt cả cuộc đời nó chỉ để bò trườn với cơ thể sưng phồng và đôi cánh co lại. Nó không bao giờ bay được… Cho nên Quy tắc thứ ba của người Ấn Độ: “Trong mỗi khoảnh khắc mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm”.
Người đàn ông tốt bụng đã không hiểu rằng chiếc kén chật hẹp và sự vùng vẫy của con bướm để chui qua được cái lỗ nhỏ ấy chính là cái cách mà Tạo Hóa buộc chất lỏng trong thân con bướm chảy vào cánh để sẵn sàng cho nó có đủ sức mạnh để cất cánh bay.
Vì vậy, đừng bao giờ tin vào quan niệm Bồ Tát độ mình cả, nếu Bồ Tát đến độ mình tức là Bồ Tát can thiệp vào việc mình cần phải làm là để thoát ra khỏi cái kén (thoát khỏi vô minh) chính mình là người cần phải mở ra mọi cái mà mình đã trói buộc vào, không có Bồ Tát nào làm thay cho mình.
Quan niệm Bồ Tát cứu độ bị hiểu sai kiểu như người mẹ giúp con: “Thôi con đừng đánh vần để mẹ đánh vần cho… Con đừng làm toán để mẹ làm toán cho…vân vân…và vân vân…”
Bồ Tát chỉ ngồi để thấy, để xem mình đau khổ như thế nào và thoát khỏi đau khổ như thế nào… mà tâm Ngài vẫn hoàn toàn bất động, đó mới chính là Bồ Tát chân chính nhất.
Qua câu chuyện trên, con nhộng chỉ cần đợi thêm một chút nữa, nó có thể tự vùng vẫy thoát ra khỏi cái kén, thì nó mới đủ sức mạnh cất cánh bay cao, cũng như con người ta cần phải chịu đựng đau khổ thêm một chút nữa thì mới có được bài học Giác Ngộ cho chính mình. Thế cho nên, Bồ Tát chỉ khai thị mà không có cứu độ, khai thị cho mọi người thấy ra mọi cái đã có sẵn nơi mỗi người, và để mọi người biết tự trở về với chính mình.
Chân lý chính là Thực Tế chứ không phải ảo tưởng.
Thiền sư Viên Minh

56. Câu chuyện cậu bé đánh giày

Năm 12 tuổi, vào 1 buổi xế chiều có 1 người khách là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhìn vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói: “Đứa nào cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy và sẽ trả công 2 đồng.”
Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên.
Một đứa nhỏ nói: “Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói!”
Đứa khác nói: “Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…”
Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói: “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đứa đó mỗi đứa 1 đồng!”
Câu nói của Lula làm ông chủ tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất ngạc nhiên.
Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó. Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”.
Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, ông chủ tiệm đã trả cho Lula 2 đồng bạc sau khi được cậu bé đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.
Vài ngày sau, ông chủ tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.
Thằng bé hiểu rằng “Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.”
Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình. Sau, Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy. Để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ, cậu ta tham gia vào công đoàn.
Năm 45 tuổi, Lula lập ra đảng Lao-Công.
Năm 2002, trong cuộc ứng cử tổng thống, khẩu hiệu của Lula là: “Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này”. Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil. Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2, cho 4 năm tới.
Trong 8 năm tại chức, ông đã thực hiện đúng lời mình đã hứa: 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Thực hành đúng tâm niệm: Giúp đời!
Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của ông đã không còn là “Con khủng long nhai cỏ” mà đã trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu”. Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.
Luiz Inácio Lula da Silva: Đó là tên của vị tổng thống Brazil giải nhiệm vào 31.12.2010.

 

57. Vị thần mạnh nhất

Các vị thần ở trên cõi trời, có một lần tranh nhau quyền bá chủ thế gian. Bất kỳ vị nào, cũng cho mình là quyền lực trên tất cả Trời Đất. Các vị thần quyết định bầu một người làm trọng tài trong cuộc tuyển chọn ai được làm bá chủ. Vị trọng tài này có trí phán đoán và tính ngay thẳng đặc biệt, lại cũng là người cao tuổi hơn hết.
Trong các vị thần, một vị bước ra nói: “Các ngài hãy xem đây, sẽ thấy rõ sức mạnh phi thường của tôi như thế nào”.
Tức thời, một ánh sáng chớp lạnh xương, liền theo đó, tiếng sấm nổ vang, làm rung động cả không trung, dường như cả thế gian đều rung rinh sắp đổ. Các vị thần đều tái mặt. Lúc bấy giờ, không còn một ai còn dám nghĩ là mình là người bất khả xâm phạm nữa.
Vị thần Bão tố, bước ra nói: “Sức mạnh của tôi, còn ghê gớm hơn nữa. Hãy xem dưới kia, cánh đồng mênh mông lặng lẽ”.
Nói vừa dứt lời, bỗng mặt nước biển dâng lên. Ban đầu từ từ, kế đó sóng nổi gió tung. Nước càng dâng, gió càng lớn, sóng càng to, cuồn cuộn ầm ầm, chỉ thấy còn có một vùng nước mênh mông trắng dã. Những ngọn núi cao, sóng đánh lấn riết, không còn thấy mặt. Sóng càng lúc càng cao, gió càng lúc càng lớn, lăm le chìm ngập đến cõi trời. Các vị thần thất sắc, cầu khẩn xin tha. Thần Bão tố vẫy tay một cái: sóng lặn, gió êm. Bấy giờ nước biển lao xao, sóng chạy lăn tăn trên bãi cát.
Các vị thần vừa tỉnh trí hoàn hồn, thì nghe có một giọng lảnh lót cất lên:
“Sức mạnh không phải ở nơi sự phô trương của sức bạo tàn, vì nó chỉ có phá hoại mà không tạo lập. Sức mạnh ở cái thuật khuất phục con người và giữ gìn họ ở trong khuất phục ấy bằng ý muốn của họ. Người ta cảm vì sự dịu dàng mà chịu khuất phục chớ không phải vì bị khủng khiếp mà chịu khuất phục”.
Dứt lời, vị thần Âm nhạc lấy ống tiêu thổi lên một hơi, nhẹ nhàng êm ái như thế nào mà hết thảy các vị thần mê mẩn tâm thần, như ngây, như dại. Tất cả đều như bị sức âm nhạc lôi cuốn vào giấc ngủ thôi miên.
Nhưng có một vị thần thái độ huyền bí, dường như thản nhiên bất động. Vị này không thấy sấm sét mà choá mắt. Sóng bủa, nước dâng cũng không khiến gương mặt trầm tĩnh của ông thay đổi. Mà tiếng nhạc du dương, thâm trầm, huyền hảo kia cũng không cảm động lòng ông chút nào cả.
Vị trọng tài day qua hỏi:
– Ngài có phải bị mù, điếc gì không?
– Không. Tôi thấy và tôi nghe.
– Tại sao Ngài không động lòng. Sấm nổ, nước dâng không làm cho quả tim Ngài dao động lên sao? Nhạc thần, tiêu thánh không làm cho tâm hồn Ngài xao xuyến sao?
– Ngài lầm! Quả tim tôi cũng đập, tâm hồn tôi cũng xao.
– Nhưng sao gương mặt Ngài, tôi không thấy lộ vẻ lo sợ hay vui sướng gì cả?
– Không. Tôi là “Điềm Đạm”. Tôi là kẻ huấn luyện cảm giác tôi, tôi là kẻ đã làm chủ cảm giác tôi. Còn các Ngài, các Ngài chỉ là những người làm tôi mọi nó vì chính các Ngài đã không thể chế ngự nó. Có ích gì lo đi chế ngự sự vật quanh mình, trong lúc mà, một tiếng nhạc tiêu tao cũng đủ làm cho cái tay cầm sấm sét kia phải rụng rời như rũ liệt. Còn nói đến uy lực nỗi gì, kẻ có tài ảo hoặc người kia, khi thấy nước dâng, nghe sấm nổ, cũng vẫn lao nhao lo sợ như ai.
Các vị thần, cúi mặt làm thinh.
Vị trọng tài nói tiếp:
– Quyền bá chủ, là người này. Sức mạnh thật ở nơi tâm hồn điềm tĩnh của người này! Hơn cả sự điều khiển vạn vật, người này đã khéo léo biết điều khiển dục tính của mình. Bất kỳ một thế lực nào, nếu còn bị một thế lực khác đánh ngã, không còn đáng gọi là sức mạnh nữa. Người này không phô trương những thế lực vô ích như thế, rõ người có sức mạnh trên hết. Bất kỳ những ám thị, những dẫn dụ nào, cũng không làm nao núng tâm hồn người này được. Trái lại, người này đã thấy hết, và đã khéo lợi dụng cả thảy để làm tôi mọi cho mình. Nếu các anh em, tin cậy nơi sự phê phán của tôi, thì tôi xin nói thật: “Vị thần Điềm Đạm này là chúa tể của chúng ta cả thảy”.

 

58. Ba người thầy vĩ đại

Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: “Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?”
Hasan đáp: “Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta. 
Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: “Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm.” 
Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: “Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!” Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: “Có trộm được gì không?” và ông ta đều đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ”. Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc. 
Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!” 
Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.
Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: “Con tự thắp cây nến này phải không?” Đứa bé đáp: “Thưa phải.” Đoạn ta hỏi: “Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?” 
Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: “Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?”
Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình. 
Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.

59. Ba câu hỏi của một nhà vua

( Câu chuyện do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại)

Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là: 
1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện? 
Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.
Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.
Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết. 
Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.
Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xảy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.
Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.
Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.
Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết. 
Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia. 
Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo. 
Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hổn hển. 
Nhà vua tới gần ông đạo và nói: “Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên?” 
Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Nhà vua nói: “Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát”. Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: “Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc”. Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo: “Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà”. 
Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: “Bác thử xem có ai chạy lên kìa”. Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.
Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy. 
Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.
Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt: “Xin bệ hạ tha tội cho thần”.
“Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?” 
 “Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa”.
“Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần”. 
Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh. 
Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.
Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: “Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà”.
Vua hỏi: “Trả lời bao giờ đâu nào ?” 
“Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ổng thì ổng sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất.
Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: “Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.

 

60. Bức tranh bị bôi bẩn

Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian. 
Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng.
Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.
Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy.
Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người họa sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế.
Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: “Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình”.
Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn.

 

61. Hãy sống trong hạnh phúc dù cuộc đời không như mơ

Nữ nhà văn Mỹ Hellen Keller đã từng nói: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đeo giày”.
Nếu bạn hỏng xe dọc đường, phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra được người giúp đỡ. Hãy nghĩ tới những ai liệt cả đôi chân, luôn khao khát được bước đi như bạn. Đó là lúc khó khăn của bạn, đôi chân của bạn có thể đưa bạn đến bất cứ nơi đâu, đó là hạnh phúc và may mắn khi bạn sinh ra trên đời được có quyền đứng trên đôi chân của mình để đi. Khi không may đôi chân phải nặng nề hơn trên con đường đang bước thì hãy chớ vội nản lòng, khó chịu bởi đằng kia có rất rất nhiều người đang khao khát được bước và được đi như bạn dù chỉ một bước chân…
Nếu bạn cảm thấy đời mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa kiếp người. Xin bạn hãy biết ơn cuộc sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ của mình để có những trải nghiệm như bạn. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình kém may mắn trong cuộc đời này, hãy biết trân trọng từng phút giây khi được sinh ra trên cuộc đời này.
Nếu bạn cảm thấy mình là nạn nhân của những ai hay cay nghiệt, dốt nát, nhỏ nhen, nghi kỵ. Hãy nhớ rằng việc đời có khi còn tệ hại hơn thế rất nhiều. Sống là động nhưng lòng không dao động.
Mỗi sớm mai thức dậy việc đầu tiên mà ta phải làm là hãy nở một nụ cười thật tươi để trả lại cho cuộc sống đã cho ta được sinh ra trên cuộc đời này, có được một đôi chân vững chãi để bước đi, có được một đôi tay lành lặn để ôm ấp những người mà ta yêu thương, có được một đôi mắt sáng để nhìn ngắm thế giới xung quanh, có được niềm tin và nghị lực trong mỗi chặng đường đời để cảm thấy mình hạnh phúc dù ở trong hoàn cảnh nào. Hãy biết nâng niu và trân trọng từng phút giây mà bạn đang có để biết yêu thương được đong đầy như thế nào trong cuộc đời mình.
Hiện tại của bạn đang là một niềm mơ ước của nhiều người. Xin hãy trân trọng và sống trọn vẹn ngay thực tại, bây giờ và ở đây.

 

62. Hãy là một chiếc lá

Có một chàng thanh niên kia buồn bã tìm đến một vị thiền sư hỏi rằng: “Thưa sư phụ, có những lúc con tưởng chừng như cuộc sống và con người muốn nhấn chìm con, vậy những lúc như thế con phải làm gì ạ?”.
Vị thiền sư không nói gì, đi lấy 2 cái thùng, một thùng có nước và một thùng trống không, rồi người thả chiếc lá vào cái thùng không đó. Đoạn người xách chiếc thùng đầy nước kia từ từ đổ vào cái thùng có chiếc lá. Chiếc lá bị nước đổ vào cuốn xoáy trong nước, nhiều lần cứ lặn hụp như thế, nhưng khi nước đã đổ vào đầy hết, thì chiếc lá vẫn lặng lẽ trôi ung dung trên mặt nước.
Rồi người chỉ vào chiếc lá trong thùng nước và ôn tồn nói: “Con thấy đấy, nếu con biết thả tâm của mình nhẹ nhàng như chiếc lá này, thì dù mọi thứ có chuyển biến nghiệt ngã đến đâu cũng không thể nào nhấn chìm con được”.
Hóa thành một chiếc lá rơi . Sống mà được thế thảnh thơi, nhẹ nhàng…

63. Người đàn ông hạnh phúc

Một cụ ông 92 tuổi, nhỏ người, rất tự hào, ăn mặc chỉnh tề, mỗi buổi sáng cạo râu lúc 8 giờ. Hôm nay ông dọn đến ở tại một chung cư dành cho những người cao tuổi. Vợ ông 70 tuổi vừa mới qua đời nên ông buộc òng phải rời khỏi căn nhà của ông.
Sau nhiều giờ ngồi chờ đợi trong hành lang của chung cư, ông cười rất tươi khi chúng tôi đến nói với ông rằng căn phòng của ông đă sẵn sàng. Bởi vì ông phải dùng thang máy với tôi là người dẫn đường, tôi tả cho ông sơ về căn phòng nhỏ của ông, kể cả tấm khăn trải giường treo ở cửa sổ thay cho màn cửa. “Tôi thích căn phòng này lắm”, ông nói với niềm hân hoan như một bé trai 8 tuổi vừa được ai đó cho một con chó nhỏ.
“Thưa ông Gagné, ông chưa thấy căn phòng của ông mà, xin ông đợi một tí”.
“Điều đó không liên hệ gì với nhau cả”, ông nói: “Hạnh phúc là cái gì đó tôi đã chọn trước rồi, tôi thích hay không thích căn phòng của tôi không phải do đồ gỗ giường tủ hay đồ trang trí, mà tùy thuộc trước tiên về cách cảm nhận của tôi đối với hạnh phúc”.
“Chính tôi đă quyết định trong đầu của tôi rằng tôi thích căn phòng của tôi, đó là một quyết định tôi thường làm mỗi buổi sáng khi tôi thức dậy. Tôi đă chọn: Hoặc tôi có thể nằm cả ngày trên giường để đếm những khó khăn mà các bộ phận trong cơ thể của tôi không còn có thể hoạt động được nữa, hoặc tôi vùng dậy và cám ơn trời đất về những cơ phận của tôi còn hoạt động được.”
“Mỗi ngày là một quà tặng và cũng đã từ lâu, tôi vẫn có thể mở mắt thức dậy, tôi đặt tiêu điểm cho ngày mới và kiểm lại những kỷ niệm tốt đẹp mà tôi đă có trong suốt cuộc đời của tôi.”
“Tuổi già giống như một tài khoản ngân hàng, bạn sẽ rút ra những gì bạn đă ký gởi vào đó.” Và đây là lời khuyên của tôi dành cho bạn: Hãy ký gởi nhiều kỷ niệm hạnh phúc vào tài khoản ngân hàng của bạn.
Bình : Chúng ta ai cũng có quyền lựa chọn cuộc sống hạnh phúc cho mình. Điều đó phụ thuộc vào chính sự suy nghĩ và nhìn nhận của chúng ta về cuộc sống. Đừng trông mong vào hạnh phúc ở bên ngoài mà hãy tìm ra hạnh phúc từ trong chính bạn. 🙂

 

64. Nghịch lý

Có nhiều nghịch lý trong cuộc sống. Có những nghịch lý tự nó là nghịch lý. Có những nghịch lý do con người tạo ra. Có những điều con người không hiểu rồi cho là nghịch lý.
Ngày nay, con người Có ít nhưng xài nhiều, mua nhiều nhưng sử dụng ít. Có nhà rộng nhưng mái ấm lại hẹp; có tiện nghi nhưng ít thời gian. Có nhiều bằng cấp nhưng lại có ít tri thức. Có nhiều chữ nhưng kiến thức thì ít; Có nhiều kiến thức nhưng lại thiếu suy xét hơn. Có học nhiều hơn, bằng cấp nhiều hơn nhưng chất lượng lại kém đi. Có nhiều chuyên gia hơn nhưng cũng có nhiều vấn nạn hơn. Đã viết và lách nhiều hơn nhưng chất lượng lại kém hơn.
Ngày nay, con người Làm ra những thứ lớn hơn nhưng chưa chắc chất lượng hơn. Làm những việc lớn hơn nhưng chưa chắc đã tốt hơn. Làm giàu tài sản nhưng lại làm nghèo giá trị bản thân. Nói quá nhiều, mà yêu thương quá ít và thường hay ghen ghét. Uống quá nhiều, hút quá nhiều, xài tiền quá nhiều nhưng cười ít, chia sẻ ít, nhường nhịn ít. Có nhiều thuốc men, nhưng sức khoẻ lại kém hơn. Kéo dài tuổi thọ nhưng không sống đúng ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chinh phục không gian vũ trụ nhưng lại bỏ trống không gian tâm hồn. Cố làm sạch không khí nhưng lại làm vẩn đục tâm hồn. Xây nhà cao hơn nhưng lại hạ thấp tâm tính; xây đường rộng hơn nhưng lại thu hẹp tầm nhìn.
Ngày nay, con người Biết chăm sóc yêu quý và tin tưởng động vật hơn cả con người. Biết chất chồng thêm mỗi năm vào cuộc đời mà chẳng biết bổ sung cuộc đời vào dòng thời gian. Biết lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại thấy khó và quên đường đến những người hàng xóm. Biết dự tính hơn nhưng thực hiện lại ít hơn. Biết vội vã mà không biết chờ đợi.
Ngày nay, con người Học cách tiến nhanh về phía trước mà chưa học cách biết chờ đợi. Học cách để nói nhưng lại không học cách lắng nghe. Học cách kiếm sống mà không học cách phải sống. Trở nên thừa về số lượng, nhưng lại thiếu về chất lượng. Có nhiều thời gian rảnh rỗi, nhưng lại ít thú vui lành mạnh.
Con người ngày nay sống trong thời của thế giới hoà bình, nhưng nội chiến thì triền miên. Con người ngày nay có tới hai nguồn thu nhập từ vợ chồng, nhưng ly dị vẫn nhiều hơn. Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm lại bị đổ vỡ, tan rã. Có mái nhà nhưng không có mái ấm. Con người ngày nay thích sử dụng và hưởng thụ, nhưng lại không muốn làm và chịu trách nhiệm. Con người ngày nay có nhiều chuyến du hí chớp nhoáng, những chỗ dừng qua đêm dọc đường, của sự buông trôi đạo đức, của những cơ thể béo phì và của những loại thuốc kích thích, an thần và giết người. Ðây là thời đại của thức ăn nhanh nhưng tiêu hoá chậm; của những con người to hơn nhưng nhân cách nhỏ lại; tài sản rất đầy nhưng tình thương lại vơi.
Bằng con đường tình yêu ta mới có thể xoá đi cái nghịch vốn rất nghịch lý ấy mà thôi.

65. Hãy cảm ơn

Hãy cảm ơn vì bạn chưa có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để trông chờ và hy vọng nữa đâu.
Hãy cảm ơn vì còn nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì để học hỏi nữa sao?
Hãy cảm ơn những lúc khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng thành được không?
Hãy cảm ơn vì bạn còn có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng còn cơ hội để tiến bộ, để cải thiện bản thân.
Hãy cảm ơn những thử thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây dựng nên sức mạnh và cá tính của bạn?
Hãy cảm ơn những lỗi lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho bạn những bài học đáng giá như thế đây?
Hãy cảm ơn những khi bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm việc gì hay sao?
Thật là dễ nếu cảm ơn những thứ tốt đẹp, nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực thành tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng có thể giúp ích nhiều cho bạn đấy!
Trước người thất ý đừng nói chuyện đắc ý, vì như thế chỉ làm tăng thêm nỗi buồn của đối phương. Vì vậy cho dù vạn sự như ý thì cũng nên cố ý nói những điều buồn khổ cho đối phương nghe.
Trước người đắc ý đừng nói chuyện thất ý, vì người đắc ý thường không thể thông cảm với nỗi buồn khổ của người thất ý.
Vì vậy cho dù có nhiều điều không như ý thì cũng phải cố gắng phấn chấn tinh thần lên.
Bạn bè kết giao lúc thất ý thì lúc đắc ý thường dễ mất đi, vì người đó cảm thấy cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn, không còn là bạn. .. nối khố của mình nữa, người đó không muốn trèo cao, kết thân với người cao sang, và cũng không thể trèo cao, nếu bạn có những lời nói hay hành động vô tâm có thể khiến người ấy mặc cảm tự ti.
Mắc lỗi với bạn bè lúc đắc ý thì lúc thất ý cũng khó vãn hồi, người ta cảm thấy cái uy phong khí thế ngày xưa của bạn mất đi, không phải do bạn trở nên khiêm tốn, nhũn nhặn hơn mà là vì bạn bế tắc hết đường mới quay lui xây đắp lại mối giao hảo xưa. Ngày xưa bạn không nhận họ thì hôm nay họ không nhận bạn!

66. Người ngồi trên tài năng

Có một người đàn ông thường chơi piano trong quán bar của thị trấn. Anh ta chơi piano rất hay, và nhiều người đến quán bar này cũng chỉ để nghe anh ta chơi piano. Quán bar cứ đông khách nườm nượp cũng nhờ vậy. Thế mà một buổi tối nọ, một ông khách quen lại không muốn nghe anh ta chơi đàn nữa. Ông ta cứ đòi người chơi piano phải hát.
– Tôi không biết hát! – Người đàn piano lắc đầu – Tôi chưa bao giờ hát ở những nơi đông người cả.
Nhưng ông khách cứ khăng khăng bảo người chủ quán bar:
– Tôi chán nghe piano rồi, tôi muốn nghe anh ta hát xem sao.
Những người khách khác trong quán cũng tò mò nên đồng loạt yêu cầu người chơi piano hát. Người chủ quán đành gọi với ra:
– Này anh bạn, anh đành phải hát thôi, các vị khách quý của chúng ta đã muốn thế mà. Nếu không là tôi trừ lương đấy!
Người chơi đàn miễn cưỡng hát một bài. Đây là lần đầu tiên anh ta hát trước mặt nhiều người đến vậy, và đó cũng là lần đầu tiên mọi người được nghe bài hát “Mona Lisa” hay đến như vậy!!
Bởi đó chính là Nat King Cole – sau này là một nghệ sĩ piano và ca sĩ nhạc jazz nổi tiếng, đã bán được hơn 50 triệu đĩa và từng được tổng thống Kennedy mời đến biểu diễn.
Anh ta có tài nhưng anh ta không bao giờ khám phá ra điều đó, và anh ta đã có thể sống hết cuộc đời mình chỉ như một người đàn piano vô danh trong một quán bar vô danh. Nhưng chỉ vì một lần anh buộc phải hát mà anh ta đã trở thành một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc nước Mỹ.
Cả bạn cũng vậy, bạn cũng có thể có những kỹ năng hay khả năng. Bạn có thể cảm thấy “tài năng” của bạn chẳng có gì đặc biệt nhưng bản thân nó lại có thể đặc biệt hơn bạn nghĩ. Ngoài ra, bạn có thể chẳng có khả năng nào nếu bạn cứ “ngồi lên” bất kỳ tài năng nào mà bạn có. Câu hỏi mà bạn nên đặt ra không phải là: “Mình có khả năng gì có ích?”, mà là: “Làm sao để mình sử dụng được mọi khả năng mình có?”

 

67. Tâm bình an trong hiện tại

Chuyện xưa kể rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở thành mối nghi ngờ, và tương lai trở thành nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ở họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phác và không một chút lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an như vậy.
Ngày kia, vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua giả dạng hỏi: “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”. Người nghèo đáp: “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay”. Vị vua giả dạng hỏi tiếp: “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?”. “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”, người thợ đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin của người thợ giày. Vua ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết bộ luật mới ban, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”. Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Trời tối, vị vua dưới dạng người ăn mày lại tới thăm người nghèo. Người thợ sửa giày vẫn giữ thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua cho ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày của mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”.
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, đức vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, mà phải hết tháng ông mới nhận được thù lao. Mặc dù vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng tới thăm ông và hỏi, “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”. “Tôi được làm lính cho vua”, người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhưng nhận lương vào cuối tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm thật và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.” Nhà vua giả dạng hỏi tiếp, “Nhưng nếu ông phải sử dụng tới gươm vào ngày mai thì sao?”. Người thợ sửa giày đợt trước vần thản nhiên: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”.
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người đàn ông này sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ. Và như vậy để xem niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp được hay không?
Tên tử tội quỳ xuống chân anh lính và van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Người đàn ông nhà nghèo trong trang phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn: “Lạy Đấng tối cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Còn nếu anh ta vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ”. Ngay tức khắc, ông rút lưỡi gươm ra và quả thực thanh gươm bằng sắt đã biến thành gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: “Đây là phép lạ”. Vị vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng: “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm. Ngươi hãy dạy cho ta cách sống lạc quan và bình an”.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

3 câu chuyện suy ngẫm.

Nguồn : Internet . 1. Ngủ nhờ  Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra vào một ngày mùa đông năm 1966 ở nước Mỹ. Jack quyết định ...