Tác giả : Lep Tolstoi
Chương 1
Vào cuối mùa đông, gia đình
Serbatxki, sau khi mời thầy thuốc về nhà khám bệnh cho Kitti, quyết định về
tình trạng sức khỏe và điều cần phải làm để khôi phục sức lực suy nhược của cô.
Cô ốm và mùa xuân sắp tới chỉ làm
bệnh
cô thêm trầm trọng. Ông thầy thuốc gia đình đã cho cô dùng dầu cá thu, rồi chất
sắt và cuối cùng là tiêu toan ngân 1, nhưng tất cả các món thuốc đó, không có
thứ nào làm bệnh thuyên giảm và vì ông ta khuyên cô đi nghỉ ở nước ngoài, nên
vào cuối xuân, gia đình đã mời một thầy thuốc nổi tiếng đến thăm bệnh.
Ông thầy thuốc danh tiếng này còn
trẻ, dáng dấp đường bệ, đòi được khám thân thể bệnh nhân. Với vẻ ân cần đặc
biệt, ông ta như muốn nhấn mạnh rằng tính e thẹn của các cô chỉ là tàn dư của
tính chất man rợ, và không gì tự nhiên hơn, đối với một người đàn ông còn trẻ,
là được xoa nắn một cô gái đã cởi bỏ quần áo. Ông cho đó là việc tự nhiên vì
hằng ngày ông thường làm như vậy, không thấy có gì xấu và ông coi tính e thẹn
của các cô không những là tàn dư của tính chất man rợ mà còn là một lăng nhục
đối với cá nhân mình.
Đành phải nhượng bộ ông ta thôi, bởi
vì, mặc dầu tất cả các bác sĩ đều học qua cùng một trường, đọc cùng một thứ
sách, trang bị cùng một thứ khoa học, và mặc dầu có một số người cho là ông
thầy thuốc này tuy có tiếng tăm, cũng không giỏi giang gì lắm, trong gia đình
và trong số người quen biết quận công phu nhân, ai nấy đều cho ông bác sĩ trứ
danh này là người duy nhất có kiến thức đặc biệt và chỉ ông mới chữa được Kitti
khỏi bệnh thôi.
Sau khi chăm chú khám và nghe ngực
cô bệnh nhân luống cuống vì xấu hổ, ông bác sĩ danh tiếng bèn rửa tay cẩn thận
và ở lại phòng khách để nói chuyện với lão quận công. Khi nghe bác sĩ nói, lão
quận công cau mày và húng hắng ho. Là người đứng tuổi, có lương tri và mạnh
khỏe, ông không tin vào y học và trong thâm tâm, ông nguyền rủa tất cả tấn hài
kịch này, vả chăng, có lẽ chỉ mình ông hiểu được bệnh trạng Kitti. "Lại
một thằng cha đi sủa mặt trăng!" 1, ông nghĩ và thầm áp dụng cái danh từ
trong ngôn ngữ người đi săn vào ông bác sĩ danh tiếng, khi nghe những lời lải
nhải về triệu chứng của bệnh tình Kitti. Trong lúc đó, ông bác sĩ chật vật lắm
mới nén nổi khinh bỉ lão quý tộc tầm thường này và đành hạ mình xuống ngang
trình độ lão. Ông biết nói với lão già này chỉ phí thì giờ, và bà mẹ kia mới
thật sự là chủ gia đình. Tài hùng biện của ông chính phải dành để nói chuyện
với bà. Giữa lúc đó, phu nhân bước vào phòng khách cùng ông thầy thuốc gia
đình. Lão quận công lảng ra, hết sức tránh để mọi người nhận thấy ông coi tất
cả tấn hài kịch này lố bịch đến chừng nào. Phu nhân bí thế và không biết xử sự
ra sao. Bà cảm thấy có lỗi với Kitti.
- Thế nào, bác sĩ, ngài quyết định
số phận của chúng tôi đi chứ, - phu nhân nói. - Ngài cứ nói hết cho. "Còn
hy vọng gì không?" - bà muốn nói vậy nhưng môi run lên và không thốt ra
được câu đó. - Thưa bác sĩ, ngài thấy thế nào?
- Tôi sẽ lập tức nghiên cứu ngay vấn
đề này với ông bạn đồng nghiệp của tôi và sau đó tôi sẽ xin có ý kiến với phu
nhân.
- Vậy chúng tôi để các ngài ở đây
nhé?
- Xin tuỳ bà.
Phu nhân thở dài và đi ra.
Khi chỉ còn lại hai người, ông thầy
thuốc gia đình rụt rè phát biểu ý kiến, cho rằng đây là hiện tượng chớm lao,
nhưng mà, tuy nhiên v.v... Ông bác sĩ danh tiếng lắng nghe được nửa chừng rồi
lấy chiếc đồng hồ quả quýt lớn bằng vàng ra xem giờ.
- Phải, ông ta nói, nhưng mà...
Ông thầy thuốc gia đình đang trình
bày giở chừng, kính cẩn ngừng bặt.
- Như ông biết đấy, chúng ta không
thể nào chẩn đoán rằng đó là hiện tượng chớm lao; trong phổi chưa thấy có hang
thì chưa có gì xác thực. Nhưng chúng ta có thể nghi ngờ và đã có triệu chứng:
ăn uống kém, thần kinh dễ bị kích thích, v.v... Vấn đề đặt ra là thế này: nếu
đoán là lao thì phải làm thế nào để duy trì việc ăn uống cho đầy đủ?
- Nhưng ngài cũng biết rõ ở đằng sau
những vấn đề này bao giờ cũng còn những nguyên nhân tư tưởng nữa, - ông thầy
thuốc gia đình đánh bạo lựa lời nói bóng gió với một nụ cười ranh mãnh.
- Lẽ đương nhiên là thế, - ông bác
sĩ danh tiếng trả lời, và nhìn đồng hồ lần nữa. - Tôi xin lỗi, không biết cầu
Iaudơki đã xong chưa nhỉ hay vẫn phải đi đường vòng? - ông hỏi. à, chữa xong
rồi à. Thế thì tôi có thể đến nơi trong vòng hai mươi phút đấy. Vậy chúng ta
nói rằng vấn đề đặt ra là thế này: tăng cường việc ăn uống và điều trị thần
kinh. Cái nọ có liên quan tới cái kia, phải tác động vào cả hai mặt của vấn đề.
- Thế còn việc đi nghỉ ở nước ngoài?
- ông thầy thuốc gia đình hỏi.
- Tôi là người phản đối lối đi dưỡng
bệnh ở nước ngoài; ngài cứ nghe theo tôi: nếu có hiện tượng chớm lao, cái điều
chúng ta không thể biết chắc được, thì một chuyến du lịch sẽ không làm bệnh
thuyên giảm chút nào. Chúng ta cần phải có một phương pháp vô hại để tăng cường
bồi dưỡng.
Và ông bác sĩ danh tiếng trình bày
kế hoạch của ông: một đợt chữa bệnh bằng nước suối Xeden mà cái lợi chính là vô
hại.
Ông thầy thuốc gia đình lắng nghe
hết từ đầu đến cuối vẫn với vẻ chăm chú kính cẩn.
- Nhưng, để bảo vệ ý kiến về việc đi
du lịch nước ngoài, tôi cần nhấn mạnh là như thế sẽ thay đổi được các thói
quen, xa lánh được những hoàn cảnh chỉ gợi lên một số kỷ niệm. Vả lại chính bà
mẹ cũng muốn như vậy, - ông nói thêm.
- à! Như vậy thì tốt lắm; cứ để các
bà ấy đi. Nhưng miễn là bọn lang băm Đức đừng có làm bệnh tăng lên... Các bà ấy
phải theo đơn thuốc của chúng ta... Thôi được, cứ để các bà ấy đi. - Rồi ông
liếc nhìn đồng hồ lần cuối.
- ồ! Đến giờ rồi! - ông đi ra cửa.
Ông bác sĩ danh tiếng nói với phu
nhân (ý thức về thủ tục đã nhắc nhủ ông thế) là ông cần gặp bệnh nhân lần nữa.
- Thế nào! Ngài lại định khám cháu
lần nữa ư? - bà mẹ sợ hãi kêu lên.
- ồ! Không đâu, tôi chỉ cần biết
thêm vài điểm nhỏ thôi thưa phu nhân.
- Vậy xin mời ngài.
Và bà mẹ dẫn ông trở vào phòng khách
gặp Kitti. Cô đứng giữa phòng, người gầy sút, mặt bừng bừng, mắt ánh lên kỳ lạ
vì chưa hết ngượng. Khi bác sĩ bước vào, cô bỗng đỏ mặt tía tai và nước mắt
trào ra. Cô thấy bệnh tình của mình và cách điều trị người ta buộc phải theo
thật ngớ ngẩn, thậm chí kệch cỡm nữa. Cô thấy cách điều trị ấy thật lố bịch, y
như tìm cách chắp lại những mảnh lọ vỡ. Chính trái tim cô đã tan vỡ. Người ta
lại định chữa bệnh đó bằng thuốc viên và thuốc bột ư? Nhưng cô không thể để mẹ
buồn phiền, nhất là khi mẹ đã tự cảm thấy mình có lỗi.
- Thưa tiểu thư, mời tiểu thư ngồi
xuống, - ông bác sĩ danh tiếng nói.
Ông mỉm cười ngồi xuống trước mặt
cô, bắt mạch và lại bắt đầu hỏi những câu chán ngắt. Cô trả lời, rồi đột nhiên,
không chịu được nữa, cô đứng dậy.
- Thưa bác sĩ, ông thứ lỗi cho,
nhưng tôi xin cam đoan là tất cả những điều ông hỏi sẽ không đi đến đâu cả. Thế
là, vẫn chỉ có một việc ấy mà ông hỏi tôi đến ba lần rồi.
Ông bác sĩ không hề mếch lòng.
- Đó chỉ là tính dễ bị khích động
của người ốm thôi, - ông nói với phu nhân khi Kitti đã ra khỏi. - Vả lại, tôi
cũng khám xong rồi...
Và bác sĩ nói với phu nhân như nói
với một người đặc biệt thông minh, kể lại bệnh tình con bà một cách tinh thông
và cuối cùng kê đơn cho dùng những thứ thuốc không hiệu nghiệm gì cả. Đến khi
phu nhân hỏi: Chúng tôi có cần phải ra nước ngoài không?", ông bác sĩ lại
trầm ngâm suy nghĩ, như phải quyết định một vấn đề tế nhị lắm. Và ông tuyên bố
quyết định của ông: họ có thể đi nhưng không được tin vào bọn lang băm và chỉ
được theo đơn thuốc của ông.
Bác sĩ đi rồi, mọi người đều có cảm
giác như có việc vui mừng. Phu nhân yên tâm hơn, quay vào với con gái, còn
Kitti thì tỏ ra đã vui vẻ như cũ. Thời gian này, cô thường làm ra vẻ như vậy.
- Quả thực con khỏe rồi, mẹ ạ. Nhưng
nếu mẹ muốn đi thì ta cùng đi, - cô nói, và muốn tỏ ra quan tâm đến dự định du
lịch này, cô bắt đầu bàn tới việc chuẩn bị lên đường.
--------------------------------
1 Tức nitrat bạc.
2 ý nói bâng quơ, không đâu vào đâu.
Chương
2
Doli đến khi bác sĩ đã ra về. Bà
biết thầy thuốc đến khám bệnh vào hôm đó, và tuy vừa mới lại người sau khi ở cữ
(bà vừa sinh con gái vào cuối mùa đông), mặc dầu trong lòng còn nhiều nỗi lo
phiền, bà vẫn để lại nhà đứa bé mới đẻ và một đứa con gái vừa chớm bệnh, để tới
hỏi thăm bệnh tình Kitti.
- Thế nào? - bà bước vào phòng
khách, mũ vẫn đội trên đầu. - Cả nhà xem ra vui vẻ nhỉ? Thế thì mọi việc chắc
đều êm đẹp thôi?
Mọi người cố thuật lại cho bà nghe
những điều bác sĩ dặn nhưng khó mà nhắc lại bác sĩ đã nói những gì, mặc dầu ông
ta nói rất lâu, bằng những lời lẽ trau chuốt nhất; chỉ có điều thú vị duy nhất
là việc quyết định ra nước ngoài. Bất giác Doli thở dài. Người bạn thân nhất
của bà là cô em sắp đi rồi. Và cuộc sống của bà thì chẳng vui gì. Từ ngày làm
lành với Xtepan Arcaditr, bà thấy quan hệ với chồng có vẻ nhục nhã. Việc hàn
gắn do Anna thu xếp tỏ ra mỏng manh và sự hòa thuận của đôi vợ chồng vẫn đe doạ
tan vỡ vì chuyện cũ. Tuy không có gì rõ rệt, nhưng Xtepan Arcaditr gần như
không bao giờ ở nhà, tiền hầu như lúc nào cũng thiếu và Doli thì luôn luôn bị
sự nghi ngờ dằn vặt. Bà gạt bỏ mối ngờ vực đó đi, bà ghê sợ những nỗi đau đớn
đã phải chịu đựng vì ghen tuông. Cơn ghen thứ nhất, một khi vượt qua, không thể
tái diễn nữa, và dù có phát giác sự phụ bạc mới, nó cũng không thể tác động
mạnh mẽ đến bà như lần đầu. Sự phát giác đó nếu xảy ra, hẳn sẽ chỉ làm bà từ bỏ
những thói quen trong đời sống vợ chồng và bà cứ để mặc cho mình bị lừa dối,
rồi khinh chồng và tự khinh mình hơn nữa, vì đã tỏ ra yếu đuối đến thế. Ngoài
điều ấy, những lo lắng của một gia đình đông đúc làm bà không rảnh rang lúc
nào: khi thì đứa bé mới đẻ chịu bú, khi thì người vú bỏ đi, khi thì một đứa nhỏ
lại ốm, như lúc này.
- Các cháu ra sao? - phu nhân hỏi
con gái.
- Chao! Chúng con có nhiều chuyện
buồn bực lắm, mẹ ạ! Cháu Lili mới chớm phải bệnh gì ấy, con sợ là nó sốt ban.
Hôm nay con phải đến để xem tình hình Kitti ra sao, nếu không thì con cũng
chẳng rời nhà đi đâu được. Cầu Chúa che chở chúng con!
Sau khi bác sĩ về, lão quận công
cũng ra khỏi phòng làm việc; ông chìa má cho Doli hôn, nói chuyện một lát với
con gái, rồi quay về phía vợ:
- Bà định thế nào? Bà và con đi à?
Còn tôi thì bà tính sao?
- Tôi nghĩ ông nên ở lại thì hơn,
Alecxandr ạ, - bà vợ nói.
- Tuỳ bà thôi.
- Mẹ ạ, tại sao ba lại không cùng đi
với chúng ta? - Kitti nói. Như thế vui hơn, cả cho ba, cả cho mẹ con ta.
Lão quận công đứng dậy và lấy tay
vuốt tóc Kitti. Cô ngẩng đầu và gượng cười, nhìn ông. Cô thấy hình như bao giờ bố
cũng hiểu mình hơn tất cả mọi người khác, tuy ông ít khi chuyện trò với cô. Cô
được ông chiều nhất, vì là út và cô có cảm giác lòng yêu thương cô làm ông trở
nên sáng suốt. Khi bắt gặp cặp mắt xanh hiền hậu của ông đăm đăm nhìn mình, cô
thấy hình như ông nhìn thấu suốt lòng cô và hiểu tất cả những tình cảm xấu xa
đang khuấy động tâm can. Cô kiễng lên ngang tầm ông, mặt đỏ dừ, chờ đợi ông hôn
nhưng ông chỉ khẽ kéo tóc cô và nói:
- Cái loại độn tóc giả này thật đốn!
Đời thuở nào, tóc con gái mình thì không chạm tới được, mà lại đi vuốt tóc một
người đàn bà chết rồi.
Thế nào, Doli, - ông hỏi cô con gái
lớn, - cái nhân vật kỳ dị của con hiện đang làm gì?
- Thưa ba, không làm gì cả ạ, - Doli
trả lời, biết bố nói đến chồng mình. - Nhà con đi vắng luôn, con ít gặp lắm, -
bà không đừng được và nói thêm như vậy với một nụ cười châm biếm.
- Nó chưa về quê bán khu rừng ấy à?
- Thưa ba chưa ạ, nhà con vẫn mới
chỉ dự định thế thôi.
- Thật ư? - lão quận công nói. - Thế
tôi có cùng đi không nào? Được, - ông nói với vợ và ngồi xuống. - Nghe ba đây,
Kitti này, - ông nói tiếp với cô gái út. Một buổi sáng nào đó khi ngủ dậy, con
sẽ tự nhủ như thế này: "Tôi đã khỏe hẳn và vui vẻ rồi mà, lại phải tiếp
tục đi dạo chơi buổi sáng với ba vào một ngày sương giá đẹp trời". Con
thấy thế nào?
Điều bố nói có vẻ đơn giản lắm,
nhưng nghe câu ấy, Kitti bối rối và lúng túng như tên tội phạm hết đường chối
cãi. "Đúng là ba ba biết cả rồi, ba hiểu cả và ba muốn mình hiểu là, dù có
tủi nhục mấy đi nữa, mình cũng phải vượt qua". Cô không đủ sức trả lời
nữa. Cô mở miệng, bỗng oà lên khóc rồi vội vã chạy ra khỏi phòng.
- Ông lại trêu chọc nó rồi! - phu
nhân rầy la chồng. - Ông lúc nào cũng cứ là... - và bà bắt đầu kể lể trách móc.
Lão quận công nghe vợ oán trách hồi
lâu, không nói lại câu nào, nhưng mặt ông mỗi lúc một cau có.
- Tội nghiệp con bé, nó thật đáng
thương, thật đáng thương, thế mà ông không thấy mọi ám chỉ đến nguyên nhân nỗi
buồn đều làm nó đau đớn. Ôi! Sao lại có thể xét người lầm lẫn đến thế nhỉ! -
phu nhân nói, và nghe giọng bà thay đổi, Doli và lão quận công hiểu bà nói đến
Vronxki. - Tôi không hiểu sao lại không có những luật lệ để đối phó với cái bọn
hèn mạt và ti tiện đến thế.
- à! Tại tôi không muốn nghe điều
đó, - lão quận công lầm lầm nói.
Ông đứng dậy như để đi ra, nhưng lại
đừng ở ngưỡng cửa. - Này bà ơi, có luật lệ đấy, và vì đã muốn khiêu khích tôi,
nên tôi sẽ nói cho bà biết ai phải chịu trách nhiệm về tất cả những điều đó:
chính bà, và chỉ có mình bà thôi. Có luật lệ trị bọn trẻ ranh đi tán gái ấy, và
bao giờ cũng vẫn có đấy chứ! Đúng vậy, và nếu xảy ra những chuyện lẽ ra không
bao giờ nên xảy ra, thì dù tôi có già như thế này, tôi cũng sẽ thách cái thằng
sở khanh ấy đấu súng! Bây giờ thì bà trông nom lấy nó và mời tất cả các thứ
lang băm lại đi!
Lão quận công có lẽ còn tiếp tục nói
lâu nữa bằng cái giọng ấy, nếu phu nhân không tỏ ra khuất phục và hối hận, như
bà thường làm trong những tình thế gay go.
- Alecxandr, Alecxandr! - bà lẩm
bẩm, nước mắt giàn giụa bước lại gần ông. Khi bà bắt đầu khóc thì lão quận công
cũng nguôi dần. Ông đi lại phía bà.
- Thôi, được rồi, được rồi! Tôi biết
bà cũng cực lòng lắm đấy! Biết làm thế nào? Đó không phải tai họa lớn. Lạy Chúa
lòng lành vô cùng... Cảm ơn, - ông nói thêm, không còn hiểu mình đang nói gì
đáp lại cái hôn đẫm nước mắt của phu nhân, mà ông cảm thấy trên tay.
Và lão quận công ra khỏi phòng.
Khi Kitti, nước mắt giàn giụa, vừa
ra khỏi phòng khách thì Doli, với bản năng người mẹ, lập tức cảm thấy đây là
việc của đàn bà và chuẩn bị can thiệp. Bà bỏ mũ ra, và tư tưởng đã sẵn sàng, đợi
thời cơ hành động; khi mẹ tấn công bố, bà cố can giữ phu nhân trong chừng mực
lòng hiếu thảo cho phép. Khi lão quận công nổi nóng, bà im lặng:
bà thấy hổ thẹn cho mẹ và mến thương
bố, vốn tính hiền hậu, ông dễ nguôi giận; nhưng khi bố đã đi ra, Doli bèn sửa
soạn làm cái việc quan trọng nhất: đi gặp và an ủi Kitti.
- Con định nói với mẹ từ lâu rồi, mẹ
ạ: mẹ có biết khi lại đây lần vừa rồi, Levin đã có ý định hỏi Kitti không? Anh
ta có nói chuyện đó với Xtiva.
- Thế nào? Mẹ không hiểu...
- Có lẽ Kitti đã từ chối anh ta. Em
nó không nói gì với mẹ ư?
- Không, nó không nói với mẹ về ai
cả, nó còn quá kiêu kỳ. Nhưng mẹ biết, tất cả đều do ở...
- Nhưng mẹ thử nghĩ xem nếu nó đã từ
chối Levin... mà con chắc nó sẽ không từ chối nữa không có anh chàng kia... Thế
mà sau đó, nó lại bị lừa dối kinh khủng như thế đấy!
Phu nhân hoảng sợ khi nghĩ đến trách
nhiệm đè nặng lương tâm bà và đâm nổi giận:
- Chà! Mẹ không còn hiểu ra thế nào
nữa! Bây giờ người ta chỉ muốn làm theo ý mình, người ta không nói gì với mẹ
cả, rồi sau đó thì...
- Mẹ ạ, con vào với nó đây.
- Đi đi, mẹ không ngăn giữ con đâu,
- bà mẹ trả lời.
Chương
3
Bước vào phòng khách nhỏ bé của
Kitti, một căn phòng xinh đẹp, tường dán giấy hồng, bày biện những đồ trang trí
nhỏ bằng sứ tráng men cổ vùng Saxe 1, trông trẻ rói, tươi hồng và phơi phới như
chính bản thân Kitti hai tháng trước đây, Doli nhớ lại hai chị em đã cùng nhau
trang hoàng căn phòng này năm ngoái và hồi ấy cả hai đều vui vẻ, sung sướng!
Tim Doli buốt nhói khi thấy Kitti ngồi trên tấm thảm. Kitti liếc đôi mắt nhìn
chị và sắc mặt lạnh lùng hơi nghiêm nghị của cô không hề thay đổi.
- Chị sắp phải ở lì trong nhà, và em
sẽ không thể đến thăm chị được, Daria Alecxandrovna nói, ngồi xuống cạnh em.
Chị muốn nói chuyện với em.
- Chuyện gì cơ? - Kitti vội hỏi,
ngẩng đầu lên, vẻ sợ hãi.
- Chuyện buồn của em đấy...
- Em chẳng có chuyện gì buồn cả.
- Thôi đi, Kitti. Cô tưởng chị không
biết gì cả chăng? Chị biết hết.
Hãy tin ở chị, tất cả cái đó có gì
quan trọng đâu... Bọn chị đây đều qua bước đó cả rồi.
Kitti im lặng nhưng nét mặt vẫn
nghiêm nghị.
- Hắn ta không đáng để em phải đau
khổ đâu, - Daria Alecxandrovna nói tiếp, đi thẳng ngay vào vấn đề.
- Bởi vì anh ấy rẻ rúng em, - Kity
nói, giọng run run. - Chị đừng nói với em chuyện ấy nữa. Em xin chị, đừng nói với
em chuyện ấy nữa!
- Nhưng đã ai nói với em chuyện này?
Không ai cả. Chị tin chắc anh ta đã yêu em, và anh ta vẫn còn yêu em, nhưng...
- Trời! Đối với tôi, thật không gì
gớm ghiếc hơn lời chia buồn ấy, - Kitti bỗng nổi giận, hét lớn. Cô đỏ mặt
ngoảnh đi và ngón tay run bần bật vặn vẹo chiếc khóa thắt lưng Doli biết cô em
hay có thói quen lấy tay vân vê một vật gì khi cáu giận; Doli biết lúc đó,
Kitti có thể mất tự chủ và thốt ra những lời đáng tiếc và khó nghe, bà muốn làm
cô em nguôi giận nhưng muộn quá rồi.
- Chị muốn làm tôi hiểu cái gì nào?
- Kitti nói nhanh. Rằng tôi đi mê một người đàn ông không coi tôi ra gì, tôi
chết mệt vì yêu người ta hay sao? Đấy, bà chị tôi mà nói với tôi thế đấy, cứ
tưởng làm thế là tỏ ra... thương hại tôi đấy! Tôi không cần đến cái lòng thương
xót, cái nhân nghĩa giả ấy!
- Kitti, em thật bất công!
- Sao chị lại cứ giày vò tôi!
- Không, ngược lại, chị... chị thấy
em có điều buồn bực...
Nhưng trong cơn nóng giận, Kitti
không nghe chị nữa.
- Tôi không việc gì mà buồn bực hay
đi cầu xin những lời an ủi cả.
Tôi cũng khá kiêu kỳ đấy, tôi không
bao giờ đi yêu một người không màng đến tôi.
- Nhưng chị cũng không nói là... Có
điều là, em hãy nói thật với chị, - Daria Alecxandrovna cầm tay em gái nói
tiếp. - Em hãy nói cho chị biết, Levin đã nói chuyện với em phải không?
Nghe đến tên Levin, Kitti như mất
hết tự chủ: cô nhảy bật khỏi ghế, ném chiếc khóa thắt lưng xuống đất và vung
tay, thét lớn:
- Có dính dáng gì đến Levin ở đây?
Tôi không hiểu sao chị lại cần phải giày vò tôi thế! Tôi đã nói với chị, và tôi
nhắc lại với chị rằng tôi vốn kiêu kỳ và không bao giờ, không bao giờ, tôi lại
làm như chị:
không bao giờ tôi trở về với người
đàn ông đã lừa dối tôi để đi yêu một người đàn bà khác! Tôi không hiểu được
điều ấy! Có lẽ chị có thể hiểu được đấy, còn tôi thì chịu!
Nói xong, cô nhìn chị, thấy Doli im
lặng, buồn bã cúi đầu và Kitti, định rời khỏi phòng, lại không đi ra nữa, cô
ngồi xuống gân cửa, úp mặt vào khăn tay.
Không khí im lặng kéo dài vài phút.
Doli nghĩ đến phận mình. Nỗi tủi nhục mà bà đã thấy quá rõ, lúc này lại càng
xót xa hơn khi cô em gợi lại. Bà không ngờ tới sự tàn nhẫn đến thế và bà giận
Kitti. Nhưng bỗng nhiên, bà nghe thấy tiếng áo sột soạt, tiếng nức nở cố nén
lại và có đôi tay ôm lấy cổ bà: Kitti đang quỳ trước mặt chị.
- Chị Doli yêu quý, em khổ sở lắm,
khổ sở lắm! - cô thì thầm với vẻ tội lỗi. Và khuôn mặt xinh đẹp giàn giụa nước
mắt gục vào váy Daria Alecxandrovna.
Tựa hồ như nước mắt là thứ dầu trơn
cần thiết cho quan hệ hai chị em trở lại điều hoà, Doli và Kitti, sau khi khóc
xong, không nhắc đến những điều cả hai đang bận tâm nữa, nhưng tuy nói về những
chuyện không quan trọng gì, hai chị em vẫn hiểu nhau. Kitti biết lời lẽ cô thốt
ra trong cơn giận dữ về việc anh rể bội bạc và về nỗi tủi nhục của chị đã xúc
phạm đến trái tim Doli đáng thương, nhưng bà chị đã tha thứ cho cô. Về phía
Doli, bà đã biết tất cả mọi điều muốn biết: bà tin chắc linh cảm của bà là đúng
và nguyên nhân nỗi buồn của Kitti, một nỗi buồn không gì khuây khoả được, chính
là do Levin đã hỏi cô làm vợ và cô đã từ chối; do Vronxki lừa dối cô và cô sẵn
sàng yêu Levin và căm ghét Vronxki. Kitti không thốt ra câu nào về việc này: cô
chỉ nói về tâm trạng cô.
- Em không buồn chút nào cả, - cô
nói khi đã nguôi giận, - nhưng chị hiểu không, đối với em bây giờ, tất cả đều
xấu xa, ghê tởm và bỉ ổi, trước nhất là em chắc chị không thể biết được em có
những ý nghĩ rất xấu xa về mọi vấn đề.
- Em có những ý nghĩ gì xấu xa nào?
- Doli mỉm cười hỏi.
- Những ý nghĩ xấu xa và bỉ ổi nhất;
em không thể nói với chị được. Không phải là buồn bã hay chán nản đâu, còn tệ
hơn thế kia.
Hình như tất cả cái gì tốt đẹp trong
người em đã biến mất: chỉ còn lại cái gì xấu nhất thôi. Biết nói thế nào với
chị nhỉ? - cô nói tiếp, nhìn thấy vẻ không tin trong mắt chị. - Lúc nãy ba định
nói chuyện với em... em tưởng như ba chỉ nghĩ em cần lấy chồng. Nếu mẹ đưa em
đi khiêu vũ, em cho rằng chỉ vì mục đích duy nhất là gả chồng cho em càng sớm
càng hay và tống em đi cho thoát. Em biết không đúng như thế đâu nhưng em không
thể xua đuổi những ý nghĩ ấy được. Em không sao chịu nổi cái "bọn trai trẻ
đến tuổi lấy vợ" như người ta thường gọi nữa. Lúc nào em cũng có cảm tưởng
là họ cân nhắc giá trị của em. Trước kia, được mặc quần áo dạ hội đi đâu là em
thấy vui thích rất thành thật: em tự ngắm mình, còn bây giờ em thấy xấu hổ, mất
tự nhiên. Chị bảo biết làm sao được? Bác sĩ... thế đấy...
Kitti ngừng lại; cô muốn nói tiếp là
từ kh có sự thay đổi đó trong lòng thì cô thấy Xtepan Arcaditr trở nên khả ố và
cứ trông thấy ông ta là trong đầu óc cô lại thấy hiện ra những cảnh tượng thô
bỉ và khiếm nhã nhất.
- Phải đấy, tất cả đối với em đều
hiện ra dưới khía cạnh thô tục, bỉ ổi nhất, - cô nói tiếp. Bệnh của em là thế
đấy. Có lẽ rồi nó cũng qua đi thôi.
- Em đừng nghĩ đến nó nữa...
- Em không thể không nghĩ được. Em
chỉ thấy thoải mái khi ở nhà chị với các cháu.
- Đáng tiếc là hiện nay, em lại
không thể đến ở với chị được.
- Có chứ, em sẽ đến. Em đã bị sốt
ban rồi và em sẽ thuyết phục mẹ cho đi.
Kitti giữ vững ý định và đến ở với
chị. Cô săn sóc các cháu suốt thời kỳ chúng mắc bệnh sốt ban (vì đúng là bệnh
ấy). May nhờ hai chị em, bọn trẻ qua được cơn nguy kịch, nhưng sức khỏe Kitti
vẫn không hồi phục. Trong tuần chay, gia đình Serbatxki ra nước ngoài.
--------------------------------
1 Vieux Saxe (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
4
Trong cả xã hội quý phái ở
Peterburg, chỉ có một khối trong đó mọi nhưng đều quen biết nhau, người nọ đến
thăm người kia. Nhưng khối này lại chia thành nhiều nhóm nhỏ. Anna Arcadievna
Carenin liên hệ chặt chẽ với ba môi trường khác nhau. Một là môi trường quan
chức của chồng, gồm các bạn đồng liêu và những người dưới quyền ông, họ đoàn
kết hoặc cách biệt nhau do những điều kiện xã hội khác nhau và bất thường nhất.
Anna chỉ còn mang máng nhớ cái cảm giác kính trọng, gần như tôn sùng của nàng
đối với những nhân vật đó trong thời gian đầu. Bây giờ nàng hiểu rõ tất cả
những người đó rồi, như người ta quen biết nhau trong huyện lỵ; nàng biết những
nhược điểm, thói tật của họ, biết họ dễ chạm nọc ở chỗ nào nhất: nàng biết rõ
quan hệ giữa người nọ với người kia và giữa bọn họ với điểm trung tâm chủ yếu;
biết họ cần dựa vào đâu và bằng cách nào; biết những gì liên kết hoặc chia rẽ
họ; nhưng giới đàn ông này, chỉ tranh luận toàn việc quốc gia đại sự, đối với
nàng không có gì thú vị, và mặc những lời khẩn khoản của nữ bá tước Lidia, nàng
đã trốn tránh giới này.
Giới thứ hai nàng năng lui tới là
giới đã giúp Alecxei Alecxandrovitr tiến bước trên đường công danh. Trung tâm
của nó là nữ bá tước Lidia Ivanovna. Đây là xã hội của các bà già mộ đạo, xấu
xí và đức hạnh, của các ông nhiều tham vọng, thông minh và học thức. Một người
thông minh trong giới này đã đặt tên cho nó là "lương tâm của xã hội
Puskin". Alecxei Alecxandrovitr rất thiết tha với nhóm này và Anna vốn rất
khéo léo hòa mình với người chung quanh, đã có bạn thân trong số những người
này vào thời gian đầu nàng ở Peterburg. Nhưng bây giờ, khi ở Moxcva về, nàng
không chịu nổi nhóm này nữa. Nàng thấy hình như ở đó mọi người và trước hết là
nàng, đều gò bó trong mọi cử chỉ và nàng buồn chán, khó chịu đến mức phải cố
tìm cách bớt lui tới nữ bá tước Lidia Ivanovna càng thưa càng tốt.
Giới thứ ba mà Anna giao thiệp mới
đúng là giới thượng lưu thật sự: cái giới của các cuộc khiêu vũ, tiệc tùng,
trưng diện, cái giới một tay bấu víu vào hoàng cung để khỏi rớt xuống giới nửa
thượng lưu, mà họ cho là đáng khinh tuy nó có những sở thích không phải chỉ
tương tự mà giống hệt với sở thích của giới thượng lưu chính cống.
Nàng giao thiệp với giới này là do
nữ bá tước Betxi, vợ người anh em họ của nàng, bà ta có mười hai vạn lợi tức và
đặc biệt yêu mến Anna ngay khi nàng xuất hiện trong giới thượng lưu; bà vồ vập
săn sóc, và lôi kéo nàng vào giới mình, bằng cách chế giễu nhóm của nữ bá tước
Lidia Ivanovna.
- Khi nào già và xấu đi, tôi sẽ
giống bà ta, - Betxi nói, - nhưng một người trẻ và đẹp như chị không nên giam
mình vào cái nhà dưỡng lão ấy!
Hồi đầu, Anna hết sức tránh xa môi
trường của quận chúa Tverxcaia, vì ở đó phải chi tiêu tốn kém quá khả năng của
nàng, và trong thâm tâm, nàng ưa nhóm giao tế đầu tiên hơn. Nhưng sau chuyến đi
Moxcva thì lại khác hẳn. Nàng bắt đầu lảng tránh các bạn bè đoan trang và đi
lại với xã hội thượng lưu này. ở đây, nàng gặp Vronxki và cảm thấy vừa vui vừa
bối rối. Nàng hay gặp Vronxki nhất ở nhà quận chúa Tverxcaia, cũng thuộc họ
Vronxki, và là chị em con chú bác với Alecxei Alecxandrovitr. Bất cứ chỗ nào có
thể gặp được Anna là Vronxki đều có mặt và mỗi lần có dịp, chàng lại thổ lộ
tình yêu với nàng. Nàng không bao giờ tạo cho chàng có cơ hội như thế, nhưng
mỗi lần gặp chàng, tâm hồn nàng lại bừng cháy cái cảm giác dạt dào đã xâm chiếm
nàng khi gặp chàng lần đầu trên xe lửa. Nàng cảm thấy hễ thoáng thấy chàng là
niềm vui đã bừng lên trong khoé mắt, buộc đôi môi nàng phải mỉm cười và nàng
không thể giấu giếm niềm vui đó được.
Mới đầu, Anna thành thật tưởng mình
không bằng lòng vì chàng cứ tự tiện theo đuổi; nhưng ít lâu sau khi ở Moxcva
về, trong một dạ hội, mà nàng đoán sẽ gặp chàng nhưng chàng lại không đến, nàng
thấy nỗi buồn tràn ngập trong lòng và nàng hiểu rằng mình đã tự dối lòng, rằng
sự săn đón của Vronxki chẳng những không làm nàng khó chịu mà còn chứa đựng tất
cả lẽ sống của nàng.
Một nữ danh ca nổi tiếng biểu diễn
đêm thứ hai và tất cả xã hội thượng lưu ở Peterburg đều đến nhà hát. Thoáng
thấy bà chị họ, Vronxki không đợi đến lúc nghỉ, bỏ chỗ ghế hàng đầu của mình để
tới gặp chị trong ghế "lô".
- Thế nào, sao chú không đến ăn
trưa? - bà hỏi. - Sự linh cảm minh mẫn của những người đang yêu thật kỳ diệu, -
bà mỉm cười nói thêm, cốt để cho mình chàng nghe: - nàng cũng không đến nốt.
Nhưng sau buổi biểu diễn chú đến nhé.
Vronxki nhìn chị, vẻ dò hỏi. Bà gật
đầu. Chàng mỉm cười cảm ơn và ngồi xuống cạnh.
- à! Tôi còn nhớ những lời chế giễu
của chú đấy! - quận chúa Betxi nói tiếp, bà đặc biệt thích thú theo dõi những
tiến triển của mối tình say đắm này. - Đấy chú xem, nó đã dẫn chú tới đây! Chú
bị sa lưới rồi, chú em thân mến ạ!
- Tôi chỉ mong có một điều là được
sa lưới thôi, - Vronxki trả lời với nụ cười hiền lành điềm đạm. - Nói cho đúng,
nếu tôi có phàn nàn điều gì, thì đó là chưa được sa lưới hoàn toàn thôi. Tôi
bắt đầu thất vọng rồi.
- Chú còn hy vọng những gì? - Betxi
nói, có vẻ như tức giận thay cho người bạn gái; - ta nên hiểu nhau 1, - nhưng
đôi mắt bà sáng lên những ánh lửa nhỏ chứng tỏ bà hoàn toàn hiểu rõ như chàng,
là chàng còn có thể hy vọng được những gì trong việc này.
- Không hy vọng gì nữa, - Vronxki
cười nói, để lộ hàm răng đều đặn. - Xin lỗi, chàng nói thêm và cầm lấy ống nhòm
trong tay bà chị họ, nhìn qua vai trần của bà ta tới hàng ghế "lô"
trước mặt. - Tôi sợ trở thành lố bịch mất.
Chàng thừa biết trước mắt Betxi và
mọi người trong giới thượng lưu, chàng không sợ bị coi là lố bịch. Chàng thừa
biết trước mắt những người này, vai trò theo đuổi một cô thiếu nữ và nói chung
một người đàn bà chưa chồng mà bị cự tuyệt thì có thể bị coi là lố bịch; nhưng
vai trò đi tán tỉnh một thiếu phụ có chồng, làm đủ mọi cách để xiêu lòng người
ấy, vai trò đó có cái gì đẹp đẽ, cao cả và không bao giờ bị chế giễu, cho nên
chàng hạ ống nhòm xuống và nhìn bà chị họ với nụ cười hãnh diện và vui vẻ, thấp
thoáng dưới hàng ria.
- Tại sao chú không đến ăn trưa? -
bà chị nhìn chàng, vẻ thán phục và hỏi.
- Tôi phải kể cho chị nghe mới được.
Tôi có việc bận, bận gì chị biết không? Tôi đánh cược một ăn một trăm, một
nghìn đấy... chị không thể nào đoán nổi đâu. Tôi đã hòa giải cho một người
chồng với kẻ xúc phạm đến vợ ông ta! Thật đấy, đúng như tôi đang nói với chị
đây.
- Thế chú đã thành công à?
- Gần thành công.
- Chú phải kể lại cho tôi nghe
chuyện đó nhé, bà đứng dậy và nói. - Lúc nghỉ sau, chú đến nhé.
- Tôi không đến được: tôi sang nhà
hát Pháp đây.
- Sau khi nghe Ninxon hát mà còn
sang đấy thì chịu sao được? - Betxi hoảng hốt hỏi, mặc dầu bà ta không bao giờ
phân biệt được Ninxon với bất cứ ca sĩ nào.
- Biết làm thế nào được? Tôi đã hẹn
ở đằng ấy để làm công việc hòa giải.
- Sung sướng thay những kẻ đi hòa
giải, họ sẽ được Chúa cứu vớt! - Betxi nói, nhớ ra có người đã nói câu gì gần
giống như thế: thôi, ngồi xuống đây và kể cho tôi nghe đi. Việc gì thế?
Và bà lại ngồi xuống.
--------------------------------
1 Entendons-nous (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
5
- Hơi vội đấy, nhưng chuyện hay đến
nỗi tôi thèm kể chị nghe đến chết đi được, - Vronxki nhìn bà chị với đôi mắt
tươi cười và nói. - Tôi sẽ không kể đích danh đâu.
- Nhưng tôi sẽ đoán ra, thế lại càng
thú hơn...
- Chị nghe nhé: có hai chàng thanh
niên rất vui nhộn...
- Chắc hẳn là các sĩ quan trong
trung đoàn chú phải không?
- Tôi không nói đó là sĩ quan, mà
chỉ là hai chàng thanh niên đã ăn uống no nê.
- Cứ nói thẳng là đã say sưa đi.
- Có thể như vậy. Họ đi đến ăn tại
nhà một người bạn, trong lòng rất vui vẻ. Họ trông thấy một người đàn bà đẹp đi
xe ngựa vượt qua trước mặt, nàng quay lại và vừa cười vừa gật đầu chào họ, hay
ít nhất cũng là họ tưởng trông thấy như vậy. Họ ngạc nhiên thấy người đẹp đó
lại dừng xe trước ngôi nhà họ đến. Nàng đi lên gác trên. Họ chỉ thấy được đôi
môi tươi tắn dưới tấm mạng che và đôi chân nhỏ, xinh xắn.
- Chú kể chuyện đó với biết bao cảm
xúc làm tôi tưởng chính chú là một trong hai thanh niên đó.
- Chị vừa nói gì mà lạ vậy? Vậy thì
hai chàng thanh niên ấy lên nhà người bạn đã mời họ đến dự tiệc chia tay. ở đó,
có lẽ họ hơi quá chén, như thường xảy ra trong các tiệc chia tay. Trong bữa ăn,
họ hỏi ai ở tầng gác trên cùng. Không ai biết cả, trừ người hầu của ông bạn
kia, khi được hỏi ở trên có nhiều mamzelles 1 không, hắn trả lời là có nhiều
lắm. Sau bữa ăn, hai chàng thanh niên vào phòng làm việc của chủ nhân và viết
một bức thư cho người đàn bà chưa quen biết ấy:
một bức thư say đắm, đầy những lời
thề thốt. Họ đích thân mang thư lên gác để còn giãi bày thêm những điều có thể
còn chưa rõ trong thư.
- Sao chú lại kể cho tôi nghe những
chuyện điếm nhục thế nhỉ? Rồi sao nữa?
- Họ giật chuông. Một cô hầu gái đi
ra; họ đưa thư cho cô hầu và nói cả hai đều yêu say mê đến mức có thể chết ngay
ở bậc cửa. Cô hầu ngạc nhiên, thương thuyết với họ. Bỗng nhiên, một ông có bộ
râu má xoắn trôn ốc, nhô ra, mặt đỏ như tôm càng, bảo cho họ biết không có ai
ngoài vợ ông ở trong phòng này và đuổi họ đi.
- Tại sao chú lại biết ông ấy có bộ
râu má... chú nói thế nào nhỉ, xoắn trôn ốc à?
- Chị cứ nghe đã. Hôm nay, tôi đã
đến để dàn hòa cho họ mà.
- Câu chuyện rồi sau thế nào?
- Đó là đoạn hay nhất đấy, cặp vợ
chồng hạnh phúc đó là vợ chồng một ông cố vấn thực nhiệm và một bà cố vấn thực
nhiệm 2. Ông cố vấn thực nhiệm đã đệ đơn kiện và tôi phải làm trung gian hòa
giải; mà hòa giải rất cừ mới chết chứ! Tôi cam đoan với chị, Talâyrăng 3 so với
tôi cũng chưa thấm vào đâu.
- Khó khăn ở chỗ nào?
- Chị cứ nghe đã... chúng tôi đã xin
lỗi một cách đứng đắn là:
"Chúng tôi rất lấy làm ân hận
về việc này, chúng tôi xin ngài tha thứ cho về sự hiểu lầm tai hại này..."
Ông cố vấn thực nhiệm có bộ râu má xoắn trôn ốc bắt đầu xuôi xuôi, ông ta cũng
muốn phát biểu cảm nghĩ của mình nhưng vừa mới nói ông đã sôi máu lên và văng
tục; tôi lại phải giở tài ngoại giao ra. "Tôi công nhận là cách cư xử của
họ thật đáng trách nhưng xin ông hãy chú ý đến sự hiểu lầm, đến tuổi trẻ của
họ; các cậu thanh niên ấy vừa chè chén xong, ông hiểu cho. Trong thâm tâm, họ
hối hận lắm, và xin ông tha thứ cho lỗi lầm của họ".
Ông cố vấn thực nhiệm lại nguôi
giận: "Tôi bằng lòng, bá tước ạ, tôi sẵn sàng tha thứ nhưng ngài nên hiểu
rằng, vợ tôi, một người đàn bà đoan trang, lại phải chịu đựng những sự đeo
đuổi, những sự thô bỉ và hỗn xược của bọn vô lại ấy, bọn khốn...". Thế
nhưng bọn vô lại ấy cũng có mặt ở đó, tôi lại phải trấn an họ. Tôi phải sử dụng
tất cả khóa ngoại giao; và đúng lúc sự việc sắp sửa chấm dứt thì ông cố vấn
thực nhiệm lại nổi cơn lôi đình lần nữa, mặt đỏ tía tai, bộ râu má xoắn trôn ốc
dựng đứng lên; tôi lại phải giở hết miệng lưỡi Tô Tần ra lần nữa.
- Chà! Em phải kể cho bà chị nghe
chuyện này mới được? - nữ bá tước Betxi cười nói với một bà vừa bước vào khoang
ghế "lô". - Chú ấy làm tôi buồn cười quá. Thôi, may mắn nhé 4, bà nói
tiếp và chìa cho Vronxki một ngón tay không bận cầm quạt, rồi ngọ nguậy vai để
ngăn cổ áo không co lên, cốt để vai, ngực hoàn toàn lộ trần ra cho hợp thời
trang, khi bà ra ngồi xuống trước ghế lô của mình, dưới ánh đèn hơi, trước mắt
mọi người.
Vronxki đến nhà hát Pháp, ở đó chàng
quả thực đang cần gặp viên chỉ huy trung đoàn, vốn không bỏ buổi biểu diễn nào,
để bàn bạc về công việc dàn hòa đã làm chàng bận tâm và thích thú từ hai hôm
nay.
Dính líu đến việc này, có Pet'rixki
và hoàng thân trẻ tuổi Cedrov, một thanh niên xinh trai, mới nhập ngũ vào trung
đoàn. Nhất là còn cả danh tiếng của trung đoàn cũng bị đe doạ.
Cả hai đều thuộc tiểu đoàn của
Vronxki. Ông cố vấn thực nhiệm Venden đã tới tố cáo với viên chỉ huy của hai sĩ
quan đã xúc phạm đến vợ ông. Người vợ trẻ của ông - Venden kể lại (ông mới cưới
được 6 tháng) - đang ở nhà thờ với mẹ thì bỗng nhiên thấy nôn nao vì cô ta đang
có thai, do đó không thể đứng lâu được và phải lên chiếc xe ngựa thuê đầu tiên
gặp được để về nhà. Các viên sĩ quan liền đuổi theo ngay; cô ta hoảng sợ và
thấy trong người mỗi lúc một khó chịu hơn, phải ba chân bốn cẳng chạy lên gác.
Đích thân Venden ở công sở về, đã nghe thấy tiếng giật chuông và tiếng người
nói; ông đi ra và thấy các sĩ quan đang say rượu mang thư đến, ông liền tống họ
ra khỏi cửa.
- Không, anh muốn nói gì thì nói, -
viên chỉ huy bảo Vronxki mà ông mời đến gặp, - Pet'rixki quá quắt lắm rồi.
Không tuần lễ nào là không có chuyện xảy đến với anh ta. Viên quan kia không
chịu để yên đâu.
Vronxki nhìn thấy tất cả cái phiền
toái của sự việc và vì không có chuyện đấu súng trong trường hợp này, cho nên
cần làm đủ mọi cách để xoa dịu ông cố vấn thực nhiệm và ỉm chuyện đi. Viên chỉ
huy đã cho gọi Vronxki tới, chính vì ông coi chàng là người khôn ngoan, quan
tâm đến danh dự của trung đoàn. Hai người bàn bạc một lúc và đã quyết định là
Pet'rixki và Cedrov cùng đi với Vronxki đến xin lỗi ông cố vấn thực nhiệm. Viên
chỉ huy và Vronxki, cả hai đều hiểu tên tuổi Vronxki và bộ lon sĩ quan cận vệ
của chàng sẽ có tác dụng xoa dịu ông cố vấn thực nhiệm. Và thật vậy, cả hai
phương pháp đó đã tỏ ra có phần hiệu nghiệm; nhưng theo Vronxki, kết quả vẫn
chưa chắc chắn.
Tới Nhà hát Pháp, Vronxki kéo viên
chỉ huy ra phòng nghỉ và kể cho ông ta biết sự thành công hoặc đúng hơn là sự
thất bại trong nhiệm vụ của chàng. Sau khi suy nghĩ, viên chỉ huy quyết định
gác việc này lại; rồi cao hứng, ông hỏi Vronxki về những chi tiết cuộc gặp mặt
và không nín được cười hồi lâu khi nghe chuyện chàng kể lại.
- Thật là chuyện bậy bạ nhưng đến
chết cười được. Dù sao Cedrov cũng không thể đấu súng với vị đó được! Ông ta
cáu đến thế kia à? - viên chỉ huy cười hỏi lại lần nữa. Anh thấy Clerơ tối nay
thế nào?
Thật tuyệt! - ông nói, nhắc tới cô
đào hát mới người Pháp. - Mình xem cô ta thường xuyên mà vẫn thấy mỗi ngày một
đổi mới. Chỉ có người Pháp mới làm được như vậy.
--------------------------------
1 Một biến dạng có tính chất bình
dân của chữ mademoiselles nghĩa là các cô, các tiểu thư (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
2 Cố vấn thực nhiệm: phẩm hàm thứ 9
trong hệ thông ngôi thứ 14 bậc thời Nga hoàng, tương đương với đại uý ngạch 2
trong lục quân hoặc đại uý kỵ binh hoặc trung uý hải quân, tức là thấp nhất
trong hàng quan chức dân sự.
3 Talâyrăng, bộ trưởng ngoại giao
Pháp dưới thời chấp chính hồi đầu cách mạng 1789 và thời kỳ đế chế - là nhà
ngoại giao mưu trí, có nhiều thủ đoạn.
4 Bonne chance (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
6
Quận chúa Betxi không chờ đến hết
hồi cuối đã rời nhà hát ra về.
Bà ta vừa bước vào phòng thay quần
áo, thoa phấn khuôn mặt dài tái nhợt, sửa lại áo và sai pha trà ở phòng khách
lớn xong thì đoàn xe đã nối đuôi nhau đỗ trước toà nhà rộng lớn của bà ở đại lộ
Morxkaia. Các vị khách bước lên bậc thềm rộng và người gác cửa to béo, sáng
sáng vẫn ngồi đọc báo sau cánh cửa kính cho khách qua đường chiêm ngưỡng, đã mở
chiếc cửa đồ sộ đó ra êm như không, để các vị khách đi qua trước mặt.
Nữ chủ nhân, đầu tóc và bộ mặt vừa
trang điểm lại xong, cùng các vị khách, từ những cửa khác nhau, gần như cùng
một lúc bước vào phòng khách lớn có tường màu sẫm và trải thảm êm, có chiếc bàn
sáng rực, trên đó màu trắng khăn trải bàn, chất bạc chiếc ấm đun trà và chất sứ
trong suốt bộ khay chén, lấp lánh dưới ngọn lửa nến.
Nữ chủ nhân ngồi xuống sau ấm đun
trà và tháo găng tay. Bọn hầu phòng im lặng giúp khách kéo ghế ngồi tản ra,
thành hai nhóm:
một nhóm bên ấm trà cùng nữ chủ nhân
và một nhóm ở đầu bên kia phòng khách vây quanh bà vợ một viên đại sứ, người
xinh đẹp, mặc áo nhung, lông mày đen kẻ rõ nét. ở cả hai chỗ, theo lệ thường, những
phút đầu, câu chuyện còn rời rạc, ngắt quãng bởi những lời chào hỏi khách đến
sau, mời mọc uống trà và hình như còn đang dò dẫm xem nên bàn hẳn về chuyện gì.
- Xét về mặt diễn xuất thì nàng thật
kỳ diệu; rõ ràng là nàng đã nghiên cứu Conbatx, - một nhà ngoại giao trong nhóm
bà vợ đại sứ nói: - các ngài có chú ý tới nàng đã ngã như thế nào không...
- Ô, xin thôi đi, đừng nói đến
Ninxon nữa! Bàn về cô ta thì chẳng thêm được gì mới lạ đâu, - một bà nói, người
to béo, tóc hung, da dẻ hồng hào, không cả lông mày lẫn búi tóc, mặc áo lụa pha
màu. Đó là quận chúa Miarcaia, nổi tiếng là thô thiển, nói năng sỗ sàng và được
mệnh danh là đứa trẻ ghê gớm 1. Quận chúa Miarcaia ngồi giữa hai nhóm và lắng
nghe, khi bắt chuyện với nhóm này, lúc với nhóm kia. - Hôm nay, đã có ba người
nói câu đó với tôi về Conbatx. Y như họ đã thông đồng trước với nhau rồi! Mà
tôi cũng không hiểu sao câu đó lại có vẻ làm họ thú vị thế.
Câu chuyện bị cắt đứt vì ý kiến đó
và lại phải tìm đề tài mới.
- Ông hãy kể cho chúng tôi nghe một
câu chuyện gì vui vui, nhưng không được thâm nhé, - bà vợ đại sứ nói, bà vốn
lỗi lạc về khoa nói chuyện thanh lịch, tiếng Anh gọi là small talk 2 - bà nói
với nhà ngoại giao và chính ông ta cũng chưa biết mở đầu câu chuyện thế nào.
- Thế thì rất khó đấy, phải thâm thì
mới tức cười được, - ông mỉm cười nói. - Nhưng tôi cũng gắng thử xem. Xin bà cứ
cho tôi một đầu đề. Tất cả là ở đó. Khi đã có đầu đề rồi thì cũng dễ thêu dệt
thêm vào thôi. Tôi thường tự nhủ những nhà kể chuyện trứ danh của thế kỷ trước
giờ đây hẳn cũng sẽ rất lúng túng nếu phải nói chuyện cho dí dỏm. Tất cả cái gì
thuộc về trí tuệ đều đã trở thành tẻ ngắt...
- Điều đó thì người ta nói từ lâu
rồi, - bà vợ đại sứ cười, ngắt lời ông ta. Câu chuyện bắt đầu một cách dí dỏm;
nhưng chính vì quá dí dỏm nên nó lại phải dừng lần nữa. Phải nhờ đến một phương
pháp chắc chắn và không trệch đi đâu được: đó là nói xấu nhau.
- Ngài có thấy là Tuscievitr có vẻ
giông giống Lui XV không? - ông ta nói, đưa mắt ra hiệu chỉ một chàng thanh
niên đẹp trai tóc hung đứng gần bàn.
- ồ, có! Anh ta cũng cùng kiểu với
phòng khách này, vì thế anh ta mới luôn luôn tới đây.
Câu chuyện duy trì được, vì người ta
nói bóng gió đúng vào cái chuyện không được phép nói trong phòng khách này: sự
dan díu giữa Tuscievitr với nữ chủ nhân.
Trong lúc đó, quanh ấm trà và quận
chúa Betxi, câu chuyện sau khi cũng ngập ngừng như vậy giữa ba đầu đề không thể
tránh được:
tin tức trong ngày, chuyện sân khấu
và dèm pha người chung quanh, đã dừng lại ở đầu đề cuối cùng đó, tức là nói xấu
nhau.
- Các ngài có biết Mantiseva (bà mẹ,
chứ không phải cô con gái đâu) vừa may bộ quần áo màu hồng loè loẹt 3 không?
- Không có lẽ? nếu thế thì hay nhỉ!
- Tôi lấy làm lạ là người có đầu óc
không đến nỗi ngu xuẩn như bà ta mà lại không thấy là lố bịch.
Mọi người đều buông lời dè bỉu và
chế giễu cái bà Mantiseva đáng thương và câu chuyện bùng lên vui vẻ, như ngọn
lửa bắt đầu cháy.
Ông chồng của quận chúa Betxi, một
người to béo hiền lành, say mê sưu tầm tranh in, được biết vợ có khách, nên đã
qua phòng khách trước khi đến câu lạc bộ. Ông khẽ bước trên tấm tảm dày, đến
gần quận chúa Miarcaia.
- Bà thấy Ninxon thế nào? - ông hỏi
bà.
- Ôi! Làm người ta sợ hết cả hồn!
Tôi không nghe thấy ông đi tới, - bà trả lời. - Tôi xin ông, đừng có nói chuyện
Nhà hát ca kịch với tôi, ông không biết gì về âm nhạc cả. Thà tôi tự hạ mình
xuống ngang trình độ ông và nói chuyện về tranh in và đồ sứ thời Phục hưng của
ông còn hơn. Thế vừa đây, ông mới tìm ra được của báu nào ở cửa hàng đồ cũ đấy?
- Bà có muốn tôi đưa bà xem không?
Nhưng bà có biết tí gì về những cái đó đâu.
- Ông cứ đưa đây xem. Tôi đã tập sự
ở nhà những... gọi họ là gì nhỉ... những chủ nhân hàng... họ có những tranh in
rất đẹp. Họ đã đưa cho chúng tôi xem.
- Thế nào, chị đã đến chơi nhà
Sutdơbua rồi à? - nữ chủ nhân hỏi.
- Vâng, bà bạn ạ 4. Họ đã mời vợ
chồng tôi đến ăn tiệc và người ta nói với tôi là một trong những món nước xốt
của họ tốn mất một nghìn rúp, - quận chúa Miarcaia nói to, cảm thấy mọi người
đang nghe mình; - thế nhưng cái món nước xốt đó thật lợm giọng; có cái gì xanh
lè ấy. Tôi phải đáp lễ lại: tôi thết họ món nước xốt có tám mươi nhăm kôpêch,
mà họ rất thú vị. Tôi không thể bỏ một nghìn rúp vào món nước xốt được.
- Chị ấy thật là độc nhất vô song! -
nữ chủ nhân nói.
- Kỳ diệu thật! - một người nói
thêm.
Những câu chuyện của quận chúa
Miarcaia bao giờ cũng tác động như thế; bí quyết của bà là nói những chuyện
bình thường, hợp lý hợp lẽ, tuy không phải bao giờ cũng đúng lúc như bây giờ.
Trong đám người bà đang cùng sống, những câu chuyện đó có tác dụng như những
câu khôi hài ý nhị. Quận chúa Miarcaia không hiểu được tại sao mình lại thành
công đến như vậy, nhưng bà biết mình thành công và cũng lợi dụng điều đó.
Trong khi quận chúa Miarcaia kể
chuyện, mọi người đều lắng nghe và cuộc trò chuyện ở chung quanh bà vợ đại sứ
cũng im bặt; nữ chủ nhân do đó muốn tập hợp tất cả các vị khách lại và nói với
bà vợ đại sứ:
- Thế nào, bà không xơi trà à? Xin
mời bà lại nhập bọn với chúng tôi nào.
- Không, chúng tôi ngồi đây tốt lắm
rồi, - bà vợ đại sứ mỉm cười trả lời và lại bắt vào câu chuyện mới bắt đầu.
Câu chuyện rất lý thú. Họ đang bình
phẩm vợ chồng Carenin.
- Anna thay đổi tợn kể từ sau khi đi
Moxcva về. Chị ta thật lạ lùng, - một bạn gái của Anna nói.
- Điều thay đổi đặc biệt nhất là bà
ta đã dắt theo trở về một cái bóng là Alecxei Vronxki, - bà vợ đại sứ nói.
- Tại sao lại không được kia chứ? Có
một câu chuyện cổ tích của Grim: có một người không có bóng, một người bị mất
cái bóng của mình. Đó là một hình phạt. Tôi không bao giờ hiểu được cái hình
phạt đó là thế nào. Một người đàn bà mà không có bóng thì chắc phải khổ tâm
lắm.
- Phải, nhưng đàn bà có một cái bóng
thường cuối cùng đều không ra gì, - người bạn gái của Anna nói.
- Sao mà các bà lắm lời thế! - quận
chúa Miarcaia đột nhiên nói, khi nghe thấy những câu đó. - Anna Carenina là
người đáng yêu. Tôi không ưa ông chồng, nhưng còn chị ấy thì tôi rất mến.
- Tại sao bà không ưa ông chồng? Đó
là một người thật xuất sắc, - bà vợ đại sứ nói. - Nhà tôi nói là hiếm có những
chính khách vào loại ông ta ở Âu Châu.
- Nhà tôi cũng nói như vậy, nhưng
tôi không tin, - quận chúa Miarcaia đáp. - Nếu những ông chồng chúng ta không
nói điều đó, thì chúng ta sẽ thấy đúng chân tướng ông ta: mà theo tôi thì
Alecxei Alecxandrovitr chỉ là thằng ngốc. Tôi nói nhỏ điều đó thôi... Có phải
thế là mọi chuyện đều rõ ràng rồi không? Trước kia, khi người ta ra lệnh cho
tôi phải thấy ông ta là thông minh, tôi cứ luôn luôn tìm xem tại sao lại thế và
cứ nghĩ chính mình là đứa ngu nên mới không thấy được trí tuệ ông ta; nhưng từ
khi tôi nói: Đó là thằng ngốc, tất nhiên là nói nhỏ thôi, thì mọi cái trở nên
rõ ràng. Các bà có đồng ý thế không?
- Hôm nay sao bà ác miệng thế!
- Không hẳn thế đâu. Không còn có
giải pháp nào khác. Một trong hai chúng tôi phải là kẻ ngu. Và bà biết đấy,
người ta không thể nào lại tự bảo mình như thế được.
- "Không ai thoả mãn về hoàn
cảnh của mình, nhưng mỗi người đều thoả mãn về trí tuệ của mình", - nhà
ngoại giao nói, đọc lại một câu thơ Pháp.
- Đúng thế, - quận chúa Miarcaia sôi
nổi nói. - Nhưng quả thực tôi không bỏ mặc Anna cho các vị đâu. Chị ấy thật
đáng yêu, thật duyên dáng! Nếu mọi người đều mê và theo chị ấy như cái bóng thì
đó có phải là lỗi ở chị ấy không?
- Nhưng tôi có nghĩ đến chuyện phê
phán chị ta đâu, - người bạn gái của Anna thanh minh.
- Nếu không có ai theo ta như cái
bóng, thì đó cũng không phải là một cớ để ta có quyền phê phán người khác.
Và sau khi sửa cho bạn của Anna một
mẻ nên thân, quận chúa Miarcaia đứng dậy và cùng bà vợ đại sứ đến gần bàn trà,
ở đó, câu chuyện chung đang xoay quanh vua nước Phổ.
- Các bà nói xấu ai ở đằng kia đấy?
- Betxi hỏi.
- Vợ chồng Carenin, quận chúa đã
miêu tả chân dung Alecxei Alecxandrovitr cho chúng tôi nghe, - bà vợ đại sứ trả
lời, mỉm cười ngồi xuống cạnh bàn.
- Thật đáng tiếc là chúng tôi không
được nghe, - nữ chủ nhân nói, đưa mắt nhìn ra cửa. - A! chú đã đến đây rồi! -
nàng mỉm cười nói với Vronxki vừa đi vào.
Vronxki không những quen biết tất
cả, mà hằng ngày còn thường gặp mặt những người đang tụ họp ở đây tối nay; cho
nên chàng bình thản bước vào như khi vào nhà người mình vừa chia tay xong.
- Tôi ở đâu đến ấy à? - chàng trả
lời câu hỏi của bà vợ đại sứ. - Biết làm thế nào? Tôi đành phải thú thực vậy. ở
rạp Hề về. Có lẽ tôi đi xem hề đây là lần thứ một trăm rồi nhưng lần nào tôi
cũng thấy một thích thú mới. Thật thú vị. Nói ra thì cũng xấu hổ đấy, nhưng chỉ
ở Nhà hát ca kịch tôi mới ngủ gật, còn ở rạp Hề thì tôi lại vui thích đến phút
cuối. Hôm nay...
Chàng nhắc tên một nữ diễn viên Pháp
và định kể lại một giai thoại về nàng, nhưng bà vợ đại sứ liền ngắt lời với vẻ khiếp
hãi đùa cợt.
- Tôi xin ông, đừng có kể cho tôi
nghe những chuyện gớm ghiếc ấy nữa!
- Thôi được, tôi không nói nữa, nhất
là các bà đều biết rõ tất cả những cái gớm ghiếc đó rồi!
- Và hẳn các bà sẽ sẵn sàng chạy cả
đến đó xem, nếu cũng được phép như đến Nhà hát ca kịch vậy, - quận chúa
Miarcaia nhấn mạnh thêm.
--------------------------------
1 L'enfant terrible (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
2 Tiếng Anh trong nguyên bản: chuyện
gẫu.
3 Diable rose (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
4 Ma chère (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
Chương
7
Tiếng bước chân vang lên ở gần cửa
ra vào, và quận chúa Betxi biết đó là Anna, liền nhìn Vronxki. Chàng chăm chú
nhìn ra cửa và mặt chàng chợt biến sắc lạ thường. Chàng ngắm người thiếu phụ
mới đến vẻ vừa vui sướng, vừa khẩn khoản, rụt rè, và chàng từ từ đứng dậy khỏi
ghế. Anna bước vào. Như thương lệ, rất thẳng người, với bước đi nhẹ nhàng, quả
quyết và nhanh nhẹn khiến nàng khác hẳn những phụ nữ khác trong giới thượng
lưu, nàng đi qua cái khoảng cách ngăn nàng với nữ chủ nhân, bắt tay và mỉm cười
với bà ta, rồi vẫn với nụ cười đó, quay lại phía Vronxki. Vronxki cúi rạp người
xuống và nhấc ghế mời nàng ngồi.
Nàng chỉ nghiêng đầu đáp lại chàng,
đỏ mặt lên và cau mày.
Nhưng sau khi nhanh nhẹn gật đầu
chào những người quen và bắt những bàn tay chìa ra, nàng lập tức quay lại phía
nữ chủ nhân:
- Tôi vừa đến nhà nữ bá tước Lidia;
tôi muốn tới đây sớm hơn, nhưng bị giữ lại. Có ông John 1 ở nhà bà ta. Ông ta
là người rất đặc sắc.
- à! Ông giáo sĩ ấy phải không?
- Vâng, ông ta kể chuyện về đời sống
ở ấn Độ rất hấp dẫn.
Câu chuyện bị đứt quãng vì có nàng
đến, giờ lại chập chờn như ngọn lửa một cây đèn bị thổi.
- Ông John? à phải, ông John! Tôi có
gặp ông ta rồi. Ông ta nói giỏi lắm. Bà Vlaxiêva đã mê tít ông ta.
- Có thực là cô em út Vlaxiêva kết
hôn với Tôpốp không?
- Phải, người ta nói việc đó quyết
định rồi.
- Tôi ngạc nhiên là đôi bên cha mẹ
lại bằng lòng. Hình như họ yêu nhau say mê lắm.
- Yêu say mê à? ở đâu ra những ý
nghĩ từ trước thời hồng thuỷ ấy?
Ai còn nói đến tình yêu say mê ở thời
buổi này nữa? - bà vợ đại sứ nói.
- Biết làm thế nào? Cái kiểu lỗi
thời ngu ngốc đó vẫn không chịu mất đi, - Vronxki nói.
- Ai muốn theo lối ấy thì mặc kệ họ.
Tôi chỉ biết những cuộc hôn nhân sung sướng duy nhất là hôn nhân theo lý trí.
- Phải, nhưng cái hạnh phúc đó lại
thường hay tan ra khói, đúng lúc xuất hiện cái tình yêu say mê mà người ta phủ
nhận, - Vronxki nói.
- Nhưng người ta chỉ nhắc đến hôn
nhân theo lý trí khi nào cả đôi bên đã tận hưởng mọi thú điên cuồng của tuổi
trẻ. Như bệnh sốt phát ban ấy, ta phải trải qua cái đó đã mới được.
- Trong trường hợp đó, ta phải học
tiêm chủng ái tình một cách nhân tạo như chủng đậu ấy.
- Hồi còn trẻ, tôi có mê một ca sĩ
nhà thờ, - quận chúa Miarcaia nói. - Tôi không rõ cái đó liệu có ích gì cho tôi
không.
- Không, không nói đùa đâu, tôi cho
là muốn hiểu được tình yêu, phải lầm lẫn đã, rồi sau đó mới tìm được ra con
đường thẳng, - quận chúa Betxi nói.
- Ngay cả sau khi đã kết hôn rồi à?
- bà vợ đại sứ hỏi, giọng châm biếm.
- "Biết hối hận thì không bao
giờ muộn", - nhà ngoại giao nói, đọc câu tục ngữ Anh.
- Đúng thế, - Betxi 2 cãi lại, -
phải lầm lẫn rồi mới sửa chữa được.
Chị nghĩ thế nào? - bà quay lại hỏi
Anna, nàng đang nghe chuyện, đôi môi thoáng mỉm cười.
- Tôi nghĩ là, - Anna nói, tay mân
mê nghịch chiếc găng vừa rút ra, - tôi nghĩ là... có bao nhiêu đầu thì có bấy
nhiêu ý kiến, nghĩa là: có bao nhiêu trái tim thì có bấy nhiêu cách yêu đương.
Vronxki nhìn Anna và tim chàng như
ngừng lại, chờ đợi điều nàng sắp nói. Chàng thở phào như thoát nạn khi nàng đã
nói những lời đó.
Anna đột nhiên nói với chàng:
- Tôi vừa nhận được thư ở Moxcva. Họ
cho biết là Kitti Serbatxki bị ốm nặng.
- Thực ạ? - Vronxki cau mày nói.
Anna nghiêm khắc nhìn chàng.
- Việc đó không làm ông quan tâm à?
- Trái lại, quan tâm lắm chứ! Tôi có
thể biết đích xác là họ đã viết cho bà như thế nào không? - chàng hỏi.
Anna đứng dậy và đến gần Betxi.
- Xin chị chén trà, - nàng nói và
đứng lại sau ghế tựa của bạn.
Trong khi Betxi rót trà, Vronxki đến
cạnh Anna.
- Họ viết gì cho bà? - chàng nhắc
lại.
- Tôi thường tự nhủ đàn ông không
hiểu thế nào là cao thượng cả, mặc dù họ vẫn luôn miệng nói tới điều đó, - Anna
nói, không trả lời vào câu chàng hỏi. - Đã từ lâu tôi muốn nói với ông điều đó,
- nàng nói thêm và bước đi vài bước, ngồi xuống gần một góc chất đầy những tập
ảnh.
- Tôi không hiểu thật rõ ý nghĩa lời
bà nói, - chàng nói và đưa nàng chén trà.
Nàng đưa mắt nhìn sang đi văng ở
cạnh; chàng lập tức ngồi xuống.
- Vâng, tôi muốn nói với ông điều
đó, - nàng nói, không nhìn chàng: - ông đã hành động sai lầm, rất sai lầm.
- Bà tưởng tôi không biết hay sao?
Nhưng mà lỗi tại ai?
- Tại sao ông lại nói với tôi như
vậy? - nàng nói và nghiêm khắc nhìn chàng.
- Bà biết rồi đấy, - chàng mạnh dạn
trả lời, nhìn lại không chớp mắt.
Chính nàng đâm ra bối rối.
- Điều đó chỉ chứng tỏ ông không có
tim, - nàng nói. Nhưng cái nhìn lại nói nàng biết chàng có một trái tim và
chính vì thế đâm sợ chàng.
- Điều bà vừa nhắc tới là một sự lầm
lẫn chứ không phải tình yêu.
- Ông nên nhớ là tôi đã cấm ông
không được nói tới chữ đó, cái chữ kinh khủng đó, - Anna rùng mình nói; nhưng,
ngay khi ấy, nàng cảm thấy chỉ bằng một chữ cấm đó, nàng đã tỏ ra tự thừa nhận
mình có một số quyền lực đối với chàng, và do đó càng khuyến khích chàng thổ lộ
tình yêu. - Đã từ lâu tôi muốn nói với ông điều đó, - nàng lại nói và nhìn
chàng quả quyết, trong khi đôi má ửng đỏ; - hôm nay, tôi chủ tâm đến đây vì
biết sẽ gặp ông. Tôi đến để nói với ông rằng việc này phải chấm dứt. Tôi chưa
bao giờ phải hổ thẹn trước mặt ai cả, thế mà ông đã buộc tôi cảm thấy mình có
lỗi.
Chàng nhìn nàng và sửng sốt trước vẻ
đẹp tinh thần mới mẻ của bộ mặt nàng.
- Bà muốn tôi phải làm gì? - chàng
hỏi gọn lỏn, giọng nghiêm chỉnh.
- Tôi muốn ông quay về Moxcva xin
lỗi Kitti, - nàng nói.
- Bà không muốn thế đâu, - chàng trả
lời.
Chàng thấy nàng đã nói điều nàng ép
mình phải nói, chứ không phải điều muốn nói.
- Nếu quả thực ông yêu tôi như lời
ông nói, thì xin ông để cho tôi được yên, - nàng thầm thì nói.
Mặt Vronxki ngời sáng lên.
- Bà không biết bà là cả cuộc đời
tôi hay sao? Nhưng tôi không có cách nào và cũng không thể nào để bà yên được.
Trọn vẹn cả cuộc đời tôi, tình yêu của tôi, tôi dâng bà... vâng. Tôi không thể
nghĩ đến bà và đến tôi riêng rẽ được. Trước mắt tôi, bà và tôi, chúng ta chỉ là
một.
Tôi nhìn thấy một khả năng thất
vọng, đau khổ... hoặc tôi nhìn thấy một khả năng hạnh phúc, mà là niềm hạnh
phúc to lớn biết bao!... Có thật là không thể thực hiện được chăng? - chàng nói
thêm, chỉ khẽ mấp máy đôi môi; nhưng nàng đã nghe thấy.
Nàng lấy hết sức lực tinh thần để
nói điều cần nói; nhưng đáng lẽ phải thốt ra điều đó thì nàng lại nhìn chàng
bằng con mắt đầy yêu thương và không trả lời gì.
"Thế là thành công rồi! chàng
vui sướng thầm nghĩ. Trong khi mình bắt đầu thất vọng, đã tưởng tất cả chuyện
này đều không đi đến đâu! Nàng yêu ta. Nàng đã thú nhận với ta!".
- Xin ông cứ làm như vậy cho tôi,
đừng bao giờ nói với tôi như thế nữa; nếu được như vậy thì chúng ta còn là bạn
tốt với nhau, - nàng nói, nhưng cái nhìn lại nói khác hẳn.
- Bà cũng thừa biết chúng ta sẽ
không bao giờ là bạn với nhau cả.
Chúng ta sẽ là những người sung
sướng nhất hoặc đau khổ nhất? Cái đó tuỳ bà quyết định.
Nàng muốn nói điều gì đó, nhưng
chàng ngắt lời:
- Tôi chỉ xin bà mỗi một điều là
được quyền hy vọng và đau khổ như giờ phút này; nếu không thể được, xin bà cứ
ra lệnh cho tôi đi biệt tăm, tôi sẽ đi ngay. Bà sẽ không thấy tôi nữa, nếu sự
có mặt của tôi làm bà phiền lòng.
- Tôi không muốn đuổi ông.
- Nếu thế xin bà đừng thay đổi gì
cả. Cứ để mọi việc y nguyên như thế, - chàng nói giọng run run. - Ông chồng bà
đã đến!
Quả vậy, trong lúc đó, Alecxei
Alecxandrovitr đang đi vào phòng khách, bước chân nặng nề và lặng lẽ.
Ông nhìn vợ và Vronxki, đến gần nữ
chủ nhân và sau khi ngồi xuống cạnh bàn trà, ông cất cái giọng rề rà, bao giờ
cũng rành rọt bắt đầu nói, với vẻ châm biếm thường lệ.
- Tao đàn Rambouillet 3 của bà đã đủ
mặt rồi, - ông nhìn mọi người và nói. - Đầy đủ cả Tố nữ lẫn nàng Thơ!
Nhưng quận chúa Betxi không chịu nổi
giọng mỉa mai đó, sneering 4, như bà thường gọi. Với tư cách là chủ nhân lịch
thiệp, bà lập tức lái ông ta nói sang một vấn đề nghiêm túc: luật cưỡng bách
tòng quân. Alecxei Alecxandrovitr bị lôi cuốn ngay vào chuyện và bênh vực đạo
luật mới chống lại sự công kích của quận chúa Betxi.
Vronxki và Anna vẫn ngồi cạnh chiếc
bàn con.
- Thế kia có chướng mắt không, - một
bà thì thầm nói, đưa mắt ra hiệu chỉ Vronxki, Anna và ông chồng.
- Tôi đã bảo với các bà như thế mà,
- bà bạn của Anna trả lời.
Không phải chỉ riêng các bà đó, mà
hầu hết các khách có mặt, kể cả quận chúa Miarcaia lẫn bản thân Betxi, đều
nhiều lần đưa mắt nhìn hai người đã ngồi tách xa khỏi đám đông, như để khỏi bị
quấy rầy. Alecxei Alecxandrovitr là người duy nhất không nhìn họ và không lãng
khỏi câu chuyện lý thú ông đã bập vào.
Nhận thấy ấn tượng xấu đó đối với
các vị khách, quận chúa Betxi để người khác thay mình tiếp Alecxei
Alecxandrovitr và đến gần Anna.
- Tôi bao giờ cũng khâm phục cách
nói năng rõ ràng và chính xác của chồng chị, - bà ta nói. - Khi anh ấy nói thì
những quan điểm cao siêu nhất cũng trở thành dễ hiểu đối với tôi.
- ồ vâng! - Anna nói, vẻ mặt rạng rỡ
hạnh phúc và tuyệt nhiên không hiểu Betxi vừa nói với mình những gì. Nàng trở
lại bên chiếc bàn lớn và tham gia vào câu chuyện chung.
Sau khi ngồi lại chơi nửa giờ,
Alecxei Alecxandrovitr đến bên vợ rủ cùng về, nhưng nàng không nhìn chồng, chỉ
trả lời mình ở lại ăn tối.
Alecxei Alecxandrovitr cúi đầu chào
và đi ra.
Lão xà ích nhà Carenin, một người
Tacta to béo mặc áo vét da, chật vật kìm con ngựa xám phụ bị rét cóng đang chồm
lên trước bậc thềm. Một người hầu giữ cửa xe. Gã gác cổng đứng coi cửa ra vào
mở rộng. Anna Arcadievna đưa bàn tay run rẩy gỡ viền ren cổ tay áo mắc vào khóa
cài áo choàng lót lông, và cúi đầu sung sướng lắng nghe những lời Vronxki nói
với mình lúc đưa tiễn.
- Bà không hề nói gì hết, đúng thế,
và tôi cũng không đòi hỏi gì cả, - chàng nói, - nhưng bà cũng biết điều tôi cần
thiết không phải là tình bạn: đối với tôi, niềm hạnh phúc duy nhất của cuộc
sống chứa đựng trong cái chữ mà bà rất ghét... tình yêu...
- Tình yêu, - nàng thong thả nhắc
lại, như nói với riêng mình và đúng lúc gỡ được đường ren ra, nàng đột nhiên
nói thêm: - tôi không ưa cái chữ đó, chính vì nó chứa đựng quá nhiều ý nghĩa
đối với tôi, nặng nghĩa hơn ông có thể hình dung nổi rất nhiều, - và nàng nhìn
thẳng vào mặt chàng: - Tạm biệt!
Nàng chìa tay cho chàng bắt, rồi mềm
mại và nhanh nhẹn, đi qua trước mặt gã gác cổng và biến vào trong xe.
Cái nhìn và cái bắt tay của nàng đã
đốt cháy Vronxki. Chàng hôn lòng bàn tay mình vào chỗ nàng đã chạm vào và sung
sướng trở về nhà, với niềm tin tưởng là tối đó đã đưa chàng tới gần mục đích
hơn cả hai tháng trước.
--------------------------------
1 Trong bản Pháp văn dùng chữ
"sir" chứng tỏ John là người Anh.
2 Bản Pháp văn của Sylvic Luneau
(tức là bản chúng tôi sử dụng để dịch) chỗ này dịch lầm là Vronxki.
Chúng tôi đối chiếu nguyên bản tiếng
Nga sửa lại.
3 Lâu đài "Rambouillet"
xây dựng ở Pari, theo dự án của nữ hầu tước Rambouillet (1588 - 1665) là nơi tụ
tập của giới quý phái. Giới này đã ảnh hưởng khá tốt đến việc kiện toàn ngôn
ngữ và sự tiến bộ của văn học Pháp từ năm 1620 đến 1665.
4 Tiếng Anh trong nguyên bản: giễu
cợt.
Chương
8
Alecxei Alecxandrovitr không thấy có
gì là kỳ lạ hoặc chướng mắt trong việc vợ mình ngồi riêng ra một chỗ và chuyện
trò sôi nổi với Vronxki, nhưng ông nhận thấy cái đó có vẻ kỳ lạ và chướng mắt
đối với các vị khách khác, và do đó ông thấy phải coi nó là chướng mắt.
Ông định sẽ nói chuyện đó với vợ.
Trở về nhà, Alecxei Alecxandrovitr
vào phòng làm việc như thường lệ, ngồi xuống ghế bành, mở quyển sách bàn về cựu
giáo La Mã ở chỗ có đánh dấu bằng con dao rọc giấy, và, theo thói quen, đọc cho
tới một giờ sáng. Thỉnh thoảng, ông lại đưa tay lên trán và lắc đầu, như muốn
xua đuổi một ý nghĩ khó chịu. Đến giờ đã định như thường lệ, ông đứng dậy và đi
rửa ráy trước khi ngủ. Anna Arcadievna vẫn chưa về. Ông cắp sách lên gác; nhưng
tối đó, những ý nghĩ bình thường và những lo lắng về công việc đã nhường chỗ
cho ý nghĩ về vợ và sự kiện khó chịu vừa xảy ra. Trái với thói quen, ông không
đi nằm mà chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng.
Ông không thể nằm được vì thấy mình
trước hết phải xem xét mọi mặt của sự việc vừa xảy ra.
Khi Alecxei Alecxandrovitr quyết
định sẽ nói chuyện với vợ, ông thấy việc đó có vẻ rất dễ dàng và đơn giản;
nhưng bây giờ, khi đã suy nghĩ kỹ về sự việc xảy ra, ông lại thấy rất khó khăn
và phức tạp.
Alecxei Alecxandrovitr không cả
ghen. Theo ông, ghen tuông là nhục nhã cho vợ và phải tin nàng. Tại sao lại
phải tin, hay nói khác đi, phải đinh ninh trong dạ là người vợ trẻ bao giờ cũng
yêu mình, cái đó thì ông không hề tự hỏi; nhưng ông không lo ngại vì ông vẫn
tin vợ và tự nhủ là mình đúng. Nhưng giờ đây, mặc dầu vẫn đinh ninh ghen tuông
là thứ tình cảm nhục nhã và phải có lòng tin, ông vẫn cảm thấy mình đang đứng
trước một hoàn cảnh éo le và vô lý, và không biết làm thế nào cả. Alecxei
Alecxandrovitr đang đối mặt với cuộc đời, đứng trước cái khả năng là vợ mình có
thể yêu một nhưng người không phải là mình, ông thấy điều đó thật vô lý và
không sao hiểu nổi chính vì đó là bản thân cuộc đời. Alecxei Alecxandrovitr xưa
nay chỉ sống và làm việc trong thế giới hành chính vốn chỉ tiếp xúc với cái ánh
phản quang của cuộc đời thôi. Mỗi lần chạm trán với chính cuộc đời thực, ông
lại lảng tránh xa. Hôm nay, ông có cảm giác tương tự như người đang yên trí đi
trên cầu qua vực thẳm, bỗng nhiên phát hiện ra cầu đã hư nát và dưới chân hiện
ra cái vực thẳm đó. Cái vực, đó chính là cuộc đời thực, còn chiếc cầu, đó là
cuộc đời giả tạo mà Alecxei Alecxandrovitr đã sống. Lần đầu, ông thoáng thấy hé
ra cái khả năng vợ mình có thể phải lòng một người đàn ông khác và lấy làm kinh
hãi.
Ông vẫn mặc nguyên quần áo, đều bước
đi đi lại lại nện gót trên sàn gỗ phòng ăn với ngọn đèn duy nhất chiếu sáng
trên tấm thảm của phòng khách mờ tối chỉ có chút ánh sáng phản chiếu lên bức
chân dung ông, mới hoàn thành, treo phía trên chiếc đi văng, và đi vào buồng vợ
có hai cây nến đang cháy, soi sáng các bức chân dung họ hàng, bè bạn nàng và
các đồ trang trí nhỏ đẹp đẽ, quen thuộc trên bàn. Từ phòng Anna, ông đến cửa
phòng ngủ rồi lại quay gót.
Trong khi dạo bước, nhất là ở chỗ
sàn gỗ phòng ăn sáng sủa, ông thường dừng lại và tự nhủ: "Phải, nhất thiết
cần có thái độ dứt khoát, nói cho nàng biết cách nhìn nhận và quyết định của
mình". Và ông bước trở lại. "Nhưng nói với nàng thế nào? Quyết định
cái gì?" Ông thầm hỏi khi ở phòng khách mà không tìm ra câu trả lời.
"Rút cuộc, đã có chuyện gì xảy ra kia chứ?" Ông tự hỏi trước khi quay
lại buồng Anna. "Chẳng có gì cả. Nàng đã nói chuyện lâu với y. Thế thì đã
sao?
Trong xã hội thượng lưu, thiếu gì
người mà một phụ nữ có thể chuyện trò được! Với lại, ghen tuông thì sẽ nhục nhã
cho cả vợ lẫn chồng".
Nhưng lý luận đó xưa kia đối với ông
vững vàng bao nhiêu thì nay hình như lại vô giá trị. Và ông quay ra cửa phòng
ngủ để trở lại phòng ăn; nhưng khi vào đến phòng khách mờ tối, một tiếng nói
lại bảo ông là sự việc không phải như thế, và nếu người ta đã có nhận xét này
nọ tức là có cái gì đó đã xảy ra. Và đến phòng ăn ông lại tự nhắc lại:
"Phải, nhất thiết cần có thái độ dứt khoát, cần có một quyết định và nói
cho vợ biết cách nhìn nhận của mình...". Rồi một lần nữa, trong phòng
khách, trước khi quay gót, ông lại tự hỏi: "Quyết định cái gì?". Và:
"Cái gì đã xảy ra?". Rồi trả lời: "Chẳng có gì cả", và tự
nhắc lại ghen tuông là thứ tình cảm nhục nhã cho vợ, nhưng khi đến phòng khách,
ông lại thấy tái hiện ý nghĩ tin chắc là một cái gì đó đã xảy ra. Tư tưởng cũng
như thân thể ông, chạy suốt một vòng mà không hề bắt gặp cái gì mới mẻ. Ông
nhận thấy thế, đưa tay lên trán và ngồi xuống ở buồng Anna.
Ngồi đó, nhìn bàn giấy của vợ, cái
bàn thẩm bằng cẩm thạch, một bức thư mới viết đoạn đầu, tư tưởng ông đột nhiên
lại xoay theo chiều khác. Ông liền nghĩ đến vợ, đến việc nàng cũng biết suy
nghĩ và cảm xúc. Lần đầu tiên, ông hình dung nàng với cuộc đời riêng tư cùng
những tư tưởng, ước muốn, và cái ý nghĩ là vợ có thể và cần có một cuộc đời
riêng trở nên khủng khiếp đến nỗi ông vội gạt ngay nó đi. Đó chính là cái vực
mà ông sợ không dám phóng mắt nhìn xuống. Tự hóa thân bằng tư tưởng và tình cảm
vào người khác là một vận động tinh thần xa lạ với Alecxei Alecxandrovitr. Ông
cho rằng sự vận động tinh thần đó có hại, nguy hiểm và hư ảo.
Ông nghĩ: "Điều kinh khủng nhất
là nỗi lo ngại vô lý đó lại sập xuống đầu ta giữa lúc công trình của ta sắp đến
kỳ hạn phải hoàn thành (ông nghĩ tới một dự luật mà ông muốn được thông qua)
giữa lúc ta đang cần hoàn toàn tĩnh tâm và tập trung toàn bộ nghị lực. Nhưng
biết làm thế nào? Ta không phải hạng người chịu đựng lo lắng hoang mang mà
không đủ sức nhìn thẳng vào nó".
- Phải suy nghĩ, có lấy một quyết
định và không bận tâm đến nó nữa, - ông nói to.
"Công việc ta đâu phải là dò
đoán tình cảm, cùng những gì đang xảy ra và có thể xảy ra trong tâm hồn vợ. Đó
là công việc của lương tâm nàng và cái đó lại thuộc lĩnh vực tôn giáo",
ông tự nhủ, nhẹ hẳn người vì tìm ra được cái quy luật chi phối sự kiện vừa xảy
ra.
"Vậy thì vấn đề tình cảm nàng
là một vấn đề lương tâm, mình không việc gì phải dính đến, Alecxei
Alecxandrovitr tự nhủ. Bổn phận ta đã được vạch ra rõ ràng. Là chủ gia đình, ta
phải hướng dẫn vợ, và do đó, ta cũng có phần trách nhiệm, ta phải chỉ cho vợ rõ
những điều nguy hiểm ta đã thấy, bảo cho vợ đề phòng và nếu cần thiết thì sẽ
dùng đến quyền lực của ta. Ta phải giãi bày cho vợ biết mọi điều đó".
Và trong đầu óc Alecxei
Alecxandrovitr, tất cả những điều giờ đây ông sắp sửa nói với vợ đều đã thành
hình rõ. Vừa ngẫm nghĩ chuẩn bị lời lẽ, ông vừa than tiếc là đã bắt buộc phải
dùng thời giờ và sức lực trí tuệ không đúng lúc tí nào vào một công việc nội
trợ; tuy nhiên, hình thức và đề mục bài thuyết lý đã được cố định trong đầu óc
với sự sáng sủa và chính xác của một bản báo cáo.
"Đây là những điều ta cần nói
cho vợ hiểu: thứ nhất, giải thích về sự quan trọng của dư luận công chúng và lễ
nghi; thứ hai, giải thích về ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân; thứ ba, nếu cần
thiết, chỉ dẫn về những tai họa có thể xảy đến cho con trai nàng; thứ tư, ám
chỉ tai họa của chính bản thân nàng". Và Alecxei Alecxandrovitr chắp hai
bàn tay lại, bẻ khục các khớp.
Cái thói quen xấu đó bao giờ cũng
làm ông trấn tĩnh và giúp ông lấy lại thế thăng bằng đang rất cần trong lúc
này. Có tiếng xe chạy bon bon đến gần bậc thềm. Alecxei Alecxandrovitr dừng
bước ở giữa phòng ăn.
Có tiếng chân đàn bà lên cầu thang.
Alecxei Alecxandrovitr đứng sững, sẵn sàng lên lớp, bóp mạnh hai bàn tay chắp
vào nhau, xem còn chỗ nào chưa kêu. Một đốt tay liền kêu đánh cục.
Nghe tiếng chân bước nhẹ nhàng trên
cầu thang, ông cảm thấy Anna đến gần, và mặc dầu mãn ý về bài thuyết lý của
mình, ông vẫn sợ hãi trước cuộc giảng giải sắp xảy ra.
Chương
9
Anna đầu cui cúi, vừa đi vừa mân mê
những quả tua chiếc khăn len trùm đầu. Mặt nàng ngời lên: nhưng không phải là
niềm vui sướng mà đúng hơn là cái ánh lửa khủng khiếp của đám cháy trong một
đêm tối trời. Trông thấy chồng, nàng ngẩng đầu và mỉm cười với ông như vừa tỉnh
giấc mơ.
- Mình chưa đi nằm à? Lạ nhỉ! - nàng
nói và cởi khăn len trùm đầu, rồi không dừng bước, đi thẳng vào phòng thay quần
áo. - Alecxei Alecxandrovitr, đến giờ đi ngủ rồi đấy, - nàng nói với chồng từ
sau cửa.
- Anna, tôi có chuyện muốn nói với
mình.
- Nói với em ấy à? - nàng ngạc nhiên
hỏi; nàng bước ra và nhìn chồng. - Cái gì vậy? Chuyện gì thế? - nàng ngồi xuống
và hỏi chồng. - Nếu cần ta nói chuyện cũng được. Nhưng nên đi ngủ thì hơn.
Anna thuận miệng nói luôn những điều
chợt nghĩ, và nghe lời chính mình nói, nàng cũng ngạc nhiên về tài nói dối của
mình.
Những lời nàng nói sao mà đơn giản,
tự nhiên đến thế và sao mà nàng có vẻ thật sự buồn ngủ đến thế! Nàng cảm thấy
mình đã mặc một bộ giáp trụ dối trá không thể nào đâm thủng. Nàng thấy như một
sức mạnh vô hình đã nâng đỡ mình.
- Anna, tôi phải nói cho mình biết
mà đề phòng.
- Em đề phòng ấy à? Đề phòng cái gì
kia chứ?
Nàng nhìn chồng rất ngây thơ và vui
vẻ đến nỗi bất cứ ai khác không hiểu rõ nàng bằng chồng ắt không thể thấy chút
gì gượng ép trong giọng điệu cũng như lời lẽ của nàng. Nhưng đối với ông là
người đã hiểu nàng, đã biết mỗi khi ông chỉ cần đi ngủ muộn năm phút là nàng đã
lưu tâm và hỏi xem duyên cớ tại sao, đối với ông là người đã biết nàng thường
lập tức thổ lộ cùng chồng mọi nỗi vui buồn, thì việc nàng không buồn đếm xỉa
tới cái tình trạng ông đang lâm vào, không chịu bộc bạch nỗi niềm, là một điều
rất hệ trọng. Ông thấy tâm hồn sâu kín của vợ, xưa kia bao giờ cũng cởi mở với
ông, giờ đây khép chặt lại rồi. Hơn nữa, đến lượt ông nhận thấy nàng không hề
bối rối chút nào mà còn nói với ông bằng cái vẻ chân thật vờ vĩnh, phải, tâm
hồn nàng đã khép chặt lại đối với ông rồi; sự tình ắt phải như thế và từ nay về
sau hẳn cũng sẽ như thế.
Lúc này, ông có cảm giác giống như
của một người khi trở về nhà mình, đã thấy cửa đóng then cài. "Có thể ta
còn tìm ra được chìa khoá", Alecxei Alecxandrovitr thầm nghĩ.
- Tôi muốn nói cho mình biết mà đề
phòng sự vô ý và nông nổi của mình, khiến người trong giới thượng lưu có cớ để
dị nghị về mình, - ông mào đầu, giọng dịu dàng. - Câu chuyện quá sôi nổi của
mình tối nay với bá tước Vronxki, (ông chậm rãi nhắc cái tên đó, sau khi ngừng
lại một lát), đã làm mọi người chú ý đến mình.
Trong khi nói, ông nhìn vào đôi mắt
tươi cười của vợ mà sự bí ẩn giờ đây làm ông khiếp sợ và ông liền cảm thấy trọn
vẹn sự vô ích và hão huyền của lời mình nói.
- Mình bao giờ cũng vẫn thế, - nàng
trả lời dường như thực tình không hiểu nổi chồng và trong tất cả những lời ông
nói nàng chỉ chủ tâm ghi lại câu cuối. - Mình không thích tôi sống buồn tẻ
nhưng cũng không thích tôi vui chơi. Tối nay, tôi không đến nỗi bị buồn tẻ. Có
phải điều đó làm mình phật ý không?
Alecxei Alecxandrovitr giật mình và
chắp hai bàn tay vào nhau bẻ khục răng rắc.
- ồ, tôi xin mình đấy, mình hãy bỏ
tay ra, sao mà khó chịu thế, - nàng nói.
- Anna có thật là mình đấy không? -
Alecxei Alecxandrovitr dằn giọng nói, gắng để yên hai bàn tay.
- Nhưng có chuyện gì vậy? - nàng nói
với một vẻ ngạc nhiên thú vị và thành thực. - Mình muốn gì tôi kia?
Alecxei Alecxandrovitr nín lặng, đưa
tay lên mắt và trán. Ông thấy đáng lẽ phải trung thành với ý định của mình,
nghĩa là bảo cho vợ biết mà đề phòng lầm lỗi trước mắt mọi người, thì bất giác
ông lại đi lo lắng về những cái xảy ra trong lương tâm nàng và bèn vấp phải một
trở ngại tưởng tượng.
- Tôi muốn nói với mình như thế này
và xin mình nên nghe tôi đến đầu đến đũa, - ông lạnh lùng và bình tĩnh nói
tiếp. - Như mình đã biết đấy, tôi coi ghen tuông là thứ tình cảm ô nhục và ti
tiện, nên không bao giờ tôi tự để cho thứ tình cảm đó chi phối, nhưng có vài
nguyên tắc lễ nghi mà ta không thể vi phạm một cách vô can được.
Hôm nay (không phải chính tôi nhận
thấy mà chỉ là suy xét dựa trên cái ấn tượng gây ra đối với mọi người) ai nấy
đều nhận thấy mình cư xử không được hoàn toàn như điều người ta có thể mong
muốn.
- Tôi quả thực không hiểu gì cả, -
Anna nhún vai nói. "Chuyện kia hoàn toàn không làm ông ta bận tâm, nàng
thầm nghĩ, cái làm ông ta lo ngại, đó là dư luận công chúng". - Chắc là
mình khó ở đấy, Alecxei Alecxandrovitr ạ, - nàng nói tiếp; nàng đứng dậy và
định đi ra; nhưng ông bước lên trước mặt, như muốn ngăn lại.
Chưa bao giờ Anna lại thấy chồng có
bộ mặt lầm lầm và đáng ghét đến thế. Nàng dừng bước và ngửa đầu ra sau, nghiêng
về một bên, đưa tay thoăn thoắt rút trâm cài tóc ra.
- Thôi được, tôi nghe vậy, - nàng
bình tĩnh nói, giọng nhạo báng. - Tôi còn nghe một cách thích thú nữa kia, vì
tôi muốn biết đó là chuyện gì, - nàng nói và chính bản thân cũng ngạc nhiên về
cái giọng tự nhiên, bình tĩnh và rành rọt của mình cũng như về cách chọn lời
lẽ.
- Tôi không có quyền đi sâu vào chân
tơ kẽ tóc những tình cảm của mình và nói chung, tôi cho như thế là vô ích và có
hại nữa, - Alecxei Alecxandrovitr bắt đầu nói. - Trong khi moi móc tâm hồn
mình, ta thường khai thác được những cái xưa nay không nhìn thấy. Tình cảm của
mình chỉ do lương tâm mình định đoạt, nhưng đối mặt mình, đối mặt tôi và trước
mặt Chúa, tôi bắt buộc phải nhắc mình hãy nhớ tới bổn phận. Cuộc đời chúng ta
gắn bó với nhau không phải do ý người mà là do ý Chúa. Cắt đứt mối dây đó là
phạm tội và một tội ác như vậy sẽ kéo theo hình phạt.
- Tôi chẳng còn hiểu ra sao nữa. Mà
khổ quá, tôi buồn ngủ ghê lắm rồi! - nàng nói, nhẹ nhàng đưa tay lên tóc rút
nốt cái trâm cuối cùng.
- Anna, lạy Chúa, mình đừng nói như
vậy! - ông dịu dàng nói. Có thể tôi nhầm, nhưng xin hãy tin rằng điều tôi nói
đây là vì lợi ích của cả mình lẫn tôi. Tôi là chồng mình và tôi yêu mình.
Trong khoảnh khắc, khuôn mặt Anna đã
dịu xuống và ánh nhạo báng nơi khoé mắt đã tắt dần; nhưng câu tôi yêu mình lại
khuấy lên trong lòng nàng nỗi phẫn uất. Nàng nghĩ: "Yêu à? Ông ta mà đủ
sức yêu được à? Ví thử ông ta chưa từng nghe thấy nói đến tình yêu thì hẳn
không bao giờ ông ta dùng tới chữ đó. Thậm chí ông ta cũng không hiểu được thế
nào là tình yêu nữa kia".
- Alecxei Alecxandrovitr, quả thực
tôi không hiểu gì cả, - nàng nói. - Mình hãy giảng giải cho tôi biết cái điều
mà mình thấy là...
- Khoan đã, để tôi nói nốt. Tôi yêu
mình. Nhưng tôi không nói về tôi: những người liên quan chính ở đây là con trai
chúng ta và bản thân mình. Tôi xin nhắc lại, rất có thể đối với mình, những lời
tôi nói hình như không đúng lúc và hoàn toàn vô ích; có thể những lời đó chỉ là
kết quả của một sự lầm lẫn. Trong trường hợp đó, xin mình tha lỗi cho tôi. Nhưng
nếu chính mình cũng cảm thấy nó có chút cơ sở nào đó thì mình nên suy nghĩ, và,
nếu lòng mình muốn, xin hãy thổ lộ với tôi...
Alecxei Alecxandrovitr không nhận ra
là mình đã nói khác hẳn những điều đã dự định:
- Tôi không có gì để nói với mình.
Vả lại... - nàng đột nhiên nói vội vàng, kìm lại một nụ cười, - đã đến giờ đi
ngủ rồi đấy.
Alecxei Alecxandrovitr thở dài và
không nói gì thêm, đi về phòng ngủ.
Đến lượt nàng vào thì ông ta đã nằm
trên giường rồi. Ông nghiêm nghị mím chặt môi và không nhìn nàng. Anna nằm
xuống, vẫn nơm nớp chờ chồng nói với mình. Nàng sợ điều ông sắp nói và đồng
thời lại mong chồng nói. Nhưng ông ta nín lặng. Nàng nằm không cựa quậy, chờ
đợi hồi lâu rồi cuối cùng quên hẳn chồng. Nàng nghĩ tới người kia, hình dung
thấy chàng và ý nghĩ đó khiến lòng nàng tràn đầy một niềm bối rối và vui sướng
tội lỗi. Bỗng nhiên, nàng nghe thấy tiếng ngáy đều đều và bình thản. Lúc đầu
Alecxei Alecxandrovitr như khiếp sợ vì chính tiếng ngáy của mình, dừng lại;
nhưng sau hai nhịp thở, tiếng ngáy lại bắt đầu, càng đều đều và bình thản hơn.
- Muộn quá rồi, bây giờ thì muộn quá
rồi, - nàng mỉm cười, thầm thì nói. Nàng nằm yên không động đậy hồi lâu, đôi
mắt mở to và tưởng như nó ngời sáng trong bóng tối.
Chương
10
Kể từ hôm đó, một cuộc đời mới bắt đầu,
với Alecxei Alecxandrovitr và vợ.
Không có gì đặc biệt xảy ra. Anna
vẫn giao du như thường lệ với giới thượng lưu, hay đến nhà quận chúa Betxi,
nhất là ở đâu cũng gặp Vronxki. Alecxei Alecxandrovitr biết vậy nhưng không làm
thế nào được cả. Trước mọi cố gắng của ông buộc vợ phải bày tỏ sự tình, nàng
đều đối phó lại bằng bức tường không thể vượt qua của thái độ tươi cười làm ra
vẻ không hiểu gì cả. Bề ngoài vẫn như cũ nhưng bên trong, quan hệ của họ đã
hoàn toàn thay đổi. Alecxei Alecxandrovitr trong công việc quốc gia thì tài
giỏi như vậy mà ở đây đành cảm thấy bất lực. Như con bò, ông cúi đầu nhẫn nhục
chờ đợi cái đòn sắp nện xuống đầu. Mỗi lần nghĩ tới việc đó, ông đều cảm thấy
cần cố gắng thử một lần cuối nữa, và vẫn còn hy vọng cứu vớt vợ, bằng thiện
tâm, sự trìu mến, sức thuyết phục của mình, buộc nàng phải sáng mắt ra và hằng
ngày ông đều sẵn sàng nói với nàng. Nhưng mỗi lần bắt đầu nói, ông lại cảm thấy
con quỷ đã nhập vào vợ lại nhập luôn vào mình và bèn thốt ra những điều khác
hẳn, bằng một giọng khác hẳn cái giọng ông muốn dùng. Khi nói với vợ, bất giác
ông đã dùng cái giọng châm biếm thường lệ, và bằng giọng đó, ông như muốn chế
giễu những ai thực sự hay nói theo kiểu đó. Và với giọng như vậy thì không thể
nào là nói được với vợ những điều lẽ ra phải nói.
Chương
11
Cái điều ngót một năm trời được coi
là ước muốn duy nhất thay thế mọi ước muốn duy nhất thay thế mọi ước muốn khác
với Vronxki, cái điều được coi là giấc mơ hạnh phúc không thể có được, khủng
khiếp, do đó càng thêm phần cám dỗ đối với Anna, giấc mơ đó đã được thực hiện.
Bộ mặt tái nhợt, hàm răng dưới run run, chàng đứng đó, cúi xuống nàng và van
xin nàng bình tĩnh, mà không hiểu tại sao phải bình tĩnh và bình tĩnh như thế
nào.
- Anna! Anna! - chàng nói giọng run
run. - Trời ơi, Anna!
Nhưng chàng càng cao giọng thì nàng
càng cúi cái đầu tủi nhục xuống, cái đầu xưa kia vốn kiêu kỳ và tươi vui; nàng
gập cả người và trượt từ trên đi văng đang ngồi xuống sàn, dưới chân chàng; nếu
không kịp đỡ thì nàng đã ngã lăn ra thảm.
- Lạy Chúa! Hãy tha thứ cho em! -
nàng nói, vừa thổn thức vừa ép chặt hai bàn tay Vronxki vào ngực mình.
Nàng tự cảm thấy đầy tội ác và lỗi
lầm, nên giờ chỉ còn biết hạ mình xuống và cầu xin tha thứ: giờ đây, nàng chỉ
còn có mình chàng trên đời, cho nên chính chàng là người nàng van xin tha thứ.
Trong khi nhìn chàng, nàng cảm thấy rõ nỗi tủi nhục của mình như một cảm giác
của kẻ sát nhân khi nhìn thấy cái thi thể bị hắn tước đoạt mất sự sống. Cái xác
chết đó là tình yêu của họ, là giai đoạn đầu tình yêu của họ. Có một cái gì
khủng khiếp và ô nhục trong việc nhớ lại điều họ đã phải trả giá bằng nỗi hổ
thẹn. Nỗi hổ thẹn về sự trần trụi tinh thần bóp nghẹt Anna và lây sang Vronxki.
Nhưng, mặc dầu kẻ sát nhân ghê sợ trước xác nạn nhân, hắn vẫn phải phanh cái
xác đó ra từng mảnh, thủ tiêu nó đi và lợi dụng tội ác của mình.
Và tên sát nhân hăm hở nhảy xô vào
cái xác đó với cả niềm say mê, kéo nó đi để phanh ra từng mảnh; Vronxki đã làm
như vậy, hôn khắp lên mặt lên vai Anna. Nàng nắm tay chàng, không động đậy.
Phải, những cái hôn đó, nàng đã mua
bằng giá của nỗi hổ thẹn này.
Phải, bàn tay này mãi mãi thuộc về
ta, là bàn tay kẻ tòng phạm của ta. Nàng nâng bàn tay đó lên và hôn nó. Chàng
gieo mình quỳ xuống và định nhìn vào mặt nàng, nhưng nàng che mặt, im lặng.
Cuối cùng nàng gắng hết sức đứng dậy và đẩy chàng ra. Khuôn mặt nàng vẫn đẹp
như thường và chỉ gợi niềm thương xót lớn hơn.
- Thế là hết cả rồi, - nàng nói. -
Em chỉ còn có mình anh. Anh nhớ lấy.
- Anh quên làm sao được điều đã tạo
thành cuộc đời anh! Vì một phút hạnh phúc này...
- Chao ôi, hạnh phúc! - nàng nói với
vẻ khiếp sợ pha lẫn ghê tởm khiến chàng bất giác cũng thấy cảm giác đó lây sang
mình. Lạy Chúa, đừng nói gì nữa, đừng nói gì nữa!
Nàng đứng phắt dậy và tránh xa
chàng.
- Đừng nói gì nữa, - nàng nhắc lại,
và với một vẻ tuyệt vọng lạnh lùng khiến chàng kinh ngạc, nàng từ giã chàng.
Nàng cảm thấy lúc này không có lời nào tả xiết cái cảm giác hổ thẹn, vui sướng
và khiếp sợ tràn ngập tâm hồn nàng trước khi bước vào cuộc đời mới, và nàng
muốn thà không nói còn hơn làm nhòa tình cảm đó bằng những chữ không đắt. Nhưng
đến ngày thứ hai, thứ ba về sau, không những nàng vẫn không tìm ra những chữ có
thể giúp mình diễn tả hết cái phức tạp của tình cảm đó, mà thậm chí cũng không
tìm lại được những ý nghĩ soi sáng cho bản thân mình hiểu thấu những điều đang
diễn ra trong tâm hồn nữa.
Nàng tự nhủ: "Không, bây giờ ta
chưa thể nghĩ tới chuyện đó; để sau vậy, khi ta trở lại bình tĩnh đã".
Nhưng sự bình tĩnh về tinh thần không bao giờ đến cả; mỗi lần chợt thấy những
việc đã làm, những việc có thể sẽ xảy đến và có thể sẽ phải làm, nàng lại khiếp
sợ và xua đuổi những ý nghĩ đó.
- Sau này, sau này vậy, - nàng tự
nhủ, - khi ta bình tĩnh hơn.
Trái lại, trong giấc mộng, khi không
còn làm chủ được ý nghĩ, cảnh huống của nàng lại hiện ra với tất cả vẻ trần
trụi khủng khiếp trước mắt. Hầu như đêm nào nàng cũng chỉ thấy một giấc mơ như
vậy; nàng nằm mơ thấy cả hai đều là chồng mình và cả hai đều ôm ấp vuốt ve
mình. Alecxei Alecxandrovitr vừa khóc vừa hôn tay nàng và nói:
"Bây giờ, mọi sự đều tốt đẹp biết
mấy!". Alecxei Vronxki cũng ở đó và cũng lại là chồng nàng. Và nàng lấy
làm ngạc nhiên sao trước kia mình lại cho rằng không thể như thế được; nàng
cười, giảng giải cho họ là như thế đơn giản hơn nhiều và bây giờ cả hai đều
sung sướng và toại nguyện. Nhưng giấc mơ đó làm nàng nghẹn thở như một cơn ác
mộng và nàng thường tỉnh dậy trong nỗi kinh hoàng.
Chương
12
Thời gian đầu khi mới ở Moxcva về,
mỗi lần rùng mình và đỏ mặt nhớ đến cái nhục bị cự tuyệt, Levin đều tự thú:
"Khi được điểm một trong kỳ thi vật lý và phải học lưu ban năm thứ hai,
mình cũng từng đỏ mặt và rùng mình như vậy, cho thế là hỏng hết; khi làm lỡ cái
việc bà chị nhờ làm, mình cũng tưởng là hỏng nốt. Sau đó thì sao? Giờ đây, năm
tháng qua đi, mình lại ngạc nhiên sao cái đó lại có thể làm mình buồn phiền đến
vậy. Nỗi đau buồn này rồi cũng thế thôi. Thời gian qua đi và mình sẽ dửng dưng
với chuyện đó".
Nhưng ba tháng ròng trôi qua mà
chàng vẫn chẳng thấy dửng dưng, ký ức đó vẫn đau đáu như ngày đầu. Chàng không
thể trở lại thanh thản, vì sau bao lâu mơ ước cuộc sống gia đình, sau khi tự
thấy mình đã chuẩn bị đầy đủ để đón nó, chàng vẫn chưa thành gia thất và càng
cảm thấy chuyện hôn nhân lùi xa hơn bao giờ hết.
Cũng như mọi nhưng chung quanh,
chàng mệt mỏi thấy rằng một người đã vào tuổi chàng mà sống cô độc thì chẳng
hay hớm gì. Chàng nhớ lại trước khi đi Moxcva, một hôm chàng có nói với gã chăn
bò Nicolai, một người chất phác chàng thường thích cùng trò chuyện mỗi khi gặp
dịp: "Này, Nicolai, tôi muốn lấy vợ rồi đấy", và Nicolai đã nhanh
nhảu trả lời như đối với một chuyện không thành vấn đề nữa:
"Việc đó đáng lẽ phải làm từ
lâu rồi kia đấy, ông Conxtantin Dimitrievitr ạ". Thế mà bây giờ việc hôn
nhân lại càng lùi xa hơn bao giờ hết. Vị trí bị chiếm đoạt mất rồi và khi tưởng
tượng phải đặt thay vào vị trí đó một trong số những thiếu nữ quen biết, chàng
cảm thấy hoàn toàn không thể làm nổi. Ngoài ra, ký ức về chuyện bị cự tuyệt
cùng vai trò mình đóng trong đó, vẫn hành hạ chàng. Tuy vẫn luôn tự nhủ là mình
không hề có lỗi gì, ký ức đó cũng như những kỷ niệm đáng hổ thẹn cùng một loại
vẫn làm chàng rùng mình và đỏ mặt.
Cũng giống mọi người, trong dĩ vãng
của chàng có những hành động xấu từng cắn rứt lương tâm, như chàng đã thừa
nhận, thế nhưng nó không giày vò chàng dai dẳng bằng những ký ức vụn vặt mà
nhục nhã này. Những vết thương như vậy không bao giờ hàn gắn được. Và giờ đây,
xếp cùng hàng với những hồi nhớ đó, còn có chuyện cự tuyệt và vẻ thiểu não mà
hẳn chàng đã phơi bày trước mặt mọi người trong buổi tối đó. Thời gian và lao động
đã hoàn thành công việc. Ký ức nặng nề dần dần được những sự việc nhỏ nhặt
nhưng quan trọng của đời sống nông thôn xoá nhòa đi.
Song le, mùa xuân đã về, đẹp đẽ,
thân thuộc, không lần lữa mà cũng chẳng bất ngờ, một mùa xuân hiếm thấy mà cả
cây cỏ, súc vật lẫn con người đều vui mừng. Mùa xuân đẹp càng khiến Levin náo
nức hơn và củng cố thêm quyết tâm từ bỏ tất cả quá khứ, để tổ chức cuộc sống
độc thân vững chắc hơn và không lệ thuộc gì cả. Mặc dầu phần lớn kế hoạch chàng
ấp ủ khi trở về nông thôn, không thực hiện được, nhưng điều cốt yếu: sự trong
sạch trong lối sống, đã duy trì được.
Chàng thôi không cảm thấy nỗi hổ
thẹn vẫn hành hạ chàng sau lần vấp ngã, và chàng có thể mạnh dạn nhìn thẳng vào
mắt mọi người.
Khoảng tháng hai, chàng nhận được
thư của Maria Nicolaievna, báo cho biết sức khỏe ông anh Nicolai càng sa sút,
nhưng ông ta lại không muốn chữa chạy gì cả. Levin lập tức đi Moxcva và thuyết
phục được anh tới bác sĩ khám bệnh và đi dưỡng bệnh nước ngoài. Chàng khéo léo
dỗ anh và cho vay tiền để đi mà không làm mếch lòng, đến nỗi về mặt này, chàng
rất bằng lòng với mình. Ngoài việc quản lý trại ấp đòi hỏi được chăm sóc đặc
biệt trong mùa xuân và ngoài việc đọc sách, mùa đông đó, Levin còn bắt đầu viết
một cuốn sách bàn về nông nghiệp, trong đó chàng xuất phát từ cái ý rằng tính
chất công nhân nông nghiệp là một dữ kiện cũng tuyệt đối như khí hậu và đất
đai, do đó tất cả những luận án khoa học lấy nông nghiệp làm đề tài, không
những phải dựa trên dữ kiện khí hậu và đất đai, mà cả trên dữ kiện về tính chất
quen thuộc và bất biến của công nhân nông nghiệp.
Thành thử mặc dầu cô độc, hoặc có
khi chính vì cô độc như vậy mà cuộc sống của chàng rất bận rộn; thỉnh thoảng,
chàng ao ước được bàn bạc những ý nghĩ nảy ra trong đầu với một người khác
ngoài Agafia Mikhailovna, vì chàng vẫn luôn phân tích cho bà ta nghe về vật lý,
nông học và nhất là triết học; triết học là đầu đề ưa thích của Agafia
Mikhailovna.
Xuân về hơi muộn. Trong những tuần
lễ cuối mùa chay, trời lạnh và quang đãng. Ban ngày, tuyết tan dưới ánh nắng nhưng
đêm lại xuống tới bảy độ dưới không; băng phủ dày đến nỗi lấp cả đường xe đi.
Khắp thôn làng trắng xoá trong ngày lễ Phục sinh. Rồi tới hôm thứ hai của lễ
Phục sinh, bỗng nhiên gió nóng nổi lên, mây kéo đầy trời và một trận mưa ấm áp
ào ào đổ xuống suốt ba ngày ba đêm. Thứ năm, gió ngừng thổi, và một màn sương
mù dày xám bao phủ mặt đất, như muốn che giấu những bí mật của sự biến đổi đang
hoàn thành trong thiên nhiên. Giữa lớp sương mù, nước rẽ lối chảy, băng tan
răng rắc và trôi về thượng lưu, những dòng thác ngầu bọt lại cuồn cuộn. Hôm thứ
hai Quadimôđô 1, về chiều, sương mù tan dần, mây như đàn cừu tản đi dưới bầu
trời quang đãng, mùa xuân thực sự hiện ra. Sáng hôm sau, mặt trời chói lọi mọc
lên lại nuốt nốt lớp băng mỏng phủ mặt nước và bầu không khí ấm áp rung rinh
khắp nơi dưới luồn hơi bốc lên từ mặt đất hồi sinh. Cỏ già năm ngoái xanh tốt
lại, cỏ non năm nay như kim đâm tủa trên mặt đất; những chồi cây tuyết cầu,
phúc bồn tử và bạch dương dính nháp, sực nức mùi hương, đều căng nhựa và quanh
rặng liễu tắm nắng vàng tươi, đàn ong bị nhốt suốt mùa đông trong túp lều bằng
cành cây, lại thoát ra, vo ve bay lộn. Chim sơn ca không ai trông thấy tuôn
tiếng hót trên đồng cỏ nhung tơ và ruộng rạ phủ băng, chim te te than vãn bên
bờ những thung lũng và bãi lầy ngập nước lũ còn ứ đọng; tít trên cao, sếu và
ngỗng trời bay qua cất tiếng kêu mừng mùa xuân. Đàn súc vật trụi lông mới loáng
thoáng mọc lại, rống lên chạy đến bãi cỏ, cừu non chân cẳng leo khoeo nhảy ton
ton quanh đàn cừu mẹ đã gọt lông đang kêu be be; trẻ con thoăn thoắt chạy dọc
những con đường nhỏ đang se dần vết chân không của chúng, tiếng phụ nữ rộn lên
vui vẻ bên bờ đầm nơi họ đang giặt vải và tiếng rìu của nông dân đang chữa lại
cày bừa, vang vang trong các sân nhà. Mùa xuân thực sự đã về.
--------------------------------
1 Tức 7 ngày sau lễ Phục sinh.
Chương
13
Levin xỏ đôi ủng lớn và lần đầu bỏ
áo choàng lông mặc áo da ngắn, ra đi thăm đồng đất, bước qua những rãnh nước
chói loà ánh nắng và khi đặt chân lên băng, lúc lại dẫm vào bùn đặc quánh.
Mùa xuân là thời kỳ của những kế
hoạch và dự định. Ra khỏi nhà, Levin giống như cái cây mùa xuân chưa biết những
búp lộc non và cành tơ còn ủ kín trong chồi căng nhựa sẽ mọc đến đâu và mọc ra
sao, cũng không rõ mình sẽ làm gì trước hết trong cái trại ấp thân yêu, nhưng
tự cảm thấy trong đầu đầy những kế hoạch và dự định tốt đẹp.
Trước hết chàng đi thăm gia súc. Đàn
bò cái đã được thả vào bãi rào kín và sưởi bộ lông bóng nhẫy đang mọc lại dưới
ánh nắng, rống lên đòi được dắt ra đồng. Ngắm nghía xong những con vật quen
thân đến từng chi tiết nhỏ, Levin liền sai dắt chúng ra đồng và cho thả đàn bê
vào bãi rào kín. Gã mục đồng vui vẻ chạy đi sửa soạn lên đường. Mấy chị chăn bò
vén váy, lộ bọng chân trần trắng nõn, lội bì bõm trong bùn, và cầm sào chạy
theo đàn bê kêu be be, ngây ngất với niềm vui đầu xuân, và dồn chúng trở vào
sân.
Levin ngắm đàn bê non vừa đẻ trong
năm trông đẹp đẽ khác thường; những con già tháng nhất đã to bằng con bò cái
thường, và con bê cái, con của Pava, mới ba tháng mà đã khỏe bằng bò một tuổi.
Rồi chàng sai mang chậu ăn ra ngoài
và đổ rơm vào máng cỏ cho chúng. Những máng cỏ làm từ mùa thu và không dùng
trong mùa đông, đã hư hỏng cả. Levin cho đi tìm người thợ mộc đã được gọi đến
để chữa máy tuốt lúa. Nhưng anh ta còn đang chữa số bừa đáng lẽ phải sửa xong
từ tuần lễ Thánh. Việc đó làm Levin bực bội. Chàng khổ tâm vì lại vấp phải lối
làm ăn cẩu thả muôn thuở mà chàng đã tận lực đấu tranh hàng bao năm nay. Những
máng cỏ đựng rơm, không dùng đến trong mùa đông, đã được đem vào chuồng ngựa
kéo xe, và vì chỉ đóng mỏng manh để chuyên dung cho bê con nên đã giập gãy.
Ngoài ra, bừa và mọi nông cụ đáng lẽ phải được kiểm tra và sửa chữa từ mùa xuân
(vì vậy đã phải thuê đến ba thợ mộc để làm việc ấy) thì không được rờ mó gì đến
và bây giờ đáng lẽ phải bừa đất rồi, thì mới đem ra chữa. Levin sai người đi
gọi quản lý đến nhưng ngay sau đó lại đích thân đi tìm. Như mọi người, mọi vật
trong ngày hôm nay, lão quản lý cũng tươi hơn hớn, trong chiếc áo kép ngắn viền
lông cừu, từ nhà kho đập lúa đi đến, tay bẻ cọng rơm.
- Tai sao không thấy anh thợ mộc ở
chỗ máy tuốt lúa?
- Dạ, tôi đã định trình ông việc đó
từ hôm qua: số là phải chữa lại bừa. Bây giờ là vụ cày bừa rồi.
- Thế mùa đông vừa qua, bác làm gì
vậy?
- Nhưng ông cần đến thợ mộc để làm
gì kia ạ?
- Nhưng máng cỏ lưu động cho bê đâu
cả?
- Tôi đã bảo cho đem ra rồi. Nhưng
ông bảo biết làm thế nào với cái giống vật ấy? - viên quản lý nói với một cử
chỉ chán nản.
- Tôi không nói với cái giống vật đó
mà tôi nói với quản lý! - Levin nổi giận nói. - Tôi trả lương bác để làm gì hả?
- chàng quát lên.
Nhưng sực nhớ đó không phải là
phương pháp giải quyết được công việc, chàng ngừng lại giữa câu và thở dài. -
Vậy đã giao được chưa? - chàng hỏi, sau một lát im lặng.
- Ngày mai hoặc ngày kia thì có thể
gieo được ở phía sau Tuorkino.
- Thế còn cỏ tam điệp?
- Tôi đã cử Vaxili và Misca đi gieo
rồi. Nhưng tôi không rõ là họ có giao được không: đất nhiều bùn quá.
- Gieo bao nhiêu mẫu 1?
- Sáu mẫu.
- Tại sao không gieo tất cả? - Levin
kêu lên.
Việc họ chỉ gieo có sáu mẫu cỏ tam
điệp mà không phải hai mươi mẫu lại càng đáng bực mình hơn. Đứng về mặt lý
thuyết cũng như theo kinh nghiệm riêng của chàng, cỏ tam điệp chỉ mọc tốt khi
được gieo thật sớm, gần như trên lớp tuyết. Chưa bao giờ Levin có thể đạt được
điều đó.
- Chúng ta thiếu nhân công, mà ông
bảo biết làm thế nào với bọn người đó được? Có ba người trong bọn họ không đến.
Còn Xemion...
- Đáng lẽ bác có thể miễn cho họ
việc dỡ rơm.
- Thì tôi đã làm như thế rồi đấy.
- Thế họ đâu cả rồi?
- Năm người ở chỗ "làm phẩn"
(ý bác muốn nói là làm phân), bốn người ở chỗ lúa mạch, họ đang phải xới đảo
lúa: tôi chỉ e nó bị hấp hơi mục mất, ông Conxtantin Dimitrievitr ạ.
Levin biết chắc câu "tôi chỉ e
nó bị hấp hơi mục mất" có nghĩa là thứ lúa mạch Anh làm giống đó đã hấp
hơi mục thật rồi: lại một lần nữa, họ lơ là với lệnh của chàng.
- Nhưng trong tuần chay, tôi đã
chẳng bảo bác phải đặt ống thông hơi rồi đấy à! - chàng quát lên.
- Xin ông đừng lo, mọi việc rồi sẽ
kịp thời chu tất...
Levin vung tay giận dữ, đi đến nhà
kho xem lúa mạch và trở lại chuồng ngựa. Lúa mạch chưa bị hỏng. Nhưng lẽ ra
phải cho trôi tuột xuống tầng dưới thì toán thợ cứ lấy xẻng mà đảo, chàng liền
nhân đó bảo ban thêm ít việc và rút ở đó ra hai người cho đi gieo cỏ tam điệp.
Cơn thịnh nộ đối với lão quản lý
nguôi dần. Trời đẹp đến nỗi không sao cáu giận được.
- Ignát! - chàng gọi gã xàích đang
xắn tay áo giội nước ào ào rửa xe gần giếng, thắng cho tôi con ngựa.
- Con nào ạ?
- Kônpich.
- Thưa ông vâng.
Trong khi anh ta thắng yên cho ngựa,
Levin gọi quản lý đang lăng xăng quanh đó để làm lành với chàng, và bắt đầu bàn
với lão về công việc trong mùa xuân và dự định mới của chàng.
Phải chở phân đi thật sớm, để đến
trước vụ cắt cỏ đầu tiên là mọi cái xong xuôi cả rồi; cày thửa ruộng xa nhất để
cho đất ải; thuê thợ gặt lúa về chứ không gặt rẽ đối với nông dân nữa.
Lão quản lý chăm chú nghe và rõ ràng
đang cố sức tán thành những dự định của ông chủ! Nhưng lão lại có cái vẻ ủ rũ
và chán nản mà Levin biết rất rõ và bao giờ cũng làm chàng nổi xung. Cái vẻ đó
như muốn nói: "Tất cả mọi điều đó đều tốt đẹp đấy, nhưng trăm sự còn nhờ
Trời".
Không gì làm Levin tức tối bằng cái
giọng đó. Nó là cái giọng chung của tất cả các quản lý từng giúp việc cho
chàng. Tất cả đều có thái độ như vậy mỗi khi chàng nói đến những dự định của
mình, thành thử nay chàng không buồn nổi giận nữa; tuy nhiên chàng vẫn lấy làm
buồn bực và càng thấy phải cấp thiết đấu tranh với lực lượng ấu trĩ đó mà chàng
không biết gọi cách nào hơn là: "trăm sự nhờ Trời", và bất cứ lúc nào
nó vẫn cản đường chàng.
- Mong rằng chúng ta sẽ làm được mọi
việc đó, ông Conxtantin Dimitrievitr ạ.
- Nhưng tại sao lại không được?
- Còn phải thuê thêm chừng mươi mười
lăm người thợ nữa. Mà thợ thì thật là khan hiếm. Hôm nay, cũng có một bọn lại
đây: họ đòi bảy mươi rúp cho vụ hè.
Levin nín lặng. Bao giờ cũng vẫn lực
lượng đó cản trở ý định của chàng. Chàng biết dù gắng sức thế nào chăng nữa thì
cũng chẳng bao giờ thuê được quá ba mươi bảy, ba mươi tám người thợ với giá
phải chăng; đôi khi cũng có thể thuê tới bốn mươi người, nhưng không bao giờ
quá số đó. Dù sao chàng cũng không thể bỏ dở cuộc đấu tranh.
- Nếu người ta không tự động đến thì
phải sai người tới Xury, tới Tsêfirôpka. Phải tìm chứ.
- Dạ được, cái đó thì vẫn có thể làm
được thôi, Vaxili Fedorovitr uể oải nói. - Về việc này, cũng xin thưa là ngựa
đều yếu cả.
- Rồi ta sẽ mua thêm ngựa. Tôi thừa
biết bao giờ các người cũng gắng làm ít nhất và kém nhất, - chàng cười và nói
thêm; nhưng năm nay, tôi sẽ không để mặc các người muốn làm gì thì làm đâu. Tôi
sẽ tự làm lấy tất.
- Thực ra ông cũng chẳng nhắm mắt
làm ngơ nhiều quá đâu! Đối với chúng tôi, được ông chủ để mắt tới thì càng vui
hơn thôi...
- Vậy là họ đang gieo cỏ tam điệp ở
đằng sau rừng bạch dương phải không? Tôi đi ngó qua một chút xem sao, - chàng
nói, và cưỡi lên con ngựa nhỏ màu xám nhạt mà gã xàích vừa dắt lại.
- Conxtantin Dimitrievitr, ông không
qua suối được đâu, - gã xà ích kêu lên bảo chàng.
- Được, nếu thế tôi sẽ đi theo đường
rừng.
Và theo nhịp phi vun vút của con
tuấn mã nhỏ sung sướng được ra khỏi chuồng, đang ngửi hít tất cả các vũng nước
và kéo căng dây cương, Levin phóng qua mảnh sân lầy bùn, qua cổng và ra ngoài
đồng.
Nếu lúc ở chuồng bò và sân nuôi gà
vịt Levin đã cảm thấy hoan hỉ thì niềm vui của chàng càng tăng lên khi đến giữa
đồng. Nhịp nhàng rún rẩy theo nhịp phi của con tuấn mã, hít thở khí trời ấm áp,
pha chút hơi lạnh khi đi qua những đống tuyết lở như bụi phấn còn để lại dấu
vết rải rác đó đây trong rừng, chàng trầm trồ trước mỗi thân cây với lớp rêu
mới trên vỏ chồi non căng nhựa. Ra khỏi rừng, tấm thảm cỏ bát ngát trải rộng
trước mắt; không hề thấy vạt đất trơ trụi hoặc vũng nước đọng nào, trừ vài mảng
tuyết còn sót lại chưa tan dưới chỗ trũng. Chàng cũng không hề cáu giận khi
thấy ngựa của nông dân và ngựa con xéo lên đồng cỏ của mình (chàng đã sai một
nông dân gặp ngang đường đuổi chúng ra) hoặc khi nghe thấy câu trả lời ngớ ngẩn
nhưng giễu cợt của gã nông dân Ipat mà chàng đã gặp và hỏi: "Thế nào,
Ipat, sắp sửa gieo chưa? " - "Thưa ông Conxtantin Dimitrievitr, phải
cày trước đã chứ", Ipat trả lời. Chàng càng đi càng thấy vui vẻ và những
dự định mỗi lúc một tốt đẹp hơn hiện ra trong óc: trồng cây non ở ria ruộng
phía Nam để tránh cho tuyết khỏi đọng quá lâu; chia ruộng làm sáu khoảnh đất
bón phân và ba khoảnh dự trữ để trồng cỏ nuôi gia súc; dựng chuồng bò ở rìa
ruộng và đào ao ở đó: làm rào ngăn lưu động nhốt gia súc để lấy phân bón đất.
Như thế sẽ có ba trăm mẫu lúa tiểu mạch, một trăm mẫu khoai tây và năm mươi mẫu
cỏ tam điệp mà không chỗ nào đất bị hết màu cả.
Triền miên trong những mộng mơ đó,
thận trọng lái ngựa đi theo ria bờ để khỏi xéo lên ruộng đã gieo hạt, chàng đến
gặp toán thợ đang gieo cỏ tam điệp. Chiếc xe chở đầy hạt giống, đáng lẽ dừng
ngoài ria bờ thì lại đem đánh vào đám ruộng cày và lúa thu bị bánh xe cùng vó
ngựa xéo nát. Hai người thợ ngồi trên bờ luống, chắc để hút chung tẩu thuốc.
Đất trộn hạt giống ở trên xe không được nhào tơi mà lại chất thành tảng nhỏ
cứng hoặc đông lại. Mãi tới khi thấy ông chủ, Vaxili mới đi lại xe và Misca mới
bắt đầu gieo. Mọi cái đó thật đáng khiển trách nhưng Levin sai hắn dắt ngựa ra
khỏi ruộng.
- Thưa ông chủ, không việc gì đâu,
rồi sẽ mọc lại thôi, - Vaxili trả lời.
- Thôi tôi xin anh, đừng cãi lại
nữa, người ta bảo sao thì anh cứ làm vậy, - Levin nói.
- Thưa ông vâng, - Vaxili trả lời,
nắm lấy đầu ngựa. - Ông Conxtantin Dimitrievitr, thế này mới là hạt giống chứ,
thực là thượng hảo hạng! - hắn nói để lấy lòng chủ. - Nhưng nhấc bước đi được
thật không phải dễ. Mỗi chân kéo theo hàng tạ đất!
- Tại sao đất giống của anh lại chưa
được sàng? - Levin hỏi.
- Chúng tôi nhào nó đây, - Vaxili
trả lời, vốc một nắm đất giống và nghiền vụn trong gan bàn tay.
Trong việc này, Vaxili không có lỗi
nhưng không phải vì thế mà Levin không phật ý.
Đã nhiều lần nhận thấy thà nén giận
và ngậm bồ hòn làm ngọt còn lợi hơn, một lần nữa Levin lại dùng đến phương pháp
đó. Chàng quan sát dáng đi của Misca đang kéo lê từng tảng đất to tiếng dính
bết vào mỗi bên chân, chàng xuống ngựa, cầm lấy túi gai của Vaxili và đi gieo.
- Anh gieo đến đâu rồi?
Vaxili chỉ cho chàng một chỗ đánh
dấu chân và Levin cố hết sức gieo. Thật chật vật ngang với lội trong đầm lầy;
và mới hết một luống, Levin đã đổ mồ hôi như tắm; chàng dừng lại và trả cái túi
gieo.
- Thưa ông chủ, mùa hè năm nay ông
sẽ không còn chê trách gì được về cái luống này, - Vaxili nói.
- Tại sao? - Levin vui vẻ hỏi, cảm
thấy phương pháp đem ra dùng đã hiệu nghiệm.
- Mùa hè này rồi ông sẽ thấy. Nó sẽ
trội lên cho mà xem. Ông hãy thử nhìn chỗ tôi đã gieo mùa xuân vừa qua. Mọc tốt
biết chừng nào!
ấy là vì tôi, ông Conxtantin
Dimitrievitr ạ, tôi đã cật lực làm như làm cho chính bố tôi vậy! Tôi không
thích làm ẩu và cũng không dạy người khác làm ẩu. Nếu ông chủ vui lòng thì
chúng tôi cũng vui lòng.
Mỗi khi nhìn thấy thế kia, - Vaxili
nói và chỉ đám ruộng, - thì thật hởi lòng hởi dạ.
- Vaxili này, mùa xuân đẹp quá nhỉ!
- Đẹp đến nỗi các ông già cũng không
nhớ là đã bao giờ thấy mùa xuân nào đẹp đến thế chưa. Tôi vừa ở nhà ra; ở nhà
ông cụ tôi gieo ba mươi ang 2 lúa tiểu mạch. Cụ nói là không thể phân được nó
với mì đen.
- Nhà anh gieo lúa tiểu mạch đã được
lâu chưa?
- Thì chính ông khuyên chúng tôi
gieo nó năm ngoái mà; ông còn cho hai cót lúa. Chúng tôi bán đi một góc cót 3
và gieo ba mươi ang.
- Được, anh nhớ nhào kỹ đất giống và
trông coi Misca đấy, Levin nói và quay lại gần con ngựa. Nếu cỏ tam điệp mọc
tốt thì mỗi mẫu anh sẽ được năm mươi kôpếch.
- Xin kính cẩn đa tạ ông chủ; cứ thế
này chúng tôi cũng đủ vui lòng lắm rồi đấy ạ.
Levin lên yên và ra thửa ruộng trồng
cỏ tam điệp vụ năm ngoái và thửa ruộng đã cày để trồng lúa xuân.
Cỏ tam điệp mọc tốt. Nó đã mọc lớn
hẳn và rậm rạp xanh rì sau những thân lúa năm ngoái bị gẫy gập. Con ngựa lội
bùn đến cẳng chân và mỗi móng rút khỏi mặt đất đã tan băng nửa chừng đều kêu òm
ọp. Nhất định không đi qua được đám ruộng cày bừa rồi. Chỉ có nền đất đóng băng
là còn rắn, nhưng bước vào luống cày là con vật bị sụt tới bắp chân. Việc cày
vỡ thật mỹ mãn; hai ngày nữa là có thể bừa và gieo giống. Tất cả đều đẹp, tất
cả đều vui. Khi trở về, Levin đi đường suối, hy vọng nước đã xuống. Quả vậy,
chàng lội qua được và làm hai con vịt trời hốt hoảng bay lên. "ở đây chắc
có cả rẽ giun nữa", chàng nghĩ và đến đúng chỗ ngoặt trước cửa nhà, chàng
gặp người gác rừng xác nhận điều chàng dự đoán là đúng.
Levin phi nước đại để kịp có thời
giờ ăn trưa và sửa soạn súng đi săn buổi chiều.
--------------------------------
1 Tiếng Pháp là "arpent":
đơn vị đo ruộng đất ước chừng 5000 mét vuông.
2 Bản Pháp văn dịch là
"boisseau": sức chứa độ 13 lít.
3 Bản Pháp văn dịch là
"setier", sức chứa bằng 156 lít.
Chương
14
Trở về nhà với tâm trạng hết sức vui
vẻ, Levin nghe thấy tiếng nhạc ngựa từ phía bậc thềm chính vẳng lại.
"Có người ở ga về, chàng tự
nhủ, bây giờ đúng là giờ tàu Moxcva...
Ai thế không biết? Hay là anh
Nicolai? Anh ấy có nói với mình: tôi sẽ đi nghỉ ở suối nước nóng, nhưng có thể
là tôi sẽ về nhà chú cũng nên".
Thoạt tiên, chàng vui thích, rồi lại
lo sợ là có khi ông anh tới, lại làm hỏng cả những cảm giác sảng khoái do mùa
xuân đem lại. Nhưng rồi chàng hổ thẹn về tình cảm đó, trong đầu óc đã tưởng
tượng đến lúc mở rộng cánh tay đón anh, và với niềm vui chan chứa trìu mến,
chàng hết lòng mong muốn đó đúng là anh mình. Chàng thúc ngựa và khi vượt qua
cây xiêm gai, chàng thấy một cỗ xe tam mã cho thuê từ ga chạy về phía nhà mình;
một người mặc áo choàng lông ngồi trên. Không phải anh chàng rồi. "A, giá
là một người dễ chịu để mình có thể chuyện trò chốc lát nhỉ!", chàng tự
nhủ.
- A! Levin giơ hai tay vui sướng kêu
lên. Một ông khách quý đây!
Rất sung sướng được gặp anh! - chàng
reo lên khi nhận ra Xtepan Arcaditr.
"Mình sẽ được biết nàng cưới
chưa hay lúc nào thì cưới", chàng thầm nghĩ.
Và trong ngày xuân đẹp đẽ này, chàng
dường như không còn cảm thấy đau khổ nữa khi nhớ đến người thiếu nữ ấy.
- Cậu không ngờ mình đến phải không?
- Xtepan Arcaditr xuống xe và nói, trán, má và lông mày đều lấm, nhưng vẻ mặt
vẫn roi rói niềm vui và sức khỏe. - Thứ nhất là mình đến thăm cậu, - ông ta vừa
nói, vừa ôm hôn bạn; hai là đi săn tí ti, ba là bán khu rừng của mình ở
Ergusovoi.
- Tốt lắm! Anh thấy mùa xuân năm nay
thế nào? Anh làm thế nào mà ngồi xe trượt về đến tận đây được?
- Đi xe thổ mộ còn khổ hơn nữa kia,
ông Conxtantin Dimitrievitr ạ, - người xà ích, vốn quen chàng, trả lời.
- A! Tôi rất sung sướng được gặp
anh! - Levin nói, với nụ cười rạng rỡ và trẻ thơ.
Levin dẫn khách vào căn buồng dành
cho bạn bè, hành lý của Xtepan Arcaditr cũng được đem vào đây, một cái túi
xách, một khẩu súng bọc trong bao, một hộp xìgà: rồi chàng để khách ở lại rửa
ráy và thay quần áo, đi sang buồng giấy viên quản lý để bàn về chuyện cỏ tam
điệp và cày bừa. Agafia Mikhailovna, lúc nào cũng lo lắng đến thể diện gia
đình, giữ chàng ở phòng chờ để hỏi xem phải làm những món gì ăn trưa.
- Vú muốn làm gì thì làm, nhưng phải
nhanh lên, - chàng nói và sang nhà quản lý.
Khi chàng trở lại, Xtepan Arcaditr
đã rửa ráy, chải đầu xong, đang từ phòng riêng tươi cười bước ra, và cả hai
cùng lên gác.
- Mình rất vui sướng là đã đến được
tận chỗ của cậu! Bây giờ, mình sẽ hiểu được những điều bí mật cậu làm ở đây.
ấy, quả tình, mình ghen với cậu đấy. Nhà cửa đẹp quá, mọi cái ở đây đều dễ chịu
biết bao. Sáng sủa, vui tươi, - Xtepan Arcaditr nói, quên mất không phải vĩnh
viễn lúc nào cũng trong sáng như hôm nay. Và bà vú già của cậu cũng thật dịu
dàng! Cũng có thể mình thích một cô hầu phòng xinh xắn mặc tạp dề trắng hơn;
nhưng với lối sống khổ hạnh, phong thái nghiêm khắc của cậu, thế này lại rất
hợp kia đấy.
Xtepan Arcaditr cho Levin biết khá
nhiều tin tức thú vị; trong đó, có cả tin ông anh Xergei Ivanovitr của chàng
định mùa hè này sẽ về thăm chàng.
Ông không nhắc nhở gì đến Kitti và
gia đình Serbatxki; ông chỉ chuyển lời hỏi thăm của vợ mình. Levin cảm ơn thái
độ tế nhị đó và rất hài lòng về ông khách. Như mọi khi, trong cảnh cô đơn,
chàng đã thâu góp được vô số ý nghĩ và cảm xúc không thể bộc lộ với người xung
quanh, nên bây giờ chàng trút cả cho Xtepan Arcaditr, nào niềm vui thơ mộng về
mùa xuân, nào những thất bại, những dự định, nào những suy nghĩ, những nhận xét
nảy ra khi đọc sách, và nhất là ý định viết một cuốn sách, mà cơ sở lập luận -
tuy chàng không nhận thức được như vậy - chỉ là phê bình tất cả những sách
trước kia bàn về nông nghiệp. Xtepan Arcaditr lúc nào cũng hòa nhã, mọi chuyện
chỉ cần nghe thoáng là hiểu ngay, trong thời gian ở đây đã tỏ ra đặc biệt dễ
thương và thậm chí Levin còn tưởng như thoáng thấy ở ông khách một vẻ gần như
âu yếm và khâm phục, làm cho chàng khoái chí.
Những cố gắng của Agafia Mikhailovna
và anh bếp để nấu bữa ăn đặc biệt ngon, đã đưa đến kết quả là đôi bạn đang đói
ngấu sà ngay vào món bánh mì, bơ, thịt gia cầm và nấm muối dưa dọn làm đồ
nguội, và Levin liền sai dọn xúp ra ăn trước món bánh gối, mà anh bếp hy vọng
sẽ làm vị khách phục lăn. Nhưng Xtepan Arcaditr, tuy đã quen với những bữa ăn
kiểu khác, vẫn thấy tất cả đều ngon tuyệt:
nào rượu ngọt, nào bánh mì, nào bơ
và nhất là thịt gia cầm ướp muối, nào nấm, nào xúp rau gai, nào gà dò xốt kem,
nào rượu vang trắng vùng Crưm; tất cả đều hoàn hảo, ngon tuyệt.
- Tuyệt! Tuyệt! - ông nói, vừa châm
một điếu thuốc lá to gộc sau món thịt quay. - Tôi có cảm tưởng như ghé tàu lên
bến bờ bình lặng sau tiếng ồn ào và những chao đảo của con tàu! Vậy, cậu bảo
yếu tố thợ thuyền cần phải được nghiên cứu ngay trong bản thân nó và hướng dẫn
ta trong việc chọn hướng kinh doanh à? Mình là người ngoại đạo, nhưng mình cũng
cảm thấy lý thuyết đó và việc áp dụng nó sẽ có ảnh hưởng đối với thợ thuyền.
- Phải, nhưng khoan đã: tôi không
bàn về kinh tế chính trị, mà là kinh tế nông thôn. Đó là một khoa học, và người
thợ, đứng về phương diện kinh tế học, dân tộc học...
Vừa lúc đó Agafia Mikhailovna đem
mứt vào.
- Agafia Mikhailovna, tôi có lời
khen vú đấy, - Xtepan Arcaditr vừa nói với bà vú nuôi, vừa hôn lên những đầu
ngón tay mũm mĩm của chính mình; mứt ngon quá! Rượu ngon quá... Coxtia, đã đến
giờ đi rồi còn gì? - ông hỏi thêm.
Levin nhìn ra cửa sổ: mặt trời đã
lặn xuống sau những ngọn cây trơ trụi.
- Được rồi, được rồi, - chàng nói.
Kuzma, thắng ngựa vào! - và chàng chạy xuống nhà.
Xtepan Arcaditr sau khi xuống dưới
nhà, liền cẩn thận tháo bao vải thô bọc ngoài cái hộp đánh vécni: ông mở hộp, lấy
súng ra, một vũ khí đắt tiền và kiểu mới. Kuzma đánh hơi thấy một món thù lao
hậu hĩnh, không rời Xtepan Arcaditr nữa; hắn xỏ bít tất và ủng cho ông ta và
Oblonxki vui lòng để mặc hắn làm.
- Coxtia, nếu gã lái buôn Riabinil
đến (mình có mời hắn đến hôm nay), thì cậu bảo tiếp hắn và để hắn ngồi đợi...
- Anh bán khu rừng cho Riabinil à?
- ừ... Cậu biết hắn à?
- Biết chứ! "Cụ thể" và
"dứt khoát" là mình đã giao dịch với hắn.
Xtepan Arcaditr bật cười: "cụ
thể" và "dứt khoát" là những chữ ưa dùng của gã lái buôn.
- Phải, hắn ta có lối nói rất khôi
hài!... Nó biết chủ nó đi đâu đấy! - ông nói thêm, lấy tay vuốt ve con chó
Laxca đang gừ gừ và lăng xăng trước mặt Levin, khi liếm tay, khi liếm đôi ủng
và khẩu súng của chàng.
Họ ra đến ngoài thì chiếc xe ghế gỗ
đã đợi trước thềm.
- Tôi đã cho thắng ngựa, tuy đường
cũng không xa; nhưng nếu anh thích thì ta có thể đi bộ.
- Không, mình thích đi xe hơn, -
Xtepan Arcaditr nói, bước tới bên xe. Ông ngồi xuống, ủ chân vào chiếc mền phủ
chân kẻ vằn, và châm xì gà. - Tại sao cậu lại có thể không hút thuốc nhỉ? Xì
gà, bản thân nó đã là khoái lạc, điều đó không phải bàn nữa, nhưng nó còn là
tuyệt đỉnh và tượng trưng của khoái lạc nữa. Cuộc đời là thế. Thật tuyệt diệu
biết bao! Mình muốn sống như thế đấy!
- Nhưng có ai cấm anh sống như thế
đâu? - Levin mỉm cười, nói.
- Phải, cậu là người sung sướng. Cậu
có tất cả những gì cậu thích.
Cậu thích ngựa, có ngựa; thích chó,
có chó; thích săn bắn, trồng trọt, cậu có thể tha hồ làm những việc đó.
- Có lẽ vì tôi biết vui với những gì
tôi có, mà không hề buồn vì những gì còn thiếu, - Levin nói, chạnh nghĩ tới
Kitti.
Xtepan Arcaditr hiểu ý, nhìn chàng,
nhưng không nói gì.
Levin rất biết ơn Oblonxki, với tính
tế nhị sẵn có, đã nhận thấy chàng sợ nhắc đến gia đình Serbatxki nên tránh nói
tới họ; nhưng giờ đây, Levin lại muốn biết đích xác cái chuyện đang giày vò
mình, mà không dám khơi ra.
- Thế còn anh độ này làm ăn ra sao?
- Levin hỏi, cho rằng chỉ nghĩ đến mình thôi là không phải.
Đôi mắt Xtepan Arcaditr sáng lên
long lanh vui vẻ.
- Cậu không thừa nhận người ta có
thể thèm bánh mì trắng khi đã có khẩu phần rõ ràng rồi; theo cậu đó là tội ác;
nhưng còn mình, mình lại không thừa nhận là người ta có thể sống không ái tình,
- ông ta nói, hiểu câu hỏi của Levin theo ý riêng. Biết làm thế nào, mình vốn
bẩm sinh như vậy! Quả là cái đó chẳng làm hại gì mấy đến người khác mà lại đưa
đến cho ta bao nhiêu lạc thú...
- Thế nào, lại có chuyện gì mới đấy?
- Levin hỏi.
- Phải, anh bạn ạ! Này, cậu biết cái
loại đàn bà của Otxian 1 chứ...
những phụ nữ ta thấy trong mơ ấy...
ấy thế mà những phụ nữ đó lại có thật đấy... và họ thật đáng sợ. Cậu thấy
không, đàn bà là một thứ luôn luôn mới, càng nghiên cứu lâu càng thấy mới.
- Thế thì thà đừng nghiên cứu họ làm
gì cả.
- Cứ nghiên cứu chứ! Một nhà toán
học đã nói lạc thú không phải ở trong việc khám phá ra chân lý, mà trong việc
tìm tòi.
Levin im lặng nghe Oblonxki nói,
nhưng dù cố gắng thế nào, chàng cũng không sao đặt mình vào địa vị của bạn
được, và cũng không hiểu nổi những cảm xúc cùng cái thú vị mà ông ta tìm thấy
trong việc nghiên cứu loại đàn bà đó.
Chương
15
Họ đến một chỗ không xa đó bao
nhiêu, gần suối, trong rừng hoàn diệp liễu nhỏ. Đến ven rừng, Levin xuống xe và
dẫn Oblonxki vào một góc rừng thưa lầy lội và đầy rêu, đã sạch tuyết. Bản thân
chàng lại nấp ở đầu đằng kia, cạnh một cây bạch dương hai thân và tì súng lên
một cành khô thấp nhất, rồi cởi áo choàng, thắt lại dây lưng và kiểm tra xem
đôi tay cử động có thoải mái không.
Con chó Laxca già đi theo, thận
trọng ngồi xuống trước mặt chàng và vểnh tai lên. Mặt trời lặn sau khu rừng
rậm, và trong ánh chiều tà, những cây bạch dương non lẫn với rừng hoàn diệp
liễu nổi bật lên lồ lộ với những cành rũ xuống, đầy búp lộc căng phồng sẵn sàng
nở rộ.
Từ trong rừng rậm vẫn còn lác đác
phủ tuyết, nước róc rách chảy ra thành từng rãnh nhỏ ngoằn ngoèo. Chim hót ríu
rít và thỉnh thoảng bay chuyền từ cây này sang cây khác.
Trong bầu không khí im phăng phắc,
chốc chốc lại nghe tiếng lá khô xào xạc chuyển động vì tuyết tan cuốn đi hoặc
tiếng cỏ đang mọc.
"Quả là người ta nghe thấy cỏ
mọc!", Levin nghĩ thầm, khi thấy một chiếc lá hoàn diệp liễu màu đá đen bị
ngọn cỏ non đội lên. Chàng đứng sững, lắng nghe, khi nhìn xuống nền đất ẩm ướt
và đầy rêu, hoặc nhìn con Laxca đang rình ngóng, hoặc ngắm biển vòm cây trơ trụi
trải dưới chân đồi, lúc lại nhìn lên bầu trời âm u, với những dải mây trắng
chạy dài. Một con kền kền thong thả vỗ cánh bay ngang trời cao, phía trên một
khu rừng xa; một con khác cũng theo hướng đó bay đi, cánh vỗ theo một nhịp
tương tự rồi mất hút. Tiếng chim líu lo trong rừng rậm nghe càng inh ỏi và nhộn
nhịp. Một con cú mèo cất tiếng rúc đâu đây: con Laxca rùng mình, thận trọng đi
vài bước và nghiêng đầu lắng nghe. Tiếng gọi của chim gáy vang bên kia bờ suối.
Nó cất tiếng kêu thường lệ hai lần,
rồi định hót nhanh hơn, giọng đâm khàn đi và ngừng bặt.
- Chim gáy đấy! - Xtepan Arcaditr
nói, ra khỏi bụi rậm.
- ừ, tôi nghe thấy rồi, - Levin trả
lời, như khó chịu thấy tiếng nói mình phá tan yên lặng. - Sắp đến lúc rồi đấy.
Bóng Xtepan Arcaditr lại khuất sau
bụi rậm, và Levin chỉ còn trông thấy ngọn lửa đỏ rực của que diêm, rồi ngay sau
đó là chấm đỏ điếu thuốc lá và một làn khói nhạt xanh lơ. Có tiếng tách! tách!
Đó là Xtepan Arcaditr lên cò.
- Con gì kêu đó hả? - Oblonxki hỏi,
khiến Levin chú ý tới một tiếng động âm âm và kéo dài. Tưởng như có chú ngựa
con hí lên yếu ớt để đùa nghịch.
- Anh không biết à? Đó là thỏ đực.
Nhưng thôi đừng nói nữa! Nghe kìa! - Levin nói như thét, lên cò súng.
Có tiếng huýt khe khẽ từ xa, và
khoảng hai giây sau, với cái tiết điệu nhịp nhàng rất quen thuộc với người đi
săn, một tiếng huýt thứ hai, rồi tiếng thứ ba, cuối cùng chuyển thành tiếng the
thé.
Levin nhìn bên phải, bên trái, và
bỗng nhiên trong bầu trời xanh đùng đục, bên trên những cành non mơn mởn chằng
chịt của khóm cây hoàn diệp liễu, hiện ra một con chim đang bay. Nó bay thẳng
tới phía chàng. Tiếng nó kêu khàn khàn, tựa tiếng sột soạt của tấm vải căng
thẳng bị xé từng tí một, vang ngay bên tai; đã nhìn rõ cái mỏ dài và cổ chim;
lúc Levin vừa ngắm bắn thì một ánh chớp đỏ loé lên sau bụi rậm Oblonxki đứng;
con chim rơi xuống như mũi tên, rồi lại vút bay lên. Lại một ánh chớp nữa theo
sau là tiếng nổ, và sau khi vỗ cánh như cố níu lấy tầng không, con chim sững
lại, đờ ra không động đậy một giây rồi nặng nề rơi xuống bãi lầy.
- Mình bắn trượt rồi à? - Xtepan
Arcaditr kêu lên, bị làn khói che lấp không trông thấy.
- Nó đây này! - Levin nói, vừa chỉ
Laxca, một tai vểnh lên, ve vẩy cái đuôi rậm, đang chậm rãi bước như còn muốn
kéo dài nỗi thích thú, đem con chim chết về cho chủ với vẻ như mỉm cười. A, rất
mừng là anh đã bắn trúng! - Levin nói, đồng thời cảm thấy hơi ghen tị.
- Nòng súng bên phải của mình đã bắn
trượt, thật là tồi. Xtepan Arcaditr trả lời, lắp đạn vào súng. - Suỵt... lại có
con nữa đây.
Quả nhiên, những tiếng rít chói tai
liên tiếp vang lên dồn dập. Hai con rẽ giun đùa nghịch đuổi nhau, rít lên khe
khẽ, bay tới ngay đỉnh đầu hai người đi săn. Bốn phát súng nổ vang và mấy con
rẽ giun, như chim én, đột nhiên bay quặt sang bên và biến mất.
Cuộc đi săn đạt kết quả tốt. Xtepan
Arcaditr bắn thêm được hai con, Levin cũng được hai con, nhưng chỉ tìm thấy
một. Bóng tối buông xuống. Sao hôm sáng ngời ánh bạc mọc sát chân trời, toả
sáng dịu dàng ở phía tây, sau rặng bạch dương non. Phía đông, sao Mục phu mờ
tối đã nhóm ngọn lửa đỏ nhấp nháy trên trời cao. Levin lần lượt nhìn thấy rồi
lại mất hút chòm sao Đại hùng tinh trên đầu. Chim rẽ giun không thấy xuất hiện
nữa. Nhưng Levin nhất định chờ cho tới khi sao Hôm hiện đang còn thấp hơn chạc
cây dương, nhô lên trên và tất cả chòm Đại hùng tinh đều sáng tỏ. Sao Hôm đã
vượt lên khỏi chạc cây, chòm Đại hùng tinh như chiếc xe bò in bật trọn vẹn trên
nền trời xanh sẫm, nhưng Levin vẫn cứ chờ.
- Về được rồi còn gì? - Xtepan
Arcaditr nói.
Rừng cây tĩnh mịch: không còn con
chim nào động đậy nữa.
- Ta chờ tí nữa, - Levin trả lời.
- Tuỳ cậu.
Giờ đây họ đứng cách nhau mươi mười
lăm bước.
- Xtiva! - Levin đột nhiên nói, anh
chưa cho tôi biết cô em vợ anh cưới rồi hay sắp cưới?
Levin cảm thấy tự chủ và bình tĩnh
đến nỗi tưởng như Oblonxki có trả lời thế nào cũng không thể làm chàng xúc
động. Nhưng chàng không ngờ tới câu trả lời của Xtepan Arcaditr.
- Trước đây cô ấy không hề nghĩ đến
chuyện lấy chồng mà nay cũng thế. Cô ấy đang ốm nặng; thầy thuốc đã cho đưa ra
nước ngoài.
Thậm chí nguy đến tính mệnh nữa kia.
- Anh nói gì thế? - Levin thốt lên.
- ốm nặng! Bệnh gì vậy? Thế nào...
Trong khi họ trò chuyện, Laxca vểnh
tai ngắm trời và nhìn họ, đầy vẻ trách móc.
"Rõ khéo chọn lúc trò chuyện
chửa, nó thầm nghĩ. Có một con đang bay đến... Đấy, nó kia kìa. Họ đến bỏ lỡ
mất thôi", Laxca tự nhủ.
Nhưng, đúng lúc đó, cả hai cùng nghe
thấy tiếng rít the thé chói tai; họ lập tức vớ lấy súng và hai tiếng nổ đồng
thời vang lên. Con rẽ giun đang bay cao, gập ngay đôi cánh và rơi xuống rừng
rậm làm trĩu mấy nhánh cây mềm.
- A! Tuyệt! Tuyệt! Đồng loạt nổ
súng! -Levin reo lên và cùng Laxca chạy đi tìm con chim. "ờ, có việc gì
chẳng lành vừa xảy ra. à, Kitti đang ốm... Thế nhưng biết làm thế nào? Thật
đáng tiếc", chàng nghĩ.
- Nó tìm thấy con chim rồi! Con chó
khôn quá! chàng nói, nhấc con chim còn nóng khỏi mõm Laxca và nhét vào túi dết
gần đấy. - Xtiva, tôi nhặt được rồi! - chàng kêu lên.
--------------------------------
1 Otxian là nhà thơ xứ Xcôtlen ở vào
thế kỷ thứ III, một nhân vật có tính chất truyền thuyết. Trong chuyến du lịch
sang Ailen, ông lấy Evya Alin, đẻ được một con trai đặt tên là Oscar. Khi lớn
lên Oscar chết. Otxian khóc con đến thành mù và tìm quên lãng trong những bài
thơ ca ngợi chiến công của hoàng tộc.
Chương
16
Trên đường về, Levin hỏi Oblonxki về
bệnh tình Kitti cùng dự định của gia đình Serbatxki, và những điều được biết
làm chàng khoan khoái, mặc dầu phải hổ thẹn thú nhận như vậy. Khoan khoái vì
chàng hãy còn chút hy vọng, và nhất là vì giờ đây đến lượt người đã làm chàng
xiết bao buồn tủi phải chịu đau khổ. Nhưng khi Xtepan Arcaditr định nói cho
chàng rõ nguyên nhân bệnh trạng Kitti và nhắc đến tên Vronxki, Levin liền ngắt
lời:
- Tôi hoàn toàn không có quyền biết
những điều bí mật về gia đình đó, và thật tình tôi cũng chẳng hề quan tâm đến.
Xtepan Arcaditr khẽ mỉm cười khi
thấy vẻ mặt bạn thay đổi đột ngột như thường xảy ra: một phút trước Levin vui
vẻ bao nhiêu thì nay lại như buồn bực bấy nhiêu.
- Việc anh bán rừng cho Riabinil đã
ngã ngũ chưa? - Levin hỏi.
- Rồi. Hắn mua với giá cao: ba mươi
tám nghìn rúp. ứng trước tám nghìn và số tiền còn lại sẽ trả dần làm sáu năm.
Tôi cũng phải trầy trật mãi đấy: không ai trả cao hơn cả.
- Anh đã bán khu rừng rẻ thối ra, -
Levin nói, mặt lầm lầm.
- Rẻ thối ra, sao lại thế? - Xtepan
Arcaditr hỏi, mỉm cười hiền lành, biết rằng bây giờ thì cái gì cũng làm Levin
bất mãn.
- Vì khu rừng đỏ bỏ rẻ ra cũng đáng
năm trăm rúp một mẫu, - Levin trả lời.
- ồ! Những anh chàng địa chủ quý tộc
này! - Xtepan Arcaditr pha trò. - Đúng là cái giọng khinh bỉ của các ngài đối
với lũ dân thành thị loại chúng tôi!... Nhưng khi có công việc phải giải quyết
thì chúng tôi lại thu xếp khéo léo hơn các ngài đấy. Cậu hãy tin mình, mình đã
suy tính kỹ, - ông ta nói, - khu rừng này bán như vậy là rất hời, và mình còn
sợ không khéo gã lái buôn lại nuốt lời là khác. Cậu cũng biết đấy có phải là
rừng gỗ kèo cột gì cho cam - Xtepan Arcaditr nói, muốn dùng chữ gỗ kèo cột 1 để
tỏ cho Levin biết sự nghi ngờ của chàng là vô căn cứ - đó thực ra chỉ là gỗ làm
củi. Mỗi mẫu không được quá ba mươi xa-gien 2, thế mà hắn trả cho mình mỗi mẫu
hai trăm rúp.
Levin mỉm cười, vẻ khinh khỉnh.
"Mình thừa biết cái thói ấy rồi:
dân thành thị anh nào cũng thế,
chàng nghĩ bụng. Hàng mười năm họ mới về thôn quê độ dăm ba bận, nghe lỏm được
vài chữ để rồi dùng bừa dùng bãi, và đinh ninh cái gì mình cũng biết. Gỗ kèo
cột, ba mươi xagien! Ngay đến nghĩa những chữ anh ta dùng, anh ta cũng không
hiểu nữa".
- Nếu đó là việc giấy tờ thuộc toà
án thì tôi sẽ không dám dạy khôn cho anh đâu và khi cần, tôi còn đi hỏi ý kiến
anh là đằng khác, - chàng nói. - Nhưng còn anh, anh lại đinh ninh mình hiểu
thấu suốt công việc rừng rú này. Đó là vấn đề phức tạp. Anh đã đếm có bao nhiêu
cây chưa?
- Đếm cây à! Sao hả? - Xtepan
Arcaditr cười nói, vẫn muốn xua tan tâm trạng bực bội của bạn. Đếm từng hạt cát
hoặc đếm từng tia sáng hành tinh, một trí óc cao siêu có lẽ sẽ đạt tới.
- Đúng thế: trí óc cao siêu của
Riabinil chắc chắn là đạt tới. Không gã lái buôn nào đi mua rừng mà lại không
đếm cây, trừ trường hợp người ta nhường tài sản cho mình rẻ thối ra, như anh
ấy. Tôi biết khu rừng của anh. Năm nào tôi cũng đi săn ở đấy: nó đáng giá mỗi
mẫu năm trăm rúp, trả ngay tiền mặt, trong khi hắn lại trả dần cho anh với giá
hai trăm rúp. Anh đã biếu không hắn khoảng ba mươi ngàn rúp.
- Thôi đi, cậu đừng nổi nóng nữa! -
Xtepan Arcaditr nói giọng thiểu não. - Thế tại sao không có ai trả mình đến giá
ấy?
- Vì hắn đã ăn cánh với bọn lái
buôn; hắn cho họ tiền bồi thường để họ đừng mua. Tôi đã từng giao thiệp với bọn
chúng, tôi biết rõ tất cả chúng nó. Bọn chúng không phải là lái buôn, mà là tụi
đầu cơ.
Ngay đến chuyến buôn nào chỉ đem lại
mươi mười lăm phần trăm tiền lãi, chúng cũng chẳng chịu bập vào nữa là; chúng
chỉ chờ dịp nào có thể bỏ ra hai mươi kôpêch để mua món hàng đáng giá một rúp.
- Thôi! Đừng nói nữa! Cậu đang lúc
bực bội đấy thôi.
- Tôi chả bực bội tí nào cả, - Levin
nói, vẻ lầm lầm, khi hai người về gần tới nhà.
Trước thềm đã thấy đỗ chiếc xe thổ
mộ có đóng thêm sắt và da vững chắc, với con ngựa béo tốt thắng dây đai rộng
bản. Ngồi trong xe là người chạy hàng đồng thời làm xà ích cho Riabinil, mặt
mày đỏ bự, quần áo chật căng. Còn chính Riabinil thì đã ở trong nhà và đang ra
đón đôi bạn ở phòng chờ. Riabinil trạc độ trung tuần, cao và gầy, để ria mép,
cằm nhọn vêu ra, đôi mắt ốc nhồi đờ đẫn. Hắn mặc áo đuôi tôm dài màu lơ sẫm,
đơm khuy ở vạt sau, đi ủng cao nhăn nhúm trên bàn chân và thẳng tắp ở bắp chân,
bên ngoài lại đi thêm giày cao su rộng. Hắn lấy khăn tay lau mặt và kéo vạt áo
xuống, tuy chẳng cần kéo cũng đã phẳng phiu, chìa tay cho Xtepan Arcaditr như
để chộp lấy cái gì.
- A! Ông đã đến rồi đấy ư? - Xtepan
Arcaditr chìa tay và nói với hắn. - Tốt lắm.
- Tôi không dám trái lệnh quan lớn,
mặc dầu đường sá rất xấu. Cụ thể là tôi phải đi bộ, nhưng tôi đã đến đúng ngày
hẹn. Conxtantin Dimitrievitr, xin kính chào ngài, - hắn nói với Levin và cũng
làm cử chỉ chộp lấy tay chàng. Nhưng Levin cau mày giả bộ không trông thấy và
lôi những con rẽ giun ra khỏi túi săn. - Các ngài đi săn để tiêu khiển đấy ạ?
Chim gì đấy ạ? - Riabinil hỏi thêm, và nhìn những con rẽ giun bằng vẻ khinh
khỉnh. - Chắc ngon lắm đây. - Và hắn lắc đầu ra vẻ chê bai, như nghi ngờ giá
trị của một chiến lợi phẩm như thế.
- Anh sang phòng làm việc của tôi
chăng? - Levin nói bằng tiếng Pháp với Xtepan Arcaditr. Chàng có vẻ buồn buồn.
- Các ông hãy sang phòng làm việc, ở đó nói chuyện tiện hơn.
- Tuỳ ngài, ở đâu cũng được mà, -
Riabinil nói, vẻ trịnh trọng kênh kiệu, như muốn tỏ ra người khác có thể lúng
túng về cách xử sự, chứ hắn thì không bao giờ lúng túng về bất cứ việc gì.
Khi đã vào phòng làm việc, Riabinil
nhìn quanh, như muốn tìm tượng thánh, nhưng khi thấy rồi, hắn lại không làm
dấu. Hắn quan sát những tủ sách và giá chất đầy sách vẫn với cái vẻ nghi ngờ
như đối với mấy con chim rẽ giun, mỉm cười khinh bỉ và lắc đầu, lần này thì rõ
ràng không tán thưởng.
- Thế nào, ông có mang tiền lại chứ?
- Oblonxki hỏi. - Mời ông ngồi.
- Khỏi phải lo chuyện tiền nong vội.
Mà tôi đến đây là cốt để thăm ngài, hầu chuyện ngài.
- Vậy ta cần bàn với nhau chuyện gì?
Nhưng mời ông hãy ngồi xuống.
- Vâng, - Riabinil nói, ngồi xuống,
tỳ khuỷu vào tay ghế bành với dáng rất gò bó. - Thưa hoàng thân, ngài phải bớt
giá đi cho. Ngài lấy đắt thế phải tội đấy. Nhưng tiền đã sắp sẵn rồi, dứt khoát
không thiếu một xu nhỏ. Sẽ trả không chậm trễ.
Trong khi đó, Levin xếp súng vào tủ
và đã bước ra khỏi ngưỡng cửa, nhưng nghe thấy lời gã lái buôn, chàng liền dừng
lại.
- Ông đã mua khu rừng với giá rẻ mạt
rồi, - chàng nói. - Ông ấy đến nhà tôi chậm quá, chứ không thì chính tôi là
người định giá kia.
Riabinil đứng dậy, và không nói nửa
lời, mỉm cười nhìn Levin suốt từ đầu đến chân.
- Ông Conxtantin Dimitrievitr chi li
lắm, - hắn mỉm cười nói với Xtepan Arcaditr, - dứt khoát là ông ta không mua
bán gì hết. Tôi đã từng mặc cả tiểu mạch của ông ấy: tôi trả giá cao...
- Tại sao tôi lại trao không của cải
cho ông nhỉ? Có phải tôi nhặt được ở dưới đất hay ăn cắp đâu?
- Xin lỗi ngài: ở thời buổi này, cụ
thể là không thể nào ăn cắp được.
ở thời buổi này, dứt khoát là cái gì
cũng phải tiến hành đàng hoàng theo thủ tục tố tụng công khai; không thể có
chuyện ăn cắp được.
Chúng tôi nói rất thành thực. Nếu
ông định giá khu rừng đắt quá, tôi sẽ không kiếm đâu ra cho đủ giật gấu vá vai.
Xin ngài bớt đi cho một ít.
- Này, công việc ngã ngũ chưa mới
được chứ? Nếu ngã ngũ rồi, thì không mặc cả gì nữa; nếu chưa, thì chính tôi sẽ
mua khu rừng đó, - Levin nói.
Nụ cười vụt biến khỏi mặt Riabinil.
Hắn bỗng có cái vẻ tàn ác và tham lam của giống chim ăn thịt. Hắn hấp tấp đưa
mấy ngón tay xương xẩu cởi khuy áo đuôi tôm, để lộ chiếc sơmi, hàng khuy đồng
áo gi lê và sợi dây đồng hồ quả quýt, rồi rút ra một chiếc ví to đã sờn.
- Xin lỗi, khu rừng thuộc về tôi
rồi, - hắn vừa nói vừa vội vã làm dấu và chìa tay ra. - Ngài cầm lấy tiền, khu
rừng thuộc về tôi rồi. Ngài xem, Riabinil mua bán như vậy đấy, không đếm xỉa
đến chuyện tiền nong nhé, - hắn cau mày nói thêm và vung ví lên.
- Nếu ở vào địa vị anh, tôi sẽ không
vội bán đâu, - Levin nói.
- Nhưng anh hiểu cho, - Oblonxki
ngạc nhiên nói: - tôi đã hứa với ông ta rồi.
Levin ra khỏi buồng, đóng cửa đánh
sầm. Riabinil nhìn theo và mỉm cười lắc đầu.
- Thật là trẻ người non dạ, dứt
khoát đây là chuyện trẻ con thôi, không có gì khác. Bởi vì xin lấy danh dự mà
nói là tôi mua khu rừng đó của ngài cũng chỉ vì danh giá thôi, - có thể nói như
thế, - để cho người ta nói là: "Không phải ai khác mà chính Riabinil đã
mua khu rừng của Oblonxki". Và tôi cũng không hiểu rồi tôi sẽ xoay sở ra
sao đây. Trăm sự nhờ trời. Xin ngài cho phép để chúng ta thảo tí giấy tờ thủ
tục.
Một giờ sau, gã lái buôn với chiếc
áo đuôi tôm và áo khoác lông cài chéo khuy cẩn thận, tờ khế ước trong túi, trèo
lên xe thổ mộ bánh gỗ bịt sắt vững chắc và ra về.
- Chà! Cái đồ ông lớn! - hắn nói với
người chào hàng. Lúc nào cũng vẫn cái điệu như thế.
- ồ vâng, - người chào hàng trả lời,
đưa dây cương cho hắn để cài khuy tạp dề da. - Còn chuyện mua bán ấy thế nào,
thưa ông Mikhaina Ignatich?
- ổn rồi, ổn rồi.
--------------------------------
1 Bản Pháp văn của Sylvie Luneau mà
chúng tôi sử dụng để dịch, chỗ này dịch sai, có lẽ do lẫn chữ Оъноиой..... với
chữ оъноиой.... ở đây, tác giả dùng một từ thông dụng của nông dân: o aho ec...
(rừng cây lấy gỗ dựng nhà) chứ không phải oh... (đáng tiếc, đáng bực mình).
Sylive luneau dịch lầm theo nghĩa sau này khiến cho cả đoạn thành ra gần như vô
nghĩa. Trong bản dịch tiếng Việt in lần thứ nhất chúng tôi sơ suất không chú ý
để sót lỗi. Lần này chúng tôi đối chiếu theo nguyên bản tiếng Nga để sửa lại.
2 Đơn vị đo gỗ bằng gần 2 mét.
Chương
17
Xtepan Arcaditr lên gác, túi áo ních
đầy giấy bạc mới (đó là tiền ứng trước ba tháng của gã lái buôn trả cho ông).
Công việc xong xuôi, ông đã có tiền trong túi, cuộc đi săn kết quả mỹ mãn và
Xtepan Arcaditr rất vui vẻ; cho nên ông rất muốn xua tan nỗi buồn đã xâm chiếm
bạn mình. Vào bữa ăn tối, ông muốn chấm hết ngày đó cũng bằng cái thi vị của
buổi sớm mai.
Levin quả đang bực bội và mặc dầu
chàng rất muốn niềm nở và thân ái với khách, nhưng không sao tự chủ được. Cảm
giác say sưa khi biết tin Kitti chưa lấy chồng bắt đầu xâm chiếm lấy chàng.
Kitti không lấy chồng, nhưng bị ốm,
mà là ốm tương tư người đã rẻ rúng nàng. Chàng thấy điều sỉ nhục đó như trực
tiếp đụng chạm đến mình. Vronxki đã rẻ rúng Kitti và Kitti đã rẻ rúng chàng,
chính chàng, Levin đây. Vậy Vronxki có quyền khinh bỉ Levin, đó là kẻ thù của
chàng. Nhưng Levin không nghĩ tới điều đó. Chàng chỉ mơ hồ cảm thấy ở đây có
một cái gì làm tổn thương đến mình, và giờ đây chàng không bực tức về điều đang
giày vò mình, mà bực tức về hết thảy mọi sự. Việc bán rừng khờ dại, cái mánh
khóe mà Oblonxki bị mắc lỡm ngay tại nhà mình, khiến chàng tức tối.
- Thế nào, xong xuôi rồi chứ! -
chàng hỏi, bước lại phía Xtepan Arcaditr đang đi tới. - Anh muốn ăn tối chưa?
- Xin sẵn sàng. ở nông thôn mình ăn
ngon miệng lắm. Tại sao cậu không mời Riabinil ăn một chút.
- Kệ xác nó!
- Cậu đối xử với hắn lạ thật!
Oblonxki nói. - Cậu cũng không thèm chìa tay cho hắn bắt nữa. Tại sao vậy?
- Vì tôi không thèm bắt tay một đứa
đầy tớ, mặc dầu một tên đầy tớ còn đáng trọng hơn hắn trăm lần.
- Cậu thật là lạc hậu! Thế còn vấn đề
hòa hợp giai cấp? Oblonxki nói.
- Xin chúc mừng sức khỏe kẻ nào
khoái việc hòa hợp đó! Còn tôi, cái đó làm tôi phát tởm - Mình thấy cậu quả là
lạc hậu.
- Thực tình mà nói, tôi không bao
giờ tự hỏi mình là người thế nào.
Tôi là Conxtantin Levin, có thế thôi.
- Và Conxtantin Levin đang cơn cáu
kỉnh, - Xtepan Arcaditr mỉm cười nói.
- Phải, tôi đang cáu kỉnh, và anh có
biết tại sao không? Đó là vì cái việc bán rừng ngu ngốc đó, nói khí vô phép
anh...
Xtepan Arcaditr làm vẻ mặt vừa lo
lắng vừa hiền lành, như người bị xỉ vả và trách mắng một cách bất công.
- ồ, thôi đi, - ông ta nói. Khi anh
vừa bán xong cái gì thì lập tức có người bảo anh: "Cái này đáng giá đắt
hơn nhiều kia đấy!". Nhưng trước khi bán thì chẳng thấy ai trả hơn cả...
Không, mình thấy chẳng qua là cậu có ác cảm với tên Riabinil đáng thương đó
thôi.
- Có lẽ. Và anh có biết tại sao
không? Anh sẽ lại bảo là tôi lạc hậu, hay gán cho một từ ghê gớm khác nữa;
nhưng tôi buồn phiền và lo lắng cho sự bần hàn sa sút của toàn thể tầng lớp quý
tộc trong đó có tôi, và bất chấp mọi sự hòa hợp giai cấp, tôi vẫn rất sung
sướng thuộc vào tầng lớp đó... Mà sự sa sút đó nào phải là kết quả của lối sống
xa hoa. Nếu thế thì đã chẳng sao, sống đế vương, đó là công việc của tầng lớp
quý tộc, chỉ có họ biết sống như vậy thôi. Ngày nay, bọn nông dân bòn mót đất
đai quanh ta: cái đó không làm tôi bực mình. Các vị chúa đất không làm gì cả:
nông dân làm lụng và gạt bỏ lũ ăn không ngồi rồi. Sự việc nó phải như thế. Và
tôi rất bằng lòng cho bọn nông dân. Nhưng điều làm tôi hổ nhục, là sự sa sút đó
lại do... tôi không biết nói thế nào đây... lại do một thứ ngây thơ mà ra. Chỗ
kia là một tá điền Ba Lan mua lại chỉ bằng nửa tiền một dinh cơ tuyệt đẹp của
một phu nhân ở Nixo. Chỗ nọ, người ta bán trả dần cho lái buôn một khoảnh đất đáng
giá mười rúp mỗi mẫu, để lấy có một rúp. ở đây, chẳng vì cớ gì cả, anh biếu
không ba mươi nghìn rúp cho cái thằng xỏ lá đó.
- Thế thì phải làm gì nào? Đếm hết
từng cái cây à?
- Tất nhiên rồi. Anh, anh không đếm
cây, nhưng Riabinil thì hắn đã đếm rồi. Con cái của Riabinil sẽ có phương tiện
sinh sống, có thể học hành; còn con anh thì có lẽ chẳng có gì cả.
- Xin lỗi cậu, nhưng mình thấy có
cái gì bần tiện trong sự tính toán đó. Ta có nghề của ta, họ có nghề của họ, và
tất nhiên phải để họ kiếm lời. Vả lại, mặc kệ, việc đã qua rồi thì thôi. A, món
trứng "lập là" kia rồi, đây là cách làm trứng tôi ưa nhất. Và Agafia
Mikhailovna sẽ rót ít rượu ngon tuyệt này...
Xtepan Arcaditr ngồi vào bàn ăn và
bắt đầu bông đùa với Agafia Mikhailovna, cam đoan với bà là từ lâu ông chưa
được ăn bữa trưa hay bữa tối nào ngon đến thế.
- Ông thì ít ra ông cũng còn biết
khen ngợi, - Agafia Mikhailovna nói. Chứ không như Conxtantin Dimitrievitr;
muốn cho cậu ấy ăn gì cũng được, một mẩu bánh cũng xong: cậu ấy ăn rồi đi
thẳng.
Levin đã gắng hết sức tự chủ, nhưng
vẫn buồn rầu và im lặng.
Chàng cũng muốn hỏi Xtepan Arcaditr
một câu, nhưng rồi vẫn không dám hỏi và không biết nên hỏi thế nào và hỏi vào
lúc nào. Xtepan Arcaditr đã xuống phòng mình, cởi quần áo, rửa ráy lần nữa, mặc
áo ngủ là hộp và đi nằm, mà Levin còn nán lại ở phòng ông nói chuyện con cà con
kê và vẫn không đủ can đảm hỏi ông ta cái điều chàng muốn biết.
- Họ làm xà phòng trông xinh xắn
thật, - chàng nói, vừa ngắm nghía vừa rút khỏi bao giấy miếng xà phòng thơm mà
Agafia Mikhailovna đã chuẩn bị cho khách nhưng Oblonxki không dùng đến.
- Xem này: thật là một công trình
nghệ thuật.
- Phải, ở thời buổi chúng ta, cái gì
cũng đang được cải tiến, Xtepan Arcaditr nói, và ngáp với vẻ khoái trá. - Thí
dụ như rạp hát, hay những chốn ăn chơi... à - à! - ông ta ngáp. - ở đâu cũng có
đèn điện...
à - à!
- ừ, đèn điện, - Levin nói. - Phải.
Này, Vronxki hiện giờ ở đâu? - chàng hỏi, tay bỗng đặt mạnh miếng xà phòng
xuống.
- Vronxki à? - Xtepan Arcaditr nói
và thôi không ngáp nữa: anh ta ở Peterburg. Anh ta đi sau cậu ít lâu, và không
hề trở lại Moxcva nữa; Coxtia ạ, mình sẽ nói thật với cậu, ông nói, khuỷu tay
chống lên bàn và bàn tay đỡ lấy bộ mặt đỏ ửng tươi đẹp có đôi mắt hiền từ dịu
dàng và buồn ngủ, long lanh như sao. Chính cậu cũng có lỗi. Cậu sợ kẻ tình địch
của cậu. Và như mình đã nói với cậu từ dạo đó, mình không biết là bên nào có
nhiều khả năng hơn. Tại sao cậu không tiếp tục? Lúc đó, mình đã nói với cậu
là... - ông ta trẹo quai hàm ngáp, nhưng không mở miệng ra.
"Anh ta có biết mình đã hỏi
nàng làm vợ hay không? Levin nhìn bạn và nghĩ ngợi. Phải, bộ mặt anh ta có vẻ
giảo quyệt, như nhà ngoại giao ấy". Và cảm thấy mình đỏ mặt, chàng nhìn
thẳng vào mắt Xtepan Arcaditr và không nói gì.
- Nếu về phần cô ta có tình ý gì, -
Oblonxki nói tiếp, thì cũng chỉ là ham thích hời hợt. Cậu cũng biết cái vẻ hào
hoa phong nhã và triển vọng nên danh nên giá ấy tác động đến bà mẹ nhiều hơn cô
ta.
Levin sa sầm mặt. Nỗi nhục bị từ
chối mà chàng vấp phải, đốt cháy trái tim như vết thương còn mới nguyên. Nhưng
chàng đang ở ngay nhà mình, mà tường nhà bao quanh ta thì vốn che chở vỗ về.
- Khoan, khoan đã, - chàng ngắt lời
Oblonxki. - Anh nói đến sự hào hoa phong nhã, cho phép tôi hỏi anh, cái hào hoa
phong nhã đã cho phép hắn khinh tôi đó là cái gì hả? Anh coi Vronxki là quý
tộc, tôi thì không. Một người mà bố xuất thân tay trắng, nhờ thủ đoạn để ngoi
lên, mẹ thì dan díu với khắp mọi người... Không, xin lỗi anh, tôi chỉ coi là
quý tộc những người như tôi đây, có thể nêu rõ trong quá khứ gia đình, ba bốn đời
lương thiện, lên đến bậc thang cao nhất của học vấn (năng khiếu, thông minh,
cái đó lại là chuyện khác), không bao giờ cúi rạp trước mặt ai và cũng không
bao giờ cần đến ai, như bố tôi và ông tôi. Và tôi còn biết rất nhiều người như
thế nữa. Anh cho việc tôi đếm cây rừng là ti tiện, và anh biếu không ba mươi
ngàn rúp cho Riabinil; nhưng anh lại thu lợi tức hoặc những gì nữa tôi không
biết, điều mà tôi không làm; chính vì thế mà tôi coi trọng gia sản và thành quả
lao động của tôi... Chính chúng ta mới là quý tộc chứ không phải cái bọn sống
được chỉ là nhờ ân huệ những kẻ quyền thế trên đời này, cái bọn mà người ta có
thể mua được bằng hai mươi kôpêch.
- Nhưng cậu cáu với ai mới được chứ?
Mình cũng đồng ý với cậu, - Xtepan Arcaditr nói, với niềm vui thích thành thực,
mặc dầu ông cảm thấy Levin khi nói đến bọn người có thể mua được bằng hai mươi
kôpêch là nhằm ám chỉ cả ông nữa. Cơn giận của Levin làm ông thích thú thực
tình. - Cậu cáu với ai kia chứ? Mặc dầu đối với Vronxki, cậu bất công về nhiều
mặt, nhưng mình không nói đến chuyện đó. Mình cứ nói toạc với cậu thế này: giá
ở vào địa vị cậu, mình sẽ đi luôn Moxcva với mình, và...
- Không; tôi không rõ anh có biết
điều này hay không, nhưng cái đó chẳng quan trọng. Vậy xin nói cho anh biết là
tôi đã hỏi Ecaterina Alecxandrovna 1 làm vợ và bị từ chối, cho nên cứ nhớ đến
cô ta, tôi lại khổ tâm và tủi nhục.
- Sao lại thế? Nghĩ thế thật là dại
dột!
- Thôi không nói chuyện đó nữa. Anh
tha lỗi, nếu tôi có thô lỗ với anh, - Levin nói. Giờ đây, khi đã nói ra được
hết những điều chứa chất trong lòng, chàng lại thấy lại cái tâm trạng buổi
sáng. - Xtiva, anh không giận tôi chứ? Tôi xin anh, đừng giận, - chàng nói và
mỉm cười cầm lấy tay bạn.
- ồ không, hoàn toàn không; có gì mà
giận chứ. Mình hài lòng là chúng ta đã nói chuyện cho nhau hiểu. Này cậu, đi
săn vào buổi sáng cũng tốt đấy. Hay ta lại đi săn đi? Mình sẽ không ngủ, săn
xong là mình đi thẳng ra ga.
- Đồng ý.
--------------------------------
1 Tên chính của Kitti.
Chương
18
Mặc dầu tất cả cuộc sống nội tâm của
Vronxki đều bị mối tình say đắm thu hút, cuộc sống bên ngoài của chàng vẫn
không thay đổi và cứ tuồn tuột trôi theo cái đà của những quyền lợi và những
quan hệ cũ ở ngoài xã hội cũng như trong trung đoàn, lôi cuốn đi. Những quyền
lợi của trung đoàn chiếm địa vị quan trọng trong cuộc đời Vronxki, vì chàng yêu
mến trung đoàn và hơn nữa vì ở đó người ta cũng yêu mến, mà còn kính trọng, tự
hào vì chàng, hãnh diện vì con người vô cùng giàu có ấy, có học thức, tài năng,
có đủ phương tiện để tự thoả mãn mọi tham vọng và hư vinh, nhưng lại khinh rẻ
mọi cái đó và đặt lợi ích của trung đoàn và của bạn bè lên trên mọi lợi ích phù
hoa, Vronxki biết rõ bạn bè nghĩ gì về mình, và ngoài việc yêu thích cuộc sống
đó, chàng còn thấy mình phải duy trì dư luận đó.
Dĩ nhiên, chàng không thổ lộ mối
tình của mình cho ai biết; ngay trong những bữa rượu tuý luý nhất, chàng cũng
không hề để lộ chút gì khiến bạn bè có thể nghi ngờ (vả lại chàng cũng không
bao giờ say đến nỗi không kiềm chế được mình), và hễ có kẻ láu táu định nói
bóng gió đến cuộc dan díu ấy là chàng bịt miệng ngay. Tuy vậy, cả thành phố đều
biết mối tình đó: ít nhiều người ta đều đoán được quan hệ của chàng với
Carenin: phần đông đám trai trẻ lại ghen tị với chàng về chính cái điều khiến
chàng khổ tâm nhất: đó là địa vị cao sang của Carenin, nó góp phần làm cho cuộc
dan díu đâm ra lộ liễu.
Phần đông thiếu phụ, vốn ghen ghét
với Anna và từ lâu đã chán tai với những lời tán tụng nàng là người đàn bà đoan
chính, mừng rơn khi thấy điều dự đoán của mình được xác minh và chỉ chờ dư luận
xoay chuyển rõ rệt là sẽ vùi dập nàng xuống dưới tất cả trọng lượng của lòng
khinh bỉ. Họ chuẩn bị sẵn sàng xẻng bùn để chờ dịp là hất tung lên người nàng.
Phần đông người già và kẻ có địa vị cao sang thì lấy làm tiếc cho vụ tai tiếng
đang sắp vỡ lở.
Bà mẹ Vronxki lúc đầu cũng hài lòng
khi biết chuyện dan díu của con, vì, theo bà, không gì có thể điểm tô hoàn
chỉnh cho một chàng thanh niên xuất sắc hơn là một vụ dan díu trong giới thượng
lưu, và cũng vì nàng Carenina, người mà bà rất ưa thích, nhưng đã nói chuyện
với bà khá lâu về đứa con trai nhỏ của mình, rốt cuộc cũng không khác gì (bà bá
tước Vronxki nghĩ thế) mọi người đàn bà đẹp trong giới thượng lưu. Nhưng thời
gian gần đây, bà được biết con trai đã từ chối một cương vị quan trọng cho bước
đường sự nghiệp của chàng, chỉ cốt được ở lại trung đoàn và gần gũi Carenin cho
nên các nhân vật cao cấp đã để bụng ghét chàng, và quan điểm của bà liền thay
đổi. Bà cũng không vừa lòng ở chỗ việc dan díu này, theo bà nhận thấy, không
phải là một vụ dan díu nổi bật, phù hoa, duyên dáng mà bà có thể tán thành,
nhưng là một tấm tình si bi thảm, kiểu Vecte 1, có thể đưa con bà tới hành động
dại dột. Bà chưa gặp lại con kể từ khi chàng đột ngột rời Moxcva và đã nhắn anh
chàng bảo chàng về gặp bà.
Ông anh cả của Vronxki cũng bất bình
với em trai. Ông không hề quan tâm tìm hiểu mối tình đó sâu sắc hay nông nổi,
say mê hay không, vững bền hay không (bản thân ông ta, tuy đã có mấy con, vẫn
bao một vũ nữ, cho nên cũng có chiều rộng lượng), nhưng ông biết mối tình đó làm
phật lòng những người lẽ ra cần chiều ý, cho nên ông phản đối thái độ em trai.
Ngoài nhiệm vụ quân đội và công việc
xã giao, Vronxki còn có một việc nữa: đó là đua ngựa, mà chàng rất ham thích.
Năm đó, các sĩ quan phải dự đua vượt
chướng ngại. Vronxki đã nhờ ghi tên và mua một con ngựa cái giống Anh chính
nòi; mặc dầu đang yêu, chàng vẫn say sưa chú ý đến việc chuẩn bị đua ngựa, tuy
có ít nhiều dè dặt.
Hai thú ham mê đó không mâu thuẫn
nhau. Trái lại, chàng cần giải trí, cần một sự tiêu khiển không dính dáng gì
đến mối tình: nhờ nó chàng được nghỉ ngơi và khuây bớt những xúc cảm mãnh liệt
đang khuấy động trong lòng.
--------------------------------
1 Vecte: nhân vật trong tiểu thuyết
Nỗi đau khổ của chàng Vecte của Goethe (1774). Vecte yêu một người đàn bà có
chồng và cuối cùng đã tự sát.
Chương
19
Ngày đua ngựa ở Kraxnôi Xelo,
Vronxki đến ăn bít tết ở quán ăn sĩ quan sớm hơn thường lệ. Chàng không cần
kiêng khem kỹ quá, vì chỉ cân nặng vừa đúng bốn pút rưỡi theo quy định; nhưng
cũng không được béo hơn nữa, cho nên chàng kiêng ăn chất bột và của ngọt. Chàng
ngồi xuống, áo quân phục cởi khuy mặc ngoài gi lê trắng, chống hai khuỷu tay
lên bàn và trong khi chờ đợi món bít tết đã gọi, chàng mở một quyển tiểu thuyết
Pháp đặt trên chiếc đĩa.
Chàng nhìn vào quyển sách chỉ cốt
khỏi phải nói chuyện với các sĩ quan đang đi ra đi vào, và suy nghĩ.
Chàng nghĩ tới việc Anna đã hẹn gặp
chàng hôm nay sau cuộc đua. Ba ngày nay, chàng không gặp nàng và cũng không
hiểu hôm nay có gặp được không, vì chồng nàng vừa ở nước ngoài về. Làm thế nào
biết chắc được việc đó? Chàng gặp nàng lần cuối ở biệt thự bà chị họ Betxi.
Chàng gắng càng ít đến nhà Carenin càng hay. Bây giờ, chàng muốn tới đó và tự
hỏi nên đến bằng cách nào.
"Thôi được, mình sẽ nói là
Betxi nhờ mình tới để hỏi xem nàng có đi xem đua ngựa không. Phải, mình đi
thôi", chàng quyết định và ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách. Và chàng hình
dung niềm vui sướng của cuộc gặp mặt sắp tới một cách rõ rệt đến nỗi mặt sáng
hẳn lên.
- Anh đến nhà tôi và bảo thắng ngay
ba con ngựa vào chiếc xe kiệu, - chàng nói với gã bồi bàn vừa bưng ra cái đĩa
bạc đựng miếng bít tết còn nóng, và kéo đĩa về phía mình, bắt đầu ăn.
Từ gian phòng bi a bên cạnh, vẳng
tới tiếng bi lăn, tiếng cười nói.
Hai sĩ quan hiện ra ở cửa vào; một
người trẻ măng, mặt gầy mảnh, vừa tốt nghiệp trường Hoàng tộc thiếu sinh quân
ra; người kia, già và to béo, đeo vòng ở cổ tay, đôi mắt nhỏ chìm trong lớp mỡ.
Vronxki nhìn họ, cau mày và giả tảng
như không thấy, cúi xuống quyển sách, vừa ăn vừa đọc.
- Thế nào? Cậu tẩm bổ đấy à? - viên
sĩ quan béo hỏi và ngồi xuống cạnh chàng.
- Trông đấy thì biết, - Vronxki đáp,
mặt lầm lầm, lau mồm và không nhìn lão ta.
- Cậu không sợ béo lên à? - lão ta
nói, kéo lui chiếc ghế tựa cho viên sĩ quan trẻ ngồi.
- Hả? - Vronxki bực dọc nói, nhăn
mặt ghê tởm, để lộ hàm răng đều đặn.
- Cậu không sợ béo lên à?
- Bồi, rượu vang Xeret 1 nhé! -
Vronxki gọi, không trả lời lão ta, và chuyển sách sang bên kia đọc tiếp.
Viên sĩ quan to béo cầm lấy bảng kê
tên rượu và quay lại bảo bạn:
- Cậu chọn xem ta uống cái gì nào, -
lão nói, chìa tấm bảng và nhìn anh ta.
- Rượu vang vùng Ranh 2 chăng, -
viên sĩ quan trẻ nói, rụt rè khẽ liếc nhìn Vronxki và lấy ngón tay cố núm lấy
hàng ria mép vừa nhú.
Thấy Vronxki không quay lại, viên sĩ
quan trẻ liền đứng dậy.
- Ta sang phòng bi a đi, - anh ta
nói.
Viên sĩ quan to béo ngoan ngoãn đứng
dậy và cả hai ra cửa.
Vừa lúc đó, đại uý Yasvin, một người
cao lớn và tuấn tú đi vào phòng; anh ta khinh khỉnh gật đầu chào hai sĩ quan và
bước lại gần Vronxki.
- A! Đây rồi! - anh ta kêu lên, bàn
tay to rộng vỗ thật mạnh lên vai Vronxki. Chàng nổi giận quay ngay lại, nhưng
mặt bỗng dịu ngay xuống và trở lại cái vẻ dịu dàng, bình tĩnh vốn là đặc điểm
của chàng.
- Hoan hô, Aliosa, - đại uý nói,
giọng nam trung sang sảng. - Bây giờ cậu ăn đi, và uống một chén con nào.
- Mình không đói.
- Đôi bạn nối khố đấy, - Yasvin nói
thêm và nhìn hai sĩ quan đang ra khỏi pòng, vẻ giễu cợt. Anh ta ngồi xuống cạnh
Vronxki, gập đôi chân xương xẩu bó thít trong quần cưỡi ngựa và quá dài so với
chiều cao ghế tựa. Hôm qua sao cậu không tới Nhà hát? Numêrôva biểu diễn cũng
không đến nỗi tồi đâu. Cậu ở đâu?
- Mình còn nán lại ở nhà Serbatxki,
- Vronxki nói.
- à! - Yasvin nói.
Yasvin, một con bạc trụy lạc, một
người chẳng những sống vô lối mà còn tuân theo những nguyên tắc vô luân, là bạn
thân nhất của Vronxki trong trung đoàn. Vronxki yêu anh ta vì sức khỏe kỳ lạ,
trong nhiều trường hợp thường biểu lộ bằng cách nốc rượu như thùng tô nô, bằng
cách không ngủ mà lúc nào trong người cũng sảng khoái; vì sức mạnh tinh thần to
lớn thường biểu lộ trong quan hệ giữa anh ta với cấp trên và bè bạn, tất cả đều
phải nể sợ và kính trọng, cũng như trong cờ bạc: anh ta dám đặt hàng vạn rúp và
mặc dầu đã uống rượu, lúc nào cũng đặt cược rất điềm tĩnh và chính xác đến nỗi
được coi là tay cờ bạc cừ nhất của câu lạc bộ Anh. Vronxki quý trọng và yêu mến
Yasvin nhất do cảm thấy Yasvin yêu mến mình, không phải vì tên tuổi hoặc của
cải, mà vì bản thân chàng. Đó là người duy nhất Vronxki có thể thổ lộ mối tình
của mình. Chàng thấy mặc dầu Yasvin làm ra bộ miệt thị mọi thứ tình cảm, anh ta
vẫn là người duy nhất có thể hiểu nổi mối tình say đắm mãnh liệt giờ đây đang
tràn ngập cả đời chàng. Hơn nữa, chàng biết chắc Yasvin không hề thích ngồi lê
mách lẻo và làm vỡ lở những chuyện tai tiếng, anh ta hiểu đúng đắn tình cảm đó,
hiểu tình yêu không phai trò đùa, trò giải trí, mà là một cái gì nghiêm túc và
quan trọng.
Vronxki chưa bao giờ thổ lộ mối tình
cho anh ta nghe, nhưng tin chắc anh ta biết hết, hiểu hết một cách thích đáng:
cứ trông đôi mắt anh ta, chàng cũng thấy rõ và điều đó làm chàng dễ chịu.
- à phải! - Yasvin nói khi nghe tới
tên Serbatxki; đôi mắt đen sáng lên long lanh và theo một tật xấu, anh núm hàng
ria mép bên trái nhét vào miệng nhấm nhấm.
- Còn cậu, hôm qua làm gì? Được bạc chứ?
- Vronxki hỏi.
- Tám nghìn rúp. Nhưng có ba nghìn
thì không chắc. Mình không biết rồi ra họ có trả không.
- Cậu cũng có thể thua vì mình đấy,
- Vronxki cười nói. (Yasvin đã cá một số tiền lớn là Vronxki sẽ thắng trong
cuộc đua).
- Không đời nào. Chỉ có Makhotin là
đáng gờm thôi.
Và câu chuyện xoay sang đua ngựa.
Vronxki chỉ còn nghĩ tới chuyện đó.
- Ta đi thôi, mình xong rồi, -
Vronxki nói và đứng dậy ra của, Yasvin đứng dậy theo, sau khi đã duỗi đôi chân
to dài và vươn vai.
- Bây giờ mà ăn trưa thì còn sớm
quá, nhưng mình phải uống đã.
Mình sẽ đến ngay lập tức. Ê, rượu
vang nhé! - anh ta gọi to bằng cái giọng hô nổi tiếng: một giọng trầm rất thấp
làm rung chuyển cửa kính. - Mà thôi, không cần nữa! - anh ta bỗng lại nói ngay.
Nếu cậu về nhà thì mình sẽ theo về.
Và cả hai cùng đi.
--------------------------------
1 Xérès: rượu vang rất nổi tiếng của
vùng Xeret Tây Ban Nha.
2 Rhin: một quận của Pháp trên lưu
vực sông Ranh.
Chương
20
Vronxki ở căn nhà gỗ kiểu Phần Lan
rộng và sạch có vách ngăn đôi. Pet'rixki cũng ở trong trại với chàng. Khi
Vronxki và Yasvin bước vào thì anh ta còn ngủ.
- Dậy đi, ngủ thế đủ rồi, - Yasvin
nói, ra sau vách và lay vai Pet'rixki, đầu tóc rối bù, mặt rúc vào gối.
Pet'rixki bỗng quỳ dậy và nhìn
quanh.
- Anh cậu có đến đây, - anh ta nói
với Vronxki. - Ông ta đánh thức mình dậy, ma quỷ bắt ông ta đi! Ông ta bảo sẽ
quay lại, - rồi anh lại kéo chăn lên và gieo mình xuống gối. - Kìa, để tớ yên
nào, - anh nói, cáu với Yasvin đang lật chăn ra. - Để yên nào! - anh quay lại
và mở mắt ra. - Tốt hơn là cậu bảo mình nên uống gì bây giờ: miệng mình đắng
kinh khủng và...
- Rượu vốtka, không gì tốt hơn được
nữa, - Yasvin nói giọng trầm trầm. Teretsenco đem vôtka và dưa chuột ra cho chủ
mày nhé! anh gọi to, rõ ràng hài lòng được nghe thấy tiếng nói của chính mình.
- Rượu vôtka thật à? - Pet'rixki
hỏi, vừa nhăn mặt vừa dụi mắt. - Cậu cũng uống chứ? Nếu cậu uống với mình thì
đồng ý! Vronxki, cậu uống một chén nhé? - Pet'rixki nói, đứng dậy và cuốn tấm
chăn kẻ vằn lên người. Anh ra ngưỡng cửa, giơ hai tay lên và cất giọng hát bằng
tiếng Pháp. "Ngày xưa có ông vua ở Tuylơ..." Vronxki, cậu uống một
chén nhé?
- Thôi, bước đi! - Vronxki nói, xỏ
tay vào áo quân phục do gã hầu phòng đưa cho.
- Cậu đi đâu đấy? - Yasvin hỏi. -
Này, cỗ xe tam mã của cậu kia rồi, - anh ta nói thêm khi thấy chiếc xe ngựa
tiến lại gần.
- Đi đến chuồng ngựa và mình cũng
cần gặp Brianxki để bàn về vấn đề ngựa nữa, - Vronxki nói.
Vronxki quả có hứa đến gặp Brianxki,
ở cách Petetrov mười dặm, và mang tiền mua ngựa trả cho y; chàng hy vọng đủ
thời giờ tới đó. Nhưng các bạn hiểu ngay không phải chàng chỉ tới đó thôi.
Pet'rixki tiếp tục hát, vừa nháy mắt
và bĩu môi, như muốn nói:
"Chúng tớ thừa biết anh chàng
Brianxki đó rồi!" - Cậu đừng về muộn đấy! - Yasvin chỉ nói thế thôi và lảng
sang chuyện khác: - con ngựa nâu của mình ra sao rồi? Nó có thuần không? - anh
nhìn ra cửa sổ hỏi. Anh nói tới con ngựa bắt càng anh đã bán cho Vronxki.
- Khoan đã! - Pet'rixki lớn tiếng
gọi Vronxki đang đi ra. - Anh cậu có để lại bức thư và mảnh giấy. Chờ một phút
đã: đâu rồi không biết?
Vronxki dừng lại.
- Thế nào, thư với giấy đâu?
- Không biết để đâu rồi? Vấn đề là ở
chỗ đó! - Pet'rixki trịnh trọng nói, lấy ngón tay trỏ miết ngược lên mũi.
- Nói đi nào, rõ vớ vẩn! - Vronxki
mỉm cười nói.
- Mình không hề nhóm lửa. Vậy thì
chúng chỉ ở đâu đây thôi.
1 Ngựa thắng ở giữa hai càng xe tam
mã.
- Thôi đừng dấm dớ nữa: thư đâu rồi?
- Không, mình cam đoan với cậu là
mình quên rồi. Hoặc mình nằm mê đấy thôi. Khoan, khoan đã! Cậu đừng cáu vô ích!
Nếu cậu cũng uống bốn chai rượu như mình hôm qua thì ngay đến ngủ ở đâu cậu
cũng không nhớ nữa. Khoan đã, mình sắp nhớ ra rồi!
Pet'rixki ra sau vách và lại nằm
xuống.
- Thế này đây! Mình nằm như thế này,
ông ta ở kia. Phải, phải, phải... Đây rồi! - và Pet'rixki lấy thư ở dưới đệm
ra.
Vronxki cầm lấy thư và mảnh giấy.
Đúng là những điều chàng đang chờ đợi: lời mẹ trách vì không đến thăm bà và
mảnh giấy của ông anh cho biết cần gặp chàng nói chuyện. Vronxki biết trước sau
vẫn chỉ có một vấn đề đó thôi. "Việc gì đến họ kia chứ?". Vronxki
thầm nghĩ và vò nát hai lá thư, nhét vào giữa hàng cúc áo quân phục để dọc
đường sẽ đọc lại kỹ hơn. ở cửa ra vào gian nhà gỗ, chàng gặp hai sĩ quan trong
đó một người thuộc trung đoàn chàng.
Chỗ ở của Vronxki lúc nào cũng là
nơi gặp gỡ của các sĩ quan.
- Cậu đi đâu đấy?
- Mình phải đến Petetrov.
- Thế ngựa ở Txacxkoie đã đến chưa?
- Đến rồi, nhưng mình chưa gặp.
- Nghe nói con Võ sĩ của Makhotin đi
khập khiễng.
- Chỉ nói láo thôi! Nhưng đất bùn
thế này thì anh làm thế nào chạy đua được? - người kia nói.
- A, các vị cứu tinh đây rồi! -
Pet'rixki reo lên khi thấy bọn người mới đến. Gã lính hầu đứng trước mặt anh
ta, bưng cái khay đựng rượu vôtka và một quả dưa chuột muối. - Cậu Yasvin đây
ra lệnh cho mình uống để đầu óc tỉnh táo lại.
- Tối qua các anh làm huyên náo cả
lên, - một sĩ quan nói, - suốt đêm chúng tôi không nhắm mắt được!
- Phải, nhưng chúng tôi đã kết thúc
tốt đẹp! - Pet'rixki kể lại.
Voncov trèo lên nóc nhà vì hắn nói
là hắn buồn, cho nên mình mới bảo:
hãy tấu nhạc lên, cử một bài lâm
khốc! Thế là hắn ta lăn ra ngủ thực sự trên nóc nhà, trong tiếng nhạc lâm khốc.
- Uống đi, uống đi, cần phải uống
mới được. Sau đó, cậu sẽ uống nước suối Xendơ vắt nhiều chanh vào, - Yasvin cúi
xuống Pet'rixki, như bà mẹ cho con nuốt một liều thuốc; - sau đó, uống ít sâm
banh nữa: nửa chai thôi.
- Khôn ngoan thật! Khoan đã,
Vronxki, chúng ta cùng uống với nhau.
- Không, xin tạm biệt các ngài. Hôm
nay, tôi không uống.
- Tại sao, cậu lên cân rồi à? Nếu
thế chúng tớ vô phép cậu vậy.
Mang nước suối Xendơ và chanh ra
đây.
- Vronxki! - có tiếng người gọi khi
chàng ra đến phòng chờ...
- Cái gì thế?
- Cậu phải cắt tóc đi, nếu không nó
làm cậu nặng cân lên đấy, nhất là ở chỗ hói ấy.
Quả thực Vronxki đã bắt đầu rụng
tóc. Chàng cười vui vẻ, để lộ hàm răng đẹp, và kéo mũ lưỡi trai xuống chỗ hói,
đi ra xe.
- Đến chuồng ngựa! - chàng nói.
Chàng đưa tay định rút hai bức thư ra đọc lại, song nghĩ thế nào lại thôi:
chàng không muốn đầu óc phân tán trước khi thấy con ngựa. "Để sau
vậy!..."
Chương
21
Chuồng ngựa tạm thời là một cái lán
bằng ván, dựng ngay cạnh trường đua, và con ngựa của chàng chắc đã được dẫn đến
hôm qua.
Chàng chưa gặp nó. Mấy hôm nay,
chính chàng không cưỡi, mà giao cho huấn luyện viên và chàng hoàn toàn không
biết tình trạng con vật lúc đến đây ra sao. Chàng vừa xuống xe thì gã chăn
ngựa, chú "tiểu đồng" như người ta thường gọi, từ xa đã nhận ra xe
của chàng và gọi huấn luyện viên tới. Một gã người Anh khô đét, đi ủng cao và
mặc áo ngắn, cằm để một chòm râu lờm xờm, bước lại gặp chàng, người lắc lư vụng
về, hai khuỷu tay khuỳnh ra theo kiểu "jô-kề".
- Con Lao xao thế nào? - Vronxki hỏi
y bằng tiếng Anh.
- Thưa ngài, tốt lắm 1, - gã người
Anh trả lời, giọng nói ở đâu mãi tận đáy cuống họng phát ra. - Ông đừng đến đó
thì hơn, - y nói thêm và ngả mũ chào. Tôi đã đóng rọ mõm cho ngựa, nó đang bị
khích động.
Ông đừng đến đó thì hơn, kẻo nó sợ.
- Không được, phải đến chứ. Tôi muốn
gặp nó.
- Ta đi vậy, - gã người Anh nói,
không mở to miệng, mày cau lại; rồi lắc đôi khuỷu tay, y đi trước, bước chân
khệnh khạng.
Hai người vào mảnh sân con ở trước
lán. Chú bé coi chuồng ngựa, mặc áo vét trắng tươm tất và vẻ mặt linh lợi, đến
trước mặt họ, tay cầm chổi và theo họ đi. Năm con ngựa chiếm các khoang trong
lán, và Vronxki biết ở đây cũng có con ngựa địch thủ chính của chàng, con Võ sĩ
của Makhotin, một con ngựa nâu năm "vecsốc" 2 Vronxki còn muốn xem
con Võ sĩ hơn là con Lao xao vì chàng không biết nó. Nhưng chàng biết theo thể
lệ mà những kỵ mã phải giữ đúng cho trọn thể thức thì chàng không được phép xem
và thậm chí cũng không được hỏi han gì về nó. Trong khi chàng đi dọc hành lang,
chú bé con mở cửa khoang thứ hai bên trái, và Vronxki thoáng thấy một con ngựa
vạm vỡ mình nâu chân trắng. Chàng biết đó là con Võ sĩ, nhưng với cái cảm giác
của người cần quay mặt đi trước một bức thư để ngỏ không phải gửi cho mình,
chàng ngoảnh đi và bước lại gần khoang con Lao xao.
- ở đây có con ngựa của Ma... Ma...
thật không sao đọc được cái tên đó! - gã người Anh nói qua vai chàng, giơ ngón
tay để móng bẩn thỉu chỉ khoang con Võ sĩ.
- Makhotin? Phải, đó là đối thủ duy
nhất đáng kể của tôi.
- Ông mà cưỡi nó thì tôi sẽ đánh
cuộc là ông thắng, - gã người Anh nói.
- Con Lao xao hăng hơn, mà nó thì
khỏe hơn, - Vronxki nói, mỉm cười trước câu khen ngợi.
- Trong các cuộc đua vượt chướng
ngại, tất cả ăn nhau ở tư thế, ở cái "plắc" 3, - gã người Anh nói.
Cái plắc, nghĩa là nghị lực và quả
cảm, thì Vronxki cảm thấy không những mình có đủ, mà (điều này lại càng quan
trọng hơn nhiều) chàng còn tin chắc không ai trên đời này lại giàu đức tính đó
hơn chàng.
- Anh có chắc là không cần phải cho
toát mồ hôi nhiều không?
- Không cần, - gã người Anh trả lời.
- Xin ông đừng nói to. Nó đang bị khích động, - y nói thêm, hất đầu về phía cái
khoang đóng kín sát cạnh họ, trong đó nghe có tiếng con ngựa cái đang dậm chân
trên nệm cỏ.
Y mở cửa và Vronxki bước vào tầu
ngựa có cửa sổ nhỏ lờ mờ chiếu sáng. Con ngựa cái màu tía sẫm, đeo rọ mõm, đang
dẫm vó lên lớp rơm tươi. Trong tầu ngựa tranh tối tranh sáng, Vronxki một lần
nữa ngắm nghía từng li từng tí thân hình con ngựa ưa thích của mình.
Lao xao tầm vóc trung bình, và về
hình khối không khỏi có chỗ khiếm khuyết. Vóc mình nó hẹp, ức dô nhưng ngực
bóp. Mông hơi thuôn, đôi chân trước và nhất là đôi chân sau, thì khuỳnh vào
trong. Bắp thịt chân không to lắm nhưng bù lại đôi sườn rất rộng và điều đó,
giờ đây lại càng đập vào mắt vì sau khi tập dượt, bụng nó gầy tóp đi. Xương
chân nhìn thẳng hình như không to hơn một ngón tay, nhưng nhìn cạnh thì lại hết
sức rộng bản. Trừ đôi sườn ra, có thể nói nó bóp cạnh và trông như lép ruột.
Nhưng nó có một ưu điểm làm mờ hết mọi khuyết điểm: ưu điểm đó là cái nòi, một
cái nòi hùng hồn, như người Anh thường nói. Bắp thịt cuồn cuộn nổi lên dưới một
mạng mạch máu chạy chằng chịt trên làn da mịn, linh động và nhẵn bóng như xa
tanh, có vẻ cũng rắn như xương. Cái đầu nhỏ, với đôi mắt tươi vui, long lanh,
hơi lồi, nở rộng ra ở sống mũi với đôi lỗ mũi nở nang có màng đỏ vằn máu. Toàn
thân, và nhất là đầu, có cái vẻ vừa dũng mãnh vừa dịu dàng. Đó là một con vật,
tưởng như sở dĩ không biết nói chỉ đơn thuần vì hình thù quai hàm không thích
nghi với việc đó mà thôi.
Dù sao Vronxki cũng có cảm tưởng như
nó hiểu được tất cả những điều chàng cảm thấy khi nhìn nó.
Khi chàng vừa bước vào tầu ngựa, nó
liền hít một hơi dài và liếc nhìn những người vừa đến với con mắt đỏ vằn tia
máu, lắc lư rọ mõm và uyển chuyển nhún từ chân này sang chân kia.
- Ông xem nó bị khích động ghê
không, gã người Anh nói.
- Này, tuấn mã của ta! - Vronxki
nói, bước lại gần con vật để thử vỗ về cho nó yên.
Nhưng chàng càng lại gần, nó càng bị
khích động. Khi chàng đến sát đầu nó, nó bỗng nhiên nguôi hẳn và bắp thịt bắt
đầu rần rật dưới làn da mềm và mịn. Vronxki lấy tay vuốt ve cái cổ rắn chắc,
sửa lại một túm bờm hất sang bên kia cái gáy hẹp và ghé sát mặt vào đôi lỗ mũi
nở nang và thanh như cánh dơi. Nó hít phì phò và thở hơi ra khỏi lỗ mũi phồng
căng, nó rùng mình, vểnh đôi tai thon nhọn, và thưỡi đôi môi đen về phía
Vronxki như muốn đớp lấy tay áo chàng. Nhưng nhớ tới rọ mõm, nó lắc đầu và bộ
giò thon nhỏ lại bắt đầu dậm nền đất.
- Yên đi nào, tuấn mã của ta, yên đi
nào! - chàng nói, sau khi vuốt ve mông nó lần nữa, và chàng hớn hở bước ra khỏi
tầu ngựa, với niềm tin là con vật đang hoàn toàn sung sức.
Sự khích động của con ngựa đã lan
sang Vronxki, chàng cảm thấy máu dồn ứ lên tim và thèm cựa quậy, thèm cắn, một
cảm giác vừa đáng sợ lại vừa ngộ nghĩnh.
- Tôi trông cậy ở anh đấy nhé, -
chàng nói với gã người Anh. - Sáu giờ rưỡi ở ngoài bãi.
- Mọi việc sẽ đâu vào đấy, - gã
người Anh nói. - Nhưng thưa quan lớn, ngài đi đâu đấy? - y đột nhiên hỏi và
dùng cái danh hiệu quan lớn 4 mà y hầu như không bao giờ dùng tới.
Vronxki ngạc nhiên ngửng đầu lên và
nhìn gã người Anh bằng lối nhìn riêng của chàng, tức là không nhìn vào mắt mà
nhìn lên trán, chàng có vẻ sửng sốt vì câu hỏi táo tợn đó. Nhưng chàng hiểu khi
hỏi câu đó, gã người Anh không phải là nói với ông chủ của y nữa, mà là nói với
người "jô-kề", nên chàng trả lời:
- Tôi phải đến nhà Brianxki; một giờ
nữa tôi sẽ trở về nhà.
"Hôm nay, không biết người ta
còn hỏi mình câu đó bao nhiêu lần nữa?", chàng thầm nghĩ và đỏ mặt, một
điều rất ít thấy ở chàng. Gã người Anh chăm chú nhìn chàng và như đoán biết
Vronxki đi đâu, y nói thêm:
- Điều quan trọng nhất là phải bình
tĩnh trước cuộc đua, xin ông hãy vui vẻ và đừng để bất cứ cái gì làm buồn nản.
- Được thôi 5, - Vronxki mỉm cười
trả lời và vội vã lên xe bảo đánh về Petetrov.
Chàng mới đi được mấy bước thì những
đám mây từ sáng đã báo hiệu sắp mưa, kéo đến che bầu trời và mưa rào đổ xuống.
"Thật là phiền, Vronxki thầm
nghĩ, vừa kéo mui xe lên. Đất đã ngập bùn rồi, bây giờ thì đến thành bãi lầy
thực sự". Ngồi một mình trong xe buông kín, chàng liền lấy thư mẹ và mảnh
giấy của anh ra đọc.
Phải, cũng vẫn chuyện ấy. Tất cả: mẹ
chàng, anh chàng, ai nấy đều thấy cần can thiệp vào chuyện tâm tình của chàng.
Cái lối can thiệp đường đột này khiến chàng hằn học, một thứ tình cảm ít có ở
chàng. "Không việc gì đến họ cả! Tại sao ai cũng cứ tự cho là có bổn phận
phải lo lắng đến mình? Và tại sao họ cứ xách nhiễu mình? Vì họ thấy trong đó có
một cái gì họ không hiểu nổi. Ví thử đó là cuộc dan díu phù hoa, nhạt nhẽo,
thường tình, thì có thể họ sẽ để mình yên thân đấy. Đằng này họ lại cảm thấy có
cái gì khác kia: đây không phải trò tiêu khiển, người đàn bà đó đối với mình
còn quý hơn cả cuộc sống. Cái đó thì họ không sao hiểu được và họ đâm tức tối.
Dù số phận chúng ta có thế nào và phải ra sao chăng nữa, thì cũng do chúng ta
gây nên và chúng ta không hề phàn nàn, chàng tự nhủ, gắn bó mình với Anna bằng
chữ chúng ta. Họ không phải là kẻ có thể dạy chúng ta cách sống. Thậm chí họ
cũng không quan niệm nổi một hạnh phúc như vậy là thế nào, họ không hiểu rằng
không có mói tình đó thì chúng ta không có cả hạnh phúc lẫn đau khổ... đến cả
cuộc đời cũng không có nốt", chàng thầm nghĩ.
Chàng càng bực tức hơn trước sự thóc
mách của họ vì trong thâm tâm, chàng cảm thấy họ có lý. Chàng thấy cuộc tình
duyên gắn bó chàng với Anna không phải là một sự mê muội nhất thời rồi sẽ qua
đi, như những cuộc dan díu phù hoa từng qua đi, không để lại dấu vết gì khác
trong cuộc đòi đôi bên, ngoài những kỷ niệm khoan khoái hoặc khó chịu. Chàng
cảm thấy khía cạnh đau xót trong tình cảnh của chàng và Anna, cảm thấy hai
người, vốn được thiên hạ luôn luôn để ý, phải rất chật vật mới giấu giếm nổi
cuộc tình duyên, mới có thể dối trá và lừa lọc: mà phải dối trá, lừa lọc, mưu
mẹo và luôn luôn lo nghĩ tới kẻ khác, trong khi mối tình say đắm đang gắn bó họ
lại mãnh liệt đến nỗi cả hai đều quên hết những gì không dính dáng đến nó.
Chàng hồi tưởng lại rõ ràng tất cả
những dịp, rất hay xảy ra, mà chàng phải dùng tới dối trá và lừa lọc, vốn rất
trái ngược với bản chất của mình; chàng nhớ nhất là nỗi hổ thẹn của Anna khi
nàng bắt buộc phải dối lừa như vậy, mà chàng đã bắt gặp nhiều lần. Và một cảm
giác kỳ lạ thỉnh thoảng lại xâm chiếm lấy chàng từ khi bắt đầu dan díu với
Anna. Đó là cảm giác thù hằn, thù hằn với Alecxei Alecxandrovna, hay với chính
mình, hay với cả thiên hạ... chàng cũng không biết đích xác nữa. Nhưng lần nào
chàng cũng xua đuổi cảm giác kỳ lạ đó đi. Ngay cả lúc này chàng cũng phải xua
nó và suy nghĩ tiếp.
"Ngày trước, nàng khổ sở, nhưng
tự hào và thanh thản; ngày nay, nàng không thể thanh thản và đường hoàng được
nữa, mặc dầu nàng không để lộ tí gì. Đúng thế, phải chấm dứt tình trạng này
thôi", chàng quyết định với mình như vậy.
Và lần đầu tiên, chàng nhận thức
được rõ ràng là phải kết thúc sự dối trá, càng sớm càng hay. "Nàng và ta
phải bỏ tất cả và đi ẩn tránh ở một nơi nào, riêng hai ta với mối tình của
ta", chàng tự nhủ.
--------------------------------
1 All right, sir (tiếng Anh trong nguyên
bản).
2 Đơn vị đo lường của Nga.
3 Pluck (tiếng Anh trong nguyên
bản).
4 My Lord (tiếng Anh trong nguyên
bản).
5 All right (tiếng Anh trong nguyên
bản).
Chương
22
Mưa rào không lâu và khi Vronxki sắp
đi hết chặng đường, trong nhịp phi nhanh của con ngựa bắt càng, kéo theo đôi
ngựa phụ hai bên đang phóng cật lực trong bùn, thì mặt trời lại hiện ra và
những mái biệt thự, những cây bồ đề già trong các vườn dọc hai bên đường phố
chính, lấp lánh một ánh sáng ẩm ướt. Nước ở lá cây vui vẻ nhỏ giọt và từ mái
nhà chảy xuống. Chàng không còn nghĩ tới những hư hại trận mưa có thể gây ra ở
trường đua; giờ đây, chàng vui thích nghĩ là nhờ trận mưa này, chàng chắc chắn
sẽ gặp nàng ở nhà, mà lại chỉ có một mình, vì chàng biết Alecxei Alecxandrovna,
vừa ở suối nước nóng trở về, vẫn chưa rời Peterburg.
Hi vọng được gặp mình nàng, Vronxki
xuống xe ở trước chỗ chiếc cầu nhỏ và đi bộ nốt đoạn đường còn lại, theo như
thường lệ để người ngoài bớt chú ý. Chàng không vào nhà theo lối thềm trông ra
phố, mà đi đằng sân.
- Ông chủ anh về chưa? - chàng hỏi
gã làm vườn.
- Chưa ạ. Phu nhân hiện đang ở nhà.
Nhưng xin mời ông đi lối trước: gia nhân sẽ ra mở cửa ạ, - gã trả lời.
- Thôi, tôi đi đằng vườn cũng được.
Chắc chắn nàng chỉ có một mình và
muốn bất thần gặp nàng, vì hôm nay chàng không hẹn, mà nàng cũng không thể nghĩ
chàng lại đến đúng trước cuộc đua, chàng liền tới sân thượng trông ra vườn,
nhấc cao thanh gươm và thận trọng bước trên nền cát, con đường hai bên trồng
hoa. Vronxki đã quên hết những điều suy nghĩ dọc đường về hoàn cảnh nặng nề và
khó khăn của mình. Chàng chỉ còn nghĩ lát nữa sẽ được gặp Anna, không phải như
một hình ảnh trong tưởng tượng, mà bằng xương bằng thịt, hoàn toàn nguyên vẹn,
như trong thực tế. Chàng đã trèo lên (bằng cách áp cả bàn chân xuống để khỏi
gây tiếng động) cầu thang thoai thoải của sân thượng thì bỗng sực nhớ cái điều
bao giờ chàng cũng quên bẵng và là khía cạnh đau đớn nhất trong quan hệ của
chàng với Anna... đứa con trai nàng, với cái nhìn dò hỏi, thậm chí còn có vẻ
thù địch nữa, theo nhận xét của chàng.
Đứa bé là trở ngại chính trong quan
hệ giữa hai người. Khi có mặt nó, cả Vronxki lẫn Anna chẳng những không dám nói
bất cứ điều gì họ không thể nhắc lại trước mặt mọi người, mà ngay nói bóng gió
những điều đứa trẻ không hiểu, họ cũng không dám. Họ không bảo nhau, cái đó cứ
tự nhiên diễn ra. Họ ắt cảm thấy sỉ nhục nếu lừa dối đứa trẻ. Trước mặt nó, họ
chuyện trò như kẻ quen biết bình thường.
Tuy nhiên, mặc dù đã đề phòng như
vậy, Vronxki vẫn thường bắt gặp con mắt băn khoăn và chăm chú của thằng bé nhìn
chàng; đứa trẻ, lúc thì thân ái, lúc lại ngượng ngập và xa cách, trước mặt
chàng thường tỏ ra nhút nhát lạ lùng và tính khí rất bất thường, như nó cảm
thấy giữa người đàn ông này và mẹ nó có những mối tương quan hệ trọng mà nó
không hiểu nổi ý nghĩa.
Quả là Xergei cảm thấy không hiểu
nổi mối quan hệ đó, và đã cố gắng mà không sao cắt nghĩa được là nó phải có
tình cảm thế nào với người đàn ông này. Với trực giác trẻ con, nó thấy rõ bố,
bà gia sư và bà vú nuôi nó không những không yêu gì Vronxki, mà còn nhìn chàng
một cách sợ hãi và ghê tởm, mặc dầu họ không bao giờ nhắc đến chàng, còn mẹ lại
coi chàng như người bạn tốt nhất.
"Thế nghĩa là thế nào? Ông ta
là ai? Phải yêu ông ta như thế nào?
Nếu mình không hiểu, đó là lỗi tại
mình, hoặc mình là đứa trẻ ngu ngốc và tai ác", chú bé nghĩ vậy, do đó chú
có cái vẻ dò hỏi, xoi mói, nghi hoặc và cả sự nhút nhát cùng những đột biến về
tính khi thường khiến Vronxki rất bối rối. Hễ có mặt đứa trẻ, trong lòng
Vronxki thể nào cũng nẩy ra cái cảm giác giống như của người thuỷ thủ, nhìn địa
bàn thấy cái hướng mình đang tiến lên rất nhanh chóng hóa ra lại chệch khỏi con
đường đúng, nhưng không đủ sức kìm lại, mỗi phút càng lạc xa con đường đó, mà
thú nhận mình lầm đường thì khác nào thú nhận mình bị tiêu vong.
Đứa trẻ đó với cái nhìn ngây thơ
trước cuộc đời, chính là địa bàn chỉ cho họ biết họ đi chệch con đường đúng; họ
biết thế nhưng không muốn thừa nhận.
Hôm đó, Xergei không ở nhà; Anna chỉ
có một mình, ngồi trên sân thượng chờ con về - cơn mưa đã bất thần đổ xuống
giữa lúc nó đang đi chơi. Nàng đã sai một gia nhân và chị hầu phòng đi tìm.
Mình mặc áo dài trắng viền ren rộng, nàng ngồi trong góc sân thượng khuất sau
khóm hoa, và không nghe bước chàng đến. Đầu gục xuống, nàng tì trán vào cái
thùng tưới để quên trên lan can, hai bàn tay xinh đẹp, ngón đeo những chiếc
nhẫn rất quen thuộc với Vronxki, giữ lấy chiếc thùng. Vẻ đẹp của cái đầu tóc
đen uốn quăn, của cổ, của đôi bàn tay, của toàn thân nàng, lần nào cũng như bất
thần đập vào mắt Vronxki.
Chàng dừng lại, say đắm nhìn nàng.
Nhưng chàng vừa định tiến lên một bước, thì nàng đã cảm thấy chàng lại gần, đẩy
chiếc thùng tưới ra và quay bộ mặt nóng bừng về phía chàng.
- Em làm sao thế? Em ốm à? - chàng
nói bằng tiếng Pháp và đến gần. Chàng muốn chạy lại, nhưng sực nhớ có lẽ không
phải chỉ có hai người ở đây, liền nhìn ra cửa kính và đỏ mặt, như mỗi lần cảm
thấy có một cái gì đáng e sợ và cần thận trọng.
- Không, em vẫn khỏe, - nàng nói,
đứng dậy và bắt chặt bàn tay chàng chìa ra. - Em không... ngờ anh tới.
- Trời, tay em sao lạnh toát thế
này! - chàng nói.
- Anh vừa làm em sợ đấy, - nàng nói.
- Em ở nhà một mình, đang ngồi chờ Xerioja, nó đi dạo chơi; chúng nó sắp ở
ngoài kia trở về đấy.
Nhưng mặc dầu cố trấn tĩnh, môi nàng
vẫn run run.
- Xin tha lỗi cho tôi đã đến đây, tôi
không thể sống một ngày mà không gặp em, - chàng nói bằng tiếng Pháp như mọi
khi, để tránh nói chữ bà quá lạnh lùng không thể dùng giữa hai người và chữ em
khá nguy hiểm nếu nói bằng tiếng Nga.
- Tại sao lại tha lỗi cho anh? Em
sung sướng lắm!
- Nhưng em đang ốm, hay đang buồn
thì phải, - chàng nói tiếp, vẫn nắm lấy tay nàng và cúi xuống. - Em đang nghĩ
gì thế?
- Vẫn chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi, -
nàng mỉm cười nói.
Nàng nói đúng sự thực. Bất cứ lúc
nào có người hỏi, nàng đều có thể trả lời: vẫn chỉ nghĩ đến chuyện đó, nghĩ đến
hạnh phúc và bất hạnh của nàng. Đây chính là điều nàng đang nghĩ khi chàng bất
chợt đến: nàng tự hỏi tại sao đối với người khác, đối với Betxi chẳng hạn (nàng
biết bà ta ngấm ngầm dan díu với Tuscievitr), cái gì cũng thật dễ dàng, mà đối
với nàng lại cay cực đến thế. ý nghĩ đó đặc biệt giày vò nàng hôm ấy. Nàng hỏi
chàng về cuộc đua ngựa. Chàng trả lời và thấy nàng bồn chồn, chàng muốn làm cho
nàng khuây khoả, liền kể bằng một giọng hết sức tự nhiên về mọi chi tiết chuẩn
bị cuộc đua.
"Có nên nói cho chàng biết
không? nàng thầm nghĩ, nhìn thẳng vào cặp mắt điềm tĩnh và âu yếm của chàng.
Chàng đang sung sướng, đang chú tâm vào cuộc đua đến thế, chắc sẽ không hiểu
hết tầm quan trọng của việc này đối với chúng ta đâu".
- Nhưng em vẫn chưa cho biết em đang
nghĩ gì khi tôi vào đây, - chàng ngừng kể và nói. - Tôi xin em, em nói cho tôi
biết đi!
Nàng không trả lời; đầu hơi nghiêng
nghiêng, nàng nhìn chàng qua hàng mi dài, vẻ dò hỏi. Đôi mắt nàng long lanh.
Tay nàng mân mê một chiếc lá bứt rời và run lên. Chàng thoáng trông thấy và mặt
chàng bỗng lại có cái vẻ ngoan ngoãn và phục tùng đã khiến nàng xiêu lòng.
- Chắc có chuyện gì xảy ra đây. Tôi
không thể yên tâm lấy một phút khi biết em buồn phiền mà tôi không được chia
sẻ? Em nói đi, tôi van em! - chàng nhắc lại, giọng cầu khẩn.
"Không, mình sẽ không tha thứ,
nếu chàng không thấy hết tầm quan trọng của việc này. Tốt hơn là đừng nói ra,
thử thách chàng mà làm gì?", nàng thầm nghĩ, vẫn nhìn chàng và cảm thấy
bàn tay cầm chiếc lá càng run bắn lên.
- Tôi van em! - chàng nhắc lại, nắm
lấy tay nàng.
- Có nên nói ra không?
- Có, có, có...
- Em có mang rồi, nàng chậm rãi nói,
rất khẽ.
Chiếc lá càng run mạnh trong tay,
người nàng vẫn không rời mắt nhìn chàng, muốn thấy rõ thái độ chàng ra sao khi
biết tin đó. Chàng tái mặt, định nói câu gì đó, nhưng ngừng lại, buông tay nàng
ra và cúi đầu. "Phải, chàng đã hiểu hết tầm quan trọng của sự kiện
này", nàng thầm nghĩ và cảm kích nắm chặt tay chàng.
Nhưng nàng đã nhầm khi tưởng chàng
cũng coi việc đó quan trọng như nàng nghĩ. Nghe tin vậy, cái cảm giác hằn học
kỳ lạ thỉnh thoảng đến với Vronxki lại trào lên mạnh gấp bội; nhưng đồng thời,
chàng cũng hiểu giờ phút khủng hoảng chàng vẫn cầu mong đã tới, không còn giấu
ông chồng được nữa và bằng cách này cách khác phải thoát khỏi tình cảnh ngang
trái này. Hơn nữa, sự bối rối của Anna lan sang chàng rõ rệt như một cảm giác
nhục thể. Chàng ngoan ngoãn và âu yếm nhìn nàng, hôn tay nàng và lặng lẽ đi đi
lại lại trên sân thượng.
- Phải, - chàng nói, quả quyết bước
tới bên nàng, - cả em lẫn tôi, chúng ta đều không coi mối quan hệ giữa chúng ta
là một trò chơi và giờ đây số phận của chúng ta đã quyết định rồi. Nhất thiết,
- chàng nhìn quanh và nói, - phải chấm dứt tình trạng dối trá chúng ta đang
sống.
- Chấm dứt tình trạng ấy à? Bằng
cách nào, Alecxei? - nàng dịu dàng hỏi.
Bây giờ, nàng đã bình tĩnh và mặt
sáng bừng một nụ cười trìu mến.
- Em phải bỏ chồng và gắn bó cuộc
đời chúng ta với nhau.
- Cuộc đời chúng ta đã gắn bó với
nhau rồi đấy thôi, - nàng trả lời bằng một giọng gần như không nghe thấy.
- Đúng, nhưng cần phải gắn bó hoàn
toàn, hoàn toàn...
- Nhưng làm cách nào, Alecxei, anh
bảo em làm cách nào? - nàng nói với vẻ cay đắng buồn bã, nghĩ tới hoàn cảnh
mình thật rối như tơ vò. - Liệu có lối thoát nào không? Em chẳng là vợ của
chồng em đó sao?
- Bao giờ cũng có lối thoát. Phải có
lấy một quyết định, - chàng nói.
- Dù thế nào cũng còn hơn tình cảnh
em đang sống. Anh thấy rõ em bị dằn vặt về đủ mọi thứ: dư luận, con em và chồng
em...
- ồ không, về chồng em thì không, -
nàng nói, cười khe khẽ. - Em không đếm xỉa đến ông ta, không hề nghĩ tới ông
ta. Không có ông ta nữa.
- Em không nói thực. Anh biết rõ em.
Em áy náy cả cho ông ta nữa.
- Nhưng chính ông ta cũng không biết
cơ mà, - nàng nói và sắc mặt đột nhiên đỏ bừng: má, trán, cổ nàng đỏ ửng và
dòng lệ hổ thẹn trào ra khoé mắt. - Mà thôi, đừng nhắc đến ông ta nữa.
Chương
23
Tuy không cương quyết như hôm nay,
Vronxki đã nhiều lần thử hướng nàng nghĩ tới hoàn cảnh của mình, nhưng lần nào
cũng vấp phải cách nhận định phù phiếm và nông nổi mà hôm nay nàng cũng dùng để
đáp lại lời chàng khẩn khoản. Như thể có một cái gì nàng không thể và không
muốn tỏ bày, như thể khi vừa bắt đầu nói tới chuyện đó thì nàng Anna thật đã
biến đi đâu mất, nhường chỗ cho một người đàn bà khác, kỳ lạ, xa xôi, một người
chàng không yêu, chàng e sợ và đang cưỡng lại chàng. Nhưng lần này chàng quyết
tâm nói.
- Ông ta biết hay không, - Vronxki
nói với giọng rắn rỏi và bình tĩnh thường có, - ông ta biết hay không, cái đó
không quan trọng.
Chúng ta không thể... em không thể
cứ sống như vậy, nhất là bây giờ.
- Thế theo ý anh thì phải làm gì
nào? - nàng hỏi, vẫn với vẻ châm biếm như cũ. Nàng vốn rất lo sợ chàng có thể
coi thường việc mình có mang, bây giờ lại bực tức thấy chàng kết luận là nhất
thiết phải làm một việc gì.
- Nói hết với ông ta và bỏ ông ta.
- Được lắm; giả sử tôi làm như vậy,
- nàng nói. - Anh có hiểu là sẽ xảy ra cái gì không? Tôi có thể nói trước điều
đó (và một tia hằn học vụt ánh lên trong cặp mắt một phút trước đây còn rất dịu
dàng). "à, cô yêu người khác và cô tằng tịu tội lỗi với hắn ta à? (bắt
chước chồng, nàng dằn mạnh tiếng tội lỗi như kiểu Alecxei Alecxandrovitr). Tôi
đã bảo cô dè chừng những hậu quả mà hành vi của cô có thể gây nên về phương
diện tôn giáo, xã hội và gia đình. Cô không nghe lời tôi. Bây giờ, tôi không
thể để cho thanh danh tôi bị bôi nhọ... (và thanh danh con trai tôi nữa, nàng
định nói thế, nhưng rồi không nỡ đưa con ra bông đùa), để cho thanh danh tôi bị
bôi nhọ...", và một vài câu khác tương tự thế nữa, - nàng nói. - Tóm lại,
với tác phong chính khách, ông ta sẽ bảo rõ ràng và dứt khoát với tôi là ông ta
không thể để tôi bỏ đi, mà sẽ dùng đến những biện pháp ông có quyền thi hành để
tránh tai tiếng. Rồi ông ta sẽ bình tĩnh làm rất đúng những điều đã nói. Đó là
điều sẽ xảy ra. Ông ta không phải là người, mà là cái máy, hơn nữa là cái máy
tàn ác khi nó tức giận, nàng nói thêm, đồng thời hình dung cặn kẽ từng chi tiết
về diện mạo, cách nói năng của chồng và nàng oán thù như một tội ác tất cả
những gì xấu xa ở chồng khiến nàng chán ghét, mà không chút thương xót khi cảm
thấy mình rất có lỗi với ông ta.
- Nhưng, Anna ạ, - Vronxki nói,
giọng dịu dàng và thuyết phục, cố làm cho nàng trấn tĩnh, - dù sao cũng phải
nói với ông ta... Và sau đó tuỳ theo sự quyết định của ông ta mà hành động.
- Thế thì chúng ta bỏ trốn hay sao?
- Tại sao lại không? Tôi thấy không
thể nào tiếp tục như thế này mãi được... Mà không phải vì lợi ích của tôi
đâu... tôi thấy là em đau khổ.
- Phải, bỏ trốn để rồi tôi bêu mặt
ra cho mọi người thấy tôi là nhân tình của anh chứ gì, - nàng tàn nhẫn nói.
- Anna... - chàng nói, giọng dịu
dàng đầy trách móc.
- Phải... - nàng tiếp tục, - trở
thành nhân tình của anh và mất hết...
Một lần nữa nàng định nói: con trai
tôi, nhưng không thể thốt ra tiếng đó. Vronxki không hiểu nổi một người vốn
cương nghị và trung thực như vậy lại có thể chịu đựng tình cảnh ngang trái này
mà không muốn thoát ra; chàng không đoán được rằng lý do, chung quy lại, chính
là cái tiếng con trai mà nàng không nói ra được. Khi nghĩ đến con và quan hệ
sau này của nó với người mẹ đã xa lìa bố nó, nàng thấy sợ hãi về việc mình đã
làm đến nỗi không dám suy nghĩ nữa, mà chỉ cố tự an ủi bằng những lý lẽ giả
dối, như đàn bà thường làm, tự nhủ là mọi cái vẫn có thể giữ nguyên như cũ, để
quên câu hỏi ghê gớm: con nàng sẽ ra sao?
- Em xin anh, em van anh, - nàng cầm
lấy tay chàng, đột nhiên nói bằng một giọng khác hẳn, âu yếm và chân thành. -
Đừng bao giờ nói tới tới chuyện đó nữa!
- Nhưng mà, Anna...
- Đừng bao giờ nói nữa. Anh cứ tin ở
em. Em đã thấy hết cái đê tiện, khủng khiếp của tình cảnh em, nhưng có được một
quyết định không phải dễ như anh tưởng đâu. Anh cứ tin ở em và hãy nghe em.
Đừng bao giờ nói tới chuyện đó nữa.
Anh hứa với em thế nhé?...
Không, không, anh phải hứa với em
đi!...
- Anh xin hứa tất cả, nhưng anh
không thể yên tâm, nhất là sau những điều em vừa nói. Anh không thể yên tâm,
nếu chính em cũng không yên tâm...
- Em ấy à? - nàng nói. - Phải, đôi
lúc em có day dứt, nhưng rồi sẽ qua đi, nếu anh không bao giờ nhắc với em
chuyện đó nữa. Em chỉ day dứt khi anh nhắc tới chuyện đó thôi.
- Anh không hiểu, - chàng nói.
- Em biết, - nàng ngắt lời, - đối
với bản chất trung thực của anh, phải dối trá thật là điều rất khổ tâm và em
thương anh lắm. Em thường nói vì em mà anh làm hỏng cả cuộc đời anh.
- Giờ đây anh cũng đang nghĩ như
vậy, - chàng nói: - làm sao em lại có thể hy sinh tất cả vì anh? Anh không thể
tha thứ cho anh khi thấy em đau khổ.
- Em mà đau khổ ấy à? - nàng nói,
bước lại gần và nhìn chàng với một nụ cười ngây ngất. - Em ấy à? Nhưng em lại
giống như người đang đói mà được cho ăn. Có thể hắn đang rét, quần áo rách
rưới, hắn hổ thẹn, nhưng không đau khổ. Em mà đau khổ ấy à? Không! Đây là hạnh
phúc của em...
Nàng nghe thấy tiếng con trai đã trở
về và đảo mắt nhìn khắp sân thượng, rồi vụt đứng dậy. Khoé mắt nàng bừng lên
ánh lửa chàng rất quen biết; bằng một cử chỉ nhanh nhẹn, nàng giơ hai bàn tay
đẹp đeo đầy nhẫn, ôm lấy đầu chàng, ngắm hồi lâu và ghé khuôn mặt tươi cười sát
lại gần, đôi môi hé mở, hôn rất nhanh lên miệng, mắt chàng và đẩy chàng ra.
Nàng định đi nhưng chàng giữ lại.
- Bao giờ? - chàng thầm thì hỏi, mắt
nhìn đắm đuối.
- Hôm nay, một giờ, - nàng thầm thì
nói; với một tiếng thở dài, nàng bước nhẹ nhàng và thoăn thoắt ra đón con.
Mưa đổ xuống khi Xerioja đang ở
ngoài vườn và nó cùng người vú nuôi đã trú ở nhà bát giác.
- Thôi, tạm biệt, - nàng chào
Vronxki. - Sắp tới giờ đến trường đua rồi. Betxi đã hứa đến đón em.
Vronxki rút đồng hồ ra xem rồi vội
đi ra.
Chương
24
Khi Vronxki xem giờ trên sân thượng
nhà Carenin, chàng hoang mang, bối rối đến nỗi nhìn vào đôi kim mặt đồng hồ mà
không biết mấy giờ nữa. Chàng xuống đường và đi về chỗ xe đỗ, bước rón rén giữa
những vũng bùn. Mải nghĩ về Anna, chàng cũng không tự hỏi lúc đó là mấy giờ và
còn kịp đến nhà Brianxki không. Như vẫn thường xảy ra trong những trường hợp
tương tự, chàng chỉ còn lại một thứ ký ức ngoại tại giúp chàng nhớ ra mình định
làm gì sau khi từ biệt Anna. Chàng lại gần gã xà ích đang ngủ gật trên gh ế,
trong bóng râm đã xế của cây bồ đề lớn, đứng một lúc nhìn đám ruồi muỗi vo ve
quay cuồng quanh mấy con ngựa đầm đìa mồ hôi, rồi chàng đánh thức gã, nhảy lên
xe và bảo đưa tới nhà Brianxki. Mãi sau khi đi được bảy dặm, chàng mới kịp định
thần: chàng xem đồng hồ, thấy đã năm rưỡi và thế là trễ giờ rồi.
Hôm đó có nhiều cuộc đua: một cuộc
đua xe ngựa kéo, rồi cuộc đua hai dặm của sĩ quan, một cuộc đua khác bốn dặm,
rồi đến cuộc đua có chàng tham dự. Chàng có thể đến kịp để dự cuộc đua này,
nhưng nếu tới nhà Brianxki thì phải đến phút cuối chàng mới về kịp, mà đến sau
Triều đình, thì thật không tiện. Mặt khác, chàng trót hứa với Brianxki rồi, nên
quyết định cứ tiếp tục đi và sai Xà ích đừng nương nhẹ ngựa.
Chàng chỉ ở lại nhà Brianxki có dăm
phút và phóng hết tốc lực trở về. Xe chạy nhanh làm chàng bình tĩnh lại. Tất cả
những gì khổ tâm trong quan hệ của chàng với Anna, tình trạng nhập nhằng vẫn
còn lại sau câu chuyện, tất cả những thứ đó biến khỏi đầu óc; lúc này chàng
nghĩ đến cuộc đua với một niềm vui thích xen lẫn hồi hộp, dự tính là mình sẽ
đến kịp giờ, và đôi lúc, sự chờ đợi niềm hạnh phúc của đêm hò hẹn sắp tới toả
sáng chói ngời trong trí tưởng tượng.
ý nghĩ về cuộc đua sắp tới càng xâm
chiếm chàng khi tiến sâu vào không khí trường đua, vượt qua những đoàn xe từ
thành phố lân cận và Peterburg đến.
ở phòng chàng không còn ai; mọi
người đều đi rồi, gã hầu phòng chờ chàng trên bậc cửa. Trong khi chàng thay
quần áo, gã nói cuộc đua thứ hai bắt đầu, có nhiều người đến hỏi chàng và chú
bé coi ngựa đã hai lần từ chuồng ngựa lại.
Sau khi ung dung thay quần áo (không
bao giờ chàng hấp tấp hoặc mất tự chủ), Vronxki bảo đánh xe đến lán ngựa. ở đó
đã thấy cả một biển ngựa xe, bộ hành, binh lính bao quanh trường đua và khán
đài đông nghịt. Cuộc đua thứ hai chắc hẳn đã bắt đầu, vì khi chàng bước vào
chuồng ngựa thì nghe thấy tiếng chuông. Ngang đường, chàng gặp con Võ sĩ lông
nâu chân trắng của Makhotin đang được đưa ra bãi đua, choàng tấm vải phủ mình
màu da cam và xanh lơ, với đôi tai viền xanh có vẻ rất to.
- Anh Coóc đâu? - chàng hỏi chú bé
coi ngựa.
- ở chuồng ngựa, họ đang đóng yên
cho ngựa của ông.
Trong tàu ngựa để ngỏ, con Lao xao
đã được đóng yên. Họ sắp đưa nó ra.
- Tôi đến không muộn chứ?
- Tốt lắm! Tốt lắm 1! Mọi việc đều
tốt đẹp, - gã người Anh nói, - ông đừng lo ngại.
Vronxki nhìn lần cuối hình dáng uyển
chuyển của con Lao xao đang run rẩy toàn thân, và chàng cố dứt khỏi cảnh tượng
đó, ra ngoài lán. Chàng chọn lúc thuận lợi nhất để đến khán đài khỏi bị chú ý.
Cuộc đua hai dặm sắp kết thúc và mọi
cặp mắt đều đổ dồn vào một sĩ quan cận vệ đang dẫn đầu và một khinh kỵ thuộc
ngự lâm quân bám sau; cả hai đang cố hết sức thúc ngựa khi đến gần cột. ở giữa
và quanh ria vòng đua, mọi người đã tụ tập gần chiếc cột về đích và một toán sĩ
quan cận vệ đang reo hò ầm ĩ, biểu lộ niềm vui sướng trước thắng lợi sắp tới
của bạn họ. Vronxki lẳng lặng len vào giữa đám đông, đúng lúc tiếng chuông châm
dứt cuộc đua vang lên và viên sĩ quan cận vệ, một người cao lớn, khắp mình đầy
bùn, về tới đích đầu tiên, ngồi thả người trên yên và buông lỏng dây cương con
ngựa giống màu xám, đầm đìa mồ hôi, đang thở phì phò.
Con ngựa giống khó nhọc rướn căng
bắp chân để hãm chậm lại cái thân mình to lớn đang đà lao và viên sĩ quan cận
vệ, như người sực tỉnh cơn ác mộng, nhìn quanh và mỉm cười gượng gạo. Một đám
đông bạn bè và kẻ tò mò vây lấy anh ta.
Vronxki thận trọng tránh đám công
chúng quý phái và sang trọng, dáng điệu từ tốn, đang tự do đi lại và trò chuyện
thoải mái trước khán đài. Chàng biết ở đó có Anna, Betxi và bà chị dâu mình nên
chủ tâm không đến gần để khỏi phân tán tư tưởng. Nhưng chàng luôn gặp bạn bè
giữ lại, kể cho chàng tại sao đến muộn.
Trong khi người thắng cuộc được mời
vào khán đài danh dự lĩnh thưởng và mọi người đều đi về phía đó, ông anh cả của
Vronxki là Alecxandr, một đại tá đeo ngù vai, dáng người thấp bé, cũng to ngang
như Alecxei, nhưng tuấn tú và hồng hào hơn, với cái mũi đỏ của người nghiện
rượu và nét mặt cởi mở, đến gặp chàng.
- Chú đã nhận được mấy chữ của anh
chưa? ông ta hỏi. Không mấy khi gặp được chú cả.
Alecxandr Vronxki, tuy sống một cuộc
đời trụy lạc và rượu chè mà ai cũng biết, vẫn là một đình thần chân chính.
Lúc này, bàn bạc với em trai về một
vấn đề rắc rối và biết con mắt công chúng có thể đổ dồn vào mình, ông làm bộ
tươi cười như đang bông đùa với Alecxei.
- Có, tôi nhận được rồi, và quả thực
tôi không rõ anh lo ngại cái gì, - Vronxki nói.
- Anh lo ngại về việc mới đây họ lưu
ý anh là chú đã vắng mặt trong khi người ta lại gặp chú ở Petetrov thứ hai vừa
rồi.
- Có những công việc chỉ liên quan
tới những người trực tiếp dính dáng với nó và cái công việc anh đang quan tâm
lại chính là...
- Phải, nhưng, nếu thế thì đừng ở
lại quân đội nữa, thà chú...
- Tôi xin anh đừng xen vào chuyện
đó, có thế thôi.
Bộ mặt cau có của Alecxei Vronxki
tái đi và quai hàm dưới run lên, một điều ít thấy ở chàng. Là người rất tốt bụng,
chàng ít khi nổi giận. Nhưng khi đã nổi giận và cằm run lên thì chàng trở nên
nguy hiểm. Alecxandr Vronxki biết rõ như vậy và vui vẻ mỉm cười.
- Anh chỉ muốn chuyển lá thư của mẹ
cho chú. Chú nhớ trả lời mẹ và không nên nóng nẩy trước khi bước vào cuộc đua.
Chúc chú may mắn 2, - ông ta mỉm cười nói thêm và bỏ đi.
Nhưng ngay sau đó, một lần nữa lại
có người sán đến gần Vronxki.
- Anh không nhận ra cả bè bạn nữa
rồi! Chào anh bạn thân mến 3, - Xtepan Arcaditr nói, - và giữa cái xã hội sang
trọng ở Peterburg này, ông vẫn không kém phần choáng lộn so với khi ở Moxcva,
với bộ mặt hồng hào và hai chòm râu má chải chuốt, bôi sáp. Tôi đến đây hôm qua
và lấy làm sung sướng được chứng kiến thắng lợi của anh. Bao giờ chúng ta gặp
nhau?
- Mai anh đến quán ăn sĩ quan, -
Vronxki trả lời, chàng xin lỗi và xiết ống tay áo khoác của ông ta rồi vào bãi
đua, ở đó ngựa đã được dẫn ra dự cuộc đua vượt chướng ngại.
Mấy người coi ngựa dẫn về tàu những
con ngựa mệt nhoài, đầm đìa mồ hôi vừa chạy đua xong, và những con khỏe nguyên
của cuộc đua sau lần lượt được dẫn vào, phần đông là ngựa Anh, đai thắng kỹ
càng, choàng vải phủ mình, trông như một đàn quái điểu đồ sộ. ở bên phải, là
con Lao xao xinh đẹp và mảnh dẻ, với dáng đi rún rẩy, lần lượt đưa từng chiếc
cổ chân thon dài bước về phía trước. Cách đấy không xa, người ta đang cởi vải
phủ mình con Võ sĩ với đôi tai dựng ngược mãi phía sau đầu. Hình dáng đầy đặn,
cân đối và hoàn hảo của con ngựa giống, với cặp mông bệ vệ và cổ chân rất ngắn,
ngay phía trên móng, buộc Vronxki phải chú ý. Chàng định đến với ngựa mình
nhưng lần nữa lại bị một người bạn giữ lại.
- à! Carenin kia kìa! - anh ta nói.
- Ông ta đang tìm vợ. Anh không trông thấy bà ta ngồi ở khán đài à?
- Không, - Vronxki trả lời, không
quay lại phía khán đài mà người kia đang chỉ cho chàng thấy Anna, và bước đến
gần con Lao xao.
Chàng vừa kịp xem lại chiếc yên có
chỗ cần chỉnh đốn, thì người ta đã gọi tên các đấu thủ để rút số. Mười bảy sĩ
quan, vẻ mặt nghiêm trang, phần đông tái đi, tụ tập gần khán đài và rút số.
Vronxki rút được số bảy.
- Lên yên! - có tiếng hô.
Cảm thấy mình và các đấu thủ là mục
tiêu của toàn thể cử toạ, Vronxki tiến về phía con Lao xao trong cái trạng thái
căng thẳng thường khiến cử chỉ chàng trở lại bình tĩnh và chậm rãi. Nhân cuộc
đua này, Coóc đã mặc lễ phục: áo ngắn đen cài khuy, cổ cồn dựng cao tới má, mũ
tròn đen, ủng cao. Y vẫn bình tĩnh và nghiêm trang như thường lệ và đứng sững
trước con ngựa, tự tay cầm cương để giữ nó.
Lao xao vẫn run như đang lên cơn
sốt. Con mắt nó nẩy lửa liếc nhìn Vronxki đang tiến lại gần. Chàng luồn ngón
tay xuống dưới dây đai.
Con ngựa liếc mắt gườm gườm, nhe
răng và vểnh tai. Gã người Anh mím môi phác một nụ cười khi thấy chàng kiểm tra
lại việc đóng yên của y.
- Lên ngựa đi: ông sẽ bớt hồi hộp, -
y nói.
Vronxki quay lại lần cuối nhìn các
đối thủ. Chàng biết trong cuộc đua sẽ không nhìn thấy họ nữa. Hai người trong
bọn họ đã đến chỗ xuất phát. Gantdin, một trong những đối thủ nguy hiểm nhất,
bạn của Vronxki, lăng xăng quanh con ngựa giống màu tía đang vùng vằng không
chịu cho cưỡi. Một gã khinh kị ngự lâm bé nhỏ, mặc quần hẹp, phi nước đại một
lúc, bắt chước những kị mã người Anh thu mình lại như mèo trên mình ngựa. Hoàng
thân Kudovlev mặt tái nhợt, ngồi trên con ngựa cái nòi của trại ngựa Grabôp do
một gã người Anh cầm dây cương dắt đi. Vronxki và tất cả bạn chàng đều biết
Kudovlev và đặc điểm ông ta: yếu bóng vía mà lại tự ái ghê gớm.
Họ biết ông ta sợ đủ thứ; ông ta rất
sợ cưỡi ngựa chiến nhưng chính vì sợ, vì có người đã ngã gẫy cổ và ở mỗi chướng
ngại đều có bác sĩ, xe cấp cứu và nữ cứu thương, cho nên ông ta đã quyết định
tham dự cuộc đua. Luồng mắt hai người vô tình gặp nhau và Vronxki nháy mắt với
ông ta một cách thân ái và đồng tình. Chỉ có một người là chàng không thấy: kẻ
đối thủ lợi hại nhất, Makhotin trên con Võ sĩ.
- Ông đừng hấp tấp, - Coóc nói với
Vronxki, - và hãy nhớ kỹ điểm này: khi qua chướng ngại đừng kìm và cũng đừng
thúc nó, cứ mặc nó làm theo ý thích.
- Được, được, - Vronxki nói, tay cầm
lấy dây cương.
- Nếu có thể được thì ông nên dẫn
đầu cuộc đua; nhưng chưa kết thúc thì đừng có nản, dù đang chạy ở cuối đoàn
cũng vậy.
Con ngựa chưa kịp động đậy thì
Vronxki, bằng một động tác vững vàng và mềm mại, đã đặt chân vào bàn đạp thép
có răng cưa, và nhẹ nhàng ngồi lên chiếc yên da kêu cót két. Trong khi luồn bàn
chân phải vào bàn đạp, chàng quen lệ kéo ngay ngắn đôi dây cương kép giữa mấy
ngón tay; Coóc buông ra. Lao xao vươn cổ và kéo căng dây cương: nó hình như tự
hỏi xem nên bước đi bằng chân nào, lắc lư như trên lò xo, làm người cưỡi đu đưa
trên tấm lưng mềm. Coóc rảo bước đi theo Vronxki. Con ngựa hung hăng kéo căng
dây cương, lúc phía bên này, lúc phía bên kia, thử bắt nạt người cưỡi, và
Vronxki cố dùng giọng nói và bàn tay để vỗ về nhưng vô hiệu.
Họ đến gần con sông có bờ đê và tiến
về điểm xuất phát. Người đi trước, kẻ đi sau Vronxki; bỗng nhiên, chàng nghe
thấy đằng sau có tiếng ngựa phi trên đường bùn lầy và Makhotin cưỡi con Võ sĩ
có đôi tai doãng và bộ chân trắng, vượt lên trước mặt. Makhotin mỉm cười nhe
hàm răng dài, nhưng Vronxki tức tối nhìn y. Lúc thường chàng đã không thích y
và lúc này lại coi y là địch thủ nguy hiểm nhất; cho nên chàng tức giận thấy y
phi vượt lên trước, làm ngựa chàng sợ hãi.
Con Lao xao cất chân phi hai bước và
giận dữ vì bị dây cương kìm lại, bèn chạy nước kiệu lóc cóc làm Vronxki thỉnh
thoảng lại bật nảy người. Coóc nhíu mày và rầu rĩ gần như chạy theo sau
Vronxki.
--------------------------------
1 All right! All right (tiếng Anh
trong nguyên bản).
2 Bonne chance (tiếng Pháp trong
nguyên bản) 2 Mon cher (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Chương
25
Mười bảy sĩ quan tham dự cuộc đua.
Họ phải chạy theo vòng đua hình bầu dục lớn dài bốn dặm qua trước khán đài.
Chín chướng ngại được dựng trên đường: một con ngòi, một hàng rào kín cao hai
ácsin 1 ngay trước khán đài, một hố khô, một hố đầy nước, một cái dốc, một luỹ
lếclăng (một chướng ngại loại khó nhất) làm bằng bờ đất cắm đầy cành lá, che
lấp một cái hố đằng sau, thành thử ngựa hoặc phải nhảy qua hai chướng ngại luôn
một lúc hoặc có thể toi mạng; rồi hai hố khô, một hố đầy nước nữa và chặng cuối
cuộc đua ngay trước khán đài. Cuộc đua không bắt đầu trong vòng đua mà cách xa
hơn trăm xa gien và trên quãng đường đó có chướng ngại đầu tiên: con ngòi đắp
đê, mà kỵ sĩ có thể tùy ý nhảy hay lội qua.
Đã ba lần các kỵ sĩ xếp thành hàng, nhưng
mỗi lần lại có một con ngựa chạy trước nên phải làm lại. Đại tá Xextrin, chỉ
huy xuất phát, bắt đầu cáu; cuối cùng ông kêu lên lần thứ tư "Xuất
phát"! và các kị sĩ lao đi.
Mọi cặp mắt, mọi ống nhòm đều hướng
về tốp kị sĩ xanh xanh đỏ đỏ đang phi đến gần khán đài.
- Họ kia rồi! Họ đã chạy qua! -
tiếng reo vang lên bốn phía, sau phút im lặng đợi chờ.
Và những khán giả riêng lẻ hoặc họp
thành từng tốp chạy nơi này nơi nọ để nhìn rõ hơn. Ngay từ phút đầu toán kị sĩ
dày đặc đã tản ra và người ta thấy họ phi đến gần con ngòi thành từng nhóm nhỏ
hai ba người hoặc người nọ sau người kia. Đối với khán giả, họ hình như cụm với
nhau, nhưng những khoảng cách nhỏ ngăn chia họ rất quan trọng với từng kị sĩ.
Con Lao xao, bị khích động và quá
hung hăng, lúc đầu tụt lại sau và bị nhiều con khác bỏ cách; nhưng ngay khi sắp
đến con ngòi, Vronxki tuy đã ra sức ghìm nó lại vẫn dễ dàng đuổi kịp ba con
khác.
Trước mặt chàng chỉ còn con Võ sĩ,
chạy trước hơn hẳn một mình ngựa và trước nữa là con Đian xinh đẹp mang
Kudovlev đang hồn xiêu phách lạc.
Trong những phút đầu, Vronxki không
làm chủ được cả bản thân mình lẫn ngựa. Đến chướng ngại đầu tiên là con ngòi,
chàng vẫn chưa điều khiển nổi những động tác của con Lao xao.
Con Võ sĩ và con Đian song song tiến
lên và gần như đồng thời nhảy vọt qua con ngòi sang bờ bên kia: tiếp sau chúng,
con Lao xao rời mặt đất băng qua nhẹ như bay; nhưng đúng lúc Vronxki cảm thấy
đang ở trên không, chàng bỗng thoáng thấy, gần như ngay dưới chân ngựa mình,
Kudovlev đang giẫy giụa cùng con Đian ở bờ bên kia.
(Kudovlev đã buông tay sau khi nhảy
qua và ngã lộn qua đầu ngựa).
Mãi sau này Vronxki mới biết rõ
những chi tiết đó: lúc bấy giờ, chàng chỉ thấy một điều: là con Lao xao có thể
giẫm lên đầu hoặc đùi con Đian ở ngay dưới người chàng. Nhưng Lao xao, như con
mèo rơi xuống, gắng ưỡn lưng và chân ngay khi còn ở trên không, tránh được con
vật kia và tiếp tục chạy. "Ôi, tuấn mã của ta!", Vronxki thầm nghĩ.
Sau khi vượt qua ngòi, Vronxki đã
hoàn toàn làm chủ được ngựa và bắt đầu ghìm nó lại, chàng dự tính nhảy qua hàng
rào lớn sau Makhotin và gắng vượt y trên quãng hai trăm xa gien đất bằng tiếp
sau đó.
Hàng rào lớn ở ngay trước khán đài
nhà vua. Hoàng thượng cùng toàn triều đình và một đám đông đang dán mắt nhìn:
nhìn chàng và Makhotin đang chạy trước, khi hai người đến gần con
"quỷ" (hàng rào kín được gọi như vậy). Vronxki cảm thấy những cặp mắt
từ mọi phía hướng về mình, nhưng chỉ trông thấy đôi tai và cổ ngựa mình, dải
đất chạy ngược lại và chiếc mông cùng bộ chân trắng của con Võ sĩ đang gõ nhịp
trước mặt và vẫn cách xa như cũ. Con Võ sĩ nhảy vọt qua không vướng mắc, vẫy
cái đuôi ngắn và biến khỏi tầm mắt Vronxki.
- Hoan hô! - có tiếng reo lên.
Cùng lúc đó, Vronxki đã ở trước ván
hàng rào. Không hề thay đổi tốc độ, con ngựa chồm lên dưới người chàng; những
tấm ván biến mất nhưng chàng nghe thấy tiếng vấp đằng sau. Lao xao, hăng máu
lên vì thấy con Võ sĩ chạy trước, đã nhảy quá sớm và chạm một trong hai móng
sau vào hàng rào. Nhưng nó không hề chạy chậm lại và Vronxki bị một vốc bùn bắn
vào giữa mặt, thấy mình vẫn cách con Võ sĩ như cũ. Chàng thoáng thấy trước mặt
cái mông, cái đuôi ngắn và bốn vó trắng chuyển động nhanh thoăn thoắt vẫn giữ
khoảng cách gần như trước.
Đúng lúc Vronxki tự nhủ là đã đến
lúc phải vượt Makhotin, Lao xao đã đoán được ý chủ, không cần thôi thúc, tăng
tốc độ rõ rệt và tiến lên gần Makhotin về phía dây biên. Nhưng Makhotin chạy
sát vào dây biên. Vronxki vừa kịp nghĩ mình có thể vượt ở phía ngoài thì Lao
xao đã đổi chân và chạy chéo lên. Vai nó, sẫm lại vì mồ hôi, ở ngang tầm mông con
Võ sĩ. Trong vài giây họ sóng đôi chạy bên nhau. Nhưng, đúng ngay trước chướng
ngại sau, Vronxki giật cương để tiến sát dây biên và vun vút vượt lên trước
Makhotin ở giữa dốc. Chàng nhìn thấy khuôn mặt y lấm bùn khi vượt qua. Chàng
còn thấy hình như y cười nữa. Vronxki đã bỏ cách Makhotin nhưng vẫn cảm thấy y
ở sau và nghe thấy ngay sau lưng tiếng vó phi đều đặn và hơi thở dồn dập nhưng
không lộ vẻ gì mệt nhọc của con Võ sĩ.
Hai chướng ngại sau: một hố và một
hàng rào, đã vượt qua dễ dàng, nhưng Vronxki nghe thấy hơi thở và tiếng vó phi
sát lại gần.
Chàng thúc ngựa và vui sướng cảm
thấy nó chạy nhanh hơn không chút khó nhọc: tiếng vó ngựa Võ sĩ xa dần.
Vronxki đang dẫn đầu cuộc đua: đó là
điều chàng mong muốn và điều Coóc đã khuyên: bây giờ chàng nắm chắc phần thắng.
Nỗi xúc động, vui sướng và lòng yêu mến con Lao xao càng tăng lên. Chàng thèm
nhìn lại sau, nhưng không dám, cố trấn tĩnh và không thúc ngựa nữa để dành lại
cho nó cái dư lực tương đương mà chàng cảm thấy con Võ sĩ vẫn còn. Bây giờ chỉ
còn một chướng ngại nữa, cái khó nhất: nếu vượt trước mọi người thì chàng sẽ về
nhất. Chàng vun vút phi đến gần luỹ Iêclăng. Con Lao xao nhìn thấy nó cùng một
lúc với chàng và cả người lẫn ngựa đều có một phút do dự. Chàng nhận thấy sự do
dự đó ở đôi tai ngựa và vung roi lên, nhưng lập tức cảm thấy sự nghi ngờ đó là
vô căn cứ: con vật biết rõ phải làm gì. Nó phi nhanh hơn và đúng như dự đoán,
nó lấy đà tách khỏi mặt đất và buông mình cho lực quán tính đưa nó vượt sang
bên kia hố, rồi vẫn với đà ấy không cần cố gắng, vẫn nhịp vó ấy, con Lao xao
tiếp tục chạy.
- Hoan hô Vronxki, - tiếng reo hò
vang lên trong một đám người, chàng biết các bạn trong trung đoàn đang đứng gần
chướng ngại đó; chàng không thể không nhận ra tiếng Yasvin, nhưng không trông
thấy anh ta.
"Ôi, tuấn mã của ta!",
chàng thầm nói với Lao xao, đồng thời lắng nghe những điều xảy ra sau lưng.
"Nó đã nhảy qua!", chàng nghĩ vậy khi nghe thấy tiếng vó phi của con
Võ sĩ. Chỉ còn lại cái hố đầy nước, rộng hai ác sin. Vronxki thậm chí cũng không
thèm nhìn cái hố đó nhưng muốn về nhất trội hẳn, chàng bèn giật cương theo một
động tác vòng tròn làm đầu ngựa lần lượt ngẩng lên, cúi xuống theo nhịp phi.
Chàng cảm thấy con Lao xao đang ngốn sức dự trữ cuối cùng.
Không những cổ và vai nó ướt đầm, mà
mồ hôi còn đọng thành giọt trên gáy, đầu và đôi tai nhọn, hơi thở nó ngắn và
hổn hển. Nhưng chàng biết sức dự trữ đó thừa đủ cho hai trăm xa gien cuối cùng.
Chỉ riêng cái cảm giác thấy mình lướt sát mặt đất hơn và nhịp ngựa phi êm hơn
cũng đủ cho chàng biết nó tăng tốc độ. Nó nhảy qua chiếc hố như một trò đùa. Nó
bay qua như chim: nhưng cùng lúc ấy, Vronxki sợ hãi cảm thấy mình đã không theo
khớp động tác của con ngựa và khi buông mình xuống yên, chàng đã mất thăng bằng
một cách không thể tha thứ, không thể giải thích được. Tình thế bỗng đột nhiên
thay đổi và chàng chợt hiểu một cái gì khủng khiếp vừa xảy ra. Chàng chưa kịp
nhận rõ điều gì đã xảy ra thì bộ chân trắng con Võ sĩ đã vượt qua sát ngay cạnh
như tia chớp: Makhotin phi nước đại xa dần.
Vronxki chạm một chân xuống đất và
con ngựa cái ngã gục đè lên bàn chân đó. Chàng vừa kịp rút chân ra thì nó đã
lăn nghiêng sang bên, vừa nặng nhọc thở phì phì vừa cố ngóc cái cổ mảnh dẻ đầm
đìa mồ hôi đứng dậy, nhưng vô hiệu. Nó giãy giụa trên mặt đất, dưới chân chàng,
như con chim bị thương. Động tác vụng về của Vronxki đã làm nó gãy xương sống.
Nhưng mãi sau này chàng mới hiểu điều đó. Lúc bấy giờ, chàng chỉ thấy có một
điều là: Makhotin đã nhanh chóng bỏ xa, còn chàng thì ở lại đó, đứng sững trên
nền đất ướt át, còn Lao xao thì nằm sóng soài trước mặt, hơi thở nặng nhọc, cái
đầu nghiêng về phía chàng và đôi mắt đẹp nhìn chàng không hiểu việc gì đã xẩy
ra.
Vronxki kéo cương. Nó giãy giụa như
con cá, làm những miếng da yên kêu cót két, nó đứng lên hai chân trước, nhưng
không nhấc nổi thân sau, lại lập tức lảo đảo và lăn kềnh sang bên. Vronxki mặt
biến sắc vì tức giận, tái xanh, quai hàm dưới run run, chàng nện gót chân vào
bụng nó và lại giật cương. Nhưng nó không cựa quậy nữa, và, mõm vục xuống đất,
nó chỉ lẳng lặng nhìn chủ bằng cái nhìn như biết nói.
- Ô-ô-ôi! - Vronxki gầm lên, hai tay
ôm đầu. - Ôi-ô-ôi! Tôi đã làm gì thế này? Chàng kêu to. Cuộc đua thế là thất
bại! Đó là lỗi tại tôi, một cái lỗi nhục nhã, không thể tha thứ được! Còn con
vật khốn khổ, xinh đẹp thế là hết kiếp rồi! Ô-ô-ôi! Tôi đã làm gì thế này?
Mọi người, y sĩ phẫu thuật, người
giúp việc ông ta, các sĩ quan trong trung đoàn chàng chạy đến. Chàng tuyệt vọng
về nỗi mình vẫn khỏe mạnh lành lặn. Con ngựa bị gãy xương sống: phải giết nó
thôi.
Vronxki không thể trả lời những câu
hỏi, cũng không thể nói chuyện với ai. Chàng quay đi và bỏ lại chiếc mũ lưỡi
trai rơi xuống đất, chàng trốn khỏi trường đua, không biết mình đi đâu. Chàng
khổ sở vô cùng.
Lần đầu tiên trong đời, chàng phải
chịu đựng một nỗi đau khổ nặng nề, không sao gỡ được nữa, mà lại do chính mình
gây nên.
Yasvin đuổi theo để trả lại mũ lưỡi
trai và đưa chàng về nhà. Nửa giờ sau, Vronxki mới định thần lại. Nhưng mãi về
sau, cuộc đua đó đối với chàng vẫn là kỷ niệm nặng nề nhất trong đời.
--------------------------------
1 Đơn vị đo lường bằng 0,71m. Trong
bản Pháp văn của Sylvie Luneau dịch là toise (khoảng gần 2m).
Chúng tôi sửa lại theo nguyên bản.
Chương
26
Mối quan hệ bề ngoài giữa Alecxei
Alecxandrovitr và vợ vẫn giữ nguyên như xưa. Điều duy nhất khác trước là ông ta
càng làm việc nhiều hơn. Như những năm trước, ông ra nước ngoài từ đầu xuân, để
khôi phục ở suối nước nóng sức khỏe mỗi năm một thêm lung lay vì công việc phải
làm trong mùa đông. Ông trở về vào tháng bảy và lập tức bắt tay vào công việc,
càng hăng hơn. Vợ ông theo thường lệ về nông thôn, còn ông ở lại Peterburg.
Kể từ lần nói chuyện giữa hai người
sau buổi tối ở nhà quận chúa Tverxcaia trở về, ông ta không bao giờ phát biểu
những nghi hoặc và ghen tuông với Anna nữa, và cái giọng mỉa mai thường lệ của
ông càng vô cùng thuận tiện trong mối quan hệ hiện giờ với vợ. Ông tỏ ra hơi
lạnh nhạt hơn với nàng. Ông chỉ không bằng lòng tí chút vì nàng đã né tránh lần
nói chuyện đầu tiên đó. Thái độ ông đối với nàng hơi có vẻ bực dọc, nhưng chỉ
thế thôi. "Cô đã không muốn chúng ta giãi bày với nhau, ông ta hình như
muốn thầm nói với nàng như vậy, thì mặc kệ cô. Bây giờ đến lượt cô phải cầu xin
tôi điều đó thì tôi sẽ từ chối. Mặc kệ cô", ông nhủ thầm như người đã cố
dập tắt đám cháy mà không được, nên tức bực và nói: "Đã thế thì cháy đi,
cứ tha hồ mà cháy đi!" Con người ấy vốn thông minh và tinh tế trong khi
thừa hành chức vụ, lại không thấy thái độ mình đối với vợ như vậy là vô cùng
dại dột.
Ông không thấy điều đó, vì không có
gan tìm hiểu tình cảnh hiện nay của mình, ông đóng chặt và niêm phong kín trong
đáy lòng cái ngăn kéo đựng tình cảm đối với gia đình, nghĩa là đối với vợ con.
Ông vốn là người cha chịu khó chăm sóc con, thế mà đến cuối đông, ông bắt đầu
lạnh nhạt với con và khi nói với nó, ông cũng dùng giọng châm biếm thường dùng
với vợ: "Thế sao, chàng trai trẻ!" - ông gọi thế mỗi khi gặp con.
Alecxei Alecxandrovitr nghĩ và nói
chưa bao giờ ông bận nhiều việc như năm nay; nhưng ông không tự thú nhận chính
ông đã bày đặt ra những công việc ấy, đó là một phương sách để khỏi phải mở cái
ngăn kéo chứa đựng tình cảm với vợ và gia đình cùng những ý nghĩ liên quan đến
họ: những cảm nghĩ này càng cất kín ở đó lâu bao nhiêu càng trở nên khủng khiếp
bấy nhiêu.
Nếu ai mạo muội hỏi ông nghĩ gì về
hành vi của vợ thì ông Alecxei Alecxandrovitr hiền lành và trầm tĩnh đó sẽ
không trả lời gì cả, mà sẽ nổi xung với người đặt câu hỏi đó. Cho nên ông giữ
vẻ mặt trịnh trọng và nghiêm trang mỗi khi người ta hỏi thăm Anna. Alecxei
Alecxandrovitr không muốn nghĩ ngợi về hành vi cũng như tình cảm của vợ và quả
thực ông đã không nghĩ ngợi gì cả.
Biệt thự của gia đình Carenin ở
Petetrov; nữ bá tước Lidia Ivanovna thường cũng nghỉ hè ở đấy và có quan hệ
láng giềng tốt với Anna. Năm đó, nữ bá tước Lidia Ivanovna thôi không đến ở
Petetrov, tránh không đến thăm Anna Arcadievna lần nào, và một hôm còn nói bóng
gió với Alecxei Alecxandrovitr về sự bất tiện trong tình thân mật của Anna với
Betxi và Vronxki. Alecxei Alecxandrovitr đã nghiêm khắc ngắt lời bà ta, tuyên
bố không ai được quyền nghi ngờ vợ mình, từ đó ông tránh mặt nữ bá tước Lidia
Ivanovna. Đã nhất tâm nhắm mắt làm ngơ trước mọi sự, ông không để ý là một số
người bắt đầu nhìn vợ mình bằng con mắt nghi kị; ông không muốn hiểu và cũng
không hiểu tại sao vợ mình lại nằng nặc đòi đi Txacxkôe Xelo, nơi Betxi ở, từ
đó đến doanh trại Vronxki chẳng bao xa. Ông không cho phép mình nghĩ tới việc
đó và đã không nghĩ tới thực, nhưng đồng thời trong thâm tâm, tuy không bao giờ
tự nói rõ ra, tuy không có mảy may bằng chứng, thậm chí không có chút gì khả
nghi, ông vẫn tin chắc mình là người chồng bị lừa dối và vô cùng đau khổ.
Trong tám năm hạnh phúc vợ chồng,
thấy những người vợ ngoại tình và những ông chồng bị lừa dối, biết bao lần
Alecxei Alecxandrovitr đã tự nhủ: "Làm sao họ có thể lâm vào nông nỗi ấy
được. Tại sao họ không thoát được ra khỏi cảnh huống điếm nhục như vậy?".
Nhưng bây giờ, khi tai nạn sập xuống đầu, không những ông không nghĩ cách thoát
khỏi tình cảnh đó, mà còn muốn hoàn toàn ngơ đi, và sở dĩ muốn làm ngơ, chính
vì nó khủng khiếp quá, quái gở quá.
Từ khi ở nước ngoài về, Alecxei
Alecxandrovitr đã hai lần về quê.
Một lần, ông có ăn trưa, lần thứ
hai, ông ở lại dự buổi tối tiếp tân của vợ, nhưng không ngủ lại đêm như mọi
năm.
Ngày đua ngựa hôm ấy là ngày rất bận
rộn đối với Alecxei Alecxandrovitr, nhưng buổi sáng, khi vạch chương trình hoạt
động trong ngày, ông định ăn trưa thật sớm, rồi về ngay nhà vợ, và từ đó đến
thẳng trường đua. ở đây toàn thể triều đình sẽ có mặt và ông cần ra mắt. Ông
đến nhà vợ vì đã quyết định mỗi tuần thăm nàng một lần để giữ thể diện. Hơn
nữa, theo như quy định, hôm đó ông phải đưa Anna số tiền chi tiêu cần thiết
trước ngày rằm hàng tháng.
Vốn quen tự chủ, ông nghĩ tới việc
đó mà không để tư tưởng miên man sang những điều có liên quan đến vợ.
Suốt buổi sáng ông rất bận. Hôm qua,
nữ bá tước Lidia Ivanovna gửi cho ông cuốn sách của một nhà du lịch nổi danh
từng đi khắp Trung Quốc và hiện đang ở Peterburg. Nữ bá tước có kèm theo một
bức thư yêu cầu ông tiếp nhà du lịch đó, một người rất đặc sắc và có ích về
nhiều phương diện. Alecxei Alecxandrovitr không xem xong cuốn sách trong buổi
tối phải để đến sáng sau mới đọc nốt. Rồi đến lượt những người tới khẩn cầu và
bắt đầu những báo cáo, tiếp kiến, bổ nhiệm, bãi chức, phân phát khen thưởng,
phụ cấp, lương bổng, thư từ, tất cả công việc của những ngày "sự vụ"
như Alecxei Alecxandrovitr thường gọi, nó chiếm rất nhiều thì giờ. Sau đó, ông
lại còn có việc riêng, tiếp thầy thuốc và người quản gia của mình. Gã này không
ở lâu. Hắn chỉ trao cho Alecxei Alecxandrovitr số tiền ông cần và báo cáo vắn
tắt tình hình công việc năm đó vốn không lấy gì làm sáng sủa lắm, họ chi tiêu
rất nhiều vì đi đây đi đó và đâm hao hụt tiền nong. Nhưng ông bác sĩ, một danh
y ở Peterburg vốn là người thân tín của Alecxei Alecxandrovitr, ngồi lâu hơn.
Hôm đó, vì không dự kiến trong chương trình nên Carenin ngạc nhiên khi thấy ông
ta đến thăm và càng ngạc nhiên hơn khi thấy ông ta hỏi cặn kẽ về tình hình sức
khỏe, nghe ngực và nắn gan mình. Alecxei Alecxandrovitr không biết bà bạn thân
Lidia Ivanovna, thấy sức khỏe ông kém sút nên đã nói với bác sĩ đến thăm.
- Bác sĩ giúp tôi việc đó, - nữ bá
tước Lidia Ivanovna bảo ông ta.
- Thưa bá tước phu nhân, tôi sẽ làm
việc đó vì nước Nga, - bác sĩ trả lời.
- Ông thật là người bạn vô song! -
nữ bá tước nói.
Bác sĩ rất không hài lòng sau khi
khám bệnh. Ông thấy người bệnh bị sưng gan, thiếu dinh dưỡng và việc nghỉ ở
suối nước nóng không có tác dụng gì. Ông bắt buộc người bệnh phải hoạt động thể
lực thật nhiều và trí lực càng bớt căng thẳng càng tốt, nhất là không được
phiền muộn tí gì, nói cách khác, ông bắt làm một việc mà Alecxei Alecxandrovitr
không thể làm được, khác nào bảo ông ta đừng thở nữa, và bác sĩ đi ra, để lại
cho con bệnh cái cảm giác nặng nề là trong người mình có một bệnh gì đó không
phương thuốc nào chữa được.
Ra khỏi nhà Alecxei Alecxandrovitr,
bác sĩ gặp trên bậc thềm viên chánh văn phòng của Carenin là Xliuđin mà ông ta
rất quen. Họ trước kia là bạn học ở trường Đại học và mặc dù ít gặp nhau, họ
vẫn trọng nhau và vẫn là đôi bạn thân, do đó bác sĩ đã nói chuyện về bệnh nhân
của mình với ông ta thành thực hơn với bất cứ người nào khác.
- Tôi rất vui lòng thấy anh đã khám
cho ông ta, - Xliuđin nói. Ông ta không được khỏe và tôi thấy hình như... anh
nghĩ thế nào?
- Thế này... - bác sĩ nói và qua đầu
của Xliuđin, ông ra hiệu cha gã xà ích đánh xe lên. ừ, thế này nhé, - ông nói,
bàn tay trắng trẻo nắm lấy một ngón của chiếc găng nhẵn bóng và kéo căng ra. -
Nếu anh định dứt đứt một sợi dây mà không căng ra, thì rất khó; nhưng nếu anh
đã căng đến tột độ thì chỉ cần đặt một ngón lên cũng đủ đứt phăng. Còn ông ta,
với tính cần cù, tinh thần trách nhiệm trong công việc, ông ta đã căng đến tột
độ rồi mà bên ngoài lại có một áp lực rất mạnh, - bác sĩ kết luận, giương đôi
lông mày lên, vẻ quan trọng. - Anh có đến trường đua không? - ông hỏi thêm và
đi xuống chiếc xe đã đánh lại gần. - Phải, phải, tất nhiên, cái đó phải mất
nhiều thời giờ, - ông ta trả lời một câu gì Xliuđin nói với ông mà ông không
nghe rõ.
Sau bác sĩ đã chiếm mất khá nhiều
thì giờ, là nhà du lịch trứ danh đến gặp và Alecxei Alecxandrovitr liền sử dụng
quyển sách ông vừa đọc cùng những khái niệm sẵn có từ trước, làm nhà du lịch
phải ngạc nhiên về kiến thức uyên thâm và tầm mắt rộng rãi của ông.
Đồng thời với nhà du lịch, gia nhân
còn báo cho ông biết có vị đại biểu quý tộc của tỉnh đi ngang qua Peterburg đến
thăm, một người ông đang cần gặp để nói chuyện. Sau khi vị đại biểu quý tộc đi
rồi, ông lại phải giải quyết ngay những việc sự vụ với chánh văn phòng và còn
đến thăm một yếu nhân về một việc quan trọng nữa. Alecxei Alecxandrovitr chỉ
còn đủ thời giờ trở về ăn trưa với chánh văn phòng và mời ông ta cùng về biệt
thự rồi đến trường đua.
Dạo này vô hình chung, Alecxei
Alecxandrovitr luôn luôn tìm cách để một người thứ ba tham dự vào các cuộc gặp
gỡ giữa ông với vợ
Chương
27
Anna đang ở trên gác; đứng trước
gương, nàng đang nhờ Annusca giúp một tay đính nốt cái nơ cuối cùng vào áo dài,
thì nghe thấy tiếng bánh xe nghiến trên đá sỏi trước thềm.
"Betxi đâu có đến sớm quá thế,
nàng nghĩ và nhìn qua cửa sổ, thấy cỗ xe ngựa thò ra chiếc mũ đen và đôi tai
quá quen thuộc của chồng.
ồ! Thật rủi chưa! Mong sao lão ta
đừng ngủ lại! Nàng tự nhủ, và quá lo sợ về hậu quả có thể xảy tới của cuộc thăm
này, nàng không kịp để một phút suy nghĩ, đi ngay ra đón chồng với bộ mặt hớn
hở. Cảm thấy mình buông xuôi theo cái ý thức dối trá và mưu mẹo đã thành thông
lệ, nàng lập tức làm theo ý thức đó và bắt đầu nói mà không biết mình sẽ nói
gì.
- A! Tốt quá! - nàng nói, chìa tay
cho chồng và mỉm cười với Xliuđin vốn đã là người thân trong nhà. - Mình ngủ
lại đây đêm nay nhé? (đó là câu đầu tiên do thói mưu mẹo xui nàng nói). - Chúng
ta cùng đi bây giờ. Thật đáng tiếc là em lại chót hẹn với Betxi. Chị ấy sắp đến
đón em.
Alecxei Alecxandrovitr cau mày khi
nghe nhắc đến tên Betxi.
- ồ! Tôi đâu muốn chia rẽ đôi bạn
gắn bó keo sơn, - ông nói với giọng nhạo báng thường lệ. Tôi sẽ đi với Mikhain
Vaxiliêvich. Bác sĩ dặn phải vận động thân thể. Tôi sẽ đi bộ một quãng và tưởng
tượng như mình đang chạy đua.
- Nhưng đã vội gì đâu, - Anna nói. -
Các ông xơi trà nhé! - nàng rung chuông.
- Mang trà ra và bảo với cậu Xergei,
ông đã tới. Thế nào, sức khỏe của mình ra sao? Mikhain Vaxiliêvich, ông chưa
đến chơi đây lần nào, ông xem cái bao lơn tôi thu dọn đẹp đấy chứ, - nàng nói,
lúc với chồng, lúc với khách.
Nàng nói giản dị, tự nhiên, nhưng
quá nhiều và quá nhanh.
Nàng cũng cảm thấy thế và nhất là
trước cái nhìn tò mò của Mikhain Vaxiliêvich, nàng như thấy ông ta đang quan
sát mình.
Mikhain Vaxiliêvich, ngay sau đó, đi
ra sân thượng. Nàng ngồi xuống cạnh chồng.
- Trông nét mặt mình không được khỏe
lắm, - nàng nói.
- Phải, - ông trả lời, - hôm nay bác
sĩ có đến thăm và làm tôi mất một tiếng đồng hồ. Tôi chắc có người bạn thân nào
đó đã nhờ ông ta đến thăm: sức khỏe của tôi quý giá đến thế đấy...
- Ông ta bảo gì mình?
Nàng hỏi han chồng về sức khỏe, công
việc, khuyên nên nghỉ ngơi và đến ở với mình.
Nàng nói những điều đó một cách vui
vẻ, nhanh nhảu, và với một ánh kỳ lạ trong khoé mắt: nhưng Alecxei
Alecxandrovitr giờ đây không hề chú ý đến giọng nói đó. Ông chỉ nghe lời nói và
chỉ hiểu theo nghĩa trực tiếp. Ông trả lời giản dị mặc dầu vẫn châm biếm.
Chuyện trò không có gì đặc biệt, nhưng sau này, Anna không bao giờ nhớ tới cuộc
trao đổi ngắn ngủi đó mà không cảm thấy một nỗi hổ thẹn day dứt.
Xerioja theo bà gia sư đi vào. Giá
Alecxei Alecxandrovitr chú ý quan sát, hẳn ông sẽ nhận thấy cặp mắt rụt rè ngơ
ngác của chú bé hết nhìn bố lại quay sang mẹ. Nhưng ông không muốn thấy gì và
quả cũng không thấy gì hết.
- Thế nào, chàng trai trẻ! Nó lớn
nhỉ. Đúng thế, nó thành người lớn hẳn hoi rồi đấy. Chào chàng trai trẻ!
Và ông chìa tay cho chú bé Xergei
đang khiếp sợ.
Đứa trẻ, xưa nay, đối với bố vẫn
nhút nhát, nay lại càng tránh mặt Alecxei Alecxandrovitr từ khi ông gọi nó là
"chàng trai trẻ" và từ khi nó hoài công tự hỏi xem Vronxki là bạn hay
là thù. Nó quay về phía mẹ, như muốn cầu xin che chở. Nó chỉ thoải mái khi gần
mẹ. Alecxei Alecxandrovitr lúc đó đã bắt chuyện với bà gia sư, tay vẫn nắm lấy
vai con khiến cho Xerioja khổ sở và ngượng nghịu đến nỗi Anna tưởng như nó sắp
phát khóc.
Lúc nãy, nàng đã đỏ mặt khi thấy con
vào: bây giờ thấy nó lúng túng, nàng vội đứng dậy, nhấc tay chồng khỏi vai
thằng bé, ôm hôn và dắt nó ra sân thượng, rồi quay trở vào ngay.
- Bây giờ đến giờ rồi, - nàng nói, liếc
nhìn đồng hồ. - Không hiểu sao Betxi vẫn chưa thấy đến?
- Phải, - Alecxei Alecxandrovitr
nói, đứng dậy chắp hai tay lại bẻ khục. - Tôi mang cả tiền đến cho mình nữa, vì
chỉ có lồng sao nuôi sống nổi chim. Chắc mình cần tiền chứ?
- Không... à có! - nàng nói, không
nhìn ông và mặt đỏ dừ. - Sau cuộc đua, mình trở về đây chứ?
- Có chứ! - Alecxei Alecxandrovitr
trả lời. - Quận chúa Tverxcaia, niềm vinh dự của Peterburg kia rồi, - ông nói
thêm khi nhìn qua cửa sổ thấy cỗ xe ngựa kiểu Anh có hòm xe nhỏ xíu cất rất
cao. - Lịch sự quá! Thanh nhã quá! Thôi, ta đi.
Quận chúa Tverxcaia không xuống xe
và chỉ có tên hầu đi ghệt, mặc áo nâu và đội mũ đen, nhảy xuống trước thềm.
- Tôi ra ngay đây. Tạm biệt! - Anna
nói. Nàng ôm hôn con, đến gần Alecxei Alecxandrovitr và chìa tay cho chồng. -
Mình đến thăm thế này, thật tốt quá.
Alecxei Alecxandrovitr hôn tay nàng.
- Thôi, tạm biệt! Mình sẽ quay về
uống trà, thật là tuyệt! - nàng nói và đi ra, mặt mày hớn hở, tươi vui. Nhưng
ông vừa khuất mắt, nàng đã thấy tay gờn gợn lên ở chỗ môi chồng chạm nhẹ vào và
rùng mình ghê tởm.
Chương
28
Alecxei Alecxandrovitr đến trường
đua thì Anna đã ngồi cạnh Betxi trong khán đài có đủ mặt xã hội thượng lưu.
Nàng thấy chồng từ xa. Hai người đàn ông đó: chồng và người yêu là hai trung
tâm của đời nàng và không cần đến giác quan, nàng cũng biết chỗ nào có mặt họ.
Nàng cảm thấy từ xa chồng đang lại gần và bất giác dõi theo ông ta đang tiến
lên giữa đám đông. Nàng thấy chồng đến gần khán đài, khi lên mặt bề trên đáp
lại những cái chào vồn vã, lúc thân ái, lơ đãng bắt tay những người ngang hàng,
khi lại thấp thỏm đợi những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội đoái nhìn đến
để ngả cái mũ tròn to đang kẹp hai chỏm tai ra chào.
Nàng đã biết tất cả cái cung cách ấy
và lấy làm ghê tởm. "Tham công danh và mong ước thành đạt, tất cả tâm hồn
lão ta chỉ có thế, nàng nghĩ: những quan điểm cao thượng, lòng yêu học vấn, tôn
giáo, tất cả những cái đó chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích".
Qua cái nhìn của ông ta về phía khán
đài phụ nữ (ông nhìn đúng phía nàng, nhưng không nhận ra vợ giữa cái biển the
lụa, ruy băng, lông chim, ô, dù và hoa lá), nàng biết chồng đang tìm mình nhưng
nàng giả tảng như không thấy.
- Alecxei Alecxandrovitr! - quận
chúa Betxi gọi, ông không thấy bà nhà à? Bà ấy đây!
Ông mỉm cười, nụ cười lạnh nhạt
thường ngày.
- Mọi thứ ở đây đều lộng lẫy làm
quáng cả mắt, - ông nói và đi về phía khán đài. Ông mỉm cười với Anna như kiểu
những người chồng thường mỉm cười khi gặp lại vợ vừa chia tay với mình xong, và
chào quận chúa cùng những người quen khác theo cách tuỳ nghi đối xử:
bông đùa với phụ nữ và thăm hỏi xã
giao với đàn ông. Dưới chân khán đài, có một vị tướng phụ tá nổi tiếng thông
minh và học thức, vốn được Alecxei Alecxandrovitr trọng nể. Carenin bắt chuyện
với ông ta.
Lúc đó là giờ nghỉ giữa hai cuộc đua
nên không có gì ngăn trở họ nói chuyện. Vị tướng phụ tá chỉ trích môn thể thao
này. Alecxei Alecxandrovitr cãi lại để bênh vực, Anna nghe thấy giọng chồng nhỏ
nhẹ, đều đặn và không bỏ sót lời nào: tất cả những điều ông nói hình như đều giả
dối và làm nàng khổ tai vô cùng.
Khi cuộc đua vượt chướng ngại bắt
đầu, nàng cúi về phía trước; trong lúc dán chặt đôi mắt vào Vronxki đang bước
lại gần ngựa và nhẩy lên yên, nàng nghe thấy cái giọng chối tai của chồng nói
thao thao. Đang bồn chồn lo lắng cho Vronxki, nàng càng khổ tâm hơn vì cái
tiếng nói nhỏ nhẹ hầu như không dứt đó mà nàng đã thuộc hết mọi âm sắc.
"Mình là một con đàn bà xấu xa,
là đồ bỏ đi, nàng nghĩ, nhưng mình không thích nói dối, không chịu được sự dối
trá, còn lão ta thì sống bằng dối trá. Lão biết hết, nhìn thấy hết; lão cảm
thấy thế nào mà lại nói năng bình tĩnh như vậy được? Nếu lão giết mình, hoặc
giết Vronxki thì có lẽ mình sẽ trọng lão đấy. Nhưng đằng này, lão chỉ cần dối
trá và giữ thể diện, Anna thầm nhủ, không tự hỏi cụ thể nàng mong đợi gì ở
chồng hay muốn thấy ông ta có thái độ như thế nào.
Nàng cũng không đoán được ra rằng sự
hoạt bát của Alecxei Alecxandrovitr, điều đã làm nàng bực tức đến thế, chỉ biểu
hiện nỗi hoang mang thầm kín của ông ta mà thôi. Như đứa trẻ vừa bị vấp đang
nhảy nhót vùng vẫy để quên đau, Alecxei Alecxandrovitr cần bắt trí tuệ hoạt
động để gạt xa những ý nghĩ tất nhiên phải nảy ra khi có mặt vợ và Vronxki,
người giờ đây luôn luôn được nhắc đến tên.
- Trong các cuộc đua ngựa của sĩ
quan, nguy hiểm là một tất yếu, - ông nói. - Sở dĩ nước Anh có thể nêu lên
trong lịch sử quân sự của mình những chiến công đặc biệt oanh liệt của kị binh,
chẳng qua cũng nhờ ở sự phát triển lịch sử của sức ngựa cũng như sức người.
Theo ý tôi, thể thao có tầm quan
trọng lón và thường thường ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh bề ngoài thôi.
- Không phải bao giờ cũng là bề
ngoài đâu, - quận chúa Tverxcaia nói. - Hình như có một sĩ quan đã gẫy mất hai
xương sườn.
Alecxei Alecxandrovitr mỉm nụ cười
thường lệ chỉ để lộ hàm răng, còn ngoài ra không có ý nghĩa nào khác.
- Thưa quận chúa, ta tạm cho rằng đó
không phải là bề ngoài, mà là bề trong vậy, - ông nói. - Vấn đề không phải ở
đó, - và ông lại quay về phía vị tướng nãy giờ ông vẫn nói chuyện đứng đắn, -
ngài đừng quên những người chạy đua là sĩ quan và họ đã chọn nghề đó: mọi thiên
hướng đều có mặt trái. Cái đó trực tiếp thuộc nghĩa vụ của sĩ quan.
Một trò thể thao quái gở như đấu
quyền hoặc chọi bò mộng là dấu hiệu của dã man. Nhưng thể thao có chuyên môn
hóa là dấu hiệu của tiến bộ.
- Hừ, lần sau, tôi sẽ không đến đây
nữa, trò này chán lắm, - quận chúa Betxi nói. - Phải không, Anna?
- Phải, nhưng mà hấp dẫn, - một bà
khác nói. - Giá tôi là người La Mã, tôi sẽ đi xem tất cả mọi trò ở trường đấu.
Anna không nói gì và không rời chiếc
ống nhòm vẫn luôn dõi về một phía.
Trong lúc đó, một vị tướng người cao
lớn, đi ngang qua khán đài.
Alecxei Alecxandrovitr ngừng bặt
đứng dậy hấp tấp nhưng trang trọng và cúi rạp xuống chào.
- Ông không dự cuộc đua à? - vị
tướng hỏi đùa ông ta.
- Cuộc đua của tôi còn khó hơn, -
Alecxei Alecxandrovitr kính cẩn trả lời.
Và mặc dầu câu trả lời chẳng có ý
nghĩa gì cả, vị tướng vẫn ra vẻ thưởng thức được câu nói của một người thông
thái và hiểu thấu ý vị mặn mà của câu pha trò 1.
- Có hai quan điểm, - Alecxei
Alecxandrovitr nói tiếp: - quan điểm của người làm trò và quan điểm của người
xem. Tôi cũng công nhận sự ham thích những trò vui thuộc loại này là dấu hiệu
chắc chắn nhất về trình độ phát triển kém cỏi của khán giả, song le...
- Quận chúa, ta đánh cuộc nào! -
tiếng Xtepan Arcaditr gọi Betxi vang lên ở dưới. - Bà đặt cuộc ai thắng nào?
- Anna và tôi, chúng tôi cuộc là
hoàng thân Kudovlev thắng, - Betxi trả lời.
- Còn tôi thì Vronxki. Một đôi găng
tay nhé?
- Đồng ý!
- Tuyệt nhỉ?
Alecxei Alecxandrovitr im lặng trong
khi mọi người nói chuyện chung quanh, nhưng sau đó nói luôn:
- Tôi thừa nhận trừ phi là những trò
chơi tu mi nam tử...
Ông định nói tiếp nhưng giữa lúc đó,
có lệnh xuất phát, và mọi câu chuyện ngừng lại. Alecxei Alecxandrovitr cũng nín
lặng. Mọi người đều đứng dậy, nhìn về phía ngoài. Alecxei Alecxandrovitr không
thích đua ngựa nên không theo dõi các kị sĩ mà lơ đãng đưa mắt mệt mỏi nhìn
khán giả. Cái nhìn của ông dừng lại ở Anna.
Khuôn mặt nàng tái xanh và nghiêm
nghị. Rõ ràng nàng không thấy gì và cũng không thấy ai ngoài một người duy
nhất. Bàn tay co quắp nắm chặt lấy cái quạt, nàng nhịn cả thở. Carenin quay
phắt đi để quan sát những bộ mặt khác.
"Cái bà ở đằng kia và những
người khác cũng đều có vẻ rất hồi hộp; đó là điều hết sức tự nhiên", Alecxei
Alecxandrovitr tự nhủ. Ông cũng muốn không nhìn vợ nhưng cặp mắt lại bất giác
hướng về nàng.
Lần thứ hai, ông ngắm khuôn mặt đó,
cố tình không chịu đọc ra những cái đã phơi bày lồ lộ trên nét mặt, nhưng trái
với ý muốn, ông ghê sợ nhìn thấy ở đó chính cái điều ông muốn ngơ đi.
Cái ngã đầu tiên, cái ngã của
Kudovlev sau con ngòi, làm mọi người xúc động, nhưng bằng vào bộ mặt tái xanh
và đắc thắng của Anna, Alecxei Alecxandrovitr biết người mà vợ ông đang theo
dõi không ngã. Lúc một sĩ quan khác ngã đâm đầu tưởng chết, sau khi Makhotin và
Vronxki nhảy qua hàng rào lớn, toàn thể khán giả đều rùng mình kinh hãi thì
Alecxei Alecxandrovitr thấy Anna thậm chí không hề chú ý tới tai nạn đó và hầu
như cũng không hiểu người ta bàn tán gì chung quanh. Ông càng nhìn nàng dữ, về
sau càng riết róng hơn. Anna đang để hết tâm trí vào cảnh đua ngựa mà vẫn cảm
thấy cái nhìn lạnh lùng của chồng chằm chằm dán vào mặt mình.
Nàng quay đầu lại nhìn chồng một lát
vẻ dò hỏi và khẽ nhíu lông mày rồi trở lại tư thế cũ.
"Chà! Cần quái gì", tựa hồ
nàng muốn nói với chồng như vậy và không thèm nhìn ông ta lần nào nữa.
Cuộc đua thật không may: trong số
mười bảy kị sĩ, già nửa đã bị ngã và gẫy xương. Về cuối cuộc đua, sự xúc động
chung càng thêm mãnh liệt khi thấy Đức vua cũng tỏ vẻ bất mãn.
Chương
29
Mọi người đều la hét biểu lộ bất
bình, người ta lặp đi lặp lại câu nói do một người nào đó thốt ra: "Chỉ
còn thiếu trường đấu và sư tử nữa thôi", và ai nấy đều khiếp sợ; cho nên
khi Vronxki ngã và Anna thét lên, cái đó không làm ai ngạc nhiên. Nhưng ngay
sau đó, nàng liền biến sắc, lần này thật quá lộ liễu. Nàng hoảng hốt. Nàng
cuống cuồng như con chim mắc bẫy: khi định đứng dậy bỏ đi, khi quay lại với
Betxi.
- Ta đi thôi, đi đi thôi, - nàng nói
với quận chúa.
Nhưng Betxi không nghe thấy. Người
cúi gập xuống, bà ta đang nói chuyện với một vị tướng đến chào mình.
Alecxei Alecxandrovitr đến gần vợ và
lễ phép đưa cánh tay ra.
- Nếu mình muốn thì ta cùng về, -
ông nói bằng tiếng Pháp; nhưng Anna đang lắng nghe vị tướng nói và không nhìn thấy
chồng.
- Hình như anh ta bị gẫy chân, - vị
tướng nói. Thật không thể tưởng tượng được!
Anna không trả lời chồng, đưa ống
nhòm lên mắt và nhìn về phía Vronxki ngã ngựa, nhưng vì xa quá và người xúm lại
xem quá đông nên không nom thấy gì. Nàng hạ ống nhòm xuống và định bỏ đi; nhưng
giữa lúc đó, một sĩ quan vùn vụt phi ngựa tới, đến tâu với Đức vua. Anna cúi
xuống phía trước để lắng nghe.
- Xtiva! Xtiva! - nàng gọi anh trai.
Nhưng anh nàng không nghe thấy. Nàng
định rời khỏi khán đài.
- Nếu mình muốn đi thì đây là lần
thứ hai tôi xin đưa cánh tay để đón mình, - Alecxei Alecxandrovitr nói và khẽ
chạm vào cánh tay nàng.
Nàng né xa chồng, vẻ ghê tởm và
không nhìn thẳng vào mặt ông, nàng trả lời:
- Không, không, cứ để mặc tôi, tôi
còn ở lại.
Lúc này, nàng thấy một sĩ quan đang
từ chỗ Vronxki ngã chạy tắt qua vòng đua đến khán đài. Betxi vẫy khăn tay ra
hiệu gọi anh ta:
viên sĩ quan cho biết là kị sĩ không
bị thương nhưng con ngựa thì gẫy xương sống.
Được tin này, Anna vội ngồi xuống và
che mặt sau chiếc quạt.
Alecxei Alecxandrovitr thấy nàng
khóc và không nén được những tiếng nức nở làm ngực phập phồng. Ông liền đứng
chắn trước mặt, để che đi cho nàng có thời giờ trấn tĩnh lại.
- Lần thứ ba tôi đưa tay cho mình, -
một lát sau ông nói. Anna nhìn chồng và không biết nói gì. Betxi đến gỡ cho
nàng.
- Không, Alecxei Alecxandrovitr ạ,
chính tôi mời Anna đi và tôi đã hứa đưa chị ấy về, - bà nói xen vào.
- Xin quận chúa thứ lỗi, - ông trả
lời, lễ phép mỉm cười, nhưng nhìn bà ta một cách kiên quyết, - tôi thấy Anna
khó ở và tôi muốn cùng về với nhà tôi.
Anna quay lại, vẻ sợ hãi, ngoan
ngoãn đứng dậy và khoác tay chồng.
- Tôi sẽ cho người đến hỏi thăm tin
tức chú ấy và sẽ báo cho chị Betxi. - Betxi nói thầm với nàng.
Rời khán đài, Alecxei Alecxandrovitr
vẫn chuyện trò với những người ông gặp như không có chuyện gì xẩy ra và Anna
cũng phải trả lời và nói năng bình thường như không có chuyện gì xảy ra, nhưng
nàng không còn bụng dạ nào, cứ khoác tay chồng bước đi như trong mộng.
"Chàng có bị thương không? Họ
nói có thực không? Liệu chàng có đến không? Hôm nay liệu mình có gặp được chàng
không?", nàng nghĩ.
Nàng lặng thinh bước lên xe của
Alecxei Alecxandrovitr và ra khỏi đám xe ngựa. Tuy đã nhìn thấy hết, Alecxei
Alecxandrovitr vẫn không cho phép mình nghĩ đến tình cảnh hiện tại của vợ. Ông
chỉ thấy dấu hiệu bề ngoài thôi. Ông thấy nàng đã có những hành vi chướng mắt
và thấy bổn phận mình phải báo cho nàng biết điều đó.
Nhưng điều rất khó cho ông là chỉ
được nói có thế, không hơn. Ông mở miệng định nhận xét là nàng đã xử sự vô lối,
nhưng lại phải miễn cưỡng nói khác hẳn.
- Sao chúng ta lại có thể thích thú
đến thế những trò vui tàn ác ấy nhỉ, - ông nói. - Tôi thấy là...
- Sao kia? Tôi không hiểu, - Anna
nói, giọng khinh bỉ.
- Tôi phải nói với mình là... - ông
nói.
"Sắp nói thẳng ra đây",
nàng nghĩ và bỗng sợ hãi.
- Tôi phải nói với mình là hành vi
hôm nay của mình thật không phải cho lắm, - ông nói bằng tiếng Pháp.
- Không phải ở chỗ nào? - nàng lớn
tiếng cãi, quay ngoắt đầu lại và nhìn thẳng vào mắt chồng, lần này không phải
với thái độ vui vẻ trí trá, mà với một vẻ quả quyết nhằm che giấu nỗi sợ trong
lòng.
- Cẩn thận đấy, - ông nói và chỉ
chiếc cửa kính đã hạ xuống sau lưng xà ích.
Ông nhỏm dậy và kéo kính lên.
- Mình thấy cái gì là không phải? -
nàng nhắc lại.
- Vẻ hốt hoảng mình không giấu được
khi có một kị sĩ ngã ngựa.
Ông chờ nàng đáp lại, nhưng nàng chỉ
nhìn về phía trước, không nói gì.
- Tôi đã yêu cầu mình ở nơi đông
người phải xử sự thế nào cho kẻ xấu miệng không có gì để chỉ trích ta được. Đã
có dạo tôi nói về quan hệ nội bộ trong nhà với nhau, nay tôi không nói đến nữa.
Bây giờ tôi nói đến những quan hệ bên ngoài. Mình đã xử sự không thích đáng và
tôi mong từ nay không xảy ra thế nữa.
Lời chồng nói, nàng không nghe được
đến một nửa, nàng thấy sợ ông nhưng lại tự hỏi có đúng Vronxki không bị thương
không. Khi họ nói người kị mã vẫn lành lặn nhưng con ngựa thì gẫy xương sống,
có phải là nói về chàng không. Khi chồng nói dứt lời, nàng chỉ gượng cười mỉa
mai và không trả lời vì không hề nghe thấy gì cả. Alecxei Alecxandrovitr vừa
nãy mạnh dạn khơi chuyện, nhưng khi đã hiểu rõ vấn đề mình nói, thì nỗi sợ nàng
đang cảm thấy liền lan sang ông.
Ông nhận thấy nụ cười đó và đâm ra
hiểu lầm một cách kỳ quặc.
"Cô ta cười mình ghen bóng ghen
gió. Phải, cô ấy sẽ nhắc lại điều đã nói với mình lần trước: những mối ngờ vực
của mình là vô căn cứ, là lố bịch".
Giờ đây, trước nguy cơ phải thấy mọi
sự phanh phui ra, ông không ao ước gì hơn là được thấy nàng trả lời bằng cái
giọng chế giễu như trước rằng điều ông ngờ vực là lố bịch và vô căn cứ. Những
điều ông biết khủng khiếp đến nỗi lúc này, ông sẵn sàng tin bất cứ cái gì.
Nhưng nhìn vẻ mặt sợ hãi và tối sầm
của Anna, ông không còn hy vọng gì nữa dù chỉ là một lời dối trá.
- Có lẽ tôi lầm, - ông nói. - Nếu
vậy xin mình thứ lỗi cho tôi.
- Không, mình không lầm đâu, - nàng
thong thả nói, tuyệt vọng nhìn vào bộ mặt lạnh lùng của chồng. - Mình không lầm
đâu. Tôi đã hốt hoảng và tôi không thể không hốt hoảng. Nghe mình nói, tôi lại
nghĩ tới chàng. Tôi yêu chàng, tôi là người yêu của chàng, tôi không chịu nổi
mình, mình làm tôi sợ, tôi ghét mình... Mình muốn làm gì tôi thì làm. - Và gieo
mình vào góc xe, nàng oà lên nức nở và lấy tay che mặt.
Alecxei Alecxandrovitr không chớp
mắt, không nhìn đi nơi khác, nhưng cả bộ mặt đột nhiên đờ ra trang nghiêm như
mặt người chết và giữ nguyên vẻ đó suốt đoạn đường còn lại. Khi gần về tới biệt
thự, ông mới quay bộ mặt vẫn không đổi sắc thái về phía nàng.
- Được! Nhưng tôi yêu cầu cô bề
ngoài phải giữ thể diện cho đến khi nào (giọng ông run lên) tôi có biện pháp
bảo toàn danh dự của tôi, những biện pháp mà tôi sẽ báo cho cô biết sau.
Ông xuống trước và đỡ nàng xuống xe.
Trước mặt gia nhân, ông bắt tay nàng, rồi lại lên xe quay về Peterburg. Ông vừa
đi khỏi thì một người hầu của quận chúa Betxi đã đưa lại cho Anna một bức thư:
"Tôi đã cho người đến hỏi tin
tức Alecxei, chú ấy viết giấy cho biết vẫn khỏe mạnh lành lặn, nhưng đang khổ
sở vô cùng...!" "Vậy là chàng sẽ đến, nàng nghĩ. Mình nói hết với lão
ta như thế là phải!". Nàng xem đồng hồ. Hãy còn ba giờ nữa và nhớ lại từng
chi tiết cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa hai người, lòng nàng lại cháy bùng lên.
"Lạy Chúa, trời sáng quá! Thật
ghê sợ, nhưng mình thèm được thấy mặt chàng và mình thích cái ánh sáng huyền
hoặc này... Chồng mình! à phải!... Cũng may, thế là mình đã dứt khoát với lão
ta!".
Chương
30
Thành phố nhỏ ở suối nước khoáng ở
Đức mà gia đình nhà Serbatxki đến nghỉ cũng giống mọi nơi đô hội khác: ở đây
cũng hình thành một sự kết tinh của xã hội, quy định cho mỗi người một vị trí
nhất định và không thay đổi. Như giọt nước gặp lạnh tất đông lại thành tinh thể
tuyết rõ hình, những người mà đến đây tắm suối cũng được sắp xếp luôn theo ngôi
thứ phù hợp.
Quận công Serbatxki cùng vợ và con
gái 1, do căn phòng họ ở, do tên tuổi và giới giao du của họ, lập tức được mời
đúng vào vị trí dành cho họ.
Năm ấy, ở suối nước khoáng, còn có
một quận chúa 2 người Đức chính cống, một sự kiện góp phần làm cho sự kết tinh
xã hội ở đây càng thêm triệt để. Quận công phu nhân Serbatxki nằng nặc muốn
giới thiệu con gái mình với bà kia và ngay sau hôm họ vừa đến, lễ ra mắt đã
được tiến hành. Kitti mặc chiếc áo mùa hè "hết sức giản dị", nghĩa là
rất sang trọng, đặt may tận Pari, đã cúi chào kính cẩn và duyên dáng. Bà quận
chúa nói: "Tôi mong hoa hồng sẽ sớm nở lại trên khuôn mặt xinh xắn đáng
yêu này" và thế là gia đình Serbatxki cứ theo vết bánh xe đó không sao
thoát ra được nữa. Họ làm quen với một gia đình người Anh, với một nữ bá tước 3
người Đức cùng con trai bị thương trong cuộc chiến tranh vừa qua, với một nhà
bác học người Thụy Điển, với ông Canuyt 4 và em gái ông ta. Nhưng gia đình
Serbatxki năng lui tới nhất một bà người Moxcva, bà Maria Epghêniepna Rtisep
cùng con gái (mà Kitti không ưa vì cô này cũng bị ốm vì thất tình như cô) và
một đại tá người Moxcva mà từ hồi nhỏ, Kitti đã thấy ông mặc quân phục có ngù
vai, và ở đây, với đôi mắt ti hí và cái cổ hở thắt ca vát màu, trông ông hết
sức lố bịch và chán phèo vì cái thói cứ bám nhằng nhẵng lấy người ta. Khi mọi
thứ đã đâu vào đấy rồi, Kitti lại càng buồn chán vì quận công đi Kaclơxbat và
cô phải ở lại một mình với mẹ. Cô không quan tâm đến những người quen biết, vì
thấy không còn tìm được ở họ cái gì mới mẻ. Công việc trí óc chủ yếu của cô là
quan sát những người không quen và phỏng đoán về họ. Do bản tính, Kitti bao giờ
cũng gán cho người khác, nhất là người không quen, những đức tính tốt đẹp nhất.
Bây giờ cũng vậy, khi dựng lên những giả thiết về quan hệ giữa người này với
người kia và về tính tình họ, cô hình dung ra những tâm hồn cao thượng, và tìm
lí lẽ xác minh điều mình nhận xét.
Trong bọn, có một người khiến cô chú
ý nhất là một thiếu nữ cùng đến với một bà người Nga mà mọi người gọi là bà
Stan. Bà này thuộc tầng lớp thượng lưu bậc nhất, nhưng ốm yếu đến nỗi không
bước đi nổi và họa hoằn gặp ngày đẹp trời lắm, bà ta mới ngồi chiếc xe nhỏ đi
ra ngoài. Bà không đi lại với người Nga và phu nhân quả quyết đó chủ yếu là vì
bà ta kiêu kỳ chứ không phải vì ốm. Cô gái chăm sóc bà Stan và ngoài ra, Kitti
còn thấy cô ta hay lại gần tất cả những người ốm nặng, vốn rất đông ở suối nước
này, và chăm sóc họ rất tự nhiên.
Theo Kitti nhận xét, cô gái này
không có họ hàng gì với bà Stan, và cũng không phải là hộ lí ăn lương. Bà Stan
gọi cô ta là Varenca và mọi người thì gọi là "tiểu thư Varenca".
Ngoài cái thú tìm hiểu quan hệ giữa cô gái với bà Stan và với những người khác
mà cô không quen, Kitti - chuyện đời vẫn thế - còn có một mối thiện cảm không
cắt nghĩa được với tiểu thư Varenca và qua cái nhìn trao đổi với nhau, cô cảm
thấy cô gái cũng mến mình.
Tiểu thư Varenca không còn trẻ măng,
nhưng có thể nói cô ta thuộc loại người không có tuổi; có thể đoán cô ấy mười
chín hay ba mươi tuổi cũng được. Nhìn kỹ nét mặt thì mặc dầu xanh xao ốm yếu,
người ta vẫn thấy cô xinh đẹp chứ không xấu. Thân hình cô đáng lẽ rất đẹp nếu
không gầy quá và cái đầu không mất cân đối với vóc dáng tầm thước, nhưng chắc
cô chẳng hấp dẫn gì với nam giới. Cô giống bông hoa đẹp còn nguyên cánh nhưng
tàn rồi và không hương. Hơn nữa, để làm đẹp lòng nam giới, cô còn thiếu cái
chất tràn đầy ở Kitti:
sinh lực dào dạt phải nén bớt lại và
ý thức về sức quyến rũ của mình.
Cô ta lúc nào cũng như mải mê vào
những nhiệm vụ nghiêm túc và do đó, hình như không thể bận tâm vào chuyện gì
khác. Chính sự trái ngược này với Kitti đã hấp dẫn cô nhiều nhất. Cô cảm thấy
có thể thấy trong cuộc đời cô gái này một mẫu mực mà cô đang chịu bao đau khổ
để tìm bằng được: những quan tâm, một nhân cách khác hẳn những quan hệ đàng
điếm giữa thanh niên nam nữ bây giờ, nó đã làm cô rất bất bình và có cảm tưởng
mình chỉ là món hàng trưng bày nhục nhã để đợi khách mua. Càng nhận xét người
bạn không quen biết này, Kitti càng đinh ninh cô gái ấy chính là con người hoàn
thiện cô vẫn hình dung và càng mong muốn được làm quen.
Ngày nào hai cô cũng gặp nhau nhiều
lần, và mỗi lần, mắt Kitti đều như nói: "Cô là ai? cô là người thế nào? Có
thật cô đúng là con người đáng yêu tôi hằng tưởng tượng không? Nhưng lạy Chúa,
cô đừng tưởng tôi sẽ chạy đến quỳ dưới chân cô, cái nhìn như nói thêm.
Tôi phục cô, thế thôi, và tôi yêu
cô" "Tôi cũng thế, tôi yêu cô, và cô thật đáng yêu, rất đáng yêu. Và
tôi còn yêu cô hơn nhiều nếu tôi có thời giờ", cái nhìn của cô gái không
quen đáp lại. Và quả thật, Kitti thấy cô ta bao giờ cũng bận: hoặc đưa bọn trẻ
một gia đình người Nga từ chỗ tắm về, hoặc đem chăn phủ chân cho một nữ bệnh nhân
và đắp chân cho bà ta, hoặc cố làm nguôi một bệnh nhân cáu kỉnh, hoặc giả nữa,
đi chọn và mua báng ngọt cho một bện nhân ăn lót dạ.
ít lâu sau khi gia đình Serbatxki
đến đây, cứ vào giờ điều trị buổi sáng, lại xuất hiện hai nhân vật khiến ai nấy
đều phải chú ý nhưng không có thiện cảm gì. Một người rất cao lớn lưng hơi gù,
hai bàn tay to tướng, mặc áo bành tô cũ quá ngắn và cặp mắt đen trông vừa ngây
ngô vừa đáng sợ, và một người đàn bà cũng dễ coi, hơi rỗ hoa, nhưng ăn mặc
xoàng xĩnh và quê kệch. Nhận ra họ là người Nga, Kitti liền bắt đầu tưởng tượng
ra một câu chuyện diệu kỳ và cảm động về họ.
Nhưng phu nhân, sau khi được nữ y tá
cho biết đó là Nicolai Levin và Maria Nicôlaiepna bèn bảo cho Kitti biết gã
Levin này là một người hết sức tồi tệ và thế là bao nhiêu mộng đẹp xây quanh
cặp uyên ương biến mất. Chẳng phải chỉ vì mẹ nói, mà còn vì đó là anh trai
Levin nữa, nên Kitti bỗng thấy họ khả ố. Gã Levin này, với thói quen ngoẹo cổ
đột ngột, giờ đây gây cho cô nỗi kinh tởm không sao dẹp nổi.
Cô tưởng như thấy một vẻ căm thù
nhạo báng trong cặp mắt to dữ tợn của hắn một mực dõi theo cô hoài và cô tránh
gặp hắn.
--------------------------------
1 Fiirst Chtcherbatski sammt G
emahlin und Tochter (tiếng Đức trongnguyên bản).
2 Farstin (tiếng Đức trong nguyên
bản).
3 Grafin (tiếng Đức trong nguyên
bản).
4 Monsieur Canut (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
31
Hôm ấy trời xấu; mưa tầm tã suốt
sáng, và bệnh nhân cầm ô đứng tụ tập trong hành lang.
Kitti đi với mẹ và ông đại tá người
Moxcva diện chiếc áo vét tông kiểu Âu may sẵn vừa mới mua ở Frăngfua. Họ đi men
theo một bên hành lang, cố tránh gặp Levin đang đi đi lại lại ở phía bên kia.
Varenca mặc áo dài sẫm, đầu đội mũ
cụp vành, đang đi bách bộ dọc hành lang cạnh một phụ nữ mù người Pháp, và mỗi
lần gặp Kitti, hai cô lại nhìn nhau thân thiện.
- Mẹ ơi, con nói chuyện với cô ấy
được không? - Kitti hỏi và nhìn cô bạn chưa quen đó, thấy cô ta đã tới gần suối
nước và hai người có thể gặp nhau ở đấy.
- Con đã thích nói chuyện với cô ấy
như thế nào thì cũng được, để mẹ hỏi thêm về cô ta và mẹ sẽ đích thân đến gặp
cô ta, - bà mẹ đáp. - Con thấy cô ấy có gì đặc biệt? Chắc cô ta là một tuỳ nữ.
Nếu con muốn thì mẹ sẽ làm quen với bà Stan. Trước kia, mẹ có quen chị dâu 1 bà
ta, - phu nhân nói thêm và ngẩng cao đầu kiêu hãnh.
Kitti biết mẹ tự ái vì xem vẻ bà
Stan tránh không muốn làm quen với mình. Cô không năn nỉ nữa.
- Cô ấy đáng yêu thật! - cô nói khi
thấy Varenca đưa cho bà người Pháp cốc nước. Mẹ xem, việc gì cô làm cũng rất
giản dị và dễ thương.
- Con làm mẹ chết cười vì những cái
ham mê 2 của con. Thôi, ta lánh ra thì tốt hơn, - bà nói khi thấy Levin cùng vợ
và một bác sĩ người Đức đi tới, anh ta đang to tiếng với bác sĩ, giọng tức tối.
Họ vừa quay lại thì nghe thấy, không
phải là giọng trò chuyện nữa, mà là tiếng quát tháo. Levin đứng lại, thét lên
và đến lượt ông bác sĩ cũng nổi nóng. Có mấy người xúm quanh họ. Phu nhân và
không vội lánh đi, còn ông đại tá liền nhập vào đám đông để xem đã xảy ra
chuyện gì.
Mấy phút sau, ông đại tá đuổi kịp
hai mẹ con.
- Có chuyện gì thế? - phu nhân hỏi.
- Thật là sỉ nhục và khả ố! - ông
đại tá đáp. - Không có gì khó chịu hơn là phải gặp người Nga ở nước ngoài. Cái
tay cao lớn kia cãi lộn với bác sĩ, nói bậy nói bạ, trách bác sĩ không chăm sóc
cẩn thận, và còn vung gậy lên. Thật là sỉ nhục, không hơn không kém.
- Chao! Thật là bực mình! - phu nhân
nói. - Thế rồi câu chuyện ra sao?
- Cũng may lúc bấy giờ... cái cô đội
mũ hình nấm ấy xen vào can thiệp. Hình như là phụ nữ Nga thì phải, - ông đại tá
nói.
- Tiểu thư Varenca phải không? -
Kitti hỏi, vô cùng vui sướng.
- ừ phải đấy. Cô ta là người đầu
tiên đứng ra nắm lấy cánh tay hắn và lôi đi.
- Mẹ thấy chưa, mẹ! - Kitti bảo mẹ.
- Thế mà mẹ lấy làm lạ khi thấy con nhiệt tình với cô ấy như vậy.
Hôm sau, khi chăm chú theo dõi cô
bạn không quen, Kitti thấy tiểu thư Varenca vẫn đối xử với vợ chồng Levin hệt
như với những người khác được cô bảo trợ 3. Cô tìm đến chuyện trò với họ, làm
phiên dịch cho người vợ vốn không biết thứ tiếng ngoại quốc nào.
Kitti càng khẩn khoản xin phép mẹ
được làm quen với Varenca.
Tuy khó chịu vì phải cầu thân với bà
Stan trong lúc bà này vẫn lên mặt, phu nhân vẫn dò hỏi về Varenca, và những chi
tiết được cung cấp khiến phu nhân có thể kết luận rằng không có gì hổ thẹn, nếu
không phải là rất đáng hãnh diện, trong việc giao du với cô gái, thế là bà bắt
đầu làm quen trước. Chọn lúc con gái đang ở ngoài suối và Varenca còn đứng lại
trước hiệu bánh, phu nhân đến gặp cô ta.
- Cho phép tôi được giới thiệu, - bà
nói với một nụ cười trang trọng. - Con gái tôi mê mẩn vì cô. Có lẽ cô không
biết tôi là ai. Tôi...
- Thưa phu nhân, về phần cháu, cháu
còn mê tiểu thư hơn nữa kia ạ, - Varenca nhanh nhảu đáp.
- Hôm qua, cô đã làm một nghĩa cử
lớn với người đồng hương khốn khổ của chúng ta, - phu nhân nói.
Varenaka đỏ mặt.
- Cháu cũng không nhớ nữa; hình như
cháu không làm được gì cả, - cô nói.
- Có đấy chứ, cô đã giúp ông Levin
ấy tránh khỏi rầy rà.
- à, có thế ạ! Bà vợ ông ta 4 gọi
cháu và cháu đã cố làm ông ta nguôi giận: ông ấy ốm quá và bất mãn với bác sĩ.
Cháu quen chăm nom loại bệnh nhân như vậy rồi.
- Tôi nghe nói cô ở Mentôn với dì cô
là bà Stan. Tôi quen chị dâu bà ta.
- Không phải dì cháu đâu ạ. Cháu gọi
bà là mẹ 5 nhưng cháu không có họ với bà, bà ấy đã nuôi cháu, - Varenca đáp và
lại đỏ mặt.
Cô ta nói điều đó rất giản dị, vẻ
mặt cởi mở và chân thật một cách duyên dáng đến nỗi phu nhân chợt hiểu tại sao
Kitti lại yêu thích cô Varenca này.
- Cái ông Levin ấy định sẽ làm gì? -
phu nhân hỏi.
- Ông ấy sắp đi rồi, - Varenca đáp.
Vừa lúc ấy, Kitti ở ngoài suối về.
Thấy mẹ đã bắt chuyện với cô bạn không quen, mặt cô rạng rỡ lên.
- Này, Kitti con vẫn tha thiết muốn
được biết tiểu thư...
- Varenca, - cô gái nhắc bà; - mọi
người đều gọi cháu như vậy.
Kitti, mặt đỏ bừng sung sướng, lặng
lẽ siết chặt hồi lâu bàn tay người bạn mới và cô này để yên tay mình không bóp
trả lại. Nhưng mặt tiểu thư Varenca sáng lên một nụ cười hiền dịu, vui tươi tuy
hơi rầu rầu, để lộ hàm răng to nhưng đẹp.
- Chính tôi cũng muốn có quan hệ thế
này từ lâu rồi, - cô ta nói.
- Nhưng chị bận quá...
- ồ, trái lại, tôi chả có việc gì
làm cả, - Varenca nói; nhưng ngay lúc đó, cô phải chia tay các bạn mới của
mình, vì có hai cô bé người Nga, con một bệnh nhân, chạy tới.
- Cô Varenca ơi, mẹ gọi! - chúng kêu
lên.
Và Varenca đi theo chúng.
--------------------------------
1 Belle sour (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
2 Engouements (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
3 Protégés (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
4 Sa compagne (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
5 Maman (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
Chương
32
Đây là những điều phu nhân được biết
về quá khứ của Varenca, về quan hệ của cô với bà Stan và về bà này.
Về bà Stan, có người nói bà là người
vô hạnh nên đã làm khổ chồng, trong khi kẻ khác lại trách chồng bà y như thế,
bà ta luôn luôn ở trong trạng thái kích động bệnh hoạn. Sau khi bỏ chồng, bà ta
đẻ đứa con đầu lòng, nhưng thằng bé chết ngay và bố mẹ bà Stan, biết bà dễ xúc
động, sợ tin đó làm hại đến tính mạng bà, bèn lấy con gái người đầu bếp trong
triều đình, đẻ cùng đêm trong cùng một nhà ở Peterburg, thay vào. Đứa bé đó là
Varenca. Sau này bà Stan mới biết Varenca không phải con mình nhưng vẫn tiếp
tục nuôi. Vả chăng ít lâu sau, Varenca cũng chỉ còn lại một mình trên đời.
Bà Stan sống ở nước ngoài trên mười
năm nay, không rời khỏi giường. Có người nói bà ta giả bộ đức hạnh và ngoan đạo
cao độ trước mắt thiên hạ; người lại bảo bà ta thật sự là người đức hạnh cao
cả, đúng như vẻ bề ngoài, và bà chỉ sống để làm điều thiện cho đồng loại.
Chẳng ai biết bà theo Công giáo, Tin
lành hay Chính giáo, nhưng có điều chắc chắn là bà thân cận với những nhân vật
cao cấp nhất của tất cả các giáo hội và giáo phái.
Varenca cùng ở với bà: những ai biết
bà Stan đều biết và yêu "tiểu thư Varenca".
Sau khi biết mọi chi tiết này, phu
nhân thấy việc con gái mình và Varenca gần gũi nhau không có gì đáng trách, hơn
nữa, Varenca lại được giáo dục rất tốt: cô nói tiếng Anh và tiếng Pháp rất
thạo, và nhất là cô đã chuyển lời bà Stan tới phu nhân tỏ ý rất tiếc vì bệnh
tật mà không được may mắn đi lại với bà.
Sau khi làm quen với Varenca, Kitti
càng mê mẩn cô bạn và mỗi ngày lại tìm thấy ở bạn những ưu điểm mới.
Phu nhân nghe nói Varenca tốt giọng,
bèn mời cô đến hát chơi ở nhà một tối.
- Kitti sẽ đánh dương cầm; nhà có
chiếc dương cầm không tốt lắm, nhưng chúng tôi rất vui sướng được đón tiếp cô,
- phu nhân nói với nụ cười gượng gạo làm Kitti càng khó chịu, vì lúc đó cô thấy
Varenca không muốn hát. Nhưng tối hôm ấy Varenca vẫn tới, đem theo cuốn sách
nhạc. Phu nhân mời cả Maria Epghêniepna, con gái bà ta và ông đại tá.
Varenca không e ngại gì khi thấy có
người lạ và tiến lại gần dương cầm. Cô không biết tự đệm đàn nhưng xướng âm rất
khá. Kitti vốn chơi dương cầm rất cừ, đệm cho cô.
- Cô thật có tài năng xuất sắc, -
phu nhân bảo cô, - sau bài đầu tiên mà Varenca hát khá hay.
Bà Maria Epghêniepna và con gái cám
ơn và khen cô.
- Tiểu thư nhìn xem: bao nhiêu là
thính giả đang tụ tập để nghe tiểu thư hát kìa, - ông đại tá nhìn ra cửa sổ
nói.
Quả nhiên có khá đông người tụ tập
dưới các cửa sổ.
- Tôi rất sung sướng đã làm vui lòng
các vị, - Varenca trả lời giản dị.
Kitti kiêu hãnh nhìn bạn. Cô khâm
phục cả nghệ thuật, giọng hát lẫn bộ mặt của bạn, nhưng cô thích nhất vì thái
độ: Varenca rõ ràng coi giọng hát mình là bình thường và hoàn toàn dửng dưng
trước những lời khen. Cô hình như chỉ muốn hỏi: "Có cần hát nữa hay thôi?".
"Nếu là mình thì mình sẽ rất tự
phụ, Kitti nghĩ bụng. Mình sẽ sung sướng biết bao khi thấy cả đám đông kia đứng
dưới cửa sổ.
Nhưng điều đó đối với chị ấy cũng
thường thôi. Chị ấy hát chỉ vì không muốn từ chối ai và để mẹ mình vui lòng. Có
cái gì trong con người chị ấy nhỉ? Cái gì đã đem lại cho chị ấy khả năng coi
thường tất cả, giữ được bình tĩnh, độc lập? Minh rất muốn biết và học chị ấy
điều đó!", Kitti thầm nghĩ trong khi ngắm khuôn mặt bình thản ấy.
Phu nhân đề nghị Varenca hát nữa và
Varenca lại hát bài thứ hai cũng chính xác, rành rọt và hoàn hảo như bài đầu,
cô đứng cạnh dương cầm, bàn tay gầy, rám nắng, đung đưa đánh nhịp.
Bài tiếp theo trong cuốn sách là bài
hát ý. Kitti chơi đoạn nhạc dạo và quay sang bạn.
- Bỏ bài này đi, - Varenca đỏ mặt
nói.
Cặp mắt ngỡ ngàng và dò hỏi của
Kitti dừng lại trên khuôn mặt Varenca.
- Hát bài khác vậy, - cô vội nói,
giở sang trang và hiểu ngay bài hát kia có dính dáng tới một kỷ niệm nào đấy.
- Thôi được, - ta cứ hát bài này, -
Varenca đặt tay lên bản nhạc, mỉm cười nói. Rồi cô hát, cũng bình tĩnh, thản
nhiên và hay như các bài khác.
Khi hát xong, mọi người lại cảm ơn
cô và đi uống trà. Kitti và Varenca ra vườn nhỏ cạnh nhà.
- Bài hát vừa rồi có dính dáng đến
một kỷ niệm của chị phải không? - Kitti nói. Chị đừng kể lại gì cả, chỉ cần trả
lời có đúng thế không, - cô vội nói thêm.
- Tại sao lại đừng? Tôi có thể kể
cho chị nghe được lắm! - Varenca trả lời giản dị; và không đợi bạn nói, cô
tiếp: - Vâng, đây là một kỷ niệm xưa kia đã làm tôi khổ tâm. Tôi yêu một người
và đã hát bài đó cho chàng nghe.
Kitti mở to mắt nhìn bạn, không nói
gì, vẻ cảm động.
- Tôi yêu chàng và chàng yêu tôi;
nhưng mẹ chàng phản đối không cho chúng tôi cưới, và chàng đã đi lấy người
khác. Bây giờ chàng ở không xa đây lắm và thỉnh thoảng tôi vẫn gặp. Chắc chị
không ngờ tôi cũng có chuyện tình phải không? - cô nói và khuôn mặt xinh xắn ấy
bỗng rực lên cái ánh lửa mà theo cảm giác của Kitti chỉ cốt vừa lòng mẹ. - Anh
ấy thật nhẫn tâm!
- Ô! Không phải đâu, anh ấy là người
rất tốt, và tôi không đau khổ đâu. Trái lại, tôi rất sung sướng. Thế nào, hôm
nay ta thôi không hát nữa chứ? - cô nói thêm và đi về phía nhà.
- Chị tốt quá, chị tốt quá! - Kitti
thốt lên và giữ bạn lại, ôm hôn bạn. - Ước gì em giống chị, dù chỉ một ít thôi!
- Tại sao chị lại muốn giống người
khác? Chị cứ như chị hiện nay là tốt lắm rồi, - Varenca nói, mỉm cười dịu dàng
và uể oải.
- Không, em không tốt chút nào hết.
Nhưng, chị hãy nói em nghe...
Khoan đã, ta hãy ngồi xuống, Kitti
nói và kéo bạn ngồi cạnh trên ghế dài. - Chị hãy nói em hay, phải nghĩ rằng một
người đàn ông đã rẻ rúng, đã từ chối mối tình của mình, như thế có nhục không?
- Chàng không rẻ rúng mối tình của
tôi đâu! Tôi cho là chàng vẫn yêu tôi, nhưng chàng là người con có hiếu với mẹ.
- Được, nhưng nếu không phải vì vâng
lời mẹ mà là tự ý anh ta thì sao?... - Kitti nói, cảm thấy mình đang thổ lộ tâm
sự thầm kín và bộ mặt bừng bừng xấu hổ đã tố giác cô.
- Nếu vậy chàng đã hành động sai và
tôi không tiếc thương gì nữa, - Varenca đáp, và hiển nhiên cô hiểu đây không
phải chuyện mình nữa mà là chuyện Kitti.
- Nhưng còn sự xúc phạm? - Kitti
nói. - Làm sao quên là mình đã bị xúc phạm, - cô nói, nhớ lại cái nhìn của
chàng trong đêm khiêu vũ cuối cùng, lúc ngừng tiếng nhạc.
- Xúc phạm về mặt nào? Chị cư xử
không có gì sai lầm chứ?
- Còn tồi tệ hơn nữa kia... thật là
nhục nhã.
Varenca lắc đầu và đặt tay lên tay
Kitti 1.
- Nhục ở chỗ nào? - Varenca nói. -
Không phải chị đã đi nói với một kẻ vô tình rằng chị yêu hắn đấy chứ?
- Tất nhiên là không! Em không hề
nói một lời, nhưng người ấy vẫn hiểu. Không, không: có những cái nhìn, những cử
chỉ... Giá em sống đến trăm tuổi cũng không sao quên được.
- ồ, quả tình, tôi không hiểu đấy,
vấn đề là bây giờ chị còn yêu anh ấy nữa hay không? - Varenca nói, gọi đích
danh sự việc ra.
- Em căm ghét anh ta, em không thể
tự tha thứ cho mình đã...
- Thế rồi sao?
- Nhưng còn sự hổ thẹn, sự xúc phạm?
- Chao! Nếu như phụ nữ ai cũng dễ
xúc động như chị! - Varenca nói. - Không có thiếu nữ nào không trải qua nông
nỗi ấy. Và mọi chuyện đó cũng không quan trọng đến thế đâu.
- Vậy thì cái gì mới là quan trọng?
- Kitti nói, ngạc nhiên tò mò nhìn vào mặt bạn.
- à, nhiều thứ lắm! - Varenca mỉm
cười nói.
- Gì kia?
- à, còn nhiếu thứ quan trọng hơn, -
Varenca đáp, không biết nói thế nào cho phải. Nhưng vừa lúc ấy, phu nhân gọi to
ở cửa sổ.
- Kitti, trời lạnh đấy! Con lấy khăn
mà choàng hay về buồng đi.
- Phải đấy, đến giờ rồi! - Varenca
nói và đứng dậy. - Tôi còn phải ghé qua bà Béc; bà ấy có nhắn tôi đến.
Kitti nắm tay bạn và đôi mắt như dò
hỏi với một vẻ cuồng nhiệt, van vỉ: "Cái gì vậy, vậy thì cái gì là quan
trọng nhất và đã khiến chị có thể thanh thản đến thế kia? Chị nắm được điều ấy.
Nói cho em biết với!". Nhưng Varenca không hiểu cái nhìn của Kitti muốn
hỏi gì. Cô chỉ nhớ còn phải qua nhà bà Béc và về đúng giờ để pha trà cho mẹ lúc
nửa đêm. Cô vào nhà, xếp lại cuốn sách nhạc và định đi, sau khi cáo từ từng
người.
- Cho phép tôi được tiễn cô, - ông
đại tá nói.
- Phải đấy, không thể để cô về một
mình được đâu. Khuya rồi! - phu nhân nhấn mạnh thêm. - ít ra tôi cũng phải cho
Parasa đưa cô về.
Kitti thấy Varenca gắng lắm mới nén
nổi một nụ cười khi nghe thấy người ta định tiễn mình.
- Thôi ạ, xưa nay cháu vẫn đi một
mình và chưa bao giờ xảy ra việc gì, - cô cầm mũ nói. Rồi sau khi hôn Kitti lần
nữa và vẫn không nói rõ cái gì là quan trọng nhất với dáng đi nhanh nhẹn, tay
cắp cuốn sách nhạc, cô đi sâu vào bóng tối nhờ nhờ của đêm hè, đem theo bí
quyết đã đem lại cho cô vẻ thanh thản và phẩm cách đáng để mọi người thèm muốn.
--------------------------------
1 Câu này trong bản Pháp văn của
Sylvie Luneau, và do đó, bản dịch tiếng Việt in lần thứ nhất để sót.
Chúng tôi đối chiếu nguyên bản thêm
vào
Chương
33
Kitti làm quen với bà Stan, và quan
hệ của cô với bà ta, cũng như tình bạn với Varenca, không những có ảnh hưởng
lớn mà còn làm khuây khoả nỗi buồn của cô. Nhờ tình bạn ấy, cô khám phá ra một
thế giới hoàn toàn mới không giống chút nào với quá khứ của cô; một thế giới
thanh cao, tuyệt diệu, đứng trên đó ta có thể bình tĩnh ngắm lại quá khứ. Cô
khám phá ra là ngoài cuộc sống bản năng mà trước nay cô vẫn tự buông trôi theo,
còn có đời sống tinh thần nữa. Người ta đi vào cuộc đời đó bằng con đường tôn
giáo, nhưng là một thứ tôn giáo không giống chút nào với thứ tôn giáo Kitti
được biết từ hồi thơ ấu, quanh quẩn chỉ có nghĩa là đi dự các buổi lễ chầu và
lễ thức ở Nhà Cứu tế quả phụ, ở đấy có thể gặp người quen và phải học thuộc
lòng những đoạn văn tiếng Xlav cổ với linh mục nhà thờ; đây là thứ tôn giáo cao
thượng huyền bí, gắn liền với những tư tưởng và tình cảm cao cả: không những có
thể tin vì đó là điều bắt buộc, mà còn có thể yêu thứ tôn giáo này.
Kitti hiểu tất cả điều dó không phải
qua ngôn từ. Bà Stan nói với cô như với một đứa trẻ ngoan ngoãn mà bà mến, vì
cô gợi bà nhớ lại thời son trẻ; chỉ có một lần, bà ám chỉ đến niềm an ủi mà chỉ
có tình yêu và lòng tin mới đem lại cho những đau khổ của kiếp người và nói
thêm rằng không có đau khổ nào là không đáng kể đối với Chúa Cơ đốc lòng lành
vô cùng, thế rồi bà lái sang chuyện khác ngay. Nhưng trong mỗi cử chỉ, mỗi lời
nói, mỗi cái nhìn "thiên thần" của bà, như Kitti thường nói, và nhất
là trong câu chuyện cả cuộc đời bà ta do Varenca kể lại, Kitti đã khám phá ra
"cái gì là quan trọng", điều mà cho tới nay cô chưa hề biết.
Tuy nhiên, dù tính nết bà Stan có
cao thượng đến đâu, câu chuyện cuộc đời bà cảm động đến bao nhiêu lời nói của
bà cao cả và dịu ngọt đến mức nào chăng nữa, Kitti vẫn vô tình bắt gặp những
nét cá tính làm cô hoang mang. Cô thấy khi hỏi thăm về gia đình cô, bà Stan đã
mỉm cười khinh thị, một thái độ trái với lòng nhân Cơ đốc giáo. Có hôm, gặp một
linh mục công giáo ở nhà bà, cô còn thấy bà Stan đã thận trọng quay mặt vào
trong bóng tối của cái chụp đèn để giấu một nụ cười kỳ lạ. Những nhận xét này
dù không đáng kể thật song cũng khiến cô bối rối, và Kitti bắt đầu nghi ngờ bà
Stan. Trái lại, chỉ có Varenca một mình trơ trọi, không cha mẹ bạn bè, với nỗi
thất vọng u sầu, không tham vọng, không tiếc nuối, là sự hoàn mỹ trọn vẹn mà
Kitti cho phép mình chỉ được mơ ước thôi. Nhờ có Varenca, cô hiểu người ta chỉ
cần biết quên mình và yêu mến người khác là được thanh thản, sung sướng và tốt
đẹp. Điều Kitti mong muốn chính là như thế.
Bây giờ cô đã hiểu rõ cái gì là điều
quan trọng nhất, nên Kitti không những say mê khâm phục, mà còn lập tức đem cả
tâm hồn hiến dâng cho cuộc đời mới đang mở ra trước mắt. Dựa theo những chuyện
Varenca kể cho nghe về hoạt động của bà Stan và những người khác được Varenca
nhắc đến tên, Kitti tự vạch ra một chương trình cho cuộc sống tương lai. Theo
gương Alin, cháu gái bà Stan mà Varenca đã kể cho cô nghe rất nhiều, dù sống
nơi nào, cô cũng sẽ đi tìm những người bất hạnh giúp đỡ họ đến mức tối đa, cô
sẽ phân phát kinh Phúc âm, sẽ đọc kinh Phúc âm cho kẻ ốm đau, kẻ tội lỗi và
người hấp hối. ý nghĩ được đọc kinh Phúc âm cho một kẻ tội đồ như Alin, đặc
biệt cám dỗ Kitti. Nhưng đó là mơ ước thầm kín mà cô không nói cho mẹ hay
Varenca biết.
Vả lại, trong khi chờ đợi ngày thực
hiện chương trình đó trên quy mô rộng rãi hơn, ngay từ giờ, ở suối nước này với
biết bao người bệnh và kẻ khốn cùng, Kitti cũng dễ dàng tìm được dịp áp dụng
những nguyên lí mới của mình, theo gương Varenca.
Thoạt tiên, phu nhân chỉ thấy Kitti
đang chịu ảnh hưởng đối tượng ham mê của cô, như bà thường nói, nghĩa là ảnh
hưởng của bà Stan và Varenca. Bà thấy Kitti không những bắt trước việc làm của
Varenca mà còn vô tình bắt chước cả cách đi, cách nói và cách nháy mắt của bạn.
Tiếp đó, bà nhận thấy con gái đang trải qua những thay đổi nội tâm nghiêm trọng
không lệ thuộc vào sự phù phép nọ.
Tối đến, Kitti đọc quyển kinh Phúc
âm bằng tiếng Pháp của bà Stan cho, điều trước đây cô không bao giờ làm; cô
tránh gặp người quen trong giới thượng lưu và chỉ đi lại với những bệnh nhân
được Varenca chăm sóc, nhất là với gia đình một họa sĩ nghèo và ốm đau tên là
Pêtrôp. Rõ ràng cô tự hào được làm nhiệm vụ bà phước trong gia đình ấy. Tất cả
những việc đó đều đáng khen, và phu nhân không phản đối vào đâu được, hơn nữa
vợ Pêtrôp lại là một thiếu phụ rất đứng đắn, và cả bà quận chúa người Đức cũng
chú ý đến việc làm của Kitti, đã khen ngợi và gọi cô là "nàng tiên an
ủi". Tất cả những cái đó đều tốt đẹp cả thôi nếu không đi đến chỗ quá
đáng. Thế nhưng, phu nhân lại thấy con gái đi quá xa và bà nói điều ấy với con.
- Không bao giờ nên làm điều gì thái
quá 1, - bà nói.
Con gái bà không trả lời gì cả;
trong thâm tâm, cô chỉ nghĩ rằng về mặt đời sống tôn giáo thì không thể nói có
gì là thái quá được. Có gì là thái quá trong việc theo đúng lời răn hãy chìa má
phải khi bị tát vào má trái và cho nốt chiếc sơmi khi đã bị lột mất áo khoác?
Nhưng sự thái quá đó làm phật ý phu nhân và bà càng phật ý hơn khi thấy Kitti
không chịu tâm sự với mình. Thực vậy, Kitti vẫn giấu mẹ những quan niệm mới và
tình cảm mới của cô. Cô giấu không phải vì không kính trọng hay không yêu mến
mẹ, mà chỉ vì đó là mẹ cô. Cô có thể ngỏ nỗi niềm với bất kỳ ai còn hơn với mẹ.
- Mẹ thấy hình như lâu lắm rồi, Anna
Paplôpna không đến chơi nhà ta, - một hôm phu nhân nói với con khi nhắc tới vợ
Pêtrôp. Mẹ đã mời chị ta đến. Thế mà chị ta có vẻ không bằng lòng.
- Không, con không thấy thế, mẹ ạ, -
Kitti nói, mặt đỏ bừng.
- Con đến thăm họ đã lâu chưa?
- Ngày mai con sẽ đi chơi núi với
họ, - Kitti nói.
- ừ, được, cứ đi đi, - phu nhân đáp,
vừa nhìn kỹ nét mặt bối rối vừa cố đoán nguyên nhân nỗi khích động của con.
Cùng hôm ấy, Varenca đến ăn cơm và
báo tin Anna Paplôpna ngày mai sẽ không đi chơi nữa. Và phu nhân thấy Kitti lại
đỏ mặt.
- Kitti, có gì không hay đã xảy ra
giữa con và gia đình Pêtrôp chăng? - phu nhân hỏi khi chỉ còn hai người. - Tại
sao chị ta không cho lũ con lại và không đến thăm ta nữa?
Kitti trả lời là giữa hai người
không hề xảy ra chuyện gì và cô hoàn toàn không hiểu tại sao Anna Paplôpna lại
có vẻ giận mình. Cô nói đúng sự thật hoàn toàn. Cô không biết lý do sự thay đổi
thái độ của Anna Paplôpna đối với mình, nhưng cô đoán biết. Điều cô đoán, cô
không thể nói với mẹ vì chính cô cũng không dám tự thú với mình.
Đây thuộc loại chuyện tuy mình biết,
nhưng không dám nói thành lời với chính mình, vì nếu nhầm thì thật ghê sợ và
nhục nhã.
Cô ôn đi ôn lại mãi trong đầu tất cả
mối quan hệ giữa cô và gia đình ấy. Cô nhớ lại niềm vui sướng ngây thơ ánh lên
trên khuôn mặt tròn trĩnh phúc hậu của Anna Paplôpna khi hai người gặp nhau,
những câu chuyện kín đáo của họ về người ốm, những cố gắng nhằm lừa cho người
ốm đừng làm những việc bác sĩ dặn phải kiêng và đưa anh ta đi chơi; rồi sự
quyến luyến của đứa con út vẫn bi bô gọi "cô Kitti của cháu" và chỉ
chịu đi ngủ khi cô bế vào giường. Tất cả những chuyện ấy mới thú vị làm sao!
Tiếp đó cô nhớ lại hình dáng gầy giơ xương của Pêtrôp, cái cổ dài ngoãng và cái
áo đuôi tôm màu gụ, mái tóc thưa và quăn, cặp mắt xanh dầy vẻ dò hỏi, những hôm
đầu đã làm cô hoảng sợ, cùng những cố gắng bệnh hoạn của anh ta muốn rả vẻ
nhanh nhẹn và vui tươi khi có mặt cô. Cô nhớ lúc đầu mình phải hết sức dằn lòng
để dẹp nỗi ghê sợ khi dứng trước anh ta cũng như trước mọi người lao khác và
phải chật vật mới tìm ra đầu đề để nói chuyện.
Cô nhớ lại anh ta rụt rè và âu yếm
nhìn mình, và cảm giác thương xót, lúng túng kỳ lạ của mình lúc đó, sau này
được thay thế bằng ý thức về đức hạnh của chính mình. Tất cả những chuyện ấy
mới dễ chịu làm sao! Nhưng đó là buổi đầu. Còn giờ đây, nghĩa là trong mấy ngày
vừa qua, mọi chuyện đột nhiên đâm xấu đi. Anna Paplôpna tiếp Kitti với một vẻ
vồn vã giả vờ và luôn theo dõi cả cô lẫn chồng mình.
Lẽ nào nỗi vui mừng cảm động của
Pêtrôp khi có mặt Kitti lại là lý do do khiến thái độ của Anna Paplôpna trở nên
lạnh nhạt?
"Phải, cô tự nhủ, ở Anna có cái
gì gượng gạo, không giống với sự hối hận của chị, khi chị ấy cau có nói với
mình hôm kia:
- Nhà tôi đợi cô mãi, cô chưa đến
thì anh ấy không chịu uống cà phê, tuy anh ấy yếu đi nhiều.
"ừ, có lẽ chị ta cũng khó chịu
khi mình đưa cho anh ấy cái mền phủ chân. Việc tuy rất bình thường mà anh ấy
cũng lúng túng, cảm ơn rối rít, làm mình phát ngượng. Lại còn bức chân dung anh
ấy vẽ mình nữa, bức tranh đẹp quá. Nhưng nhất là cái nhìn âu yếm và bối rối của
anh ta!... Phải, phải, đúng thế thật! Kitti sợ hãi thầm nhắc đi nhắc lại. Nhưng
không, không thể thế được, việc đó không thể được!
Anh ấy đáng thương làm sao!",
cô nghĩ thêm.
Nỗi ngờ vực đó phá hoại cái huyền
diệu cuộc sống mới của cô.
--------------------------------
1 Il ne faut jamais rien outrer
(tiếng Pháp trong nguyên bản).
Chương
34
Gần cuối đợt điều dưỡng, lão quận
công Serbatxki sau khi rời Kaclơxbat đi Bađen và Kixinghen, thăm những người
đồng hương ở đó để "đắm mình vào không khí Nga" như ông nói, trở về
với vợ và con gái.
Những ý nghĩ của lão quận công và
phu nhân về đời sống ở nước ngoài hoàn toàn đối lập nhau. Phu nhân thấy cái gì
cũng tuyệt cả, và mặc dầu đã có địa vị vững vàng trong xã hội Nga, khi ở nước
ngoài bà vẫn cố làm ra vẻ phụ nữ Âu Tây - tuy không phải thế, vì bà là người
Nga - và luôn luôn có những bộ tịch khiến chính bản thân mất cả thoải mái. Lão
quận công, trái lại, thấy cái gì cũng khả ố; lối sống Âu Tây làm ông khó chịu,
ông giữ nguyên tập tục Nga và khi ở nước ngoài, dốc sức làm ra vẻ ít Âu Tây hơn
là trong thực tế.
Lão quận công lúc trở về có gầy đi,
mí mắt chảy xuống, nhưng rất hào hứng. Tâm trạng vui vẻ này càng tăng khi ông
thấy Kitti đang hồi phục. Tình thân giữa Kitti với bà Stan và Varenca cùng
những nhận xét phu nhân nói lại về sự thay đổi của con gái, làm lão quận công
bối rối và gợi lên ở ông cái cảm giác ghen tức quen thuộc vẫn có đối với tất cả
những gì có thể cướp mất con gái ông cũng như nỗi sợ là Kitti sẽ thoát khỏi ảnh
hưởng ông để đi vào những lĩnh vực ông không thâm nhập nổi. Nhưng những tin tức
không hay này chìm dưới sự đôn hậu và vui tính bao la như biển cả ông vẫn mang
trong lòng, nhất là từ ngày ở Caclơxbat về.
Ngay sau hôm về tới nơi, lão quận
công mặc áo bành tô dài, mặt húp híp, nhăn nheo, đặc Nga, cằm lút trong cổ cồn
hồ cứng, cùng con gái đi ra suối nước trong một tâm trạng rất vui vẻ.
Buổi sáng hôm ấy rất đẹp trời; dãy
nhà sạch sẽ và vui tươi với mảnh vườn nhỏ, cảnh những cô hầu người Đức béo tốt
vì rượu bia, mặt và tay đỏ ửng, đang vui vẻ làm việc, ánh nắng rực rỡ, mọi thứ
đều làm tâm hồn khoan khoái; nhưng càng đến gần suối, hai người càng gặp nhiều
người ốm, và trong khung cảnh quen thuộc của đời sống vốn rất có tổ chức của
người Đức, sự có mặt những người ốm đó càng gây ấn tượng nặng nề. Sự tương phản
này không còn làm Kitti ngạc nhiên. ánh nắng rực rỡ, cây cối xanh tươi, tiếng
nhạc, đối với cô đều là khung cảnh tự nhiên của những bộ mặt quen thuộc kia và
những thay đổi thăng giảm trong bệnh trạng của họ, cô đều theo dõi.
Nhưng đối với lão quận công, ánh
nắng tươi vui buổi sáng tháng sáu này và tiếng dàn nhạc đang chơi một điệu
vanxơ thời thượng rất lôi cuốn và nhất là cảnh những cô hầu khỏe mạnh cạnh các
thây ma lang thang kia, từ khắp xó xỉnh châu Âu lê tới đây, đối với ông thật
chướng mắt và quái đản.
Mặc dầu niềm tự hào và cảm giác hồi
xuân xâm chiếm ông khi khoác tay con gái yêu đi chơi, bây giờ ông lại khó chịu
và xấu hổ vì dáng đi vững chắc và tay chân khỏe mạnh, nung núc thịt của mình.
Ông có cảm giác gần giống như người
không mặc quần áo đứng trước đám đông.
- Con hãy giới thiệu ba với các bạn
mới của con đi, - ông nói và áp chặt cánh tay cô vào người mình. - Ba bắt đầu
yêu cái thành phố Xôđen gớm ghiếc này của con vì nó đã chữa cho con khỏi bệnh.
Nhưng ở đây buồn quá. Ai kia?
Kitti kể cho bố rõ tên những người
quen cũng như không quen gặp trên đường đi. ở cổng vườn, họ gặp bà Béc mù cùng
người trông nom bà và lão quận công vui sướng thấy vẻ trìu mến của bà cụ người
Pháp khi nhận ra tiếng Kitti. Bà cụ liền nói chuyện ngay với ông, với cách vồ
vập hơi thái quá, đặc biệt của người Pháp và khen ông có cô con gái đáng yêu,
và gọi cô là "kho vàng", là "hạt châu" và "nàng tiên
an ủi".
- Nếu thế thì đây là nàng tiên số
hai, - lão quận công mỉm cười nói.
- Cháu nó bảo tiểu thư Varenca là
nàng tiên số một.
- ồ! Tiểu thư Varenca quả thực là
một nàng tiên, đúng thế! - bà Béc nhấn thêm.
ở hành lang, họ gặp chính Varenca.
Cô thoăn thoắt bước về phía họ, tay cầm một cái túi đỏ trang nhã.
- Đây là ba tôi vừa mới tới! - Kitti
nói giản dị và tự nhiên.
Như trong mọi việc cô làm, Varenca
phác một cử chỉ nửa như cúi đầu chào, nửa như nhún chân xuống tỏ ý kính cẩn và
bắt chuyện luôn với lão quận công bằng giọng nói thoải mái và thanh thoát cô
vẫn dùng với mọi người.
- Khỏi phải nói vì tôi biết tiểu thư
rồi, và biết rất kỹ nữa, - lão quận công mỉm cười nói và Kitti rất mừng vì qua
nụ cười đó, cô biết bạn mình đã được lòng bố. - Tiểu thư đi đâu vội thế?
- Mẹ tôi ở đây, - cô nói với Kitti.
- Cả đêm mẹ mất ngủ và bác sĩ khuyên nên ra ngoài. Tôi đem đồ khâu đến cho mẹ.
- Vậy ra nàng tiên số một đây, - lão
quận công nói khi Varenca đi rồi.
Kitti thấy bố như muốn chế giễu
Varenca một chút nhưng không làm nổi, vì cô gái đã làm ông đẹp lòng.
- Nào, ta đi gặp tất cả các bạn của
con đi, - ông tiếp... - kể cả bà Stan, nếu bà chịu nhận ra ba.
- Thế ba cũng quen bà ấy à, hở ba? -
Kitti lo sợ hỏi bố, nhận thấy cái tia châm biếm loé lên trong mắt lão quận công
khi nhắc đến tên bà Stan.
- Trước ba có quen chồng bà ta, và
cả bà ta, ba cũng quen sơ sơ trước lúc bà ta gia nhập phái kiền tín 1.
- Người theo phái kiền tín là thế
nào, hở ba? - Kitti hỏi, sợ hãi thấy điều cô vẫn đánh giá cao ở bà Stan cũng
mang một cái tên.
- Ba cũng không biết đích xác nó là
cái gì nữa. Ba chỉ biết là bà ta cảm ơn Thượng đế về tất cả mọi cái, về tất cả
những tai ương xảy đến với mình... thậm chí còn cảm ơn Thượng đế cả về cái chết
của ông chồng nữa. Thật là khôi hài, vì họ không hòa thuận gì cả... Ai kia?
Con người đáng thương làm sao! - ông
hỏi khi thấy một bệnh nhân ngồi trên ghế dài, mặc áo đuôi tôm màu gụ và quần
trắng dúm lại thành nếp kì lạ trên đôi chân gầy đét. Ông này ngả mũ rơm ra, để
lộ mớ tóc thưa, quăn và vầng trán cao đỏ ửng lên vì đội mũ.
- Đó là họa sĩ Pêtrôp, - Kitti đỏ
mặt đáp. - Và kia là vợ ông ta, - cô nói tiếp và chỉ Anna Paplôpna vừa lúc chị
này như chủ ý đứng dậy chạy theo một đứa trong lũ con khi họ lại gần.
- Trông đáng thương quá và anh ta có
bộ mặt rất đáng yêu, - quận công nói. - Tại sao con không lại? Anh ấy muốn nói
gì với con đấy.
- Vâng, thì ta lại! - Kitti nói, quả
quyết quay gót lại. - Hôm nay, ông có khỏe không? - cô hỏi Pêtrôp.
Pêtrôp chống gậy đứng lên và rụt rè
nhìn lão quận công.
- Con gái tôi đấy, - lão quận công
nói. - Xin phép được làm quen với ông.
Họa sĩ cúi chào và mỉm cười, để lộ
hàm răng trắng bóng lên kỳ lạ - Thưa tiểu thư, hôm qua chúng tôi đợi cô, - anh
nói với Kitti.
Anh lảo đảo trong khi nói vậy và lặp
lại cử chỉ đó để mọi người tưởng anh cố ý làm như vậy.
- Tôi cũng muốn đến, nhưng chị
Varenca nói Anna Paplôpna đã cho báo trước là ông bà không đi chơi nữa.
- Sao! - Pêtrôp đỏ mặt nói và liền
đó ho luôn. Anh đưa mắt tìm vợ.
- Annet! Annet ơi! - Anh gọi to và
gân nổi lên như dây thừng trên cái cổ trắng nhỏ.
Anna Pêtrôp bước lại.
- Tại sao em đi nói với tiểu thư là
chúng ta không đi chơi? - anh bực dọc thì thầm hỏi vợ, gần như mất hẳn tiếng.
- Chào tiểu thư, - Anna Paplôpna nói
với một nụ cười gượng gạo khác hẳn sự niềm nở trước kia. - Rất sung sướng được
biết cụ, - chị ta nói với lão quận công, - chúng cháu mong đợi cụ từ lâu rồi,
thưa quận công.
- Tại sao em lại nhắn tiểu thư là
chúng ta không đi chơi? - họa sĩ khàn khàn nhắc lại, càng giận dữ, và rõ ràng
đâm nổi nóng thật sự vì điều đó lộ ra rành rành trong giọng nói mà anh không
thể uốn cho có được âm sắc mong muốn.
- ồ! Lạy Chúa! Nhưng em lại ngỡ
chúng ta định không đi chơi thật, - vợ anh bực tức trả lời.
- Sao lại thế được, khi... - anh lại
ho và khoát tay một cách bất lực.
Lão quận công ngả mũ và cùng cô con
gái bước đi.
- Ôi, ôi! - ông thở dài đánh thượt.
Ôi! Tội nghiệp cho họ quá!
- Đúng thế, ba ạ, - Kitti đáp. - Họ
có ba con, không có đầy tớ và gần như chẳng có tý của cải gì! Anh ta lĩnh được
ít tiền của Viện Hàn lâm, - cô sôi nổi kể, cố nén nỗi xúc động do thái độ thay
đổi lạ lùng của Anna Paplôpna gây ra. - Bà Stan kia kìa, - cô nói, tay chỉ cái
xe nhỏ trong có một hình người bọc kín quần áo màu xám và xanh da trời, chung
quanh chất đầy gối, ngồi dưới chiếc dù. Đó là bà Stan. Đằng sau bà, một người
Đức lực lưỡng, mặt khó đăm đăm, đẩy xe. Đi cạnh là một bá tước người Thụy Điển
tóc vàng mà Kitti chỉ biết tên. Nhiều bệnh nhân chậm bước ngang qua cái xe,
nhìn bà ta như nhìn một cái gì kỳ lạ lắm.
Lão quận công bước về phía bà, và
Kitti liền thấy ngay mắt bố loé lên một ánh châm biếm làm cô bối rối. Ông lại
gần bà Stan và bắt chuyện bằng thứ tiếng Pháp hoàn hảo, hết sức thanh lịch và
tao nhã mà ngày nay rất ít người nói được như thế.
- Tôi không rõ bà còn nhớ tôi không,
nhưng tôi phải đến ra mắt để cảm ơn lòng tốt của bà đối với con gái tôi, - ông
nói, ngả mũ chào rồi cứ cầm ở tay.
- Quận công Alecxei Serbatxki, - bà
Stan nói, ngước cặp mắt thiên thần nhìn ông, và Kitti thấy cái nhìn thoáng có
vẻ không bằng lòng. - Tôi rất sung sướng. Tôi mến con gái ông lắm!
- Bà vẫn không được khỏe lắm?
- ồ! Giờ thì tôi quen đi rồi, bà
Stan nói và giới thiệu vị bá tước người Thụy Điển với quận công.
- Trông bà không thay đổi mấy, -
quận công nói. - Kể có tới mươi mười năm rồi tôi không được hân hạnh gặp bà,
phải không?
- Vâng. Chúa ban nỗi khổ và cũng ban
cho cả sức lực để chịu đựng nỗi khổ đó! Tôi thường hay tự hỏi tại sao một cuộc
đời như thế này cứ kéo dài mãi được. Đằng này cơ mà! Bà gắt với Varenca đã
không quấn mền phủ chân đúng như ý bà.
- Có lẽ là để làm điều thiện, - quận
công nói, cặp mắt tươi cười.
- Chúng ta không được quyền phán xử
đâu, - bà Stan nói, bắt gặp vẻ giễu cợt trên nét mặt quận công. - Thế nào, ông
sẽ gửi quyển sách ấy cho tôi chứ, bá tước thân mến? Cảm ơn ông lắm, bà nói với
người Thụy Điển trẻ tuổi.
- A! A! - quận công thoáng thấy ông
đại tá người Moxcva ở quanh đó, liền reo lên và chào bà Stan rồi cùng con gái
đi với ông đại tá vừa nhập với họ.
- Lớp quý tộc chúng ta vốn thế đấy,
quận công ạ! - ông đại tá nói, giọng mỉa mai, khó chịu về việc bà Stan không
chịu kết giao với ông.
- Bà ấy vẫn như xưa, - quận công
nói.
- Ngài có quen bà ta hồi chưa mắc
bệnh không, thưa quận công?
Tôi muốn nói trước khi bà ta phải
nằm liệt giường?
- Không, chúng tôi biết nhau đúng
vào lúc bà ta bắt đầu bị liệt giường, - quận công nói.
- Nghe nói từ mười năm nay bà ta
không dậy được.
- Bà ta nằm vì chân ngắn quá. Thân
hình bà ta rất xấu xí.
- Ba, không thể có chuyện đó được! -
Kitti gào lên.
- Những kẻ độc miệng đều cả quyết
như vậy, con gái yêu của ba ạ.
Cô Varenca của con hẳn phải nếm đủ
mùi khổ nhục, - ông nói thêm...
Ôi! Những cái bà bệnh tật này!
- Ô! Không đâu, ba! - Kitti sôi nổi
cãi, - Varenca rất yêu bà ta. Và bà ấy đã làm biết bao điều thiện! Ba có thể
hỏi bất kỳ người nào! Mọi người đều biết bà ta và Alin.
- Có thể, - ông nói, siết chặt cánh
tay con gái vào người. - Nhưng khi người ta làm điều thiện thì tốt nhất là đừng
để cho ai biết cả.
Kitti nín lặng, không phải vì đuối
lý, mà vì cô không muốn nói với bố những ý nghĩ thầm kín. Thế nhưng, kì lạ
thay, tuy cô đã quyết tâm không để bố lung lạc mình, không để bố xâm phạm vào
thành đường của mình, cô vẫn cảm thấy hình ảnh cao cả của bà Stan suốt một
tháng nay cô hằng ấp ủ trong lòng, đã tiêu tan không sao cứu vãn nổi, cũng như
hình dáng tưởng tượng của một chiếc áo quẳng hú họa biến mất khi người ta chợt
hiểu ra nó đã được xếp sắp như thế nào. Chỉ còn lại một người đàn bà chân ngắn
tũn, nằm lì trên giường vì thân hình xấu xí và hay mắng mỏ Varenca hiền dịu mỗi
khi cô không đắp chân bà ta cho ngay ngắn. Và không một cố gắng nào của trí
tưởng tượng còn có thể làm sống lại bà Stan ngày trước.
--------------------------------
1 Một giáo phái trong đạo Tin lành,
thịnh hành ở vài nước Đông Âu, chủ trương khổ hạnh, phục tùng ý Chúa chống độc
quyền hành giáo của nhà thờ v. v... (piétisme).
Chương
35
Lão quận công đã truyền tâm trạng
vui vẻ sang mọi người, vợ con, bạn bè, và cả ông chủ nhà người Đức nữa.
Khi cùng với Kitti ở suối về, ông
mời đại tá, bà Maria Epghêniepna và cô Varenca đến uống cà phê, và cho kê bàn
dưới bóng cây dẻ ngoài vườn. Chủ nhà và gia nhân linh hoạt hẳn lên, do ảnh
hưởng của niềm hân hoan đó. Họ biết tính lão quận công hào phóng, và nửa giờ
sau, một thầy thuốc ốm người Hămbua ở gác trên, đã thèm thuồng nhìn qua cửa sổ
xuống đám người Nga vui vẻ khỏe mạnh tụ họp dưới gốc dẻ. Dưới bóng lá rung
rinh, gần cái bàn phủ khăn trắng và bày la liệt đồ pha cà phê, bánh, bơ, phó
mát và thịt nguội, phu nhân chễm chệ ngồi, đầu đội mũ thắt dải màu hoa cà, mời
cà phê và bánh ngọt. ở đầu bàn đằng kia, lão quận công chuyện trò vui vẻ và ăn
uống ngon lành. Ông bày ở cạnh những thứ mua được: hộp chạm trổ, đồ mĩ phẩm
nhỏ, dao rọc giấy các loại sắm ở các thành phố suối nước khoáng đã đi qua; ai
nấy đều có quà, kể cả cô hầu Lisen và ông chủ nhà; bằng thứ tiếng Đức ngộ nghĩnh,
phát âm sai của mình, lão công tước nói đùa lại với ông này, cả quyết không
phải nước suối đã chữa cho Kitti khỏi bệnh, mà là các món ăn rất ngon của ông
ta, đặc biệt món xúp nấu mận. Phu nhân chế giễu những thói tục Nga của chồng,
nhưng bà hoan hỉ và linh lợi hơn bao giờ hết kể từ ngày đi nghỉ ở suối nước.
Ông đại tá, như mọi lần, vẫn mỉm cười trước những lời bông lơn của quận công;
nhưng về vấn đề châu Âu mà ông tự cho là đã chăm chú nghiên cứu thì ông đứng về
phía phu nhân. Bà Maria Epghêniepna chất phác nghe quận công pha trò câu nào
cũng rũ ra cười; còn Varenca thì cứ ngặt người ra cười rúc rích, cái cười dễ
lây trước những câu đùa của quận công; chưa bao giờ Kitti thấy cô ta như thế.
Mọi cái đó làm Kitti khuây khoả
nhưng không phải vì thế mà bớt ưu tư. Cô không sao giải quyết nổi vấn đề mà bố
cô vô tình đặt ra với cách nhìn châm biếm của ông đối với bạn bè và lối sống đã
làm cô rất thích thú. Thêm vào đó còn có sự thay đổi trong quan hệ với vợ chồng
Pêtrôp, vừa nãy đã biểu lộ rất rõ ràng và rất khó chịu. Ai nấy đều vui trừ có
Kitti và điều đó càng dằn vặt cô hơn. Cô có cái cảm giác giống như hồi nhỏ, khi
bị phạt nhốt trong buồng nghe thấy tiếng các chị cười vui vẻ bên ngoài.
- Tại sao ông mua nhiều thứ thế? -
phu nhân mỉm cười hỏi và đưa cho chồng tách cà phê.
- Tôi ra phố chơi, đến gần một cửa
hàng, người ta liền mời: "Thưa tôn ông, đại nhân, điện hạ 1. Khi họ mời
đến chữ "điện hạ", thì tôi không cưỡng được nữa và tiêu mười đồng
tale 2 như chơi.
- Đó chỉ vì ông buồn chán, có thế
thôi, - phu nhân nói.
- Tất nhiên là thế rồi! Tôi buồn đến
nỗi không còn biết chui vào đâu nữa, bà ạ.
- Làm sao lại có thể buồn được, thưa
quận công? Bây giờ ở nước Đức có bao nhiêu điều thú vị, - bà Maria Epghêniepna
nói.
- Nhưng tôi đã biết hết mọi điều thú
vị rồi: tôi biết món xúp nấu mận, tôi biết món xúc xích nấu đậu. Tôi biết hết.
- Không đâu, muốn nói sao thì nói,
thưa quận công, các tổ chức của họ vẫn hay lắm, - ông đại tá nói.
- Có gì là hay nào? Họ vênh vênh váo
váo vì họ đã đánh bại toàn thế giới. Cái đó thì có gì là vui thích đối với tôi?
Tôi chẳng đánh bại ai cả, không những tự tôi phải cởi ủng mà còn phải đem ra
đặt ở cửa vào. Sáng ra, vừa ngủ dậy là phải đóng bộ vào ngay và đến phòng khách
để uống trà hạng bét! Đâu có như ở nước ta! ở nhà cứ việc đủng đỉnh muốn dậy
lúc nào thì dậy, muốn cáu thì cứ việc cáu, tha hồ làu bàu, đợi cho tĩnh tâm
lại, rồi ngẫm nghĩ, lúc nào cũng nhẩn nha.
- Nhưng thì giờ là vàng bạc, ngài
quên điều đó sao, - ông đại tá nói.
- Không phải bao giờ cũng vậy đâu!
Đôi khi người ta sẵn sàng đổi một tháng lấy năm mươi kôpêch và có lúc người ta
lại không bằng lòng đổi nửa giờ lấy tất cả vàng bạc trên thế giới. Có phải
không, Kitti? Nhưng con làm sao vậy, con có vẻ buồn thế?
- Con không sao cả.
- Cô đi đâu thế? ở chơi lát nữa đã
nào, - quận công nói với Varenca.
- Cháu phải về ạ, - Varenca đứng dậy
và lần nữa lại phì cười. Khi đã nhịn được cười, cô cáo từ và đi tìm mũ.
Kitti đi theo bạn. Cô thấy hình như
cả Varenca cũng có vẻ đổi khác. Cô ta không kém phần hoàn hảo, nhưng đã khác
với con người Kitti hằng tưởng tượng trước đây.
- Đã lâu tôi không cười nhiều đến
thế! - Varenca nói, rồi cầm lấy ví và dù. - Ông cụ nhà chị đáng yêu quá!
Kitti lặng im.
- Bao giờ chúng ta lại gặp nhau? -
Varenca hỏi.
- Mẹ tôi muốn qua thăm nhà Pêtrôp.
Chị không đến đấy ư? - Kitti hỏi để dò ý Varenca.
- Có chứ, - Varenca đáp. - Họ sắp đi
và tôi đã hứa sẽ đến giúp họ thu xếp hành lý.
- Vậy thì tôi cũng sẽ tới.
- Thôi, không cần đâu.
- Tại sao? Tại sao? - Kitti hỏi, mắt
trố ra và nắm lấy dù của Varenca. - Không, chị hãy ở lại đã. Tại sao?
- Vì ba chị vừa mới về, họ sẽ lúng
túng khi có chị ở đấy.
- Không phải, chị hãy cho tôi biết
tại sao chị không muốn tôi đến nhà Pêtrôp luôn? Vì đúng là chị không muốn thế
thật! Tại sao?
- Tôi có nói thế đâu, - Varenca bình
tĩnh trả lời.
- Có chứ, tôi van chị đấy, hãy trả
lời đi!
- Có cần nói hết với chị không? -
Varenca hỏi.
- Nói hết! Nói hết! - Kitti nằn nì.
- Không có gì đặc biệt đâu, nhưng
Mikhain Alecxeiêvich (đó là tên anh họa sĩ) trước kia thì muốn đi sớm, nhưng
bây giờ lại không muốn rời khỏi đây nữa. - Varenca mỉm cười nói.
- Thế thì sao, thì sao? - Kitti hỏi
dồn dập và lầm lì nhìn bạn.
- Thế rồi, Anna Paplôpna bảo chồng
là tại chị nên anh ta không muốn đi nữa. Tất nhiên, chuyện chả đâu vào đâu cả,
nhưng họ đã cãi nhau vì chị. Và chị cũng biết những người bệnh như vậy dễ cáu
lắm.
Kitti mặt càng tối sầm, vẫn lặng im,
và Varenca nói một mình, cố tìm cách làm cho bạn nguôi đi, bình tĩnh lại, và
đoán trước là một cái gì sắp sửa bùng nổ, chưa biết bằng nước mắt hay bằng lời.
- Chị biết đấy, tốt hơn hết chị
không nên tới đó... chị hiểu cho...
đừng giận nhé...
- Thật đáng kiếp, đáng kiếp cho tôi!
- Kitti vội nói và túm lấy dù của Varenca, không nhìn thẳng vào mặt bạn.
Varenca muốn mỉm cười trước cơn giận
trẻ con nhưng sợ bạn mếch lòng.
- Tại sao, sao lại đáng kiếp? Tôi
không hiểu đấy, - cô nói.
- Đáng kiếp, vì tất cả cái đó đều là
giả nhân giả nghĩa, đều là bịa đặt, nó không xuất phát từ đáy lòng. Một người
không dính líu gì đến tôi thì thử hỏi tôi cần gì kia chứ? Thế mà tôi lại thành
nguyên nhân gây ra cãi lộn và tôi lại đi dây vào chuyện không liên quan gì đến
mình. Vì đó chỉ là giả dối! Giả dối! Giả dối!...
- Nhưng giả dối như thế để làm gì? -
Varenca dịu dàng hỏi.
- Chao! Sao mà ngu ngốc và xấu xa
đến thế! Tôi không cần gì những thứ đó... Tất cả những cái đó đều giả dối, - cô
nói, tay mân mê cái dù hết mở ra lại cụp vào.
- Nhưng rút cục để làm gì chứ?
- Để có vẻ tốt đẹp hơn, để cho người
khác, cho bản thân tôi, cho Thượng đế, tưởng lầm là tôi tốt đẹp hơn: để lừa dối
mọi người. Không, tôi sẽ không bao giờ bị cái đó cám dỗ nữa. Tôi vẫn chỉ là con
người xấu nhưng ít ra, cũng không phải là kẻ dối trá hay xảo quyệt.
- Vậy ai là kẻ xảo quyệt? - Varenca
hỏi giọng trách móc. - Chị nói như thể...
Kitti đang quá khích động nên không
để bạn nói hết.
- Tôi không nói chị, hoàn toàn không
nói chị. Chị... chị là người hoàn hảo. Phải, phải, tôi biết chị hoàn hảo, nhưng
tôi lại là người xấu thì sao? Chuyện này ắt không thể xảy ra, nếu tôi không
phải là người xấu! Tôi sẽ cứ là tôi, ít ra tôi cũng không phải đóng kịch nữa.
Nào tôi có liên quan gì với Anna
Paplôpna đâu? Họ cứ việc sống thế nào tuỳ họ, và tôi sống thế nào tuỳ tôi. Tôi
không thể thay đổi được...
Mà cũng chả phải thế đâu, không phải
thế đâu!
- Cái gì không phải thế? - Varenca
băn khoăn hỏi bạn.
- Mọi sự đều không phải thế! Tôi
không thể sống khác với cách sống bằng tình cảm, còn chị, chị sống theo nguyên
tắc. Tôi, tôi yêu mến chị, chị sống theo nguyên tắc. Tôi, tôi yêu mến chị, thế
thôi, còn chị thì chắc chỉ muốn cứu vớt tôi, dạy bảo tôi.
- Chị nói vậy không đúng đâu, -
Varenca nói.
- Tôi không nói ai khác, tôi chỉ nói
tôi thôi.
- Kitti! - phu nhân gọi, - lại đây,
mang cho ba xem cây san hô của con đi.
Kitti, vẻ kiêu kì, không dàn hòa với
bạn, cầm hộp san hô trên bàn và đến chỗ mẹ.
- Con làm sao thế? Sao mặt đỏ lên
thế? - cả bố lẫn mẹ đều hỏi cô.
- Con không sao cả, con ra đây một
tí rồi quay lại ngay, - cô đáp và chạy đi.
"Chị ấy vẫn còn đấy! cô nghĩ.
Lạy Chúa, biết nói gì với chị ấy đây!
Mình đã làm gì thế nhỉ? Mình đã nói
gì thế? Tại sao lại xúc phạm chị ấy? Mình sẽ làm gì đây? Sẽ nói gì với chị ấy
đây?", Kitti thầm nghĩ và đứng lại ở bậc cửa.
Varenca đang ngồi gần bàn, đầu đội
mũ, cô cầm dù xem xét cái lò xo Kitti đã đánh gẫy. Cô ngẩng đầu lên.
- Varenca ơi, chị tha thứ cho tôi,
tha thứ cho tôi nhé! - Kitti khẽ nói và lại gần bạn. - Tôi cũng không nhớ mình
đã nói gì nữa. Tôi...
- Quả tình tôi không muốn làm chị
buồn, - Varenca mỉm cười nói.
Hai bên dàn hoà. Nhưng việc bố Kitti
về đã làm thay đổi cái thế giới cô đang sống. Cô không phủ nhận tất cả những
điều đã khám phá, nhưng cô hiểu chính cô đã tự đánh lừa mình khi nghĩ là có thể
trở nên một người như cô ao ước. Dường như cô vừa tỉnh giấc mơ, cô thấy rõ muốn
đứng vững ở tầm cao cô định vươn lên, không giả dối, không huyênh hoang, thật
khó khăn biết nhường nào; hơn nữa, cô còn thấy tất cả sức nặng của cái thế giới
đầy rẫy khổ đau, bệnh tật, người hấp hối, trong đó cô đang sống: cô thấy những
cố gắng để yêu mến tất cả những thứ đó sao mà quá nặng nề và thấy cần mau mau
trở lại nơi thoáng đãng, về nước Nga, về Ergusovoi, nơi bà chị Doli cùng con
cái vừa đến ở, theo lời trong thư của bà cho biết.
Nhưng lòng cô yêu mến Varenca không
hề giảm sút. Phút chia tay, Kitti khẩn khoản mời bạn đến thăm gia đình mình ở
Nga.
- Khi nào chị cưới, tôi sẽ đến, -
Varenca nói.
- Tôi sẽ không bao giờ lấy chồng cả.
- Nếu vậy thì tôi cũng sẽ không bao
giờ đến.
- Nếu thế tôi sẽ lấy chồng dù chỉ là
để được gặp chị thôi. Chị liệu đấy, không được quên lời hứa nhá! - Kitti nói.
Lời dự đoán của bác sĩ đã được xác
minh. Kitti khỏi bệnh trở về nước Nga. Cô không còn vô tư lự và vui vẻ như xưa,
nhưng đã bình tĩnh lại. Những chuyện buồn cũ nay chỉ còn là kỉ niệm mà thôi.
--------------------------------
1 Erlaucht, Excellenz, Durchlauch
(tiếng Đức trong nguyên bản).
2 Thaler: tiền Đức trước kia, trị
giá 3 đồng "mác" thường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét