Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác
bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
Mục lục :
- Triết
học phật giáo ( P1: Nền tảng của đạo phật)
- Triết học
phật giáo (P2: Vô thường là gì?)
- Triết học phật
giáo (P3: Thuyết luân hồi là gì? )
- Triết
học phật giáo (P4: Luật nhân quả là gì?)
- Triết
học phật giáo (P5: Sống với vô ngã)
- Triết
học phật giáo (P6: Pháp duyên khởi)
- Triết
học phật giáo (P7: Chánh niệm là gì?)
- Triết
học phật giáo (P8: 10 thế giới trong tâm)
- Triết học phật giáo (P9: Ăn trong chánh niệm)
- Câu hỏi lớn : Con người sống để làm gì ?
Triết học phật giáo ( P1: Nền tảng của đạo phật)
Trước hết phải nói rằng những thông tin trong loạt entry này chẳng có gì là mới và có đầy trên internet, lọat entry này chỉ là thu thập thông tin từ chỗ khác kèm theo đặc sệt suy nghĩ chủ quan cá nhân của một người ngoại đạo.Loạt entry này nhằm mục đích như vậy với kỳ vọng rằng có thể hiểu được đôi phần thế giới phật giáo:
1. Tứ diệu đế:
Đạo phật được xây dựng dựa trên 4 chân lý là gốc cơ bản được gọi là Tứ diệu đế hay còn gọi là Tứ Thánh đế bao gồm:
– Khổ đế: quan niệm con người sinh ra tới khi chết đi đều chỉ có khổ đau, hạnh phúc chỉ là thoáng qua, chủ đạo vẫn là khổ.
– Tập đế: chỉ ra nguồn gốc của Khổ là 1.Ham muốn và 2.Ghét bỏ.
– Diệt đế: chỉ ra làm sao để diệt khổ, từ bỏ nguồn gốc của khổ thì sẽ giệt được khổ.
– Đạo đế: chỉ ra con đường dẫn tới diệt khổ, bao gồm 8 con đường gọi là Bát chính đạo
Không thấu hiểu Tứ diệu đế gọi là Vô minh, có nghĩa là không biết cái gì là đúng cái gì là sai cứ lạc mãi trong u minh.
2. Tam pháp ấn
Là tiêu chuẩn để xác định một giáo lý, một diễn giải,.. là đúng chánh pháp, có nghĩa là đúng lời phật dạy hay không. Tam pháp ấn bao gồm:
– Khổ: là chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế, quan niệm mọi thứ chúng ta trải qua đều khổ ngay cả khi chúng ta ta sở hữu một cái gì đó khiến chúng ta sướng thì nó cũng là khổ vì vật đó rồi sẽ mất đi. Sướng chỉ là khoảng thời gian ngắn gủi, khổ mới là chính.
Khổ là gì?
Khổ chia làm 3 loại xét theo
nguyên nhân và cấp độ gọi là tam khổ:+ Khổ khổ: là những nỗi khổ thế tục như đói khát, nóng lạnh,…
+ Hoại khổ: là khổ về sự thay đổi vì ngay cả sung sướng cũng chỉ là tương đối. Ta cảm thấy sướng vì ta so sánh với cái khổ mà ta đã trải nghiệm trước đó. Sau một thời gian cái sướng đó cũng mất đi vì ta so nó với cái sướng trước đó; cái khổ trước đó nữa thì ta đã quên mất rồi.
+ Hành khổ: là cái khổ vì duyên sinh. Kiếp này khổ, kiếp sau khổ; các kiếp khổ nối tiếp nhau chừng nào ta còn vô minh.
Xét theo hình thức thì Khổ chia làm 8 loại đó là 1. Sinh khổ, 2. Lão khổ 3.Bệnh khổ 4.Tử khổ 5.Sinh ly tử biệt 6.Ham muốn nhưng không được thỏa mãn 7. Căm ghét nên khổ 8. Khổ vì ngũ uẩn.
– Vô thường: mọi thứ đều có vận động không có gì là bất biến. Vì mọi thứ là vô thường nên mới khổ.
– Vô Ngã : Sự vật có được là do duyên sinh, sự vật không có quyền cho sự sinh và sự chết của chính mình; có nghĩa là sự vật nói chung và con người nói riêng không có ngã mà chỉ là tập hợp của ngũ uẩn.
Các thuật ngữ trong entry này:
– Tứ đại chủng: đất nước gió lửa. Tứ đại chủng sinh Ngũ
uẩn.
– Ngũ uẩn: bao gồm Sắc, Thọ, Tướng, Hành, Thức.
+ Sắc là thân thể vật lý của ta, bao gồm thân và 6 giác quan.
+ Thọ là toàn bộ cảm giác của ta, không phân biệt sướng khổ
+ Tưởng: tri giác, là nhận biết của 6 giác quan như mùi vị, âm thanh,…
+ Hành: là suy nghĩ đánh giá của ta sau khi có tưởng ví dụ như mùi vị tạo cảm giác khó chịu hay dễ chịu. Hành tạo nên nghiệp (thiện, ác)
+ Thức: là 6 ý thức tương ứng với 6 giác quan khi 6 giác quan tiếp xúc với 6 trần. Bao gồm Ý thức (suy nghĩ), Nhãn thức, Thính thức, Xúc thức, Khứu thức, Vị thức.
Phật giáo quan niệm không có ngã mà chỉ có ngũ uẩn.
– Thứ bậc trong phật giáo:
+ Khi mới xuất gia nam gọi là chú tiểu (Sa di), nữ gọi là ni cô (Sa di ni). Chú tiểu và ni cô được thụ 10 giới.
+ Đến khi chứng tỏ được năng lực tu học và ít nhất được 20 tuổi thì trở thành Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Tỳ kheo (nam) được thụ 250 giới và Tỳ kheo ni (nữ) được thụ 348 giới đối với nữ
Trong lúc hành đạo thì các vị tỳ kheo được gọi như sau (có nghĩa là người ngoài đạo gọi)
+ Khi thụ giới Tỳ kheo vị đó được gọi là Đại Đức (Sư cô)
+ Sau 20 năm tuổi đạo được gọi là Thượng tọa ( Ni sư)
+ Sau 40 năm tuổi đạo được gọi là Hòa Thượng (Ni trưởng hoặc Sư bà)
Trong nội bộ giao tiếp thì gọi Thầy xưng Con. Vị lãnh đạo môn phái còn tại thế gọi là Sư tổ, nếu đã viên tịch thì gọi là Tổ sư.
– Giới là gì?
+ Ngũ giới là 5 điều chung mà phật tử không được làm là 1.Giết người, 2.Nói dối, 3. Trộm cắp, 4.Tà dâm, 5.Say rượu.
+ 5 giới thêm để trở thành 10 giới mà chú tiểu, ni cô phải tuân theo là 6.Không ăn sau 12 giờ trưa; 7.Không chơi hay nghe nhạc, nhảy múa; 8.Không trang điểm, phụt nước hoa, đeo trang sức, 9. Không nằm giường cao, sang trọng; 10. Không nhận tiền, vàng
+ Tương tự khi nâng cấp lên Tỳ kheo thì sẽ nâng số giới lên thành 250 và 348.
Tại sao phải tuân theo giới (Thọ giới)? Vì mục đích của việc tu tập là tìm sự giải thoát khỏi kiếp luân hồi nên thọ giới nào thì sẽ được giải thoát khỏi giới đó.
Triết học phật giáo (P2: Vô thường là gì?)
Vô thường là một trong ba pháp ấn (Khổ, vô thường, vô ngã). Mọi thứ đều vô thường, có nghĩa là không có gì bất biến, mọi thứ đều phải tuân theo quy luật sinh lão bệnh tử. Vô thường là cơ sở quan trọng trong phật giáo vì nếu như mọi vật là bất biến thì ở trạng thái nào vẫn cứ ở trạng thái đó, đã sướng thì cứ sướng mãi, đã khổ thì cứ khổ mãi.Nếu sự vật đều không biến đổi thì chưa chắc đã có con người vì loài vật không có tiến hóa. Nếu vật sinh ra cứ sống mãi mà không chết thì thế giới này chắc phải tệ lắm. Con người ai cũng muốn sống, khoa học cũng đang cố gắng tìm cách kéo dài sự sống; nhưng nếu một ngày nào đó con người tìm ra phương pháp để sống mãi mãi thì đó cũng là ngày quả bom hẹn giờ cho thế giới này được kích hoạt.
Nhận biết vô thường giúp ta biết quý từng giây phút chúng ta có ở hiện tại mà không tiếc nuối quá khứ hay vọng tưởng tới tương lai. Giúp ta hiểu rằng khi sinh ra ta không mang gì tới thế giới này và khi chết đi ta cũng không thể mang gì theo. Có người cả đời người tích lũy tài sản bằng mọi cách để cuối cùng ra đi trong tiếc nuối rằng mình đã quá coi trọng vật ngoại thân mà bỏ bê nhiều thứ quý giá khác (Cũng là vô thường !?).
Vô thường sinh khổ nhưng nếu không có vô thường thì chưa chắc cuộc sống đã đáng sống. Nhận biết vô thường không phải để than khóc hay lo lắng mà hiểu rằng đó là quy luật tất yếu. Vô thường bao gồm 1. Thân vô thường; 2.Tâm vô thường và 3.Hoàn cảnh vô thường.
1. Thân vô thường
Là sự thay đổi của cơ thể vật lý của ta. Lúc sinh ra ta là em bé, lớn lên, bệnh tật, rồi chết đi. Ngày hôm nay ta là em bé, ngày mai ta đã là thanh niên; ngày nay ta là cô gái xinh xắn, ngày mai ta đã là bà già.
Hôm nay ta có một cơ thể khỏe mạnh thì cố gắng mà luyện tập, giữ gìn; nhưng nếu ngày mai ta mỗi già đi hay thậm chí đổ bệnh nằm liệt giường thì đó cũng chỉ là một quy luật của cuộc sống, không có gì là bất công ở đây vì mọi người đều phải tuân theo quy luật này.
Chết là một nỗi sợ lớn nhất của con người. Ta từ bỏ những cái chúng ta quen thuộc hàng ngày để bước vào một thế giới mà ta không hề có một tí thông tin nào cả. Có hai thứ ta không thể tránh hay quyết được đó là ta không thể tránh được cái chết và ta cũng không thể quyết định được lúc nào sẽ chết.
Chỉ trong một sát na (một đơn vị thời gian trong phật giáo, có lượng bằng một phần rất nhỏ của một giây) ta có thể từ sống chuyển sang chết. Hàng ngày có vài trăm người chết vì tai nạn giao thông, cái chết đến với họ nhanh đến nỗi chỉ trong một hơi thở; có thở ra mà không có thở vào hoặc ngược lại.
Nếu ta biết rằng mai ta sẽ chết thì hôm nay chắc ta sẽ chọn những việc ý nghĩa nhất để làm nhưng ít ai suy nghĩ là một lúc nào đó rồi ta sẽ chết để mà làm những việc ý nghĩa trong hiện tại. Việc đó có thể xảy ra trong vài chục năm nữa nhưng cũng có thể xảy ra ngay ngày mai hoặc phút tới.
Nếu chúng ta biết thời gian chúng ta có là hữu hạn thì tại sao chúng ta vẫn còn lãng phí ở thời gian ở phút giây hiện tại để chạy theo những thú vui vô bổ, để làm khổ nhau, để mà căm ghét, thù hằn hay làm những điều xấu cho những người khác?
2.Tâm vô thường
Tâm của chúng ta liên tục thay đổi bởi thông tin thu thập được từ lục giác. Từ vui vẻ chuyển sang đau buồn, từ hạnh phúc chuyển sang chán nản, từ căm ghét chuyển sang yêu thương, từ hừng hực sức sống chuyển sang mệt mỏi.
Khi ta đang vui ta biết rằng ta sẽ không vui mãi; khi ta buồn ta biết rằng ta sẽ không buồn mãi. Phút giây này ta cảm thấy ta có thể làm tất cả mọi thứ nhưng phút giây tiếp theo ta có thể sẽ cảm thấy tự ti, chẳng thể làm được cái gì ra hồn.
Việc chúng ta phải làm là làm sao cho Tâm của ta thật tĩnh. Không vui sướng quá mà cũng không đau buồn quá. Chúng ta phải nuôi dưỡng những cảm xúc tốt, khi cảm xúc xấu xuất hiện ta cứ cảm nhận nhưng đừng hành động vội vàng theo những cảm xúc xấu, ta biết rằng rồi cảm xúc đó cũng sẽ trôi qua mà thôi.
3. Ngoại cảnh vô thường
Mọi sự vật xung quanh ta luôn luôn biến đổi chẳng qua là ta không để ý mà thôi. Vợ con ta, hàng xóm ta, đồng nghiệp ta, cái xã hội này; mọi thứ đều thay đổi. Cuộc đời của con ta chắc chắn sẽ khác cuộc đời của ta ngày hôm nay, hoàn cảnh thuận lợi ta đang gặp cũng sẽ không ở đó mãi; hoàn cảnh khó khăn cũng không ở đó mãi; mọi thứ rồi sẽ thay đổi.
Vì ta biết rằng mọi thứ xung quanh sẽ luôn biến đổi nên ta phải giữ cho mình một cái tâm bình an. Đừng tiếc nuối, căm ghét, tức giận khi một cái gì đó không còn ở đó nữa. Vợ ta sẽ già đi, con ta sẽ lớn lên, hàng xóm ta cũng không phải ai cũng dễ chịu, cái xe mà ta yêu thích rồi sẽ hỏng, tiền của chúng ta có sẽ mất…
Hiểu biết về vô thường không phải là để ta đưa ra quyết định an phận thủ thường, chẳng cố gắng bất cứ cái gì vì quan niệm rằng chẳng ích gì khi nỗ lực để đạt một thứ gì đó rồi thứ đó lại mất đi.
Hiểu vô thường để chúng ta biết cái gì là quý giá trong cuộc đời, biết rằng cái gì đáng để chúng ta cố gắng nỗ lực, biết chấp nhận những nghịch cảnh, biết không tự cao tự đại khi giàu có quyền thế, biết không tự ti khi nghèo hèn,..
Triết học phật giáo (P3: Thuyết luân hồi là gì? )
( Là chu kỳ của đau khổ )Khi không thể lý giải được một hiện tượng gì một cách khoa học, con người sẽ sợ hãi và cố gắng tìm mọi cách hợp lý nhất để giải thích. Thời cổ đại khi chưa giải thích được các hiện tượng tư nhiên như sấm sét, gió bão,…;con người cho rằng đó là do một vị thần nào đó thực hiện và họ thờ vị thần đó để ngài không giáng tại họa xuống.
Hiện tượng chết có lẽ là hiện tượng bí ẩn lâu đời nhất, cho tới nay người ta cũng chưa thể lý giải được cái gì xảy ra sau khi chết. Nếu không có sự chết thì chắc chắn không có tôn giáo, tôn giáo tồn tại cũng giống như các vị thần của tự nhiên giúp lý giải được điều gì diễn ra sau khi chết làm hài lòng con người nhất.
Nếu như mọi người đều cho rằng chết là hết thì cũng không thể tồn tại một tôn giáo nào cả. Tôn giáo tồn tại là giúp cho con người lý giải cũng như thoát khỏi nỗi sợ chết.
Mỗi tôn giáo đều có cách lý giải riêng, điểm chung nhất là phải tôn kính vì giáo chủ hay vị thần đứng đầu tôn giáo đó thì sẽ tốt còn lại thì không tốt, đại loại phải ngoan đạo. Tất cả tôn giáo cũng công nhận về sự luân hồi vì thế giới khác là một thế giới họ không thể miêu tả được cho hợp lý khi mà chỉ dựa vào các giác quan thuần vật chất của con người, vì vậy tốt nhất là để cho các con chiên, phật tử có niềm tin rằng họ sẽ tiếp tục được đầu thai.
Luân hồi là sự lặp đi lặp lại của các kiếp sống; mỗi người chúng ta bao gồm hai thành phần là Linh hồn và Thể xác. Thể xác chỉ vật chứa tạm thời ở kiếp này và được thay thế ở kiếp khác; chỉ có linh hồn là trường tồn mãi mãi ( không có vô thường ? ). Linh hồn chúng ta đã tồn tại vô số kiếp trước đây và cũng sẽ tồn tại vô số kiếp sau này.
Khi chết đi linh hồn sẽ tồn tại tại Thân trung ấm trong 49 ngày để đi tới một trong 6 nẻo tùy thuộc vào nghiệp của họ. Tuy nhiên cũng có chủ thuyết cho rằng thời gian giữa chết và sinh chỉ tồn tại trong một sát na (một phần rất nhỏ của giây) mà không có trung gian nào giữa Tử và Sinh.
6 nẻo luân hồi
Sau khi chết nếu như ta vẫn vướng vào vòng luân hồi thì ta sẽ đầu thai vào một trong 6 nẻo sau:
1. Thiên ( Tâm kiêu mạng ): đại loại như là thiên thần, có cuộc sống hạnh phúc và lâu dài hơn đời sống con người.
2.Nhân ( Tâm tham dục ): cảnh giới của con người trong đó con người sống trong điều kiện khó khăn hơn với các cung bậc cảm xúc tiêu cực, tích cực lẫn lộn. Đây là cảnh giới rất thuận lợi cho việc tu tập vì vậy các vị bồ tát luôn đầu thai vào cảnh giới này để phục vụ và thực hành các pháp môn cần thiết thành phật.
3. Atula ( Tâm ghen tỵ ): cảnh giới vô hình dành cho những người còn đầy rẫy những tham vọng, ham muốn quyền lực, kiêu căng, ghen tị. Đây không phải là thế giới vật chất như cảnh giới “Nhân”, ở đây chỉ tồn tại các yếu tố liên quan tới tinh thần.
4. Ngạ Quỷ ( Tâm keo lận ): Cảnh giới của những chúng sinh tham lam vật chất. Lúc nào họ cũng khao khát những thứ đó nhưng không được thỏa mãn vì vậy luôn khổ tâm. Ví dụ như rất đói, có món ngon trước mặt mà không được ăn hay ăn mãi mà không hết đói.
5. Súc sinh (Tâm ngu si ): là kiếp của loài vật, đây là kiếp mà cuộc sống của chúng bị phụ thuộc vào những sinh vật khác, luôn trong sợ hãi và thiếu thốn. Cuộc sống của sinh vật ngắn ngủi và chúng cũng không đủ ý thức để nhận biết hết những khổ đau mà chúng trải qua. Vì kém ý thức nên khó tu tập để có thể thoát khỏi kiếp đó.
6. Địa ngục ( Tâm sân hận ): Cảnh giới của những chúng sinh độc ác, hận thù, gây ra nhiều nghiệp không thể chấp nhận trong kiếp trước.
Số chúng sinh là rất nhiều nhưng có hạn; nếu dân số loài người tăng lên thì chứng tỏ các chúng sinh chuyển từ cảnh giới khác tới cảnh giới nhân ngày càng nhiều hơn.
Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật Vô Thường, nên không có ai ở mãi trong một cảnh giới nào cả. Không có một điều phúc đức nào vô cùng để đáng thưởng vô thời hạn trong một cảnh giới hạnh phúc nào đó. Và không có một tội ác nào lớn tới mức vô cùng để đáng bị phạt đời đời tại một cảnh giới đau khổ nào đó. Do đó, chúng sinh cứ trôi lăn trong lục đạo mãi, hết ở cảnh khổ lại qua cảnh sướng, hết cảnh sướng lại rơi lại vào cảnh khổ. Cho tới một lúc nào đó, chúng sinh giác ngộ được con đường giải thoát, và quyết tâm tu tập thành Phật, thì mới ra khỏi cái vòng luân hồi đó.
Trong lục đạo, chỉ có hai cảnh giới được coi là sướng, là cảnh giới Thiên và Nhân, nhưng cảnh giới Nhân là quí hơn cả. Xét về mặt hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng chính vì vậy mà họ bị ru ngủ không muốn tìm sự giải thoát thật sự, để rồi khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một cảnh giới khổ hơn. Các Atula thì tâm trí bị thu hút vào việc tranh cãi hơn thua, các ngạ quỉ thì quan tâm đến những thèm khát không được thỏa mãn, súc sinh thì u mê chỉ nghĩ đến thức ăn và thỏa mãn tính dục, còn ở địa ngục thì mọi chúng sinh bị hành khổ đủ cách nên không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến đạo giải thoát.
Chỉ có con người có sướng có khổ một cách tương đối quân bình, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát tâm đi tìm con đường giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết định hơn cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả để có thể đạt tới trí tuệ giải thoát. Trong lục đạo, chỉ có con người có nhiều cơ may, nhiều khả năng để thành Phật nhất. Do đó, theo Ðức Phật, được làm người là cả một cơ hội quí báu không nên uổng phí. Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8 (Phật Ðạo) nói rõ điều đó.
Kiếp sau của chúng ta như thế nào phụ thuộc vào 4 loại nghiệp sau:
1. Nghiệp cận tử:
Đây là nghiệp quan trọng nhất. Khi chúng ta sắp chết chúng ta sẽ tiếc nuối, vòng đời chúng ta sẽ được tua lại trong đó có những việc ta tiếc là mình đã làm và cũng có những việc ta tiếc là đã không làm.
Nếu cả cuộc đời ta lao đầu vào kiếm tiền mà quên hết những thứ xung quanh thì khi sắp chết ta thấy hối hận vì đã không dành nhiều thời gian hơn để hưởng thụ cuộc sống, để dành thời gian cho gia đình.
Nếu ta dành thời gian cả đời để uống phí cho những việc làm vô bổ thì thì khi sắp chết ta sẽ thấy hối tiếc là mình đã lãng phí cả cuộc đời.
Chúng ta cũng tiếc là chúng ta không thể mang theo của cải mà chúng ta đã làm ra trong cuộc đời này theo; chúng ta tiếc những thú vui trong cuộc sống mà chúng ta sẽ không còn được hưởng thụ nữa.
Chúng ta sợ hãi về một thế giới mà chúng ta sẽ tới, tối tăm và không rõ có gì ở đó.
Càng tiếc nuối, càng ham muốn, càng sợ hãi thì nghiệp chúng ta tạo ra càng lớn khiến ta sẽ đầu thai vào kiếp tương ứng với các nẻo ở trên.
Chính vì lý do này mà các vị sư trên dãy lạt ma đều muốn khi cận tử có thầy của họ dẫn đường. Tu tập cả đời mà cận tử không cẩn thận là dễ mất công toi.
2. Tích lũy nghiệp: là nghiệp sinh ra trong quá trình chúng ta sống.
Nghiệp được sinh ra bởi Tâm, Thân, Miệng. Tâm có nghĩa là ngay cả suy nghĩ của ta tốt hay xấu mà chưa gây hại cho ai cũng tạo nghiệp. Thân là những hành động thiện hay ác của ta gây ra cho người khác hoặc chính ta; miệng là những lời nói của ta.
Nghiệp chính là hạt còn quả chính là kết quả của hạt. Mỗi một lời nói, suy nghĩ, hành động của ta đều gieo hạt và hạt đó sẽ nảy thành quả tốt hay xấu tương ứng.
3. Tập quán nghiệp : là thói quen của ta sinh ra nghiệp
Mỗi người trong chúng ta đều có một tập thói quen nào đó. Thói quen có thể tốt và cũng có thể xấu. Ví dụ như nếu ta thường ngày lúc nào cũng ham muốn, dành giật ,ganh ghét, hận thù,..thì tới lúc cận tử khi mà lý trí đã kém kiểm soát hơn thì ta cũng chẳng thể thay đổi một trăm tám mươi độ được.
4. Cực nghiệp
Nghiệp tạo ra gây ra hậu quả nghiêm trọng, trái luân thường đạo lý như giết người.
Việc ác có thể ta gây ra cho người khác hoặc chính ta; vì vậy tự tử cũng là một tội giết người vậy. Trong thiên chúa giáo, tự tử còn là một trọng tội.
Vì tin theo luân hồi nên những người theo đạo thường không thờ cúng bố mẹ, ông bà, tổ tiên. Vì theo lý luận rằng các linh hồn đều bình đẳng, bố mẹ ta ở kiếp này là là bố mẹ ta nhưng khi ở kiếp trước thì ta có thể là bố mẹ ta.
Triết học phật giáo (P4: Luật nhân quả là gì?)
Thực ra ban đầu tôi chỉ định viết một bài về chủ đề này thôi, tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân quả lại thấy có mối liên quan dây mơ rễ má rất nhiều khái niệm khác nên đành phải viết mấy bài phía trước cho có đầu có cuối.Tất nhiên là Nhân quả là quy luật chung chứ không phải chỉ có trong phật giáo nhưng luật nhân quả là xương sống của phật giáo. Nếu như các đạo khác chỉ khuyên người ta phải ngoan đạo, phải làm việc này việc kia thì sẽ được lên thiên đường thì đạo phật giải thích một cách cặn kẽ hơn và dựa vào luật này rất nhiều.
Luật nhân quả đơn giản hiểu là gieo nhân nào gặp quả đấy. Quả có thể là trong kiếp đang sống hoặc kiếp sau hoặc kiếp nào đó sau nữa; nói chung ta sẽ nhận được quả khi đã gieo nhân:
Có mấy điểm chúng ta có thể rút ra như sau:
1. Luật nhân quả tồn tại một cách hiển nhiên:
Mọi cái chúng ta có, mọi hoàn cảnh chúng ta nhận đều có nguyên nhân nào đó.
Ví dụ kiến thức của chúng ta về một lĩnh vực như thế nào đều là do học hỏi của ta trong quá khứ. Bạn không thể ước có kiến thức khi mà mà chẳng bỏ công ra học tập. Tương ứng với các năng lực khác, bất cứ cái gì cũng đều phải do một tiến trình nỗ lực học tập trong quá khứ.
Trừ những người giàu do thừa kế, còn lại những người giàu do tự thân thì đều có một quá khứ nỗ lực hơn hẳn những người khác.
Gia đình bạn ngày nay hạnh phúc hay bất hạnh là do ảnh hưởng của quá khứ. Nếu bạn chăm chút cho gia đình thì gia đình bạn tất hạnh phúc; còn bạn không thể bỏ bê gia đình và mong muốn gia đình mình hạnh phúc được.
Một số trường hợp mang tính huyền bí như gây tội ác mà không bị pháp luật trừng trị nhưng rồi bị quả báo theo kiểu Lưới trời lồng lộng chạy đâu cho thoát thì thực ra vẫn có thể giải thích được một cách logic.
2. Kiểm soát suy nghĩ, lời nói và hành động
Chúng ta tạo nghiệp từ 1.Tâm thức (suy nghĩ) 2. Hành động và 3. Lời nói.
Hoàn cảnh sinh ra Cảm xúc, Cảm xúc sinh ra suy nghĩ, suy nghĩ sinh ra lời nói và hành động, lời nói và hành động lặp đi lặp lại sinh ra thói quen. Hoàn cảnh là những thứ khách quan bên ngoài vì vậy ta chỉ có thể giảm thiểu mà không thể tránh.
Ví dụ khi ta đang đi xe trên đường, một chiếc xe từ trong ngõ lao ra đâm vào xe ta làm xe bị trầy một vết lớn. Lập tức ta phát sinh cảm xúc tức giận, mức độ tức giận phụ thuộc vào việc ta quý chiếc xe tới mức độ nào. Cảm xúc tức giận sinh ra chửi bới, quát mắng người kia; nếu lời nói chưa làm ta thỏa mãn thì sẽ sinh ra hành động là lao vào đánh.
Cảm xúc tức giận gây cho ta cảm giác rất khó chịu, tim đập nhanh hơn, não căng thẳng hơn, một số chất độc được tiết ra hòa vào máu. Ngay cả khi ta không có lời nói hay hành động gì thì sức khỏe ta đã bị giảm sút rồi; ta càng hay tức giận thì ta càng chết sớm.
Ở thái cực ngược lại, khi một ai đó khen ta, lập tức trong ta phát sinh một cảm xúc tự đề cao chính mình. Điều này làm bản ngã của ta tăng lên dẫn tới những lời nói thiếu tôn trọng người khác, hành động độc đoán, ích kỷ.
Như vậy để lời nói và hành động không tạo nghiệp xấu thì ta phải quản lý được suy nghĩ của chính mình.
Nếu ta đánh đồng ta là cảm xúc thì ta sẽ bị cảm xúc chi phối vì vậy ngay khi một cảm xúc tiêu cực chuẩn bị hình thành ta phải tách biệt nó ra khỏi chính ta để theo dõi cảm xúc. Khi là người ngoài cuộc ta sẽ không bị cảm xúc chi phối nữa, cảm xúc sẽ mất đi. Sẽ làm rõ hơn ở entry Vô ngã.
3. Loại bỏ tác động của ngoại cảnh
Khi một ai đó có lời nói và hành động xấu tới bạn thì họ đã gieo nhân xấu và chính họ sẽ nhận quả xấu. Vì vậy bạn không cần phải tức giận với họ và tìm cách trả thù họ làm gì; một thế lực khác sẽ giúp bạn làm điều này.
Mặt khác theo nguyên lý Nhân-Quả thì việc họ hành xử với bạn như vậy là bắt nguồn từ một nghiệp nào đó bạn tạo ra trong quá khứ. Bằng cách bỏ qua bạn sẽ không làm kết quả trầm trọng thêm, bạn nên vui mừng vì bạn đã hoàn thành trả một nghiệp xấu nào đó, một kết quả khác đã có thể tệ hơn thế này rất nhiều.
4. Không nản khi khó khăn
Đường đời ta đi chẳng phải lúc nào cũng bằng phẳng. Theo ngôn ngữ nhà phật, chỉ trong một sát na cuộc đời bạn đã có thể bước sang một trang khác u tối hơn hoặc ngược lại.
Khi bạn gặp rủi ro trên đường đời trước hết chuyển nó thành suy nghĩ tích cực bằng cách vui mừng là ta đã trả một nghiệp xấu nào đó trong quá khứ. Sau đó, vì mọi thứ đều tuân theo quy luật vô thường nên chắc chắn khó khăn sẽ trôi qua, cuộc sống của bạn sẽ trở lại bình thường.
5. Cho đi mà không mong báo đáp
Khi bạn cho đi những điều tốt lành bạn đã gieo một nhân tốt. Nhân tốt này sẽ đơm hoa kết trái cho bạn ở kiếp này hoặc ở kiếp sau.
Nếu như động cơ của bạn khi làm một việc tốt là mong muốn được nhận một điều gì đó đáp trả thì chính mong muốn này sẽ làm cho kết qủa khó xảy ra. Nếu như làm việc tốt tự nó mang lại cho ta niềm vui thì ta cũng chẳng cần phải mong họ đáp trả với lòng biết ơn nữa.
6. Đôi khi con cái chúng ta phải trả giá cho nghiệp mà chúng ta tạo ra
Đa phần các ông bố bà mẹ quý con cái hơn chính mạng sống của họ. Họ sẵn sàng chịu những hậu quả mà họ gây ra nhưng nếu con cái họ phải chịu hậu quả thì đó còn là sự trừng phạt đáng sợ hơn gấp nhiều lần.
Cha ông ta đã đúc rút ra câu “Đời cha ăn mặn đời con khát nước” thể hiện rất rõ mối tương quan nhân quả này. Nếu như ông bố trong một gia đình phản bội vợ con thì con gái của anh ta có nhiều khả năng sẽ bị chồng đối xử tương tự. Nếu như đời bố mẹ kiếm tiền bất chấp đạo lý thì con cái họ có xu hướng chẳng ra gì.
7. Định mệnh là không tồn tại
Theo giáo lý nhà phật thì kiếp này của ta như thế nào là phản chiếu của nghiệp mà chúng ta tạo ra ở các kiếp trước. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện tại ta có quyền quyết định cho những suy nghĩ, lời nói và hành động của chính chúng ta vì vậy ta được quyết định Quả mà chúng ta sẽ nhận.
Mỗi người sinh ra chắc chắn không có một định mệnh rõ ràng phía trước vì đời của ta do quá nhiều biến số tạo thành. Nếu đã không có định mệnh thì bói toán cũng không thể đúng được, bản thân phật giáo cũng không công nhận bói toán. Phật giáo cũng không khẳng định việc chúng ta thường xuyên đi chùa cầu xin sẽ được toại nguyện mà tất cả phải từ thực tế chúng ta tạo nghiệp như thế nào.
Khi giải thích theo luật nhân quả, phật giáo hơi xa đà và có vẻ tận dụng nó một cách hơi cực đoan. Nếu theo quan điểm của đạo phật thì cuộc sống của ta ở đời này thể hiện cách hành xử của chúng a ở kiếp trước. Ví dụ như với một người gặp rất nhiều tai họa, họ rất khổ cực thì đạo phật giải thích là do nghiệp kiếp trước của họ quá lớn. Khi giải thích như vậy thì những người xung quanh sẽ có suy nghĩ là “họ đáng bị như vậy, họ đang trả giá cho những gì họ đã gây ra”. Điều này dẫn tới việc những người đó bị bỏ rơi.
Mặt khác vì muốn kiếp sau được sung sướng thì người ta sẵn sàng hy sinh kiếp này ví dụ như ăn chay niệm phật, đi nhẹ nói khẽ, sống theo kiểu an phận thủ thường, sống một cách khổ cực, thậm chí còn làm khổ những người quanh họ. Có nghĩa là họ hy sinh cái trước mắt một cách không cần thiết để trông chờ một cái không rõ ràng ở kiếp sau.
Triết học phật giáo (P5: Sống với vô ngã)
Có 3 tiêu chí để xét một giáo lý, một diễn giải,.. là chánh pháp hay không đó là Khổ, Vô thường và Vô ngã; thường được gọi là Tam pháp ấn. 6 cõi luân hồi đều có những cái khổ riêng, muốn thoát khổ phải thoát khỏi vòng luân hồi để đạt tới niết bàn, thành phật. Vì vậy mục tiêu mà đạo phật hướng tới đó là diệt khổ.Có 2 nguyên nhân chính gây ra khổ đó ham muốn sở hữu và cái tôi quá lớn. Vô thường bảo rằng mọi thứ đều có sinh có diệt, đều biến đổi vì vâỵ đừng ham muốn sở hữu cái gì. Càng không ham muốn sở hữu bạn càng cảm thấy thoải mái.
Ví dụ nếu bạn sở hữu một cái xe sang rất đẹp bạn sẽ lo nghĩ về nó, liệu để ngoài đường có bị mất không, có bị người ta lấy không? Chỉ cần xe bị xước một tí là bạn tiếc vài ngày. Càng có nhiều tài sản bạn càng lo nó bị người ta lấy đi, ăn không ngon ngủ không yên.
Để diệt cái tôi quá lớn, đạo phật bảo rằng ta không có Bản ngã. Cái tôi mà ta có chỉ là ngũ uẩn bao gồm các giác quan ta cảm nhận, các ý niệm phát sinh căn cứ vào các thông tin từ giác quan.
Quả thật có phải là điều khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang tồn tại là những thứ chúng ta đang chạm vào (xúc giác), cái chúng ta nhìn thấy (thị giác), những âm thanh chúng ta nghe thấy (thính giác), những mùi vị (khứu giác, vị giác),..
Giả sử như chúng ta mất hết các giác quan thì chúng ta thậm chí còn không xác định được là chúng ta có một thân xác. Lúc đó thứ còn lại là tâm thức, những luồng suy nghĩ sinh rồi mất liên tục. Giả sử như tâm thức cũng mất đi thì chúng ta không còn thấy sự tồn tại của mình nữa.
Chỉ mất một vài ngày là toàn bộ các tế bào cơ thể ta đã được thay thế bằng các tế bào mới. Nhưng tại sao chúng ta vẫn cảm thấy tính liên tục của thời gian; chúng ta phải là một cái gì đó khác chứ không phải là thân xác vật lý này cùng với tâm thức của nó. Thân xác này chỉ là nơi trú ngụ của một thứ huyền diệu hơn, đó là Linh hồn.
Ta không có bản ngã, ta Vô ngã. Nếu ai đó chửi ta thì ta cũng không lấy đó làm tức giận, nếu ai đó khen ta thì ta cũng không lấy đó làm tự mãn. Người nào bản ngã càng lớn thì người đó càng khổ, chỉ cần người ta gặp mình không chào đã thấy bất mãn, chỉ cần người ta nhìn mình mình đã suy diễn là nó khinh mình, bất cứ ai làm trái ý ta cũng đều làm ta tức giận. Người nào càng giàu, chức vụ càng cao thường bản ngã càng lớn. Nhưng khi những người đó đạt tới một cấp nào đó thì họ sẽ cảm nhận được vô thường và vô ngã, lúc đó họ cảm nhận được nguyên lý chúng sinh bình đẳng và cư xử với mọi người đều với thái độ tôn trọng không phân biệt cấp bậc, giàu ngèo.
Tuy nhiên thế nó chửi mình mà mình không giận thì có đáng mặt anh hùng không? Thực ra việc diệt trừ ngã để giúp cho chúng ta không rơi vào trạng thái cảm xúc bị kích thích, khi vào trạng thái này ta thường suy diễn, khuếch đại làm trầm trọng thêm vấn đề. Khi đó hành động của ta thiếu lý trí và mắc nhiều sai lầm. Ở trạng thái tâm tĩnh lặng ta sẽ có những suy nghĩ, lời nói, hành động có lý trí hơn rất nhiều.
Khi đứng trước một vấn đề ví dụ như học hỏi, thảo luận thường ta sẽ đặt ra nhiều câu hỏi nghi ngờ, đánh giá; cái tôi càng cao thì giống như cốc nước đầy chẳng học hỏi được gì, chẳng nghe được gì. Giảm cái tôi xuống sẽ giúp cốc nước vơi đi để bạn có thể tiếp thu học hỏi và làm việc nhóm chất lượng hơn.
Để thoát khỏi vòng luân hồi, chúng sinh đầu tiên phải có nhận thức về Khổ, Vô thường và Vô ngã. Khi không có nhận thức đó thì cũng không có mong muốn giải thoát, đó gọi là vô minh. Khi bắt đầu có nhận thức rằng cuộc sống này là khổ, cõi nào cũng khổ thì chúng sinh bắt đầu tu tập để thoát khỏi luân hồi. Quá trình tu tập kéo dài trong nhiều kiếp mà trong đó kiếp người là kiếp thuận lợi nhất cho việc tu tập.
Mặc dù triết lý thoát khổ không quá khó hiểu nhưng để áp dụng nó thật quả là không dễ dàng gì. Tất cả nhu cầu của con người đều xoay quang Vật chất và Tinh thần. Từ bỏ ham muốn sở hữu là từ bỏ nhu cầu vật chất; từ bỏ bản ngã là từ bỏ nhu cầu tinh thần.
Các câu hỏi siêu hình
1. Nếu
đã không có ngã thì chủ thể tạo nghiệp và chủ thể thọ nghiệp là khác nhau?2. Nếu có linh hồn chuyển qua các kiếp thì linh hồn chẳng phải ngã là gì? Và linh hồn có thường không, có nghĩa là nó có bị diệt không?
3. Niết bàn nơi mà chúng sinh cố gắng tu tập để tới đó có phải là một cõi cụ thể không?hữu hình hay vô hình?
4. Nếu mọi thứ đều vô thường thì thế giới này có thường không? có nghĩa là tới lúc nào đó nó có bị diệt không?
5. Thế giới là hữu hạn hay vô hạn?
Triết học phật giáo (P6: Pháp duyên khởi)
Mỗi người theo đạo thường quan niệm rằng người mà họ gặp đều là do duyên. Vì vậy cho dù người đó có thấp kém hay giàu sang, có mang cho họ niềm vui hay nỗi khổ thì họ vẫn đón nhận một cách bình thản và quý trọng.Dân số thế giới 8 tỷ người và có hàng tỷ tỷ tỷ các chúng sinh ở các cảnh giới khác nhau, việc có cơ hội gặp nhau theo quan niệm đạo phật chắc chắn phải do nhân duyên kiếp trước. Cũng như việc chọn vợ chọn chồng là phải có duyên với nhau ở kiếp trước; chỉ có do duyên thì mới gặp được nhau, vô duyên gặp nhau mà cố kết nối thì không sớm thì muộn cũng chia lìa.
Duyên khởi trong đạo phật thể hiện một vòng lặp, một mắt xích của luân hồi, thể hiện mối tương quan giữa kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Nó được xây dựng dựa nguyên lý nhân quả giữa hai hai thứ A và B. Quy luật :
– Do có A thì mới có B
– Do không có A thì cũng không có B
– Do cái A được sinh ra thì cái B mới được sinh ra
– Do cái A diệt nên cái B diệt
Duyên khởi bao gồm 12 chi kết hợp dựa trên mối quan hệ nhân quả với nhau thành một vòng lặp như ở dưới, thường được gọi là 12 nhân duyên:
1. Vô minh là không hiểu về khổ, nguồn gốc gây khổ, cách diệt khổ, con đường diệt khổ (không hiểu Tứ diệu đế). Vì vô mình nên vướng vào vòng luân hồi. Vô minh sinh ra Hành ( các nghiệp tạo ra do tâm thức, lời nói, hành động)
2. Hành sinh Thức (Ý thức, Nhãn thức, Xúc thức, Thính thức, Vị thức, Khứu thức). Thức vào bụng mẹ tương ứng với Hành tốt xấu.
3. Thức sinh Danh Sắc là toàn bộ phần vật lý và tâm lý của bảo thai do Ngũ uẩn tạo thành.
4. Danh sắc sinh lục căn (lục xứ): sau căn bao gồm Ý thức, Thị giác, Xúc giác, Thính giác, Vị giác, Khứu giác.
5. Lục căn tiếp xúc với bên ngòai tạo lên Xúc ví dụ như màu sắc, hình dáng, mùi vị,..
6 Xúc sinh Thụ (Thọ) là cảm nhận của con người về thế giới bên ngoài ví dụ đẹp xấu, âm thanh khó chịu hay dễ chịu. Chính là các phản ứng phát sinh khi lục giác tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
7. Thụ sinh Ái ví dụ như lòng ham muốn sở hữu, tức giận do bản ngã,…Ái bao gồm dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Ái
– Khát
ái các lạc thú, tức khát ái vị ngọt của sắc thanh hương vị xúc pháp: dục ái.– Khát ái hiện hữu, trở thành, danh tướng, nhà mới, xe mới,… hữu ái
– Nhàm chán sự hiện hữu: vô hữu ái.
8. Ái sinh Thủ : là sử dụng, ôm chặt lấy vì nó là vật của tôi ( có ngã) do vì vô mình nên không hiểu vô ngã.
9. Thủ tạo ra Hữu: chính là nghiệp tạo ra do tâm thức, lời nói và hành động.
10. Hữu sinh Sinh : là sự hoàn tất cả thành phần của Ngũ uẩn
11. Có Sinh nên có già và chết gọi là Lão tử
Vòng tròn luân hồi 12 nhân duyên này cứ xoay vòng mãi do chúng sinh vô minh (không hiểu tứ diệu đế), tham lam muốn sở hữu và bản ngã.
Triết học phật giáo (P7: Chánh niệm là gì?)
Lần cuối cùng bạn nghe nhạc mà không làm hay nghĩ bất cứ thử gì, mọi giác quan chỉ tập trung vào nghe các giai điệu nhạc? Với tôi rất lâu rồi, tôi nghe nhạc khi đang đi xe, khi đang làm việc,.. túm lại cái lần cuối cùng tôi nằm tập trung vào nghe nhạc cách đây lâu lắm rồi.Tâm thức chúng ta như con khỉ cứ nhảy từ quá khứ tới hiện tại rồi tới tương lai không dứt. Ngay cả khi bạn chủ định vào thưởng thức từng nốt nhạc thì chỉ vài phút sau âm nhạc làm gợi cho bạn một ký ức nào đó trong quá khứ, rồi một lúc sau thì tâm trí bạn lại nhảy tới tương lai sau khi lướt nhanh qua hiện tại.
Khi trí óc ta chạy nhẩy qua các khoảng thời gian, gặp ký ức nào thì sinh ra cảm xúc đó. Khi nghĩ về quá khứ ta tiếc nuối một việc gì đáng nhẽ ta không làm hoặc đáng nhẽ ta phải làm. Khi nghĩ về tương lai ta lo lắng về một việc có thể xảy ra hoặc không xảy ra, sau đó ta dự định sẽ làm gì với mỗi sự kiện.
Quá khứ là việc đã xảy ra vì vậy ta không thể thay đổi được. Tương lai là những gì chưa xảy ra vì vậy cũng không nên nghĩ tới. Nếu như ta sống tốt ở hiện tại thì rồi mai đây hiện tại sẽ trở thành quá khứ và tương lai trở thành hiện tại. Sống tốt ở hiện tại sẽ là tiền đề tốt để có một quá khứ không tiếc nuối và một tương lai tốt đẹp.
Chánh niệm là việc chúng ta tập trung toàn bộ mọi giác quan bao gồm cả suy nghĩ vào hành động chung ta đang thực hiện. Ví dụ như khi ta ăn thì ta chỉ tập trung vào ăn thôi mà không xem phim hay nói chuyện hay nghĩ bất cứ điều gì khác. Khi nghe nhạc ta chỉ chỉ tập trung thưởng thức từng nốt nhạc. Khi đi bộ ta tập trung vào từng bước chân, hơi thở.
Ví suy nghĩ của chúng ta không bị bó buộc vào thời gian hay không gian như thân xác ta nên ta phải quan sát suy nghĩ của ta. Khi bất cứ một ý niệm nào khởi phát bước đầu tiên ta phải nhận biết được nó vì thông thường khi một ý niệm xuất hiện thì các ý niệm liên tiếp sẽ xuất hiện khiến bạn càng ngày càng chìm sâu vào suy nghĩ.
Khi phát hiện ra một ý niệm khởi phát, ta ngay lập tức dừng suy nghĩ đó lại. Tuy nhiên tâm trí ta như con khỉ, nó không chịu ngồi yên, bất cứ lúc nào nó cũng làm việc trừ lúc ngủ. Thông thường trí óc dùng để điều khiển các hành động của chúng ta tuy nhiên có rất nhiều hoạt động chúng ta vẫn có thể làm mà không phải nghĩ.
Ví dụ như chúng ta không phải nghĩ tới việc làm sao để phình to lá phổi để hít khí vào và ngược lại. Chúng ta đi bộ mà không phải nghĩ tới việc điều khiển chân như thế nào để khỏi ngã, thậm chí khi đã quen chúng ta lái xe cũng không cần nghĩ; để tới lúc về nhà thì chúng ta không nhớ nổi mình đã về bằng cách nào.
Nói chung khi công việc có tính lặp đi lặp lại thì đến một lúc nào đó ta sẽ không phải nghĩ nhiều tới việc làm chúng như thế nào nữa.
Thiền là phương pháp giúp chúng ta loại bỏ các suy nghĩ để chỉ tập trung vào hơi thở. Khi tập thiền tới mức độ cao thì người thiền không có bất cứ một suy nghĩ nào; họ rơi vào trạng thái trống rỗng. Làm điều này rất khó bởi vì nếu bạn ý thức được là mình chẳng nghĩ gì cả thì đó cũng đã là một suy nghĩ rồi.
Suy nghĩ ảnh hưởng tới thân thể vật lý của chúng ta. Chỉ cần nghĩ rằng chúng ta bị bệnh thì chúng ta sẽ bị bệnh, lo lắng cũng sinh ra nhiều chất có hại cho cơ thể. Nếu ta loại bỏ được các suy nghĩ trong đầu thì đầu óc ta sẽ thảnh thơi từ đó sức khỏe cũng được cải thiện.
Một thói quen liên quan chúng ta cũng nên bỏ là thói quen phán xét. Khi nhìn thấy một hiện tượng nào đó ta hay có phản xạ phán xét căn cứ theo tiêu chuẩn của chúng ta, các phán xét mang tính chủ quan với thông tin hạn chế thường sẽ không chính xác với đúng bản chất của sự việc. Chúng ta chỉ nên quan sát và bỏ qua phán xét khi sự việc đó chẳng liên quan gì tới ta.
Triết học phật giáo (P8: 10 thế giới trong tâm)
Trong entry về thuyết luân hồi ta đã biết tới 6 cõi luân hồi nơi mà những chúng sinh do vô minh mà cứ lặp đi lặp lại các kiếp. Tuy nhiên không phải người ta tạo nghiệp rồi khi diệt thì mới đi vào các cõi tương ứng mà trong mỗi chúng ta đều đã tồn tại những thế giới đó rồi.Mỗi con người đều có xu hướng sống chủ đạo về một cõi nào đó trong cả cuộc đời anh ta nhưng cũng không tránh khỏi có những thời điểm lạc vào thế giới khác. 10 thế giới đó là:
Mỗi thế giới có những đặc trưng riêng mà sinh ra suy nghĩ và hành động tương ứng. Có những lúc ta cảm thấy tuyệt vọng, muốn chết thì đó là địa ngục. Có những lúc ta giận giữ điên cuồng muốn đập phá mọi thứ đó là Atula. Có những lúc ta thèm khát, ham muốn tột độ thì đó là Ngạ Quỷ. Có những lúc ta đánh đập, giết người đó là súc sinh.
Ngoài 6 cõi thì còn 4 cõi khác có liên quan tới những người đang tu tập tìm con đường giải thoát cũng như những vị đã ở niết bàn:
– Thành văn: có những lúc ta như các vị tỳ kheo.
– Bích chi: có những lúc ta thấy muốn tìm đường giải thoát khỏi kiếp luân hồi.
– Bồ tát: ta thấy thương xót chúng sinh muốn ra tay cứu độ chúng sinh.
– Phật : tìm thấy sự an lạc trong tâm hồn.
Chính vì vậy người ta bảo Phật là ở trong tâm. Không phải chúng ta xây điện, đắp tượng thật to hay đi cầu bái quanh năm thì trời phật ủng hộ. Tất cả đã ở sẵn trong tâm chúng ta, nếu chúng ta loại bỏ được các ý niệm xấu để sống với ý niệm tốt đẹp thì tự nhiên hành động và lời nói của chúng ta sẽ khác đi từ đó chúng ta tạo ra những nghiệp tốt.
Theo nguyên tắc thì bất cứ lúc nào ta cũng chỉ sống ở trong một thế giới. Ta không thể vừa tức giận điên cuồng vừa yêu thương tha nhân, ta không thể vừa đau khổ, thèm khát vừa hạnh phúc, giải thoát. Vì vậy, nếu chúng ta luôn ý thức để định vị mình trong một cõi thì dần dần ta sẽ có thói quen ở trong cõi đó.
Triết học phật giáo (P9: Ăn trong chánh niệm)
Sống trong chánh niệm là khi ta chỉ tập trung vào cái chúng ta đang làm, ví dụ như đang ăn thì tập trung vào ăn, đang đi thì tập trung vào đi. Tại sao phải làm vậy? vì rằng trừ những lúc ta tập trung vào giải quyết một vấn đề gì đó thì các ý nghĩ còn lại đều vô bổ và không có lợi cho ta.Khi rời khỏi cơ quan có nhiều công việc vẫn theo ta về nhà, chúng ta miên man với các suy nghĩ tưởng tượng về những tồi tệ có thể xảy ra, hay tìm cách giải quyết vấn đề nhưng những suy nghĩ đó thường chỉ khiến đầu óc ta mệt mỏi là chính.
Các ý thức liên tục phát sinh trong những lúc ta không làm việc đều là tạp niệm, những suy nghĩ không mang lại ích lợi gì mà khiến cho tâm trí ta xáo trộn, lúc vui, lúc buồn, khi tức giận khi chán đời.
Có 4 loại thức ăn ta ăn hàng ngày, hàng giờ đó là:
1.Đoàn thực:
Là các thức ăn đi vào bằng đường miệng
2.Xúc thực:
Là các thức ăn liên quan tới các giác quan của ta như sách báo, ti vi,…và cả suy nghĩ
3. Tư niệm thực:
Ham muốn, ước mơ, hy vọng ví dụ như khi ta đi siêu thị cho dù rằng ta đã chủ định mua cái gì rõ ràng rồi nhưng ta vẫn phát sinh các ham muốn khi nhìn thấy cái điện thoại, ti vi đẹp.
4. Thức thực:
Là tâm thức của cộng đồng nơi ta sống và chính tâm thức của ta. Khi hàng xóm, đồng nghiệp của ta là những người sống trong hận thù, tuyệt vọng thì họ sẽ sinh ra một bầu không khí tương ứng; cho dù không muốn ta cũng sẽ dần trở nên như họ.
Khi trí óc trở nên nhàn rỗi nó nghĩ tới một sự kiện nào đó trong quá khứ và ta lại sống trong tâm trạng vui hay buồn đó.
Ta như thế nào sẽ phụ thuộc vào thức ăn chúng ta ăn. Cái giúp chúng ta định hướng được thân và ý của chúng ta đó là lòng biết ơn.
Khi ăn thức ăn ta ăn với niềm biết ơn rằng thức ăn đó là kết tinh của trời đất, có mùi, có vị, có màu sắc mà mỗi thứ đều đánh thức những giác quan của chúng ta; không có ý thức ta sẽ không biết là ta đang ăn cái gì.
Thông thường khi đã quen với một cái gì đó ta thường hay coi đó là tất nhiên phải có. Không khí, nước, hòa bình, gia đình, bạn bè, thức ăn, …..Nhưng bạn cũng thấy rằng có những thứ đối với chúng ta rất bình thường nhưng nhiều người không có được như vẫn có người chết đói, cụt chân cụt tay, sống trong chiến tranh bạo động,…
Mọi thứ đều vô thường, có sinh có diệt, không có gì là mãi mãi. Mọi thứ ta đang có đều sẽ mất đi trong tương lai bao gồm chính mạng sống của chúng ta. Vì vậy ta phải trân trọng từng giây phút ta sống và từng thứ ta có cho dù đó có là hạt gạo bình thường ta ăn hàng ngày.
Chúng ta cũng trân trọng những gì người khác mang lại cho ta như sự học hỏi, cơ hội, sự giúp đỡ tinh thần, vật chất,…
Với xúc thực ta cần lựa chọn những thứ ta đọc, ta xem hàng ngày. Loại hẳn ra những tin tức làm gợi lên nỗi sợ hãi, lòng ham muốn, sự thèm khát, …
Thức thực là cái chúng ta khó kiểm soát nhất. Đầu óc ta vốn đã có thói quen suy nghĩ miên man rồi. Càng lớn ta càng chất chứa trong mình nhiều nuối tiếc về những việc trong quá khứ. Ta cũng càng phải gánh những trách nhiệm nặng nề hơn ở công ty cũng như ở nhà khiến ta cũng đầy ắp những suy tư, lo lắng về một tương lai.
Nền kinh tế suy thoái, dàn khoan 981 làm cho số người giận dữ, bất an, nghèo khổ ngày càng tăng lên. Sống trong một không khí như vậy ta khó mà thoát khỏi tầm ảnh hưởng của tâm thức cộng đồng vì vậy giữ tâm mình sao cho trong sạch, an bình là rất quan trọng.
Ăn trong chánh niệm ( ngũ quán)
Quán 1: nhận biết rằng thứ ta đang ăn đều là
kết tinh của trời đất, để có một trái cây ngọt phải có cây, có đất, có nước, có
người chăm sóc,..Thức ăn không tự nhiên mà có, rất nhiều người còn đang đói.Quán 2: Ta chỉ là một chúng sinh mà được hưởng một kết tinh của trời đất. Ta sinh lòng biết ơn vì ta được một thứ lớn hơn cái chúng ta xứng đáng được hưởng.
Quán 3: Giữ gìn cho tâm mình trong sáng, không ăn một cách thèm khát hay khao khát một thứ ngon hơn.
Quán 4: Tập trung mọi giác quan vào thức ăn một cách chậm rãi.
Quán 5: Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới phải ăn.
Vì đây là 5 quán của người tu hành nên quán 5 ta sẽ thấy là việc ăn để giúp tồn tại nhằm thực hiện con đường tu tập chứ không phải sống để mà ăn.
Câu hỏi lớn : Con người sống để làm gì ?
Thông thường khi còn trẻ ta có xu hướng tiêu dùng thoải mái những thứ mà chúng ta đang dư thừa đó là Sức khỏe và Thời gian. Khi cái ví sức khỏe và thời gian của ta dần cạn thì ta mới bắt đầu có những câu hỏi lớn của cuộc đời. Chúng ta rút cục là sống nhằm mục đích gì?Chúng ta sinh ra, sống một quãng vài chục năm rồi chết đi. Nếu như ta không có con cái, gia sản đáng giá thì thậm chí không ai biết tới sự vắng mặt của ta. Cuộc sống đã tiếp diễn lúc ta chưa sinh ra và vẫn tiếp diễn bình thường lúc ta chết đi. Quãng đời của ta giống như một cốc nước đổ xuống dòng sông, không làm sông nhiều nước hơn hay đục hơn.
Những gì chúng ta làm hàng ngày đều nhằm mục đích để tồn tại. 10 tiếng ở cơ quan để kiếm tiền, 8 tiếng để ngủ, 2 tiếng để ăn, còn lại là đi lại và những việc lặt vặt khác. Cuộc sống đa phần sẽ trôi qua lặp đi lặp lại như vậy cho tới chết. Ít tiền thì tiêu ít, nhiều tiền thì tiêu nhiều, có con thì chăm con, có vợ thì chăm vợ, chăm cả ông bà khi về già.
Vậy chúng ta sống vì cái gì?
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời : ” Sống là để hạnh phúc và làm cho người khác hạnh phúc”
Tôi nghĩ đó là câu trả lời hợp lý cho tất cả chúng ta, những con người bình thường. Bạn có thể đưa ra sứ mệnh kiểu như “Sống là để cống hiến”, ” Sống là để xây dựng đất nước ta to đẹp hơn” “Sống là để hưởng thụ hoặc làm việc cật lực” hoặc một lý do cao cả nào đó. Nhưng rút cục thì thế giới này có 8 tỷ người và hàng tỷ tỷ các sinh vật khác, bạn và tôi chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi trong đó thậm chí tầm ảnh hưởng còn chẳng bằng một con virus Ebola.
Xã hội này rất đa dạng, mỗi người có những cảm nhận khác nhau về hạnh phúc vì vậy con đường để chúng ta tìm tới hạnh phúc sẽ khác nhau.
Có một số quan điểm sai lầm về hạnh phúc như sau:
1. Ta cảm thấy hạnh phúc khi mà mọi thứ bên ngoài diễn ra đúng như ý của ta
Con cái ngoan, ta kiếm được tiền, ta có thời gian chăm sóc bản thân, hàng xóm thân thiện, ta có những kỳ nghỉ hàng năm, cuối tuần có thời gian shopping,….
Khi có một cái gì đó không được như ý muốn, ta sẽ cảm thấy kém hạnh phúc đi. Con cái hư đốn, vợ chồng cãi nhau, hàng xóm khó chịu, lương bị nợ, cuối tuần vẫn phải làm việc, cả năm không được đi đâu.
Khi càng nhiều các mong muốn thì ta càng khó trở nên hạnh phúc hơn. Rất khó để có một thời điểm mà mọi thứ đều như ý của ta. Rất nhiều thứ gắn bó với ta cả cuộc đời mà ta khó có thể từ bỏ được như vợ/chồng, con cái, bố mẹ, họ hàng, hàng xóm và cả chính ta.
Ở thái cực ngược lại khi ta không có ham
muốn gì cả thì điều gì sẽ diễn ra? ( Ham muốn là thứ mặc định của bản chất
con người )
Chúng ta chắc vẫn còn nhớ tới cảm
giác khi có được khoản tiền lớn, khi ai đó khen ngợi, khi con
cái vâng lời, …..Nếu chúng ta không có ham muốn có một khoản tiền lớn, có
một cô vợ đẹp, có con cái ngoan,…. thì liệu ta có cảm thấy vui sướng khi có
được điều đó?Nhưng niềm vui chỉ là một góc nhỏ của Hạnh phúc. Hạnh phúc là khái niệm cao hơn rất nhiều. Lần đầu bạn nhận được khoản tiền lớn bạn sẽ vui, các lần sau bạn sẽ kém vui dần rồi tới lúc bạn nhận một khoản tiền lớn mà chẳng có cảm giác gì. Cũng tương tự như uống bia, cốc đầu tiên ngon, tới cốc thứ hai thì kém ngon hơn, rồi tới một lúc nào đó ta sẽ không thể phân biệt được giữa một cốc bia lạnh và một cốc nước lạnh. Trong kinh tế học người ta gọi đó là Lợi ích cận biên giảm dần.
Niềm vui của bạn khi lần đầu tiên được bố mẹ cho 20 nghìn đồng mua quà có khi còn lớn hơn rất nhiều so với niềm vui khi bạn có được 2 triệu bây giờ. Niềm vui có được căn hộ nhỏ đầu tiên cũng lớn hơn niềm vui khi bạn có được một căn biệt thư đắt tiền bây giờ. Một vài năm sau bạn sẽ có cảm giác là niềm vui được sống giữa căn biệt thự và căn hộ không khác gì nhau; thậm chí bạn có cảm giác lo sợ hơn mỗi khi đưa gia đình đi chơi đâu đó vài ngày.
Con người có thói quen trong cả hành động lẫn cảm xúc. Lần đầu tiên khi chuyển từ đi xe số sang xe gas bạn sẽ thấy sao mà thích thế. Lúc đó bạn nhìn rõ tất cả các khác biệt từ độ ổn định của xe, tốc độ xe, vẻ đẹp của xe. Sau chục lần đi bạn sẽ dần dần không nhận thấy những khác biệt này nữa và bạn thấy rằng đi xe gas không làm bạn sung sướng hơn khi đi xe số.
Không có ham muốn thì sẽ không có niềm vui khi thỏa mãn ham muốn. Tuy nhiên, ham muốn là một thứ mặc định mà mỗi người chúng ta đều có, chỉ khác nhau là một người thì “Nếu tôi thỏa mãn mong muốn đó thì tôi sẽ vui sướng lắm” và một người “Có cũng tốt mà không có cũng chẳng sao”.
Một nhà tu hành không vợ con, không sở hữu của cải nhưng họ vẫn có niềm hạnh phúc riêng trong sự tu tập của họ. Có nhiều con đường để có hạnh phúc, thỏa mãn ham muốn để hạnh phúc chỉ là một trong số đó.
2. Ta cảm thấy hạnh phúc khi được làm cái mình thích
Giờ nếu như tôi được làm cái tôi thích thì tôi sẽ đi ngủ muộn, dậy muộn, suốt ngày đi chơi. Đấy là cái tôi thích, những thứ mang lại chi phí chứ không phải là thu nhập. Dần dần tôi sẽ cảm thấy cuộc sống nhàm chán, thể trạng mệt mỏi. Những kỳ nghỉ dài cho chúng ta thấy rõ cảm giác này, thậm chí bạn sẽ thấy rằng đi làm còn sướng hơn là được nghỉ ở nhà.
Tất nhiên mấy ngày đầu bạn sẽ thấy vui sướng nhưng khi kéo dài thì bạn sẽ kém vui sướng dần cho tới chán nản. Nguyên tắc nó cũng giống như niềm vui khi thỏa mãn ham muốn ở trên. Lợi ích cận biên luôn có xu hướng giảm dần.
Một bà mẹ sẽ bảo là tôi muốn ở nhà trông con, nuôi chúng, dạy dỗ chúng mà không phải đi làm kiếm tiền. Ừ, bà mẹ đó sẽ hạnh phúc trong một khoảng thời gian nhưng lâu dài thì bà mẹ vẫn cứ thấy chán nản, giá đi làm thì tốt hơn. Cuộc sống là vậy cho dù bạn thích cái gì nhưng bạn cứ làm đi làm lại cái bạn thích liên tục rồi thì bạn cũng sẽ thấy ghét phải làm công việc đó.
Nếu ai đó cho chúng ta 1 triệu đô thì chắc tới 99% trong chúng ta bỏ công việc hiện tại và bắt đầu nghĩ tới việc tiêu tiền hưởng thụ. Đó có thể là:
– Đi du lịch khắp nơi
– Mua cái nhà thật đẹp, xe đẹp
– Sắm sửa quần áo vật dụng trong nhà
….
Tuy nhiên thực tế thì sẽ như thế này:
–
Ta sẽ không thể đi chơi được vì con cái ai trông? Ta không thể đưa
con cái đi theo hay thuê người khác chăm hộ. Ta có thể đi chơi vui sướng
nhưng dần dần tình cảm gia đình sẽ mất dần.– Ta bắt đầu lo lắng cho sự an toàn của tài sản mà chúng ta đã mua về (nhà cửa, xe cộ)
– Ta bắt đầu cảnh giác với những người xung quanh xem không biết họ có đang lợi dụng ta không.
Ta còn cảm thấy đáng sống khi ta đóng một vai trò nào đó, có ai đó cần tới ta. Khi động lực này mất đi thì ta không còn lý do nào tồn tại nữa. Tốc độ già của người đã về hưu mà không làm gì cả nhanh hơn rất nhiều so với việc anh ta về hưu nhưng vẫn đang làm việc.
Lúc nào chúng ta cũng có cái để thích vì vậy khi ta chán cái này thì sẽ phát sinh thêm cái khác để thích. Ví dụ như chán chơi với con và muốn đi chơi xa một mình; chán võ vẽ chuyển sang cầu lông, chán làm côn đồ chuyển sang làm người tử tế và ngược lại. Ta sẽ liên tục thay đổi cái ta thích và có khi ta lại thích cái mà trước ta ghét
Thích hay không thích chỉ là vấn đề của cảm xúc. Bất cứ cái gì cũng sẽ có người thích và không thích. Không có cái gì mà ai cũng thích và cũng không có cái gì mà ai cũng ghét. Bạn có thể bảo là ai chẳng thích đi du lịch đó đây nhưng thực tế là có những người chỉ thích ở nhà. Bạn cũng có thể bảo là Phụ nữ nào mà chẳng thích trai đẹp, đàn ông nào chẳng thích phụ nữ đẹp. Thực tế là ngay cả khi đánh giá vẻ đẹp của một cô gái hay một chàng trai thì người sẽ bảo là đẹp người sẽ bảo là xấu.
3. Đi tìm giải pháp từ bên ngoài
Ngày nay khi khoa học càng hiện đại thì ta càng có xu hướng tìm giải pháp cho các vấn đề từ bên ngoài.
– Khi bị bệnh ta sẻ hỏi Nên mua thuốc nào?
– Khi con cái học kém một môn nào đó ta sẻ hỏi Nên cho nó đi học thêm ở đâu?
– Khi thấy dốt một kỹ năng nào đó ta sẻ hỏi Nên tham gia khóa học nào?
– Khi có đồ đạc cần sửa chữa ta sẽ hỏi Gọi số điện thoại nào để kêu người tới sửa ? hoặc Nên mua cái gì thay thế?
– Khi thấy lương thấp ta sẻ hỏi Nên nhẩy việc tới chỗ nào?
– Khi phối hợp với người khác (Vợ, đồng nghiệp,..) khó khăn ta sẻ bảo Nên thay bằng người khác.
– Khi gặp tắc đường, thất nghiệp, cuộc sống khó khăn ta nói Chính phủ này phải hoạt động tốt hơn.
….
Trên ti vi hàng ngày quảng cáo về những giải pháp cho những vấn đề của chúng ta. Sữa tăng cường sức đề kháng, bổ sung canxi; thuốc kéo dài tuổi thanh xuân hay 1 người uống hai người vui, ….
Việc tìm giải pháp từ bên ngoài về bề nổi là đúng vì nó giúp ta tiết kiệm thời gian để tập trung vào những thứ ta thích làm. Ví dụ nếu thuê người dạy con mình thì mình có thời gian chứ nếu chính mình dạy thì mình sẽ mất nguyên thời gian đó. Hay việc tìm thuốc uống sẽ hợp lý hơn là ngồi đợi khỏi hoặc là tập tành cho sức khỏe lên, toàn việc mất thời gian. Thuê osin dọn dẹp, nấu nướng sẽ tốt hơn là chính ta làm…
Vấn đề ở đây là khi ta thuê ngoài thì ta phải mất tiền và tiền đó có khi ta phải dùng thời gian tiết kiệm được để có. Càng tìm giải pháp ở ngoài thì càng tốn nhiều tiền mà để có nhiều tiền hơn thì phải làm việc vất vả hơn.
Ví dụ như ta mua được cái nhà thật to. Nhà to thì phải thuê người giúp việc lau dọn, nấu nướng. Để có cái nhà to và duy trì việc thuê osin với mức sống hiện có ta phải đi làm nhiều hơn để kiếm tiền nhiều hơn. Cuối cùng thì người hưởng thụ cái nhà to đó là cô osin và ta kết thúc chuỗi ngày vất vả trên giường bệnh mà không hiểu rút cục ta đi làm vất vả để ai hưởng.
Ta tưởng ta khôn khi mua giải pháp từ bên ngoài nhằm giải quyết vấn đề mình đang gặp nhưng khi ta giải quyết được vấn đề đó thì ta lại gặp vấn đề khác có khi còn lớn hơn.
Vậy làm sao để có hạnh phúc vững bền?
1.Quan sát bến chờ xe buýt bạn
sẽ thấy điều này:– Có người sốt ruột đứng ngó mong chờ xe buýt đến.
– Có người thì suy nghĩ về công việc ở công ty
– Có người đang cãi nhau về việc xếp hàng
– Có người thì cau có vì hít khói bụi của xe đi qua
Nhưng cũng có người:
– Mỉm cười với cuốn sách đang đọc trên tay
– Thư giãn với bản nhạc mình yêu thích
– Thư thái với một kỷ niệm nào đó trong quá khứ
– Vui sướng khi nghĩ tới việc sẽ làm vào ngày mai.
2.Quan sát những người trong một vụ tắc đường bạn sẽ thấy:
– Có người nhăn nhó vì khói bụi
– Lo lắng vì không kịp đón con
– Mệt mỏi nhích từng bánh xe
– Bức tức vì đáng nhẽ mình không nên đi đường này.
Nhưng cũng có những người:
– Coi việc tắc đường là việc bình thường và bình tĩnh đợi.
– Tìm phương án để ngày mai không gặp tắc đường.
3. Quát sát những người đang ngồi trên bãi biển bạn sẽ thấy:
– Có người đang lim dim mắt tận hưởng những đợt gió nhẹ và lắng nghe tiếng sóng.
– Có người đang xếp lâu đài cát và vẽ vời lung tung
– Có người thì đang chời đùa với con cái
Nhưng cũng có người
– Khuôn mặt cau có vì đang nghĩ tới một chuyện bức tức trong quá khứ
– Lo lắng vì công việc còn dang dở ở công ty.
4. Quan sát cách mà người ta đối diện với áp lực tại công ty
– Có người nghĩ tới việc nghỉ việc và tìm chỗ làm mới
– Có người nghĩ tới việc đẩy việc cho người khác, trốn tránh trách nhiệm
Nhưng cũng có người
– Tìm cách sử dụng thời gian hiệu quả hơn thông qua việc tổ chức lại công việc, gia tăng năng lực bản tha
– Tìm cách phối hợp với người khác tốt hơn để công việc trôi chảy hơn.
Tóm lại cùng một hoàn cảnh, cho dù thuận lợi hay không thuận lợi, thì vẫn có người đau khổ và có người hạnh phúc. Hoàn cảnh khách quan giống nhau nhưng cách người ta đối diện với nó khác nhau vì vậy mà cảm xúc khác nhau.
Con người bình đẳng với nhau ở Quyền được quyết định mình có hạnh phúc hay không. Bạn khó có thể lúc nào cũng hạnh phúc nhưng hãy để cảm giác hạnh phúc là trạng thái thường xuyên.
Thay lời kết: Đức phật đã chỉ ra 5 loại hạnh phúc để chúng ta có định hướng:
– Hạnh phúc của cảm giác hài lòng
– Hạnh phúc của việc bố thí và chia sẻ.
– Hạnh phúc của quá trình tập trung cao độ.
– Hạnh phúc và sự viên mãn đến từ trí tuệ thấu suốt và hiểu biết sâu sắc.
– Hạnh phúc của sự an lạc vĩnh cửu, sự tĩnh lặng và toàn vẹn.
Sách tham khảo: Đi tìm lời giải cho những câu hỏi lớn của cuộc đời – Lama Surya Das (NXB Văn Lang)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét