Tác giả : Lep Tolstoi
Chương 1
Quận công phu nhân Tsecbaxcaia cho
rằng không thể tổ chức lễ cưới trước tuần chay được vì từ nay đến đó còn có năm
tuần lễ, giỏi lắm cũng chỉ may xong một nửa số quần áo cưới, nhưng bà đành nghe
theo lý lẽ của Levin,
chàng nhất quyết rằng nếu đợi hết
tuần chay thì muộn quá, vì một bà cô già của lão quận công Trerbaxki ốm nặng,
có thể chết bất cứ lúc nào và tang lễ ắt sẽ làm ngày cưới càng chậm hơn. Do đó,
bà quyết định chỉ cần may ngay một phần nhỏ quần áo cưới và sẽ gửi số còn lại
cho họ sau, bà bực mình với Levin vì không bao giờ chàng có thể trả lời nghiêm
chỉnh mỗi khi bà hỏi ý kiến. Cách thu xếp như vậy lại càng tiện lợi vì ngay sau
lễ cưới, đôi vợ chồng sẽ về quê ở và tại đó thì không cần quá nhiều quần áo
cưới. Levin vẫn luôn luôn ở trong trạng thái mê cuồng như vậy, chàng thấy hình
như bản thân mình và hạnh phúc hợp lại thành mục đích duy nhất và chủ yếu của
mọi sự vật trên đời, chàng không cần bận tâm đến việc gì, mọi việc đều chu tất,
và sẽ chu tất mà không cần chàng mó tay vào. Thậm chí, chàng không có kế hoạch,
mục đích nào hết, chàng phó mặc cho người khác, biết rằng mọi cái rồi sẽ hoàn
hảo cả. Ông anh Xergei Ivanovich cùng Stepan Ackađich và phu nhân bảo cho chàng
biết những việc phải làm. Người ta nêu cái gì chàng cũng đồng ý tuốt. Ông anh
vay tiền cho chàng, phu nhân khuyên cưới xong nên rời Moskva, Stepan Ackađich
mách nên ra nước ngoài. Chàng đồng ý hết. "Các ông bà cứ tuỳ thích muốn
làm gì thì làm. Tôi đang sung sướng và dù các ông bà làm gì đi nữa thì hạnh
phúc của tôi cũng không vì thế mà lớn hơn hoặc giảm đi", chàng thầm nghĩ.
Khi nói cho Kitty biết điều gợi ý của Stepan Ackađich, chàng rất ngạc nhiên
thấy nàng không đồng ý ra nước ngoài và thấy nàng đã có ý định dứt khoát về
cách tổ chức đời sống sau này của hại vợ chồng. Nàng biết Levin có một công
việc ưa thích ở nông thôn. Chẳng những nàng không hiểu gì về công việc đó
(chàng nhận thấy thế) mà còn không muốn hiểu làm gì. Mặc dầu thế, nàng vẫn cho
công việc của chồng có tầm quan trọng lớn. Cho nên, nàng hiểu chỗ ở của hai
người sẽ là nông thôn và không muốn ra nước ngoài vì họ sẽ không sinh sống ở
đó, mà muốn về nơi sẽ là nhà của hai vợ chồng. ý định dứt khoát đó làm Levin
ngạc nhiên. Nhưng vì thấy mọi cái đó đều không quan trọng, nên chàng lập tức
nhờ Stepan Ackađich về trang trại mình thu xếp thế nào tùy con mắt thẩm mĩ của
ông mà mọi người đều biết, làm như công việc chăm nom đó đương nhiên thuộc về
ông ta.
- Này, - Stepan Ackađich bảo Levin
lúc ở trang trại của chàng trở về, - sau khi chuẩn bị mọi thứ để đón cặp vợ
chồng trẻ, chú đã có giấy chứng nhận xưng tội chưa?
- Cha, để làm gì?
- Phải có thì mới cưới được.
- Ồ! ồ! - Levin kêu lên, - dễ thường
chín năm nay tôi chưa xưng tội. Tôi cũng không hề nghĩ tới chuyện đó nữa.
- Thật là đẹp nhỉ! - Stepan Ackađich
vừa cười vừa nói, - thế mà chính chú đã cho tôi là phần tử hư vô chủ nghĩa!
Nhưng phải qua cái cầu đó mới được. Chú phải làm lễ xưng tội đi.
- Bao giờ thì làm lễ?
- Còn có bốn ngày nữa thôi.
Lần này nữa Stepan Ackađich lại phải
nhúng tay vào. Và Levin bắt đầu làm lễ xưng tội. Đối với Levin, cũng như với
tất cả những người không tin đạo nhưng vẫn tôn trọng tín ngưỡng kẻ khác, phải
có mặt và tham dự các buổi lễ là điều rất khổ tâm. Giữa lúc tâm trạng hào hứng
và xúc động, lại bắt buộc phải giả vờ như vậy, chàng thấy không chỉ khổ tâm mà còn
quá sức chịu đựng. Đang lúc thành công, đang lúc hoan hỉ, chàng lại phải hoặc
nói dối, hoặc nhạo báng chuyện thần thánh. Chàng cảm thấy không đủ sức làm cả
việc nọ lẫn việc kia. Nhưng, mặc dầu chàng cố năn nỉ Stepan Ackađich xem có
cách nào kiếm được tờ chứng nhận mà không phải xưng tội, ông anh đồng hao vẫn
khăng khăng không lay chuyển.
- Hai ngày, đối với chú chẳng đáng
kể và cũng không làm sao cả! Chú sẽ gặp một ông già nhỏ bé dễ thương và rất láu
cá. Ông ta có thể nhổ của chú một cái răng lúc nào không biết.
Trong khi dự buổi lễ đầu tiên, Levin
cố làm sống lại trong lòng kỷ niệm về thứ tình cảm tôn giáo mãnh liệt đã xúc
động chàng hồi mười sáu mười bảy tuổi; nhưng chàng hiểu ngay làm thế chỉ phí
công vô ích. Chàng cố coi cái đó như một thứ lễ nghi không có ý nghĩa gì cả,
như cái tập quán đi thăm viếng vậy: nhưng chàng cảm thấy cũng chẳng kết quả gì
hơn. Cũng giống như số đông người cùng thời, đối mặt với tôn giáo, Levin thấy
rất hoang mang. Chàng không tin tôn giáo, nhưng đồng thời cũng không dám cả quyết
rằng tất cả cái đó là giả dối. Chàng vừa không tin vào ý nghĩa việc mình làm,
lại vừa không thể nhìn nó bằng con mắt dửng dưng, cho nên suốt thời gian đó,
chàng luôn cảm thấy bực bội và hổ thẹn. Chàng phải làm những việc mình không
hiểu gì cả và một tiếng nói nội tâm phê phán thái độ chàng là giả dối và đáng
chê trách.
Trong buổi lễ, đôi lúc chàng lắng
nghe những lời cầu nguyện, cố gán cho chúng một ý nghĩa không đến nỗi trái với
tư tưởng của mình và khi cảm thấy không hiểu gì và không gạt bỏ được ý định phê
phán, chàng liền gắng không nghe nữa và triền miên trong những ý nghĩ, nhận xét
cùng những hồi ức giễu qua đầu óc rõ mồn một vào những lúc đứng chầu nhàn rỗi ở
nhà thờ. Chàng dự lễ sớm, lễ chiều và cầu kinh tối. Hôm sau, chàng dậy sớm hơn
thường lệ và nhịn ăn lót dạ, đến nhà thờ hồi tám giờ để cầu kinh sáng và xưng
tội.
Ở nhà thờ chỉ có một người lính ăn
xin, hai bà già và các phụ giáo sĩ.
Một người phụ lễ trẻ tuổi, lưng gồ
lên hai cạnh rõ mồn một dưới chiếc áo chùng thâm mỏng, tới gặp chàng và ngay sau
đó đến gần một cái bàn nhỏ kê cạnh tường, bắt đầu đọc kinh. Khi nghe y luôn
miệng lắp đi lắp lại mấy tiếng: "Lạy Chúa, thương xót chúng tôi!" và
đọc vội quá đâm nhịu, Levin cảm thấy tâm tình mình khép chặt như niêm phong
kín, bất khả xâm phạm. Đứng sau người phụ lễ, chàng không nghe và cũng không
tìm hiểu xem y đọc gì, chỉ tiếp tục suy nghĩ. "Bàn tay nàng xiết bao ý
tình", chàng nghĩ, nhớ tới tối hôm trước. Hai người ngồi cạnh chiếc bàn kê
ở góc nhà và không nói gì với nhau, như hầu hết những lần gần đây; nàng đặt tay
lên bàn, hết xoè ra lại nắm vào đồng thời mỉm cười một mình về cái trò đó.
Chàng nhớ là đã hôn bàn tay đó và xem những đường nét chằng chịt trong lòng bàn
tay hồng hồng. "Lại vẫn lạy Chúa thương xót chúng tôi!", Levin thầm
nghĩ và làm dấu, vừa cúi xuống vừa ngắm động tác mềm mại của lưng người phụ lễ
cũng cúi xuống lúc đó. "Sau đó, nàng cầm tay mình và xem kỹ vân tay: Bàn
tay anh thật kỳ diệu; nàng đã nói với mình như vậy". Chàng nhìn bàn tay
mình, rồi nhìn bàn tay ngắn ngủn của người phụ lễ. "Phải, giờ thì sắp xong
rồi. Ờ, hình như hắn ta lại bắt đầu đọc lại thì phải, chàng tự nhủ và lắng nghe
lời cầu nguyện. Không, xong rồi. Hắn đang cúi rạp sát đất kia kìa, đúng là xong
rồi".
Sau khi kín đáo giấu vào trong ống
tay áo lót lông tờ giấy bạc ba rúp chàng dúi cho, người phụ lễ nói sẽ ghi tên
cho chàng xưng tội và y mạnh dạn nện gót đôi ủng mới vang vang trên sàn đá hoa
của gian nhà thờ trống rỗng, đi khuất vào sau bàn thờ Chúa. Lát sau, y thò đầu
ra và làm hiệu cho Levin đi theo. ý nghĩ Levin bắt đầu xáo động trong đầu óc,
nhưng chàng gắng xua đi. "Bằng cách này cách hay khác thì cũng sắp ổn
thôi", chàng tự nhủ và đi về phía giảng đài. Chàng leo mấy bậc thềm và khi
quay sang phải, liền thấy linh mục. Đó là một ông già bé nhỏ, râu thưa lốm đốm
hoa râm, đôi mắt hiền từ, mệt mỏi. Đứng cạnh bàn giảng, ông đang giở quyển
kinh. Ông khẽ cúi chào Levin và lập tức cất giọng đều đều cầu nguyện. Cầu xong,
ông phủ phục sát đất và quay lại phía Levin.
- Đức Chúa Kirixitô vô hình chứng
giám lễ xưng tội của con, - ông vừa nói vừa chỉ cho chàng chiếc thánh giá. -
Con có tin vào tất cả những điều Giáo hội tông đồ răn dạy ta không? - ông vừa
nói vừa ngoảnh đi chỗ khác, không nhìn vào mặt Levin nữa và chắp tay dưới chiếc
khăn quàng làm lễ.
- Con đã và đang nghi ngờ hết thảy,
- Levin trả lời, bằng một giọng chính chàng cũng thấy chối tai, rồi nín bặt.
Linh mục chờ vài giây cho chàng nói thêm, rồi nhắm mắt lại, ông nói tiếp rất
nhanh, nhấn mạnh vào âm tiết "ơ" như kiểu nói của người vùng
Vladimia.
- Nghi ngờ là đặc tính của sự yếu
đuối của con người, nhưng ta phải cầu xin Đức Chúa lòng lành vô cùng giữ vững
đức tin cho ta. Con đã phạm những tội lỗi gì đặc biệt? - ông không ngừng lại,
nói tiếp luôn, như không muốn để phí một phút.
- Tội lỗi chính của con là hoài
nghi. Con nghi ngờ hết thảy và hầu như lúc nào cũng nghi ngờ.
- Nghi ngờ là đặc tính của sự yếu
đuối của con người, - linh mục nhắc lại. - Con nghi ngờ cái gì là chính?
- Nghi ngờ hết thảy. Đôi lúc, con
nghi ngờ cả sự tồn tại của Chúa, - Levin miễn cưỡng nói, hoảng lên vì câu nói
sỗ sàng của mình. Nhưng lời Levin nói như không hề tác động đến linh mục.
- Làm sao lại có thể nghi ngờ sự tồn
tại của Chúa được? - ông nói nhanh, thoáng mỉm cười. Levin lặng thinh.
- Làm sao con có thể nghi ngờ Đấng
Sáng Thế được khi con hằng chiêm ngưỡng sự sáng tạo của Người? - linh mục nói
tiếp giọng đều đều. - Ai đã trang điểm vòm trời bằng tinh tú? Ai đã phủ vẻ đẹp
lên trái đất? Ai, nếu không phải là Đấng Sáng Thế? - cha nói và nhìn Levin, lục
vấn. Levin cảm thấy nếu đi vào tranh luận triết học với linh mục thì quả không
tiện, cho nên chàng chỉ trả lời trực tiếp vào câu hỏi.
- Con không biết, - chàng nói.
- Con không biết à? Thế thì làm sao
con có thể nghi ngờ Chúa đã sáng tạo nên tất cả, - linh mục nói, vẻ ngạc nhiên
pha lẫn vui thích.
- Con chẳng hiểu gì cả, - Levin nói,
đỏ mặt cảm thấy câu trả lời thật ngớ ngẩn, nhưng cũng biết chả sao tránh khỏi
ngớ ngẩn trong trường hợp như vậy.
- Con hãy cầu Chúa cứu giúp con.
Ngay cả các Cha thánh thần cũng hằng nghi ngờ và hằng cầu Chúa giữ vững đức
tin. Ma quỷ vốn đầy sức mạnh, ta phải chống lại nó, không thể khuất phục. Hãy
cầu nguyện đi, cầu nguyện đi, - cha vội nói và nhắc đi nhắc lại. Linh mục nín
lặng một lát, như suy nghĩ.
- Hình như con định kết hôn với con
gái lão quận công Trerbaxki là bổn đạo của giáo phận và người con linh hồn của
cha phải không? - cha mỉm cười hỏi thêm. - Đó là một cô gái kiều diễm.
- Vâng, - Levin trả lời, đỏ mặt thay
cho cha.
"Việc gì ông ta phải đặt câu
hỏi như vậy khi xưng tội?", chàng nghĩ. Như để trả lời ý nghĩ của chàng,
linh mục nói:
- Con đang sửa soạn kết hôn và có
thể sẽ được Chúa ban cho con đàn cháu đống. Làm sao con có thể dạy dỗ được con
cái nếu không thắng nổi cám dỗ của ma quỷ đang muốn lôi kéo con vào vòng hoài
nghi? - cha nói, giọng trách móc đầy vẻ nhân từ. - Nếu con yêu con cái như một
người cha tốt thì con sẽ không chỉ mong cho chúng giàu có, sang trọng, danh
giá, con còn muốn chúng được rỗi linh hồn và được giáo dục tinh thần dưới ánh
sáng chân lí. Có phải không? Con sẽ trả lời đứa bé ngây thơ như thế nào khi nó
hỏi: "Bố ơi, ai là người sinh ra tất cả những cái làm con vui thích trên
đời này: đất đai, sông nước, mặt trời, hoa cỏ?". Con sẽ không thể trả lời
nó là: "Bố không biết!". Con không thể không biết đến những điều mà
Đức Chúa Trời vì lòng từ bi vô cùng đã chỉ ra cho con thấy. Hoặc nếu đứa bé
hỏi: "Cái gì sẽ chờ đợi con sau khi chết?" Con sẽ nói thế nào, nếu
không biết gì cả? Con sẽ trả lời nó ra sao? Con sẽ bỏ mặc nó cho sự mê hoặc của
thế gian và ma quỷ chăng? Thế không được đâu! Ông nói rồi ngừng lại, nghiêng
nghiêng đầu nhìn Levin bằng đôi mắt hiền từ.
Lần này, Levin không trả lời nữa,
không phải vì muốn tránh tranh cãi, mà vì chưa ai hỏi chàng những câu như vậy.
Khi nào đến lượt con cái hỏi như vậy, chàng cũng còn chán thời giờ suy nghĩ
những câu trả lời thoả đáng.
- Con đang bước vào một giai đoạn
của cuộc đời mà con phải lựa chọn lấy đường đi và theo đúng đường đó, - linh
mục nói tiếp. - Con hãy cầu Chúa cứu giúp và xá tội cho con, - ông kết luận. -
Đức Chúa Jesu Chrits lòng lành vô cùng sẽ xá tội cho con… - và, đọc xong câu
kinh xá tội, linh mục ban phước lành và cho chàng ra về.
Về tới nhà, Levin lấy làm sung sướng
thấy cái chuyện phiền toái đó đã kết thúc mà chàng không buộc phải nói dối. Hơn
nữa, chàng còn mơ hồ giữ lại cái cảm tưởng là những điều ông già bé nhỏ hồn hậu
đó nói, không phải hoàn toàn ngớ ngẩn như lúc đầu chàng tưởng và trong đó cũng
có một cái gì đáng suy nghĩ kĩ. "Tất nhiên không phải bây giờ, mà sau này
kia", Levin thầm nghĩ. Giờ đây, Levin cảm thấy rõ hơn trước là tâm hồn
chàng cũng có nhiều vùng tối tăm và vẩn đục, và, đối với tôn giáo, chàng cũng
có thái độ giống hệt cái thái độ chàng đã nhận thấy và chê trách ở người khác,
đặc biệt là ở ông bạn Xvyajxki. Tối hôm đó, Levin cùng vị hôn thê ở chơi nhà
Đôly, chàng rất hoan hỉ, và, để giải thích cho Stepan Ackađich rõ, chàng ví tâm
trạng phấn khởi đó với nỗi vui thích của một con chó được dạy nhảy vòng, cuối
cùng, sau khi hiểu và làm được cái trò người ta đòi hỏi, nó mừng rỡ sủa khe khẽ
rồi vẫy đuôi, nhảy tót lên bàn, lên thành cửa sổ.
Chương
2
Ngày hôm cưới, theo tục lệ (phu nhân
và Đarya Alecxandrovna đòi phải triệt để giữ đúng mọi tục lệ), Levin không gặp
cô dâu và ăn trưa ở khách sạn cùng ba gã chưa vợ tình cờ tụ tập ở buồng chàng:
Xergei Ivanovich, Katavaxov - một người bạn từ hồi cùng học Đại học, hiện làm
giáo sư khoa học tự nhiên, mà Levin bắt gặp ngoài phố và kéo về chỗ mình - và
Tsiricov, phù rể, thẩm phán hoà giải ở Moskva và là bạn săn gấu của chàng. Bữa
ăn rất vui, Xergei Ivanovich, đang lúc phởn, rất khoái tính tình độc đáo của
Katavaxov. Katavaxov thấy được coi trọng và có người hiểu mình, lại càng thao
thao bất tuyệt. Tsiricov cũng vui vẻ tiếp chuyện.
- Phải, - Katavaxov nói rề rà từng
tiếng theo thói quen mắc phải khi dạy học, - anh bạn trẻ Konxtantin
Dimitrievich của chúng ta trước kia là một thanh niên đầy khả năng. Đây là tôi
nói đến người vắng mặt vì hiện nay gã trai đó không còn nữa. Khi rời trường Đại
học, anh ta ham mê khoa học, anh ta quan tâm đến con người, còn bây giờ anh ta
dùng một nửa khả năng để lừa dối mình và dùng nốt nửa kia để biện hộ cho ảo
tưởng đó.
- Tôi chưa bao giờ gặp một kẻ thù
địch hôn nhân nào kiên định như ông, - Xergei Ivanovich nói.
- Không phải, tôi chỉ là một… người
tán thành phân công lao động. Những người không biết làm gì cả thì phải tái sản
sinh nòi giống, còn người khác thì góp phần vào mở mang trí tuệ và xây dựng
hạnh phúc cho đồng loại. Đó là quan điểm của tôi. Có vô số người muốn lẫn lộn
hai thứ hoạt động đó, tôi không ở trong số đó.
- Khi nào được biết anh yêu ai thì
tôi sẽ sung sướng biết mấy! - Levin nói. - Xin nhớ mời tôi đến dự đám cưới anh
nhé.
- Tôi đã yêu rồi.
- Phải, yêu cá mực chứ gì. Anh biết
không, - Levin quay sang nói với anh trai, Mikhail Xemionich viết một cuốn sách
bàn về dinh dưỡng và…
- Thôi đi, đừng có rắc rối tơ! Tôi
viết gì mặc tôi. Nhưng quả thực tôi có mê cá mực.
- Điều đó không ngăn anh yêu đàn bà.
- Cá mực không ngăn tôi yêu đàn bà,
chính đàn bà mới ngăn tôi yêu cá mực.
- Tại sao vậy?
- Rồi anh sẽ thấy. Anh thích công
việc đồng áng, săn bắn phải không, ấy đấy, rồi anh sẽ thấy!
- Hôm nay, Ackhip có đến thăm tôi.
Ông ta bảo tôi ở Prunoie có vô số hươu và cả hai con gấu nữa, - Tsiricov nói.
- Các anh cứ đi săn, tôi không đi
đâu.
- Thấy chưa?
- Xergei Ivanovich nói.
- Ngay từ giờ chú đã có thể vĩnh
biệt cái thú săn gấu rồi đấy. Vợ chú sẽ cấm. Levin mỉm cười. Chàng khoái cái ý
nghĩ là vợ sẽ cấm đi săn gấu đến nỗi sẵn sàng mãi mãi từ bỏ thú vui đó.
- Đi săn hai con gấu này mà không có
anh thì thật đáng tiếc. Anh còn nhớ cái lần vừa rồi ở Khapilovo không? Chuyến
săn này sẽ thú vị lắm đấy!
- Tsiricov nói. Levin không muốn
giải thích cho anh ta vỡ lẽ rằng bất cứ nơi nào không có Kitty đều không thể có
gì vui thú, vì thế nên chàng nín lặng.
- Thật không phải vô cớ mà người ta
đặt ra tục lệ từ biệt cuộc đời trai chưa vợ, - Xergei Ivanovich nói.
- Dù hạnh phúc đến đâu, người ta vẫn
luyến tiếc tự do.
- Anh cứ thú thực là muốn nhảy qua
cửa sổ như chú rể của Gogol 1 đi!
- Tất nhiên, nhưng không bao giờ anh
ta chịu thừa nhận đâu, - Katavaxov nói và cười phá lên.
- Nếu thế thì cửa sổ mở rồi đấy…
Chúng ta đi ngay Tver thôi. Ta có thể tìm thấy con gấu cái trong hang. Ta sẽ đi
chuyến tàu năm giờ, thật nhé? Còn ở đây, mặc họ xoay xở với nhau. - Tsiricov
mỉm cười nói.
- Không, lạy Chúa chứng giám, -
Levin mỉm cười nói, lòng tôi không hề luyến tiếc tự do chút nào.
- Nhưng bây giờ lòng anh đang rối
như tơ vò nên còn thấy gì nữa, - Katavaxov nói. - Hãy chờ nó lắng xuống một
chút, rồi anh sẽ thấy.
- Không, tôi thấy hình như ngoài
tình cảm (chàng không muốn dùng chữ: tình yêu)… và hạnh phúc, đáng lẽ tôi phải
cảm thấy luyến tiếc tự do mới đúng, dù chỉ một tí thôi… Trái lại, chính sự mất
tự do đã đem lại cho tôi niềm vui sướng này!
- Đây là một trường hợp nguy kịch, -
Katavaxov nói. - Chúng ta cạn chén chúc anh ta hồi phục hoặc chúc anh ta nhìn
thấy, dù chỉ là một phần trăm, những mơ ước của anh ta được thực hiện. Thế cũng
đã là một hạnh phúc chưa hề có trên đời này rồi.
Sau bữa ăn một lát, khách ra về để
còn có thời giờ thay quần áo trước buổi hôn lễ.
Còn lại một mình và nhớ tới lời bọn
chưa vợ, một lần nữa, Levin tự hỏi lòng mình có chút nào luyến tiếc tự do
không.
Chàng mỉm cười tự đặt câu hỏi đó.
"Tự do? Tại sao cần có tự do? Hạnh phúc đối với mình là yêu thương, ao
ước, là không có tư tưởng và khát vọng nào ngoài tư tưởng, khát vọng của nàng,
như thế nghĩa là thủ tiêu tự do… và đó là hạnh phúc!".
"Nhưng liệu mình có biết được
những tư tưởng, khát vọng, tình cảm của nàng không?", một tiếng nói đột
nhiên thầm thì với chàng. Nụ cười biến khỏi đôi môi và chàng triền miên mơ mộng
sâu xa. Bỗng nhiên, một cảm giác kì lạ đến với chàng. Chàng thấy khiếp sợ, nghi
ngờ… nghi ngờ hết thảy.
"Thế nhỡ nàng không yêu mình
thì sao? Nhỡ nàng lấy mình chỉ để có chồng? Nhỡ chính nàng cũng không hiểu việc
đang làm là thế nào? Chàng tự hỏi. Nàng có thể tỉnh ngộ, và mãi sau khi cưới
mới hiểu nàng không yêu mình, không thể nào yêu mình được". Và những ý
nghĩ xấu nhất về Kitty vụt đến trong đầu chàng. Chàng ghen với Vronxki cũng
mãnh liệt như một năm trước đây, tựa hồ cái tối chàng gặp nàng với Vronxki mới
xảy ra hôm qua. Chàng ngờ nàng đã không nói hết với chàng. Chàng đứng phắt dậy.
"Không, không thể như thế được! Chàng tuyệt vọng tự nhủ. Ta sẽ tới nhà
nàng; ta sẽ hỏi nàng, ta sẽ nói với nàng một lần nữa: Chúng ta đang tự do; cứ
giữ nguyên thế này thôi có hơn không? Bất kể cái gì cũng còn hơn là đau khổ
vĩnh viễn, còn hơn là hổ thẹn, bội bạc!". Đầy tuyệt vọng, đầy oán thù với
toàn thể nhân loại, với bản thân mình, với Kitty, chàng ra khỏi khách sạn và
đến nhà Trerbaxki. Chàng gặp nàng ở gian phòng trong cùng. Nàng ngồi trên một
chiếc rương, đang cùng chị hầu phòng chọn những áo dài đủ màu bày la liệt trên
sàn, và lưng ghế tựa.
- A! - nàng hớn hở vui sướng reo lên
khi thấy chàng. - Mình đấy à, anh đấy à? (cho đến hôm nay, nàng vẫn gọi chàng
khi là "mình", khi là "anh"). Em không ngờ anh đến đấy! Em
đang chọn những áo thời thiếu nữ để phân phát.
- À! Tốt lắm! - chàng nói và nhìn
chị hầu phòng, vẻ lầm lầm.
- Đuniasa, thôi chị đi ra, tôi sẽ
gọi sau, - Kitty nói. - Mình làm sao thế? - nàng hỏi, quả quyết gọi chàng là
"mình", lúc chị đầy tớ đã ra ngoài. Nhìn nét mặt kì lạ, u uất và nhớn
nhác của chàng, nàng bỗng hốt hoảng.
- Kitty, anh rất đau khổ. Anh không
chịu đựng được một mình nữa, - chàng nói giọng tuyệt vọng, vừa dừng lại trước
mặt nàng vừa nhìn nàng bằng đôi mắt cầu khẩn. Chỉ nhìn nét mặt chân thực và đầy
yêu thương của nàng, chàng đã thấy điều định nói ra sẽ không đưa đến kết quả
gì, tuy vậy chàng vẫn cần được chính nàng xua tan nỗi lo sợ. - Anh đến để nói
với em rằng hiện giờ vẫn chưa muộn quá đâu. Mọi cái vẫn còn cứu vãn được.
- Sao kia? Em không hiểu gì hết.
Mình làm sao thế?
- Anh đã… điều này anh từng nói với
em hàng trăm lần rồi và anh không thể gạt bỏ khỏi tâm trí được… Anh không xứng
với em. Em không thể thuận tình lấy anh được: Hãy suy nghĩ đi. Em lầm rồi. Hãy
suy nghĩ thật kĩ đi. Em không thể yêu anh được… Nếu như… thà em nói thật ra với
anh còn hơn, - chàng nói và không nhìn nàng. - Anh sẽ đau khổ… Thiên hạ họ muốn
nói gì thì nói… Bất kể cái gì cũng còn hơn là đau khổ… Bây giờ, trong khi hãy
còn kịp…
- Em không hiểu gì cả, - nàng sợ hãi
trả lời. - Mình muốn hối hôn à?
- Phải, nếu em không yêu anh.
- Mình phát điên rồi à! - nàng kêu
lên, đỏ mặt tức giận.
Nhưng vẻ mặt Levin thiểu não đến nỗi
nàng cố nén giận, và dọn đống áo xếp đầy trên ghế bành, nàng ngồi xuống sát
cạnh chàng.
- Mình nghĩ những gì nào? Mình nói
hết với em đi.
- Anh nghĩ em không thể yêu anh
được. Tại sao em lại có thể yêu anh được chứ?
- Trời ơi, thế thì em biết làm thế
nào bây giờ? - nàng nói và oà lên khóc.
- Ôi! Anh đã làm gì thế này? - chàng
kêu lên và quỳ xuống trước mặt nàng hôn khắp hai bàn tay. Năm phút sau, khi phu
nhân bước vào phòng thì hai người đã hoàn toàn làm lành với nhau. Kitty không
những quả quyết nói là yêu chàng, mà khi chàng hỏi tại sao lại yêu, còn giải
thích rõ nguyên do nữa. Nàng nói nàng yêu vì hoàn toàn hiểu chàng, vì biết
chàng yêu thích những gì và tất cả những cái chàng yêu thích đều tốt cả. Và
chàng thấy điều đó thật rõ như ban ngày. Khi phu nhân bước vào, họ đang ngồi
cạnh nhau trên chiếc rương, cùng chọn áo và bàn cãi, vì Kitty muốn cho Đuniasa
cái áo nâu nàng mặc hôm Levin đến cầu hôn, còn chàng nằng nặc đòi không được
cho ai cái áo đó và bảo nàng cho Đuniasa cái áo xanh nhạt.
- Sao mà anh chả hiểu cái gì cả? Tóc
nó nâu, cái áo đó không hợp… Em nghĩ cả rồi.
Khi phu nhân đã biết tại sao chàng
đến đây, bà liền nửa đùa nửa thật nổi giận và đuổi Levin về thay quần áo, đừng
có quấy rầy Kitty vì Saclơ chỉ lát nữa sẽ tới làm đầu cho nàng.
- Nó chẳng ăn uống gì cả, mỗi ngày
một xấu đi, thế mà anh còn đến làm nó rối ruột vì những chuyện không đâu, - bà
nói.
- Thôi con đi đi, đi đi. Levin,
ngượng ngùng nhưng yên tâm, trở về khách sạn. Ông anh chàng, Đarya
Alecxandrovna và Stepan Ackađich, tất cả đều đã lễ phục chỉnh tề, đang chờ để
cầu phúc cho chàng với chiếc tượng thánh. Không còn thì giờ đâu mà bỏ phí.
Đarya Alecxandrovna còn phải ghé qua nhà đón con trai đã được uốn tóc và chải
sáp để cầm tượng thánh đi trước cô dâu. Sau đó, lại phải sai đánh xe đi đón phù
rể, còn chiếc xe kia, sau khi đưa Xergei Ivanovich, sẽ quay trở lại khách sạn…
Tóm lại, đủ mọi thứ lo. Có điều chắc chắn là không thể chậm trễ được nữa vì lúc
đó đã sáu rưỡi rồi. Cuộc lễ cầu phúc thiếu trang nghiêm. Stepan Ackađich đứng
cạnh vợ, điệu bộ hài hước, ông trang trọng cầm tượng thánh, và sau khi bảo
Levin phủ phục sát đất, liền cầu phúc cho chàng với một nụ cười vừa hiền từ vừa
giễu cợt và hôn chàng ba lần. Đarya Alecxandrovna cũng làm như vậy, bà đang vội
đi và rối lên vì chuyện bố trí xe đi xe về.
- Bây giờ ta phải làm thế này: anh
sẽ đi đón phù rể bằng xe của ta, còn Xergei Ivanovich sau khi đến nhà thờ, xin
ông vui lòng cho xe của ông quay lại đây.
- Xin vâng, rất vui lòng.
- Còn tôi, tôi sẽ đến ngay, sau đó
cùng với Koxtia. Hành lí gửi đi cả chưa?
- Stepan Ackađich hỏi.
- Rồi, - Levin trả lời và gọi Kuzma
đến giúp chàng mặc quần áo.
--------------------------------
1 Trong truyện "Đám cưới"
của Nicolai Gôgôn, chú rể đã nhảy qua cửa sổ và chạy trốn đúng lúc sắp ra nhà
thờ.
Chương
3
Một đám đông, phần lớn gồm đàn bà,
vây quanh nhà thờ sáng trưng. Những người không vào được bên trong, xô đẩy chen
chúc nhau ngoài cửa sổ, vừa cãi cọ vừa thỉnh thoảng liếc nhìn vào trong qua
song sắt.
Hơn hai chục cỗ xe đậu thẳng hàng
dọc đường phố dưới sự trông coi của cảnh sát. Một sĩ quan cảnh sát, choáng lộn
trong bộ đồng phục, đứng gần cửa ra vào, bất chấp cả trời lạnh. Luôn luôn có
những cỗ xe ngựa mới đến và khi là những bà mình đầy hoa, vén gấu xiêm áo loà
xoà lên, khi là những ông kính cẩn ngả mũ lưỡi trai hoặc mũ dạ, đi vào nhà thờ.
Trong nhà thờ, hai chùm đèn treo cùng tất cả nến đặt trước những tượng thánh
đều đã được thắp lên. Bàn thờ rực rỡ vàng trên nền đỏ, những nét chàm vàng trên
tượng thánh, chất bạc của giá đèn và giá nến, gạch lát nền nhà, những tấm thảm,
những lá cờ phía trên hội hát, bậc thềm lầu giảng, những sách giảng kinh đã cũ
và đen nhẻm, những khăn quàng và áo thụng làm lễ, tất cả đều tràn ngập ánh
sáng. Bên phải, trong đám đông những lễ phục và cà vạt trắng, những triều phục
và lụa là, những nhung và đoạn, những mớ tóc và hoa chồng chất, những bả vai và
cánh tay trần cùng găng tay dài: một tiếng xì xào nho nhỏ và sôi nổi truyền đi,
vang lên một cách kì lạ dưới vòm mái cao. Mỗi lần cửa mở ra khẽ rít lên, tiếng
xì xào lại ngừng bặt và mọi người đều quay về phía đó, hi vọng trông thấy cô
dâu chú rể đi vào. Nhưng cửa mở ra hơn chục lần rồi, và mỗi lần, chỉ là một ông
khách hoặc một bà khách đến muộn, đi sang bên phải nhập bọn với bạn hữu, hoặc
một bà đứng xem đã đánh lừa hoặc phỉnh được viên sĩ quan cảnh sát xiêu lòng cho
vào xem và rẽ sang trái lẩn vào đám đông. Họ hàng thân thuộc và kẻ hiếu kì đều
trải qua mọi giai đoạn chờ đợi.
Đầu tiên, người ta đoán cô dâu chú
rể chỉ lát nữa sẽ tới, nên không chút bận tâm về sự chậm trễ. Rồi họ bắt đầu
liếc nhìn ra cửa mỗi lúc một nhiều hơn, tự hỏi hay là đã xảy ra việc gì. Cuối
cùng, thấy sự chậm trễ đó trở nên rầy rà, họ hàng cùng bạn hữu bên làm ra vẻ
không buồn nghĩ đến cô dâu chú rể nữa mà mải mê trò chuyện.
Cha chánh lễ như muốn nhắc mọi người
biết thời giờ của ông là quý giá, sốt ruột cất tiếng cho làm rung cả kính cửa
sổ. Hội hát đợi mãi chán chê, đành thử giọng hoặc xỉ mũi. Linh mục khi phái
người phụ lễ, khi phái bõ nhà thờ, luôn luôn cho dò xem tin tức và mỗi lúc càng
ló ra nhiều hơn ở cửa nách, mình vận áo chùng tím và thắt lưng thêu. Cuối cùng,
một bà xem đồng hồ và nói: "Thật lạ quá đi mất!", và tất cả khách
khứa đều lo lắng, bắt đầu lên tiếng tỏ vẻ ngạc nhiên và bực mình: Một phù rể
chạy đi nghe ngóng tình hình. Trong khi đó, Kitty đã sửa soạn xong từ lâu, nàng
mặc áo trắng, chít khăn voan dài và vòng hoa cam trên đầu, đứng trong phòng
khách đã hơn nửa giờ cùng cô phù dâu và bà chị Lvova hoài công chờ đợi mà vẫn
không thấy phù rể đến báo cho biết chú rể đã tới nhà thờ.
Trong lúc đó, Levin, mặc quần nhưng
không có cả gilê lẫn áo ngoài đang đi đi lại lại trong phòng khách sạn, chốc
chốc lại thò đầu ra cửa ngó dọc suốt dãy hành lang. Nhưng không thấy tăm hơi
người chàng đang chờ đợi đâu cả. Levin đành quay vào phòng, và vung tay vặc với
Stepan Ackađich đang bình thản hút thuốc.
- Đời thuở nào lại có ai lâm vào
hoàn cảnh vô lí như thế này không! - chàng nói.
- Ừ, khỉ thật, - Stepan Ackađich mỉm
cười an ủi, nói hoạ theo. - Nhưng chú cứ yên tâm, họ sẽ mang đến ngay thôi.
- Chắc gì đấy! Levin cố nén giận
nói.
- Lại còn những cái áo gilê hở ngực
khỉ gió này nữa! Thật không thể chịu được! - chàng nói và ngắm chiếc yếm sơ mi
đã nhàu nát hết.
- Ngộ nhỡ hòm rương của tôi đã đưa
lên xe lửa cả rồi thì sao! - chàng thất vọng thốt lên.
- Thì chú mặc áo của tôi vậy.
- Đáng lẽ tôi nên làm như thế từ nãy
kia.
- Phải, nhưng mang tiếng lố bịch thì
rầy đấy… Chờ một lát, rồi sẽ ổn thôi.
Đầu đuôi câu chuyện là thế này: khi
Levin hỏi đến quần áo, Kuzma bèn mang áo ngoài, gilê và mọi thứ cần thiết đến.
- Còn sơ mi đâu! Levin quát hỏi.
- Sơ mi à, thì cậu đang mặc trên
người đấy thôi. - Kuzma trả lời với một nụ cười thản nhiên. Kuzma không nghĩ
tới việc dành ra một chiếc sơ mi sạch và sau khi được lệnh gói ghém mọi thứ gửi
đến nhà Tsecbaxcaia mà ngay tối nay đôi vợ chồng trẻ mới cưới sẽ rời khỏi, hắn
đã đóng gói tất cả, trừ bộ lễ phục. Chiếc sơ mi, mặc từ sáng đã nhầu nát và
không thể đi đôi với gi lê hở ngực theo thời trang mới nhất. Nhà Tsecbaxcaia ở
xa quá. Chàng đã sai đi mua một chiếc mới. Gã đầy tớ trở về tay không: tất cả
các hiệu đều đóng cửa, hôm đó là chủ nhật. Lại sai đi tìm sơ mi của Stepan
Ackađich: nhưng nó lại rộng quá và ngắn quá. Cùng bất đắc dĩ phải cho người đến
nhà Tsecbaxcaia mở tung hành lí ra. Người ta đang chờ chú rể ở nhà thờ, còn chú
rể thì như một con thú dữ nhốt trong cũi, loay hoay đi đi lại lại trong phòng,
thỉnh thoảng lại ngóng nhìn ra hành lang, hãi hùng tự hỏi không biết lúc này
Kitty đang tưởng tượng ra những gì, sau tất cả những chuyện lăng nhăng chàng đã
nói với nàng. Cuối cùng, Kuzma, tên thủ phạm, thở không ra hơi chạy bổ vào buồng
với chiếc sơ mi.
- Tôi đến nơi thì vừa vặn đúng lúc.
Họ đang khuân hòm rương đi rồi, - hắn nói.
Ba phút sau, không thèm nhìn đồng hồ
để khơi khơi lại cơn bực mình, Levin ba chân bốn cẳng chạy vội ra hành lang.
- Chạy thì ăn thua gì, - Stepan
Ackađich mỉm cười nói và đủng đỉnh theo sau. - Tôi đã bảo chú rồi sẽ ổn mà.
Chương
4
- Họ đến rồi - Chú rể kia kìa!
- Đâu, đâu?
- Người trẻ hơn ấy à?
- Còn cô dâu, khốn khổ, cô ta mất cả
hồn cả vía rồi! - người ta bàn tán trong đám đông khi Levin đón cô dâu ở ngoài
rồi cùng sánh đôi bước vào.
Stepan Ackađich kể cho vợ nghe
nguyên nhân chậm trễ và các vị khách mỉm cười thì thầm truyền cái tin đó đi.
Levin không nhận thấy gì và không nhận ra ai cả. Chàng không rời mắt khỏi cô
dâu.
Ai nấy đều bảo mấy hôm nay nàng xấu
đi nhiều và dưới vành hoa, nàng càng kém xinh hơn nhiều so với thường ngày.
Nhưng Levin không cho là thế. Chàng ngắm mái tóc bồng phủ khăn voan dài trắng
và hoa trắng, ngắm cổ áo chun cao che kín một cách trinh bạch hai bên cái cổ
cao, mảnh, chỉ để hở một chút ở đằng trước, ngắm vóc người thon thả lạ thường,
và chàng thấy nàng đẹp hơn bao giờ hết, không phải vì những hoa, voan, áo đặt
may tại Pari đã tôn thêm chút gì cho sắc đẹp, mà vì, mặc dầu dưới cái lộng lẫy
chải chuốt của y phục, khuôn mặt xinh tươi, cặp mắt, đôi môi vẫn giữ nguyên vẻ
chân thực ngây thơ đặc biệt của nàng.
- Em đã tưởng anh định chạy trốn rồi
kia đấy, - nàng mỉm cười bảo chàng.
- Chuyện xảy ra thật lố bịch đến nỗi
anh xấu hổ không dám kể lại nữa! - chàng đỏ mặt trả lời và quay lại phía Xergei
Ivanovich đang đến gần.
- Câu chuyện áo sơ mi của chú thật
hay ho quá nhỉ! - Xergei Ivanovich mỉm cười, lắc đầu nói với chàng.
- Vâng, vâng. - Levin trả lời, không
hiểu người ta bảo gì mình.
- Này Koxtia, có vấn đề quan trọng
phải giải quyết ngay bây giờ đây, - Stepan Ackađich nói, vờ làm ra vẻ lo lắng -
Vừa hay lúc này chú đã đủ tỉnh táo để đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của nó.
Người ta hỏi tôi là thắp nến mới hay nến đốt dở. Giá tiền chênh nhau là mười
rúp, - ông tủm tỉm nói thêm. - Tôi quyết định rồi, nhưng sợ chú không đồng ý.
Levin hiểu đó là câu nói đùa nhưng
không sao cười được.
- Thế nào? Mới hay là đốt dở rồi?
Vấn đề là ở đó.
- Mới, mới!
- À! Tôi rất hài lòng! Thế là giải
quyết xong vấn đề, - Stepan Ackađich mỉm cười nói. Trong những trường hợp như
thế này, người ta đâm ra ngốc nghếch một cách lạ, - ông nói với Tsiricov trong
lúc Levin quay lại cạnh cô dâu, sau khi ngơ ngác nhìn ông.
- Chú ý, Kitty, cô phải đặt chân lên
thảm trước đấy nhé, - nữ bá tước Norxton theo kịp họ và dặn.
- Anh là bậy lắm đấy nhé! - bà quay
lại bảo Levin.
- Cháu có sợ không? Maria
Đimitrievna, - một bà cô già hỏi.
- Em có lạnh không? Mặt em tái đi.
Khoan đã, cúi xuống tí! - bà Lvova nói và vòng đôi cánh tay nõn nà, mỉm cười
sửa lại vành hoa cài đầu cho cô em. Đôly đến gần, muốn nói gì đó nhưng không
thốt nên lời, oà khóc và ngay sau đó lại rấm rứt cười. Kitty cũng nhìn mọi
người bằng con mắt ngơ ngác như Levin. Trong lúc đó, những người giúp lễ đã mặc
xong áo lễ và linh mục, cùng thầy sáu đến đứng cạnh giá để sách lễ, kê trước
tiền đường bàn thờ. Linh mục quay lại phía Levin và nói với chàng vài câu.
Levin không hiểu gì cả.
- Anh nắm lấy tay cô dâu và dẫn tới
trước giá để sách lễ, - người phù rể nhắc chàng.
Hồi lâu, Levin vẫn chưa hiểu người
ta yêu cầu chàng phải làm gì. Mọi người nhiều lần đến nhắc và đã định thôi
không thèm can thiệp nữa vì chàng luôn cầm nhầm tay, thì vừa may cuối cùng,
chàng hiểu ra là phải cầm bàn tay phải cô dâu trong bàn tay phải của mình mà
không hề thay đổi tư thế. Cuối cùng, sau khi chàng hoàn thành được cử chỉ theo
yêu cầu, linh mục liền tiến lên vài bước và đứng lại trước bàn giảng kinh. Đám
họ hàng và bè bạn đi theo chàng trong tiếng nói rì rầm và tiếng vạt xiêm kéo lê
sột soạt. Có người cúi xuống sửa lại vạt xiêm cho cô dâu. Trong nhà thờ im lặng
đến nỗi nghe thấy cả tiếng nến nhỏ giọt.
Linh mục, một ông già thấp bé đội
mũ, tóc bạc rẽ đôi rủ thành hai mái sau tai, rút đôi bàn tay nhỏ bé nhăn nheo
ra khỏi chiếc áo lễ dát bạc nặng trĩu, thân lưng có một cây thánh giá vàng và
giở Kinh thánh đặt trên giá sách lễ.
Stepan Ackađich nhẹ nhàng bước đến
gần linh mục ghé tai nói nhỏ mấy câu và đi xuống, sau khi nháy mắt với Levin.
Linh mục châm hai cây bạch lạp tết hoa, cầm nghiêng trong tay trái, cho từ từ
nhỏ xuống từng giọt và quay lại phía cô dâu chú rể. Đó chính là linh mục đã làm
lễ xưng tội cho Levin. Ông nhìn đôi thanh niên bằng cặp mắt buồn rầu, mệt mỏi,
thở dài, và rút bàn tay phải ra khỏi áo lễ, ban phước cho chú rể, rồi với một
vẻ âu yếm nâng niu, chụm ngón tay lại bên trên cái đầu cúi xuống của Kitty. Sau
đó, ông chìa đôi bạch lạp cho họ và cầm lấy bình hương, thong thả bước đi.
"Phải chăng đây là sự
thực?", Levin thầm nghĩ và quay lại nhìn cô dâu. Chàng nhìn nghiêng một
bên mặt nàng; thấy đôi môi và đôi hàng mi thoáng rung động, chàng biết nàng cảm
thấy cái nhìn của chàng. Nàng không nhúc nhích, nhưng bằng vào thoáng lay động
của cái cổ áo chun cao chờm lên tận đôi tai nhỏ hồng, chàng thấy rõ nàng đang
nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, và bàn tay nhỏ đi găng dài cầm nến bỗng
run lên.
Thế là mọi nỗi khích động như:
chuyện sơ mi, việc tới muộn, lời bàn tán của quan khách, nỗi bực mình của họ,
hoàn cảnh lố bịch của mình, tất cả vụt tan biến và chàng vừa vui sướng vừa lo
sợ.
Cha chánh lễ, một người đẹp trai mặc
áo thụng dạ dát bạc, tóc quăn chải sang hai bên đầu, đĩnh đạc bước tới và, nhấc
khăn quàng lễ lên bằng một cử chỉ quen thuộc, dừng lại trước mặt linh mục.
"Xin Chúa b-a-n p-h-ư-ớ-c
l-à-n-h c-h-o c-h-ú-n-g t-ô-i!" Những tiếng trang trọng nối nhau từ từ
vang lên, rung động bầu không khí. "Lạy Chúa chúng tôi, ơn Chúa bây giờ và
đời đời chẳng cùng!".
Linh mục già vẫn đang tìm một đoạn
nào đó trong sách lễ, cất giọng thánh thót và từ tốn cầu tiếp. Rồi hoà thanh
bát ngát du dương của hội hát đứng khuất không ai trông thấy, bỗng nổi lên tràn
ngập khắp nhà thờ, từ cửa sổ vọng tới vòm mái, lớn dần, rồi ngập ngừng và tắt
dần. Người ta cầu nguyện, như thường vẫn cầu nguyện cho sự đời đời yên nghỉ
trên thiên đàng, cho sự rỗi linh hồn, cho Thánh vụ viện, cho Hoàng đế; người ta
cũng cầu nguyện cho cả Konxtantin và Ecaterina, những bầy tôi của Chúa đã kết
hôn hôm nay. "Cầu Chúa ban cho họ sự thương yêu toàn vẹn, sự bằng yên và
ơn cứu trợ của Người", cả nhà thờ như phả ra tiếng cầu nguyện của cha
chánh lễ.
Levin lắng nghe những lời đó và lấy
làm ngạc nhiên. "Cứ như họ đoán được đích thị mình đang cần sự cứu giúp
vậy!", chàng tự nhủ, nghĩ tới những nghi hoặc và lo sợ mới đây. Mình biết
những gì nào? Không có sự cứu giúp thì liệu mình có thể làm gì được trong cái
công việc ghê gớm này? Chàng nghĩ thầm. Chính lúc này là lúc mình đang cần sự
cứu giúp".
Khi thầy sáu cầu kinh xong, linh mục
cầm quyển sách quay về phía đôi thanh niên:
"Lạy Chúa hằng có đời đời -
linh mục đọc bằng một giọng thánh thót dịu dàng - Người đã kết liền những kẻ xa
cách trong sự yêu mến bền vững, Người đã ban phước lành cho Ixaac và Reberca
được phần thưởng Người đã hứa. Xin Người hãy ban phước lành cho tôi tớ Người là
Konxtantin và Ecaterina, và giữ vững lòng tin của họ trên con đường lành. Bởi
vì Chúa là nguồn của mọi sự yêu mến và thương xót và chúng tôi cả tiếng nguyện
rằng: Sáng danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh thần bây giờ, và
hằng có và đời đời chẳng cùng!". "Amen", hội hát vô hình lại dịu
dàng hát nguyện theo.
"Chúa đã kết liên những kẻ xa
cách trong sự yêu mến bền vững". "Những lời đó thật sâu sắc và đáp
ứng đúng biết bao với điều ta cảm nghĩ trong những giây phút thế này! Levin
thầm nghĩ. Không biết nàng có cảm thấy như mình không?". Và khi quay lại,
chàng bắt gặp cái nhìn của nàng. Bằng vào ánh mắt đó, chàng đoán nàng cũng có
cảm giác giống mình. Nhưng chàng đã lầm: nàng hầu như không hiểu gì và cũng
không để ý đến lời cầu nguyện đó ngay cả lúc trao nhẫn cho nhau. Nàng không thể
nghe và hiểu những lời đó: quá lớn lao là cái tình cảm duy nhất đang tràn ngập
tâm hồn nàng mỗi lúc một mãnh liệt. Tình cảm đó là niềm vui trước sự hoàn tất
mĩ mãn của cái điều xảy ra trong thâm tâm nàng từ tháng rưỡi trước đây và trải
sáu tuần nay, nó đã làm nàng hết đau khổ lại sướng vui. Cái ngày mà trong phòng
khách nhà nàng ở phố Arbat, nàng lặng lẽ trong chiếc áo dài nâu đến bên Levin
và trao thân gửi phận cho chàng, ngay đó và giờ phút đó, trong tâm hồn nàng đã
xảy ra sự đoạn tuyệt hoàn toàn với tất cả cuộc đời dĩ vãng, và một cuộc đời
khác hoàn toàn mới mẻ và xa lạ đã bắt đầu, trong khi bề ngoài cuộc sống cũ vẫn
tiếp tục. Sáu tuần lễ đó là giai đoạn sung sướng nhất và quằn quại nhất của đời
nàng. Tất cả cuộc đời, tất cả ước muốn và hi vọng của nàng đều tập trung vào
người đàn ông khó hiểu đó; và một tình cảm còn khó hiểu hơn thế khi thì thu hút
lúc lại đẩy ra, ràng buộc nàng với anh ta, tuy nhiên nàng vẫn tiếp tục sống như
cũ. Sống cuộc đời cũ, nàng đâm sợ chính bản thân, kinh sợ sự dửng dưng hoàn
toàn đối với tất cả quá khứ của mình: đối với mọi vật, mọi thói quen, mọi người
đã từng yêu nàng và đến nay vẫn còn yêu nàng, đối với bà mẹ âu sầu vì sự lãnh
đạm đó, với ông bố dịu dàng và âu yếm mà nàng yêu quý hơn mọi thứ trên đời. Khi
thì nàng sợ hãi sự dửng dưng đó, lúc lại vui thích về cái điều khiến nàng có
tâm trạng đó. Nàng không nghĩ ngợi hoặc mong muốn gì hơn ngoài cuộc sống với
người đàn ông đó, nhưng cuộc đời mới vẫn chưa bắt đầu, thậm chí nàng cũng không
sao hình dung rõ ràng nó ra thế nào. Chỉ còn cách chờ đợi… khiếp sợ và vui
sướng trước cái mới mẻ, xa lạ. Giờ đây, trong giây lát nữa thôi, mọi sự phấp
phỏng, mập mờ, hối hận đã vì từ bỏ cuộc sống cũ, tất cả sắp chấm dứt và cái mới
mẻ sẽ bắt đầu. Cái mới đó không thể không khủng khiếp vì nó còn bất định; nhưng
dù khủng khiếp hay không thì sự thay đổi cũng đã hoàn thành trong nàng từ sáu
tuần lễ trước đây rồi; giờ phút này chỉ là sự thừa nhận cái đã xảy ra trong nội
tâm nàng từ lâu rồi.
Linh mục trở lại gần giá sách lễ,
loay hoay mãi mới rút được chiếc nhẫn con của Kitty và xỏ vào đốt đầu ngón tay
đeo nhẫn của Levin. "Đầy tớ của Chúa là Konxtantin đã kết hợp với nữ tì
của Chúa là Ecaterina". Rồi, sau khi xỏ chiếc nhẫn lớn hơn vào ngón tay
nhỏ nhắn hồng hồng của Kitty, ngón tay mảnh dẻ đến đáng thương, linh mục nhắc
lại những lời đó.
Cô dâu chú rể đã nhiều lần cố hiểu
cho ra những việc phải làm, nhưng bận nào cũng nhầm lẫn và linh mục phải nói
nhỏ nhắc họ sửa chữa. Cuối cùng, sau khi làm xong mọi việc phải làm và ban
phước lành cho họ bằng đôi nhẫn, ông trả chiếc nhẫn lớn cho Kitty và chiếc nhẫn
nhỏ cho Levin, họ lại nhầm lẫn và hai bận liền đổi nhẫn cho nhau mà vẫn không
đạt kết quả mong muốn.
Đôly, Tsiricov và Stepan Ackađich
bước ra khỏi đám quan khách để giúp họ. Đám đông hơi nhộn nhạo lên, có tiếng rì
rầm và những nụ cười tủm tỉm, nhưng cô dâu chú rể vẫn giữ vẻ mặt xúc động và
trang trọng: chẳng những thế, khi nhầm tay, hai người lại càng trang nghiêm và
trầm mặc hơn, đến nỗi, lúc khẽ nhắc họ là người nào lại đeo nhẫn người nấy, nụ
cười bất giác biến khỏi môi Stepan Ackađich. Ông thấy bất cứ vẻ giễu cợt nào
đều có thể xúc phạm đến họ.
"Chúa tôi là nguồn mọi sự, đã
dựng lên giống đực và giống cái, linh mục đọc kinh sau lễ trao nhẫn. Người đã
làm cho kẻ nam có được kẻ nữ đỡ đầu và duy trì nòi giống đời đời. Người đã hứa
và ban truyền chân lí cho tổ phụ chúng tôi, được Người chọn làm tôi tớ từ đời
này sang đời khác, xin Người hãy đoái thương đầy tớ Người là Konxtantin và nữ
tì Người là Ecaterina, chứng giám cho họ kết hợp làm một trong đức tin, trong
sự hoà thuận, sự thật và sự thương yêu…".
Levin càng cảm thấy rõ tất cả những
ý nghĩ về hôn nhân, mơ tưởng về tương lai của mình đều là chuyện trẻ con và ở
đây, có một cái gì đó mà từ xưa tới nay chàng chưa hiểu và lúc này lại càng khó
hiểu hơn bao giờ hết khi nó trở thành chuyện của chính mình; ngực chàng rộn lên
nức nở và những giọt lệ không nén được trào lên khoé mắt.
Chương
5
Tất cả Moskva, họ hàng và bạn bè,
đều dự đám cưới. Trong cuộc lễ trao nhẫn tại nhà thờ, đèn nến sáng trưng giữa
các bà, các cô điểm trang lộng lẫy và các ông thắt cà vạt trắng, mặc lễ phục,
những câu chuyện kín đáo vẫn rì rầm tiếp tục, nhất là giữa các ông, vì các bà
còn mải ngắm nghía mọi chi tiết hôn lễ vốn bao giờ cũng hấp dẫn đối với phụ nữ.
Trong đám người thân đang vây quanh
cô dâu, có hai bà chị: Đôly, chị cả, và Lvova phu nhân, điềm đạm và xinh đẹp,
vừa ở nước ngoài về.
- Tại sao Mari lại mặc áo hoa cà
trong lễ cưới như vậy? Trông như áo tang ấy, - Korxunxcaia phu nhân nói.
- Với nước da cô ta thì chỉ trông
cậy vào cách đó thôi, Đrubetxcaia phu nhân trả lời.
- Nhưng tôi không hiểu sao họ lại
cưới nhau vào buổi tối, thật sặc mùi lái buôn.
- Thế tuyệt hơn chứ. Tôi, tôi cũng
cưới vào buổi tối. - Korxunxcaia phu nhân trả lời và thở dài hồi nhớ lại ngày
hôm đó, bà mới xinh đẹp biết bao và ông chồng mới si tình một cách lố bịch làm
sao. Mọi cái đều thay đổi hết rồi!
- Người ta nói ai đã làm phù rể hơn
mười lần trong đời thì sẽ không lấy vợ nữa; tôi đã định dùng cách đó để bảo đảm
khỏi phải kết hôn, nhưng cái chân phù rể đã bị người khác chiếm mất rồi, - bá
tước Xiniavin nói với tiểu thư Tsecxkaia xinh đẹp đang thầm yêu ông. Tiểu thư
chỉ mỉm cười không trả lời. Nàng nhìn Kitty và tự nhủ khi nào cùng bá tước
Xiniavin ở vào trường hợp như thế này, nàng sẽ nhắc lại cho ông nghe câu nói
đùa đó. Công tử Tsiricov nói với cô phù dâu già Nicolaieva là chàng sẽ đặt vòng
hoa lên độn tóc Kitty để cầu hạnh phúc cho nàng.
- Ai lại quấn độn tóc như thế bao
giờ, - bà Nicolaieva nói, vốn từ lâu đã quyết định là nếu lão già goá vợ mà bà
đang mồi chài ưng lấy bà, cuộc hôn lễ sẽ hết sức giản dị.
- Tôi không thích cái trò hào nhoáng
này. Xergei Ivanovich pha trò với Đarya Đimitrievna rằng sở dĩ tập quán đi du
lịch sau khi cưới được phổ biến rộng rãi, vì những cặp vợ chồng mới cưới bao
giờ cũng hơi xấu hổ về sự lựa chọn của mình.
- Em trai ông, anh ta hẳn có thể
hãnh diện. Cô ấy đẹp lộng lẫy. Tôi chắc ông cũng thèm được như thế.
- Tôi đã qua cái thời đó rồi, Đarya
Đimitrievna ạ, - ông trả lời, vẻ mặt đột nhiên nghiêm lại và buồn rầu. Stepan
Ackađich nói cho bà em vợ biết câu chơi chữ về li hôn.
- Phải sửa lại vòng hoa cho cô ấy, -
bà này không nghe ông và trả lời.
- Thật đáng tiếc, cô ta xấu đi nhiều
thế, - nữ bá tước Norxton nói với Lvova phu nhân. - Dù sao anh ta cũng không
bén gót cô ấy, phải không?
- Không, tôi thích anh ta lắm. Và
không phải chỉ vì anh ta là em rể 1 tương lai của tôi đâu, - Lvova phu nhân trả
lời. - Cử chỉ anh ta đàng hoàng lắm đấy chứ! Trong tình thế như thế này, thật
khó mà giữ được cử chỉ đàng hoàng và khỏi bị lố bịch. Mà anh ta thì vừa không
lố bịch vừa không điệu bộ gì cả, rõ ràng là anh ta xúc động.
- Hình như chị vẫn chờ đợi chuyện
này phải không?
- Kể cũng gần đúng như vậy. Cô ấy
trước sau vẫn yêu anh ta.
- Ô, hãy xem ai sẽ đặt chân lên thảm
trước nào. Tôi đã báo cho Kitty rồi đấy.
- Cái đó không quan trọng, - Lvova
phu nhân trả lời, - chúng tôi toàn là những người vợ phục tùng chồng cả, nề nếp
gia đình là thế.
- Còn tôi, tôi đã cố tình đi trước
Vaxili. Thế còn chị, Đôly?
Đôly đứng cạnh, nghe họ nói, nhưng
không trả lời. Bà đang rất cảm động. Mắt bà rớm lệ, chắc bà không thể cất lời
mà không oà khóc. Bà vui mừng cho Kitty và Levin; hồi tưởng lại đám cưới của
mình, bà thỉnh thoảng lại nhìn Stepan Ackađich đang tươi cười rạng rỡ, bà quên
hiện tại và chỉ nhớ tới mối tình đầu ngây thơ. Bà không chỉ nghĩ tới riêng
mình, mà nghĩ tới tất cả những phụ nữ bà quen thân: bà hình dung họ trong giờ
phút độc nhất và long trọng này, cũng như Kitty, họ đứng dưới vòng hoa, lòng
tràn đầy tình yêu, hi vọng và lo sợ, khi đã đoạn tuyệt với quá khứ để đi vào
một tương lai huyền bí. Trong số những cô dâu mới bà đang nhớ lại, có nàng Anna
yêu kiều; bà vừa được tin về sự định li hôn của nàng. Bà từng mắt thấy chính
nàng, cũng trong trắng như Kitty, phủ tấm voan trắng, vòng hoa cam đội đầu. Còn
bây giờ thì sao? "Thật lạ lùng", bà nghĩ thầm.
Không phải chỉ riêng có chị em, bè
bạn và họ hàng quan sát mọi chi tiết của buổi hôn lễ: những phụ nữ đứng xem,
không quen thuộc, cũng cảm động, cố nín thở sợ bỏ sót bất cứ cử chỉ hoặc vẻ mặt
nào của cặp vợ chồng mới cưới và hoạ hoằn họ mới miễn cưỡng trả lời những câu
bông đùa hoặc nhận xét không đúng chỗ của bọn đàn ông thờ ơ mà nhiều lúc họ
không thèm để ý nghe.
- Tại sao mắt cô dâu lại đỏ hoe thế
nhỉ? Họ cưỡng ép cô ta lấy chồng chăng?
- Cưỡng ép à! Một người đẹp trai như
thế kia! Chú rể là hoàng thân, phải không?
- Chị ruột cô dâu mặc xa tanh trắng
đứng kia phải không? Này hãy nghe thầy sáu đang gào lên kia kìa: "Vợ phải
sợ chồng!".
- Hội hát ở Truđov đến phải không?
- Không phải, ở toà thánh đến đấy.
- Tôi đã hỏi gã đày tớ. Hắn bảo chú
rể sẽ đưa cô dâu về ngay trang trại của mình. Hình như chú rể giàu ghê lắm thì
phải. Vì thế nên họ mới gả cô ta.
- Ồ! Thật là đẹp đôi.
- Maria Vaxilievna, thế mà bà lại
bảo là người ta không mặc váy phồng nữa. Bà hãy thử nhìn cái bà mặc áo nâu cánh
dán kia xem, ở dưới váy có bao nhiêu là thứ… bà thấy rõ chưa!
- Cô dâu sao mà đáng yêu thế, trang
điểm cứ như con cừu non ấy! Muốn nói thế nào thì nói chứ bọn đàn bà chúng ta
đều đáng thương cả. Đó là câu chuyện trao đổi giữa các bà đứng xem đã len vào
được bên trong nhà thờ.
--------------------------------
1 Beau-frère (tiếng Pháp trong
nguyên bản).
Chương
6
Sau lễ trao nhẫn, một người giúp lễ
trải ra giữa nhà thờ, trước chiếc giá sách lễ, một tấm lụa hồng, hội hát cất
tiếng hát một bài ca vịnh với lối trình diễn tinh tế, có giọng nam trầm và nam
cao xen nhau, và linh mục quay lại chỉ cho đôi vợ chồng mới cưới tấm lụa hồng
trải trên mặt đất. Mặc dầu cả hai đều nhiều lần nghe nói về điều mê tín cho
rằng ai đặt chân lên thảm trước thì người đó sẽ là chủ gia đình, cả Levin và Kitty
đều không thể nhớ ra điều đó khi họ đi mấy bước đó. Họ cũng không nghe thấy
những điều người ta đang lớn tiếng nhận xét quanh họ: người này cho là chính
chàng đặt chân lên thảm trước, kẻ khác lại bảo cả hai đều đặt chân lên cùng một
lúc.
Sau những câu hỏi theo thủ tục về ý
nguyện thành hôn của đôi thanh niên, để đảm bảo chắc chắn họ chưa hề hẹn ước
với ai khác, và sau những câu trả lời mà chính họ nghe cũng thấy lạ tai, bắt
đầu một nghi lễ mới. Kitty lắng nghe lời cầu nguyện và gắng tìm hiểu ý nghĩa nhưng
không sao hiểu được. Một tình cảm đắc thắng và hoan lạc xâm chiếm tâm hồn nàng,
mỗi lúc một mãnh liệt hơn theo diễn biến của hôn lễ và làm nàng không sao tập
trung chú ý được.
Người ta cầu nguyện Đức Chúa Trời
"ban cho cặp vợ chồng mới cưới sự trong sạch và đầy ơn phúc", và để
cho họ "sung sướng khi nhìn thấy con cái". Người ta nhắc lại là Chúa
đã dựng lên người đàn bà bởi xương sườn cụt Adam cho nên người đàn ông đã từ
giã cha mẹ mà gắn bó với vợ và họ sẽ là "hai người trong cùng một xương
thịt" và "đó là một đại phép bí tích"; người ta cầu nguyện Chúa
ban phước lành cho họ như Người từng ban phước lành cho Ixaac và Reberca,
Jodev, Moiz và Xefora và để cho họ được nhìn thấy cháu chắt. "Mọi điều đó
rất tốt, Kitty nghe kinh và thầm nghĩ, nhất định là phải thế", và khuôn
mặt nàng ngời lên một nụ cười rạng rỡ, nó bất giác lây sang tất cả những người
đang nhìn nàng.
- Đặt hẳn vào đầu, - người ta nghe
thấy tiếng linh mục nói khi ông chìa những vòng hoa lên trên đầu họ trong khi
Tsiricov tay run bần bật trong chiếc găng ba khuy, đỡ lấy một vòng giơ lên đầu
Kitty.
- Anh đặt đi, - nàng mỉm cười khẽ
nói với anh trai.
Levin quay lại và sững sờ vì vẻ vui
sướng rạng rỡ hiện trên nét mặt nàng; tình cảm đó bất giác truyền sang chàng.
Chàng cũng cảm thấy thanh thản và vui vẻ như nàng.
Họ vui thích lắng nghe đọc Thánh
thư, nghe cái giọng quyện đi của cha chánh lễ đọc đến điệp khúc cuối cùng mà
tất cả cử toạ đang nóng lòng chờ đợi. Họ vui vẻ uống cốc rượu đỏ nóng pha nước
và càng hoan hỉ hơn khi linh mục, vén áo chùng sang bên, nắm tay họ và dẫn đi
vòng quanh giá sách lễ trong khi thầy sáu hát nguyện: "Tiên tri Ixaia, hãy
hát ngợi Chúa". Trerbaxki và Tsiricov, đang đi theo đỡ những vòng hoa
vướng cả chân vào vạt xiêm cô dâu, cũng mỉm cười, như thích thú điều gì, và khi
tụt lại sau, lúc xô cả vào cô dâu chú rể những lần linh mục dừng lại. Tia lửa
vui sướng Kitty nhóm lên đã lan khắp hàng quan khách. Levin có cảm giác cả linh
mục lẫn thầy sáu cũng mỉm cười như chàng.
Sau khi nhấc vòng hoa khỏi đầu họ,
linh mục đọc câu kinh cuối cùng và chúc mừng đôi vợ chồng mới. Levin nhìn
Kitty: chưa bao giờ chàng thấy nàng đẹp như vậy. Vầng hào quang hạnh phúc mới
nhen lồ lộ trên khuôn mặt đã tô điểm thêm cho nàng. Levin muốn nói vài câu
nhưng không biết nghi lễ đã xong chưa. Linh mục đã gỡ cho chàng khỏi lúng túng.
Ông mỉm cười hiền hậu và bảo chàng bằng một giọng dịu dàng:
- Hãy hôn vợ con đi, còn con, hãy
hôn chồng con đi.
Và ông cầm lấy đôi nến trong tay hai
người. Levin thận trọng hôn đôi môi tươi cười của Kitty, giơ cánh tay cho nàng
khoác, và lòng cảm thấy họ đang nhích lại gần nhau một cách kì lạ, chàng bước
ra khỏi nhà thờ. Chàng không tin, không thể tin đó là sự thật. Chỉ mãi khi hai
cặp mắt ngỡ ngàng và rụt rè gặp nhau, chàng mới tin là thật vì thấy từ nay họ
chỉ là một. Sau bữa ăn, cặp vợ chồng trẻ về quê ngay tối đó.
Chương
7
Anna và Vronxki đi du lịch châu Âu
từ ba tháng nay. Họ thăm Vơnizơ, Rom, Naple và vừa tới một thành phố nhỏ nước
Ý, họ định lưu lại đó ít lâu. Một gã đầu bếp bệ vệ, mái tóc dày chải sáp rẽ
đường ngôi suốt đến tận gáy, mặc áo đuôi tôm và yếm sơ mi bằng vải nõn, bụng
phệ, đầy dây chuyền, hai tay đút túi quần, đang hấp háy mắt ra vẻ khinh khỉnh
trả lời một ông đang hỏi. Nghe tiếng chân trên thềm, hắn quay lại và thấy vị bá
tước người Nga trọ ở phòng sang trọng nhất khách sạn. Hắn liền cung kính rút
tay ra khỏi túi, cúi chào và thưa với bá tước là có thư gửi đến và viên quản lí
cái biệt thự 1 họ đang điều đình thuê, đã bằng lòng kí giao kèo.
- Ồ! Tốt lắm, - Vronxki nói.
- Phu nhân có nhà không?
- Phu nhân đi dạo chơi, nhưng vừa về
xong, - gã đầu bếp trả lời.
Vronxki bỏ chiếc mũ mềm rộng vành ra
rồi lấy khăn tay lau trán đẫm mồ hôi và mớ tóc dài chải lật ra đằng sau để che
chỗ đầu hói. Chàng lơ đãng đưa mắt về phía vị khách đang đứng đó nhìn chàng và
định đi.
- Ông khách đây là người Nga và muốn
hỏi ngài, - gã đầu bếp nói.
Với cái cảm giác pha trộn cả bực bội
vì không sao thoát khỏi người quen lẫn mong muốn tìm một thú tiêu khiển cho đời
sống đơn điệu của mình, Vronxki một lần nữa quay lại nhìn ông khách và cùng một
lúc cặp mắt cả hai người đều sáng ngời lên. - Golenichsev! - Vronxki!
Đúng là Golenichsev thực, một người
bạn học của Vronxki ở trường Hoàng tộc thiếu sinh quân: hồi đó, ông ta gia nhập
Đảng tự do rồi tốt nghiệp với một chức vụ dân sự và không chịu phục vụ trong
quân đội. Từ khi ra trường, họ xa nhau và chỉ gặp nhau độc có một lần.
Trong lần gặp đó, Vronxki hiểu
Golenichsev đã chọn một công cuộc hoạt động tự do với khát vọng cao quý khiến
ông ta thật tình khinh bỉ địa vị của Vronxki. Cho nên Vronxki đã đối phó lại
bằng thái độ lạnh lùng và kiêu kì, bộc lộ rất khéo như muốn nói: "anh có
thể thích hay không thích lối sống của tôi, cái đó tôi hoàn toàn không đếm xỉa
tới. Nếu anh muốn chúng ta tiếp tục giao thiệp với nhau thì cần phải tôn trọng
tôi". Thái độ đó khiến Golenichsev coi khinh và dửng dưng. Cuộc gặp gỡ
tưởng mãi mãi chia rẽ họ. Thế mà giờ đây khi nhận ra nhau, khuôn mặt họ sáng
lên và họ buột miệng reo lên vui sướng.
Vronxki hẳn không thể ngờ mình lại
vui thích đến thế khi gặp lại Golenichsev, nhưng có lẽ đó là vì chính bản thân
chàng không nhận ra mình đang sống chán ngấy đến mức nào. Chàng quên bẵng cảm
giác nặng nề của lần gặp gỡ cuối cùng và chìa tay bắt tay người bạn cũ với vẻ
mặt cởi mở, vui sướng. Cũng vẻ vui mừng đó làm nở nang nét mặt mới đó còn băn
khoăn của Golenichsev.
- Tôi rất sung sướng được gặp lại
anh! - Vronxki nói và thân ái mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đẹp.
- Tôi nghe nói có một người tên là
Vronxki, nhưng không ngờ lại là anh. Tôi rất mừng.
- Vào đây đã. Anh làm gì ở đây?
- Tôi ở đây được hơn một năm rồi.
Tôi làm việc.
- Ồ! - Vronxki niềm nở nói. Mời anh
vào đây đã.
Và theo tập quán đặc biệt của người
Nga, họ lại nói chuyện bằng tiếng Pháp để đầy tớ không hiểu được.
- Anh có biết Karenina không? Chúng
tôi cùng đi du lịch với nhau. Tôi đến phòng bà ta ở đây, - chàng nói với bạn
bằng tiếng Pháp, vừa chăm chú nhìn kĩ vẻ mặt Golenichsev.
- Ô, tôi không biết bà ta, -
Golenichsev trả lời bằng một giọng hờ hững (tuyệt nhiên không phải ông không
biết). - Anh tới đây lâu chưa? - ông hỏi thêm.
- Tôi ấy à? Được ba ngày rồi, -
Vronxki trả lời, vẫn theo dõi vẻ mặt bạn. "Phải, đây là người có học có
thể nhìn sự việc đúng đắn được, Vronxki tự nhủ, bằng lòng về cách Golenichsev
chuyển đầu đề câu chuyện. Có thể giới thiệu anh ta với Anna, anh ta là người
trải đời".
Trong ba tháng vừa qua sống với Anna
ở nước ngoài, mỗi lần có thêm người quen mới, Vronxki luôn tự hỏi không biết họ
nhìn nhận sự dan díu của chàng với Anna như thế nào và chàng thường thấy mọi
người đều hiểu thích đáng cả. Nhưng nếu người ta hỏi chàng cũng như các người
đó rằng cách hiểu đó là thế nào, cả chàng lẫn họ hẳn sẽ rất lúng túng.
Thực ra, những người hiểu sự việc
"thích đáng" theo ý Vronxki, đều không hiểu gì cả, nhưng nói chung,
họ đều xử sự như người lịch thiệp thường xử sự trước những vấn đề phức tạp và
nan giải luôn vấp phải trên từng bước đi trong cuộc sống; họ giữ một thái độ dè
dặt, kín đáo, tránh những lời bóng gió và câu hỏi khó chịu. Họ làm ra vẻ hiểu
thấu đáo hoàn cảnh, thừa nhận và thậm chí còn tán thành nữa, nhưng đồng thời
lại cho việc thanh minh là thừa và không hợp.
Vronxki đoán ngay Golenichsev thuộc
loại người đó, nên chàng càng vui lòng gấp bội được gặp lại ông ta. Và quả
thực, khi được đưa vào gặp Karenina, Golenichsev đối xử với nàng đúng như
Vronxki mong muốn. Rất thoải mái, ông ta tránh nói đến những chuyện phiền toái.
Ông ta không quen Anna và sững sờ
trước sắc đẹp của nàng, nhất là vì thấy nàng bằng lòng tiếp nhận hoàn cảnh một
cách thật bình dị. Nàng đỏ mặt khi được Vronxki giới thiệu với Golenichsev và màu
đỏ trẻ thơ ửng trên khuôn mặt đẹp và chân thật ấy làm ông càng vô cùng cảm mến.
Nhưng ông thích nhất là thấy nàng gọi ngay Vronxki bằng Alecxei trước mặt ông
như để tránh mọi hiểu lầm và nàng kể là hai người sẽ đến ở căn nhà vừa thuê
xong mà ở đây họ gọi là palazzo. Thái độ giản dị và thẳng thắn đó đã chinh phục
ông. Trước người đàn bà đầy nghị lực, hoà nhã và vui vẻ đó, Golenichsev, vốn
quen cả Alecxei Alecxandrovitr lẫn Vronxki, cảm thấy mình đồng tình với nàng.
Ông hình như hiểu được điều mà chính bản thân nàng không bao giờ hiểu nổi: là
sau khi gieo tai hoạ cho chồng, sau khi bỏ chồng bỏ con và tự làm mất hết thanh
danh, nàng vẫn có thể sung sướng, kiên nghị và vui vẻ được.
- Cái nhà đó có ghi trong quyển chỉ
dẫn du lãm đấy, - Golenichsev nói, khi Vronxki nhắc đến tên biệt thự.
- Ở đó có một bức hoạ tuyệt đẹp của
Tanhtore 2, phong cách rất mới.
- Này, trời đẹp lắm, hay ta đến đó
xem qua lượt nữa? - Vronxki quay lại bảo Anna.
- Rất vui lòng, em đi đội mũ ngay
bây giờ. Anh bảo trời nóng à? - nàng nói, dừng lại ở ngưỡng cửa và nhìn
Vronxki, vẻ dò hỏi. Một lần nữa mặt nàng lại đỏ ửng lên.
Qua cái nhìn, Vronxki hiểu nàng
không biết chàng muốn nàng cần có thái độ như thế nào với Golenichsev và nàng
sợ mình đã không cư xử đúng ý chàng. Chàng trả lời bằng một cái nhìn âu yếm,
đắm đuối.
- Không, không nóng lắm đâu, - chàng
nói. Anna đoán là chàng đã vừa ý, nàng mỉm cười với chàng và nhanh nhẹn bước
ra.
Hai người bạn nhìn nhau và nét mặt
họ đều tỏ vẻ bối rối; Golenichsev rõ ràng là thích thú nhưng không tìm ra lời
để nói lên sự thán phục của mình, còn Vronxki vừa muốn lại vừa sợ nghe ông nhắc
tới Anna.
- Thế nào, - Vronxki nói, bắt sang
chuyện khác, - thế ra anh ở đây à? Anh vẫn bận bịu với những chuyện đó đấy chứ?
- chàng hỏi, sực nhớ có người bảo là Golenichsev đang viết lách gì đó.
- Phải, tôi đang viết phần hai của
cuốn "Hai nguồn gốc", - Golenichsev nói, mặt đỏ lên vui thích vì câu
hỏi đó, - hoặc nói đúng hơn là tôi chưa viết mà đang chuẩn bị viết, đang thu
thập tài liệu. Phạm vi của nó sẽ rộng hơn nhiều và bao quát hầu hết mọi vấn đế.
Ở nước Nga chúng ta, mọi người không muốn hiểu rằng chúng ta là những kẻ kế
thừa của Bidăngxơ 3, - ông nói, bắt đầu chứng minh dài dòng sôi nổi.
Vronxki thoạt tiên thấy lúng túng,
vì không hề biết tới phần đầu của cuốn "Hai nguồn gốc" mà tác giả nói
tới như một tác phẩm nổi tiếng. Nhưng khi Golenichsev đã trình bày ý kiến và
Vronxki theo dõi được rồi, tuy không biết gì về cuốn "Hai nguồn gốc",
chàng cũng thấy thích thích nghe ông vì Golenichsev nói giỏi. Nhưng chàng lấy
làm ngạc nhiên và phiền lòng trước sự khích động bực dọc của Golenichsev trong
khi trình bày vấn đề mình quan tâm. Mắt long lên, ông tuôn ra dồn dập những câu
trả lời bọn địch thủ tưởng tượng và nét mặt lộ vẻ xao xuyến và xúc phạm. Nhớ
lại trước kia, Golenichsev là một đứa trẻ nhanh nhẹn, gầy yếu, đầy thiện ý và
tình cảm cao quý, bao giờ cũng đứng đầu lớp, Vronxki không sao hiểu nổi nguyên
nhân nỗi bực bội đó và không tán thành thái độ của bạn. Điều làm chàng bực mình
nhất là Golenichsev, một nhân vật của giới thượng lưu, lại tự hạ mình xuống
ngang hàng với loại văn sĩ quèn đã làm ông tức tối và ông còn nổi giận với bọn
họ nữa. Thật có bõ công không chứ? Việc này làm Vronxki không vừa lòng, nhưng
chàng cảm thấy Golenichsev đang bị dằn vặt và thương hại ông ta. Sự khổ não,
gần như điên khùng, lộ rõ trên khuôn mặt sinh động và khá đẹp trong khi ông vẫn
tiếp tục trình bày thao thao bất tuyệt ý kiến mình, không để ý đến Anna đang đi
vào.
Khi Anna, mũ áo chỉnh tề, dừng lại
bên, bàn tay đẹp thoăn thoắt xoay xoay chiếc dù, Vronxki nhẹ hẳn người, dứt
khỏi cặp mắt bồn chồn của Golenichsev đang đăm đăm dán vào chàng để âu yếm nhìn
người bạn tình kiều diễm ngời ngợi sức sống và hạnh phúc. Golenichsev cố trấn
tĩnh và mấy phút đầu vẫn còn lầm lì và buồn rầu; nhưng Anna đang sẵn sàng niềm
nở với mọi người (dạo này nói là những kẻ kế thừa chủ nghĩa quan liêu chuyên
chế, những nghi lễ tôn giáo, bạo lực và đời sống xa hoa nàng thường như vậy)
trong chốc lát đã làm ông tươi tỉnh lại bằng thái độ giản dị và vui vẻ của
nàng.
Sau khi gợi nhiều chuyện linh tinh,
nàng lái ông bàn tới hội hoạ mà ông nói rất giỏi và nàng chăm chú nghe. Họ đi
bộ tới căn nhà mới thuê và dạo thăm xung quanh.
- Tôi thích nhất là Alecxei sẽ có
một xưởng hoạ xinh đẹp, - Anna nói với Golenichsev trên đường về.
- Nhất định mình phải dùng căn buồng
đó, - nàng nói với Vronxki bằng tiếng Nga và gọi chàng là mình vì hiểu trong
cảnh cô độc của họ, Golenichsev sẽ trở thành một người bạn thân thiết và không
cần giấu giếm ông ta.
- Anh cũng vẽ à? - Golenichsev quay
phắt lại hỏi Vronxki.
- Vâng, trước kia tôi có vẽ và nay
định thử vẽ lại xem sao, - Vronxki đỏ mặt nói.
- Anh ấy nhiều tài năng lắm đấy. -
Anna mỉm cười hớn hở nói.
- Tất nhiên tôi nhận xét cũng chẳng
tinh gì. Nhưng đó là ý kiến những người sành sỏi.
--------------------------------
1 Palazzo (tiếng ý trong nguyên
bản).
2 Tintoret: hoạ sĩ ý (1518-1594).
3 Bizance, tên cũ của
Conxtantinople, tức Istambul hoặc Stamboul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ.
Chương
8
Trong giai đoạn đầu sau khi ở cữ và
khỏi bệnh, Anna cảm thấy sung sướng tột độ và tràn đầy niềm vui sống. Sự hồi
tưởng nỗi bất hạnh của chồng không hề đầu độc hạnh phúc của nàng. Một mặt, kỉ
niệm đó quá khủng khiếp làm nàng không muốn nghĩ tới nữa và mặt khác, nỗi bất
hạnh của chồng đã đem lại cho nàng một hạnh phúc quá lớn khiến nàng không thể
cảm thấy hối hận chút nào. Nhớ lại mọi việc xảy ra sau cơn bệnh như: việc làm
lành, việc đoạn tuyệt với chồng, tin Vronxki bị thương, việc chàng trở lại,
việc chuẩn bị ly dị, việc bỏ nhà chồng ra đi, phút từ biệt con trai, nàng thấy
mọi cái đó hình như là một cơn ác mộng mà chỉ sau khi ở nước ngoài một mình với
Vronxki, nàng mới bừng tỉnh thoát ra được. Nhớ đến nỗi khổ gây cho chồng, nàng
có cảm giác gần như ghê tởm và tương tự như cái cảm giác của một người sắp chết
đuối đã gạt bỏ người bạn đang níu chặt lấy mình. Người bạn đó đã chết đuối. Tất
nhiên, đó là việc xấu, nhưng là lối thoát duy nhất, và tốt hơn hết không nên
gợi lại chi tiết khủng khiếp đó làm gì.
Sự thanh thoát đến với nàng ngay từ
phút đầu đoạn tuyệt và mỗi khi nhớ đến dĩ vãng, nàng lại nghĩ tới giây phút đó.
Lúc đó nàng tự nhủ: "Việc mình làm khổ người đàn ông này là điều không
tránh được, nhưng mình không hề lợi dụng nỗi bất hạnh của ông ta; chính mình,
mình cũng đau khổ và còn tiếp tục đau khổ; mình đã mất những thứ mình yêu quý
nhất đời: thanh danh người đàn bà đoan chính và con trai mình. Mình đã hành
động sai lầm nên không muốn được hưởng hạnh phúc; mình từ chối ly dị và sẽ đau
khổ vì ô nhục và phải xa lìa con trai". Nhưng dù có chân thành mong muốn
chịu phần đau khổ đến đâu, Anna vẫn không đau khổ. Nàng không thấy hổ thẹn chút
nào. Với sự tế nhị sẵn có của hai người, khi ở nước ngoài, họ tránh tất cả
những cuộc gặp gỡ có thể đặt họ vào một nghịch cảnh và ở đâu cũng chỉ gặp những
người giả tảng như hiểu rõ hoàn cảnh hơn cả bản thân họ. Cả việc phải xa cách
đứa con trai yêu quý, lúc đầu cũng không làm nàng đau khổ. Đứa con gái nhỏ của
Vronxki rất xinh, và từ khi Anna chỉ còn mình nó, nàng quyến luyến nó đến nỗi
hoạ hoằn mới nghĩ đến con trai.
Cái nhu cầu sống được kích thích sau
khi nàng bình phục, trở thành rất mãnh liệt, cùng những điều kiện sinh hoạt rất
mới mẻ và rất hấp dẫn khiến Anna sung sướng đến mức không thể dung thứ được.
Càng hiểu thêm Vronxki, nàng càng yêu chàng hơn. Nàng yêu vì bản thân chàng và
cả vì tình yêu của chàng đối với nàng. Việc chiếm hữu hoàn toàn người đàn ông
đó thường xuyên tạo cho nàng nguồn vui. Bao giờ nàng cũng khoan khoái khi có
mặt chàng. Mọi nét cá tính của chàng, ngày càng trở nên thân thuộc, đều làm
nàng ưa thích. Sự thay đổi trang phục (chàng bỏ không mặc quân phục nữa) làm
nàng say mê như một thiếu nữ si tình. Trong tất cả những cái chàng nói, nghĩ và
làm, nàng đều thấy dấu hiệu của độc đáo, quý phái và cao thượng. Sự say mê bồng
bột của chính nàng đồng thời cũng luôn luôn làm nàng lo sợ: nàng tìm kiếm và
không hề thấy ở chàng có cái gì không đáng khâm phục. Nàng không dám để lộ cho
chàng thấy ý thức về sự kém cỏi của bản thân so với chàng. Nàng thấy hình như
nếu biết điều đó, chàng sẽ mau chóng xa lánh nàng, mà nàng thì không biết ơn
thái độ đối xử của chàng và không thể không tỏ ra biết đánh giá đúng thái độ
đó. Không bao giờ chàng lộ chút hối tiếc về nỗi đã vì nàng mà hi sinh cả cái sự
nghiệp chính trị trong đó, theo ý nàng, chàng có thể giữ vai trò hàng đầu do
thiên hướng rõ rệt của chàng về mặt này. Chưa bao giờ chàng yêu say mê và kính
trọng nàng đến như vậy và luôn lo lắng tránh cho nàng mọi khó chịu của hoàn
cảnh. Con người đầy khí phách nam nhi đó không những không làm gì trái ý mà còn
nhường nhịn nàng và hình như chỉ lo đoán trước mọi ý thích của nàng để chiều
chuộng. Nàng không thể không cảm động trước việc đó, mặc dầu sự lo liệu và quan
tâm thường xuyên đó, cái không khí chăm bẵm chàng bao bọc quanh người yêu đôi
khi cũng làm phiền nàng.
Còn Vronxki, mặc dầu thực hiện được điều
hằng ao ước bấy lâu, vẫn không thể hoàn toàn sung sướng. Chẳng bao lâu, chàng
cảm thấy sự thực hiện điều mong muốn đó chỉ mang lại một hạt cát trong cái núi
hạnh phúc chàng đã mơ tưởng. Chàng hiểu ra cái sai lầm muôn thuở mọi người
thường mắc phải khi tin rằng hạnh phúc có nghĩa là thực hiện được điều mình
mong ước. Trong thời kì đầu cuộc đời chung sống với nàng, sau khi từ chức,
chàng thưởng thức cái thứ tự do chưa bao giờ được hưởng và lấy làm mãn nguyện,
nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Chẳng bao lâu, chàng cảm thấy nẩy ra trong
thâm tâm cái dục vọng muốn có những dục vọng: sự buồn chán. Ngoài ý muốn của
mình, chàng bám lấy những thói ngông phù phiếm nhất, những tưởng tìm thấy trong
đó một khát vọng và một mục đích. Mỗi ngày, chàng phải sử dụng những mười sáu
giờ và hai người lại đang ở nước ngoài, hoàn toàn tự do, thoát khỏi những điều
kiện sinh hoạt trong giới hạn thượng lưu từng chiếm hết thời giờ của chàng hồi
ở Petersburg. Thậm chí, chàng cũng không thể nghĩ tới những thú vui của cuộc
sống trai chưa vợ xưa kia đã nếm trong các cuộc du lịch, và chỉ một lần làm thử
(một bữa tiệc với các bạn thân) đã gây cho Anna một nỗi buồn tủi bất ngờ và quá
mức so với việc đó. Vì hoàn cảnh già nhân ngãi non vợ chồng, nên chàng không
thể giao du với cả người địa phương lẫn người Nga. Còn danh lam thắng cảnh,
ngoài việc chàng đã xem cả rồi, thì với tư cách là người Nga và tri thức, chàng
không coi chúng quan trọng đến mức lạ lùng như người Anh thường quen như vậy.
Như một con thú đói vồ tất cả những
gì vừa tầm, với hi vọng vớ được miếng mồi, Vronxki bất giác lăn vào chính trị,
hoặc đọc sách, hoặc hội hoạ.
Vì hồi nhỏ đã có năng khiếu hội hoạ
và không biết tiêu tiền vào việc gì, chàng bắt đầu sưu tập một bộ tranh, chàng
quyết định chọn môn hội hoạ, dành một phần thời gian cho việc đó và dồn vào đó
cả cái mớ khát vọng chưa toại nguyện đang đòi hỏi được thoả mãn.
Chàng vốn có khiếu hiểu biết và bắt
chước; chàng tưởng mình có điều kiện để trở thành nghệ sĩ và sau một thời gian
tự hỏi nên lựa chọn loại hội hoạ nào: hội hoạ tôn giáo, lịch sử, phong tục hay
tả thực, chàng bắt đầu làm việc. Chàng hiểu biết tất cả mọi thể loại và có thể
tìm cảm hứng ở cả loại này lẫn loại kia, nhưng lại không ngờ người ta có thể
hoàn toàn không hề biết tới các thể loại hội hoạ khác nhau mà vẫn có thể trực
tiếp cảm hứng từ cái có sẵn trong tâm hồn, không cần quan tâm xem cái mình vẽ
có thuộc một trường phái nổi tiếng hay không. Vì không biết điều đó và không
cảm hứng ở chính cuộc đời thật, mà lại cảm hứng theo cuộc đời đã thể hiện qua
nghệ thuật, nên chàng nhanh chóng và dễ dãi tìm thấy các đề tài và cũng nhanh
chóng và dễ dãi đạt tới một thứ hội hoạ rất giống với loại chàng muốn bắt
chước.
Trường phái Pháp uyển chuyển và gây
ấn tượng, làm chàng ưa thích hơn cả, chàng bắt đầu vẽ một bức chân dung Anna
mặc y phục ý, theo phong cách đó. Và cũng như tất cả những người đã xem bức
tranh, chàng thấy nó rất đạt.
Chương
9
Toà biệt thự, hoang phế cũ kĩ với
trần nhà cao chạy đường chỉ, với những bích hoạ, sàn đá khảm, những rèm gấm
vàng dày trước cửa sổ cao, những chậu hoa trên chân quỳ lan can và lò sưởi,
những cửa ra vào chạm trổ và những hành lang tối trang trí tranh ảnh, khi họ
đến ở, nuôi dưỡng trong Vronxki một ảo tưởng khoan khoái rằng mình không phải
chỉ là một lãnh chúa Nga, một đại tá hồi hưu, mà chính là một người có học thức
say mê và bảo vệ nghệ thuật, một hoạ sĩ khiêm tốn vì yêu một người đàn bà mà từ
bỏ xã hội thượng lưu, từ bỏ mọi giao du cùng tham vọng.
Vai trò Vronxki tự chọn cho mình sau
khi đến ở biệt thự, làm chàng hoàn toàn mãn nguyện, và khi, do Golenichsev,
giới thiệu chàng làm quen được với vài nhân vật lí thú, chàng đã yên tâm khoảng
thời gian đầu. Nhờ một giáo sư người ý hướng dẫn, chàng tập vẽ, kí hoạ theo tự
nhiên và nghiên cứu thời Trung cổ ý. Thời đại đó làm chàng say mê đến nỗi gần
đây chàng đội mũ khoác áo choàng theo thời trang Trung cổ, rất hợp với chàng.
- Chúng ta sống mà chẳng biết gì
quanh ta cả, - một buổi sáng Vronxki nói với Golenichsev, khi ông đến chơi. -
Anh đã xem tranh của Mikhailov chưa? - chàng nói và đưa cho ông một tờ báo Nga
vừa nhận được và chỉ cho xem bài báo nói về một hoạ sĩ Nga ở cùng thành phố vừa
vẽ xong một bức tranh được bàn tán rất nhiều và đã có người đặt mua trước. Bài
báo trách chính phủ và Viện hàn lâm đã không giúp đỡ gì nhà nghệ sĩ xuất sắc đó.
- Phải, tôi gặp ông ta rồi, -
Golenichsev trả lời.
- Tất nhiên không phải ông ta bất
tài, nhưng khuynh hướng của ông ta sai về căn bản. Vẫn là quan niệm về Chúa Cứu
Thế và đời sống tôn giáo mà người ta thấy ở Ivanov, Xtraux và Renang 1.
- Bức tranh đó vẽ gì? - Anna hỏi.
- Chúa Cứu Thế trước mặt Pilat 2,
Đấng Cứu Thế được vẽ theo mẫu người Do Thái, được thể hiện hoàn toàn theo chủ
nghĩa tả thực của trường phái mới. Và vì vấn đề đã đưa ông tới một trong những
luận đề ưa thích. Golenichsev nói tiếp:
- Tôi không hiểu sao họ lại có thể
nhầm lẫn một cách kệch cỡm như vậy. Chúa Cứu Thế đã có khuôn mẫu được xác định
dứt khoát trong nghệ thuật các bậc thầy xưa kia rồi. Nếu họ không định thể hiện
Chúa mà là một nhà cách mạng hoặc hiền triết, thì cứ việc chọn Socrate,
Franklin, Saclot Cordei 3 chứ đừng có chọn Jesu. Họ đã chọn nhân vật duy nhất
mà nghệ thuật không nên đụng chạm tới, và sau đó…
- Có thực là ông Mikhailov đó nghèo
túng đến thế không? - Vronxki hỏi, thầm nghĩ với tư cách là Mạnh thường quân
Nga, chàng cần giúp người đó, bất kể tranh ông ta đẹp hay xấu.
- Cũng chưa chắc. Ông ta là một hoạ
sĩ chân dung xuất sắc. Anh đã thấy bức chân dung bà Vaxintsicova của ông ta
chưa? Nhưng hình như ông ta không muốn vẽ chân dung nữa; có lẽ vì thế mà túng
quẫn. Tôi nói là…
- Liệu có thể nhờ ông ta vẽ chân
dung Anna Arcadievna được không? - Vronxki hỏi.
- Tại sao lại vẽ chân dung em? Sau
bức chân dung anh vẽ thì em không muốn bức nào khác nữa. Có vẽ chân dung Ani
thì vẽ (nàng đặt tên con gái như vậy). Con nó kia kìa, - nàng nói thêm khi nhìn
qua cửa sổ thấy chị vú nuôi xinh đẹp người ý đang cho đứa trẻ dạo chơi trong
vườn và liền đó liếc trộm Vronxki. Người đàn bà đẹp đó mà Vronxki đã vẽ cái đầu
vào tranh, là nỗi buồn phiền thầm kín duy nhất trong cuộc sống của Anna.
Vronxki thán phục nhan sắc và phong
thái Trung cổ của chị ta và Anna, chính vì không dám thú nhận rằng mình sợ đâm
ghen cả với vú nuôi, lại càng hết sức chăm sóc và nuông chiều chị ta cùng đứa
con trai nhỏ của chị.
Vronxki cũng nhìn qua cửa sổ và, bắt
gặp cái nhìn của Anna, liền quay ngay lại phía Golenichsev:
- Anh có quen ông Mikhailov đó
không?
- Tôi đã gặp ông ta. Đó là một gã
lập dị, không có chút giáo dục nào cả. Anh ạ, ông ta thuộc vào cái loại người
man rợ mà ngày nay ta vẫn thường gặp thuộc các loại người tự do tư tưởng mà
ngay từ đầu 4 đã tự nuôi dưỡng bằng những nguyên lí của chủ nghĩa vô thần, của
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa phủ định. Ngày xưa, - Golenichsev nói tiếp,
không để cho cả Anna lẫn Vronxki xen vào câu nào, - ngày xưa một người tự do tư
tưởng là người được giáo dục trong sự tôn trọng tôn giáo, pháp luật, đạo đức,
và do đấu tranh và lao động mà anh ta đạt tới tự do tư tưởng; nhưng ngày nay
lại xuất hiện một kiểu người tự do tưởng tưởng mới, tự nhiên nẩy nòi ra từng
bầy, thậm chí họ chưa hề nghe nói đến những quy tắc đạo đức và tôn giáo cùng uy
quyền, tự mình tiến tới phủ nhận hết thảy, tóm lại, đó là bọn người man rợ. Ông
ta thuộc loại đó. Nếu tôi nhớ đúng thì ông ta là con một viên thị vệ ở Moskva
và không được học hành gì cả. Sau khi vào Hàn lâm viện Mỹ thuật và tiếng tăm
lừng lẫy rồi, ông ta muốn học tập thêm vì ông ta đâu phải đồ ngốc. Và ông ta
nhớ đến cái ông tưởng là nguồn gốc của văn hoá: các tạp chí. Ở thời buổi tốt
đẹp xưa kia, một người muốn học tập, một người Pháp chẳng hạn, hẳn sẽ bắt đầu
nghiên cứu tất cả những nhà kinh điển: các nhà thần học, bi kịch, sử học, triết
học, anh cũng thừa biết cái khối lượng lao động trí óc to lớn chờ đợi họ là như
vậy. Nhưng thời buổi này, ông ta chỉ việc nhảy vào đám sách báo tiêu cực, rất
nhanh chóng hấp thụ ngay lấy một ít chất gạn lọc từ khoa học phủ định đó và thế
là xong. Nếu là hai mươi năm trước đây, hẳn ông ta còn tìm thấy được trong thứ
văn chương đó những dấu vết của sự đấu tranh chống uy quyền, chống lại những
tập quán nghìn đời, qua đó ông ta có thể hiểu còn có cái gì khác nữa, nhưng
ngày nay thậm chí người ta cũng không thèm tranh luận về những quan niệm thời
trước, người ta chỉ nói gọn lỏn: không có gì cả; tiến hoá 5, tự nhiên đào thải,
đấu tranh sinh tồn đã thay thế tất cả. Trong bài viết của tôi…
- Này, - Anna nói, từ nãy vẫn đưa
mắt kín đáo trao đổi với Vronxki và hiểu là chàng không cần biết hoạ sĩ đó được
đào tạo như thế nào mà chỉ bận tâm suy nghĩ đến việc giúp đỡ ông ta và đặt vẽ
chân dung. - Này, - nàng nói, quả quyết cắt đứt những lời thao thao bất tuyệt
của Golenichsev, - hay là ta đến nhà ông ta đi?
Golenichsev bình tĩnh lại và vui
lòng nhận lời. Vì hoạ sĩ ở tận một khu phố xa nên họ phải thuê xe.
Một giờ sau, Anna, Golenichsev và
Vronxki đi xe ngựa tới một căn nhà mới xấu xí ở một khu phố xa. Được vợ người
gác cổng cho biết Mikhailov thường tiếp khách trong xưởng vẽ, nhưng ông ta hiện
đang ở nhà cách đấy mấy bước, họ liền nhờ bà cầm danh thiếp đưa đến và xin phép
được xem tranh.
--------------------------------
1 D.F. Strauss (1808-1874) nhà thần
học người Đức, E. Renan (1823-1892) nhà văn và là nhà sử học người Pháp.
2 Ponce Pilate, quan cai trị xứ
Suyđê cúa La-mã, người đã giao Chúa Jêxu cho các thẩm phán tôn giáo xử.
3 Socrate (470-339 trước Thiên chúa
giáng sinh) nhà triết học Hy Lạp.
B. Franklin (1706-1790) nhà chính
trị và vật lý người Mỹ.
Charlotte Corday (1768-1793) người
đã ám sát nhà cách mạng Pháp Marat.
4 D' emblée (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
5 Evolution (tiếng Pháp trong nguyên
bản).
Chương
10
Mikhailov đang làm việc như thường
lệ thì nhận được danh thiếp của bá tước Vronxki và của Golenichsev đưa tới.
Buổi sáng, ông vẽ bức tranh lớn ở xưởng hoạ. Về đến nhà, ông cáu với vợ đã
không biết cách khất bà chủ đến đòi tiền nhà.
- Tôi đã bảo mình hàng chục lần là
không phân trần lôi thôi gì với họ cả. Mình vốn khá ngu ngốc rồi, nhưng khi bắt
đầu phân trần bằng tiếng ý thì mình càng ngu ngốc gấp ba, - ông ta nói vậy sau
hồi lâu cãi cọ.
- Này đừng có vặc với tôi, đó không
phải lỗi tại tôi. Nếu như tôi có tiền…
- Trời ơi, để cho tôi yên thân! -
Mikhailov quát lên, giọng nghẹn ngào nước mắt và bịt tai, chạy trốn sang phòng
làm việc bên cạnh, khoá chặt cửa lại. "Sao mà nó ngu thế!" ông nghĩ
thầm và ngồi vào bàn, mở kẹp giấy ra, hăm hở bắt tay ngay vào một bức hình vẽ
dở.
Không bao giờ ông làm việc tốt hơn
khi cuộc sống gặp khó khăn và đặc biệt khi cãi nhau với vợ. "Chao! Giá mà
ta có thể ở tít một xó nào nhỉ!". Ông tự nhủ và tiếp tục làm việc. Ông vẽ
một cái đầu đàn ông đang nổi cơn thịnh nộ. Bức hình hoạ phác xong rồi, nhưng
ông không vừa ý. "Không, cái kia khá hơn… Nó đâu rồi nhỉ? ". Ông sang
buồng vợ, mặt mày nhăn nhó, không buồn nhìn bà ta, và hỏi con gái lớn để đâu
bức hình hoạ ông đã đưa cho vợ con xem. Bức vẽ đã tìm thấy nhưng bẩn hết và
giây đầy vết mỡ sáp. Tuy nhiên, ông vẫn cầm lấy, đặt lên bàn, đứng lùi lại và
nheo mắt ngắm nghía. Bỗng nhiên ông mỉm cười vàkhoát tay ra chiều mãn ý.
- Phải rồi, phải rồi! - ông tự nhủ;
ông vớ ngay bút chì và vẽ như mê cuồng. Một vết mỡ sáp đã làm hình vẽ có một
dáng mới.
Ông vẽ lại cái dáng mới đó và đột
nhiên nhớ tới khuôn mặt cương nghị có cằm nhô ra của gã lái buôn thường bán xì
gà cho ông và ông lấy khuôn mặt cùng cái cằm đó làm đề tài. Ông cười sung
sướng. Bức phác hoạ đến nay mới chỉ xuất phát từ tưởng tượng và thiếu sức sống,
bỗng trở nên sinh động, dứt khoát. Nó đã có hồn, rõ ràng phân minh. Còn có thể
sửa lại hình vẽ cho hợp yêu cầu nhân vật, còn có thể và cần cho dạng đôi chân
một cách khác, thay đổi hẳn dáng cánh tay trái, vẽ lật tóc ra sau. Trong khi
sửa lại, ông không hề thay đổi nhân vật, chỉ tước bỏ những gì che lấp nhân vật.
Có thể nói ông đã cởi bỏ những tấm màn che từng bộ phận nhân vật; mỗi nét bút
mới góp phần làm cho bóng dáng nhân vật tăng thêm vẻ cương nghị mà vết mỡ sáp
đột nhiên gợi ý. Ông đang thận trọng hoàn thành nốt bức hình thì danh thiếp đưa
tới.
- Tôi ra ngay, ra ngay đây! Ông sang
buồng vợ.
- Thôi, Xasa, đừng giận nữa! - ông
dịu dàng và rụt rè mỉm cười bảo vợ. - Cả hai chúng ta đều có lỗi. Rồi anh sẽ
thu xếp việc đó.
Và sau khi dàn hoà với vợ, ông khoác
chiếc áo bành-tô màu lam sẫm cổ nhung, đội mũ và ra xưởng hoạ. Ông đã quên bức
hình hoạ rồi. Giờ đây ông chỉ nghĩ tới các quý khách người Nga đi xe ngựa đến
thăm. Trong thâm tâm, khi nghĩ về bức tranh hiện đang đặt trên giá vẽ, ông cho
rằng chưa ai vẽ được một bức như vậy. Ông không nghĩ tranh mình đẹp hơn tất cả
các tranh Rafael 1 đâu nhưng ông biết chưa ai thể hiện nổi điều đó, ông biết
thế từ lâu, từ lúc bắt đầu vẽ; nhưng nhận xét của người khác dù sao cũng rất
quan trọng và làm ông xúc động tận đáy lòng. Lời phê bình tầm thường nhất,
chứng tỏ sự hiểu biết ít ỏi nhất đối với cái mà ông thể hiện trên tranh, cũng
làm tâm hồn ông xao xuyến. Bao giờ ông cũng cho là những người bình phẩm có tầm
hiểu biết sâu sắc hơn mình và bao giờ cũng chờ đợi họ phát hiện cho ông thấy
một khía cạnh bất ngờ của tranh. Và thường thường, ông tưởng như chính sự nhận
xét của khách xem đã phát hiện cho ông hiểu tranh mình.
Ông nhanh nhẹn bước tới cửa xưởng
hoạ. Mặc dầu đang hồi hộp, ông vẫn sững sờ trước hình dáng Anna trong làn ánh
sáng dìu dịu bao quanh. Lúc đó nàng đang đứng ở một chỗ tranh tối tranh sáng,
vừa nói chuyện với Golenichsev vừa nhìn hoạ sĩ lại gần. Bất giác, ông vừa đi
vừa chộp lấy, nuốt lấy cái ấn tượng đó, như đối với chiếc cằm gã lái buôn thuốc
lá, và giấu kín trong một góc tâm trí để khi cần sẽ moi ra.
Các vị khách, tuy đã Được
Golenichsev mô tả trước để khỏi ảo tưởng, vẫn thất vọng vì bề ngoài của hoạ sĩ.
Với khổ người tầm thước, béo mập, dáng đi lon ton, với chiếc mũ nâu, áo khoác
màu lam sẫm và quần hẹp ống (từ lâu người ta đã mặc quần rộng ống), sự phàm tục
của bộ mặt bè bè cùng vẻ rụt rè hiện rõ trên đó lẫn với ý muốn giữ cho trịnh
trọng, Mikhailov tạo ra một ấn tượng khó chịu.
- Xin mới các ngài vào, - ông nói,
cố làm ra vẻ lãnh đạm bước vào phòng chờ, rút trong túi ra chiếc chìa khoá và
mở cửa.
--------------------------------
1 Raphael (1483-1520) danh hoạ người
Ý.
Chương
11
Vào đến xưởng hoạ, Mikhailov lại
liếc nhìn các vị khách một lần nữa và ghi thêm vào tâm trí vẻ mặt Vronxki, đặc
biệt là đôi gò má. Trong khi quan năng nghệ thuật làm việc không ngừng, thu
thập chất liệu và lòng mỗi lúc một thêm hồi hộp khi sắp tới giây phút người ta
đánh giá tác phẩm của mình, ông vẫn có ngay một nhận định về ba nhân vật đó,
dựa vào những dấu hiệu thoáng qua. Ông này (Golenichsev) là một người Nga ngụ ở
đây. Mikhailov không nhớ tên, cũng không nhớ đã gặp ông ta ở đâu và nói chuyện
với nhau những gì. Ông chỉ còn nhớ mặt ông ta, như ông thường nhớ tất cả những
khuôn mặt từng gặp một lần, đồng thời ông cũng nhớ là đã xếp nó, trong trí
tưởng tượng vào loại nhiều vô kể những bộ mặt nghèo sắc thái với một vẻ độc đáo
giả tạo. Mớ tóc dài và cái trán lồ lộ làm bộ mặt có tính cách hời hợt, nó chỉ
biểu lộ một vẻ ấu trĩ tập trung trong khoảng sống mũi hẹp ngăn đôi hai con mắt.
Theo ý hoạ sĩ, Vronxki và Karenina ắt là những người Nga giàu sang, không hiểu
chút gì về nghệ thuật như tất cả bọn Nga giàu có vẫn làm ra vẻ sành sỏi.
"Chắc chắn họ đã đi xem khắp lượt các thứ hội hoạ cổ và bây giờ đến thăm
xưởng vẽ của các hoạ sĩ mới, của bọn Đức bịp bợm và bọn Anh ngu xuẩn theo chủ
nghĩa Tiền Raphael 1; họ đến mình chỉ để hoàn thành nốt cuộc đi tua", ông
thầm nghĩ. Ông đã biết cái thói của bọn mê hoạ (và chính những tay thông minh
nhất lại là bọn tệ nhất);họ thăm xưởng vẻ của các hoạ sĩ mới, người ta càng
thấy các bậc thầy xưa kia vẫn không sao bắt chước được.
Ông thấy trước mọi cái đó, đọc nó
trên nét mặt họ, trong vẻ uể oải dửng dưng khi họ trò chuyện, ngắm xem những mô
hình người cùng tượng bán thân và dạo chơi không chút e dè trong xưởng vẽ, chờ
ông mở tranh cho xem. Nhưng mặc dầu mọi cái đó, trong khi giở phác thảo, cuốn
rèm và cất vải phủ tranh, ông vẫn thấy xúc động mãnh liệt, càng mãnh liệt hơn
vì ông thấy ưa thích Vronxki nhất là Anna, tuy vẫn thầm nhắc đi nhắc lại rằng tất
cả cái bọn Nga giàu sang đó đều là đồ súc sinh và ngu ngốc.
- Đây, - ông vừa nói vừa né sang bên
với dáng đi lon ton và chỉ cho họ xem bức tranh. - Đây là cảnh Chúa Cứu Thế
đứng trước Pilate, Matiơ, chương XXVII, - ông nói, cảm thấy đôi môi bắt đầu run
lên vì xúc động. Ông lánh ra và đứng sau họ.
Trong vài giây đồng hồ, các vị khách
im lặng ngắm tranh, Mikhailov cũng nhìn nó bằng cặp mắt xa lạ, dửng dưng. Trong
vài giây đó, ông chờ đợi một nhận định siêu việt và xác đáng ở các vị khách, mà
trước đây một phút ông còn coi khinh đến thế. Ông đã quên tất cả những điều ông
suy nghĩ về bức tranh trong ba năm trời vẽ ròng rã; ông quên tất cả giá trị
hiển nhiên của nó đối với ông; cũng như họ, ông nhìn bức tranh bằng con mắt
lạnh lùng và dửng dưng, và không thấy nó có ưu điểm nào. Ở tiền cảnh là bộ mặt
quàu quạu của Pilate, bộ mặt bình thản của Jesu và đằng sau là bọn lính của
Pilate cùng khuôn mặt thánh Tăng đang quan sát những việc xảy ra. Tất cả những
khuôn mặt đó, kết quả của vô số lần tìm tòi, sửa chữa và sai sót, nảy sinh từ
trong lòng ông với những tính cách riêng biệt, gây cho ông mọi nỗi vui sướng và
day dứt, đã được sửa hàng ngàn lần để đúc lại tất cả những tranh Jesu của
Titieng, Rafael, Ruyben. Cả bọn lính và Pilat cũng chỉ làm mẫu sao lại. Tất cả
những cái đó đều nhạt nhẽo, nghèo nàn, cũ kĩ và thậm chí còn vẽ tồi, sặc sỡ và
ẽo ợt nữa. Chắc họ sắp nói vài câu lịch sự khách sáo đây và khi chỉ còn một
mình, hẳn họ sẽ rất có cớ để thương hại và nhạo báng ông.
Không khí trở nên quá nặng nề đối
với ông (tuy nhiên, điều đó chỉ kéo dài có một phút). Để phá tan im lặng và tỏ
ra mình không hề xúc động, ông gắng tự chủ quay lại phía Golenichsev.
- Hình như tôi đã được hân hạnh gặp
ông rồi, - ông vừa nói vừa lo lắng đưa mắt hết nhìn Anna lại đến Vronxki để
khỏi bỏ sót nét thay đổi nào trên mặt họ.
- Đúng thế! Chúng ta đã gặp nhau ở
nhà Rôxi, ông còn nhớ cái tối hôm cô tiểu thư ý, nàng Rasen mới, ngâm thơ chứ,
- Golenichsev ung dung trả lời, không chút luyến tiếc rời mắt khỏi bức tranh,
quay sang nhìn hoạ sĩ.
Tuy nhiên, khi thấy Mikhailov đang
chờ đợi một nhận xét về bức tranh, ông liền nói:
- So với lần tôi được xem gần đây
thì bức tranh của ông đã tiến nhiều lắm. Hôm nay cũng như hôm đó, cái làm tôi
chú ý nhất là bộ mặt Pilat. Ta thấy rõ con người trung thực và ưu tú đó, nhưng
quan liêu đến tận xương tuỷ, không hề ý thức được việc mình làm. Nhưng tôi thấy
hình như…
Bộ mặt linh hoạt của Mikhailov bỗng
nhiên ngời sáng, đôi mắt long lanh. Ông muốn nói điều chi, nhưng bối rối, không
thốt nên lời và vờ ho. Mặc dầu ông thấy sự hiểu biết nghệ thuật của Golenichsev
rất tầm thường, mặc dầu điều nhận xét về bộ mặt Pilat thật vô nghĩa, mặc dầu
lời bình phẩm đã bỏ qua điều chủ yếu khiến ông phật ý, Mikhailov vẫn lấy thế
làm vui sướng. Chính ông cũng đã nghĩ về bộ mặt Pilat như lời Golenichsev nói.
Dù đó chỉ là một trong muôn ngàn lời bình phẩm xác đáng có thể nêu ra đối với
bức tranh, nhận xét của Golenichsev vẫn không vì thế mà kém phần quan trọng đối
với ông. Ông bỗng thấy mến ông khách và đột nhiên từ chán nản trở nên phấn khởi.
Lập tức, bức tranh sinh động hẳn lên trước mắt ông và mang theo vẻ phức tạp của
tất cả những gì đang sống thật. Mikhailov một lần nữa định nói chính ông cũng
hiểu Pilat theo cách đó, nhưng môi ông lại bắt đầu run bần bật và không sao
thốt ra lời.
Vronxki và Anna thì bàn tán bằng cái
giọng rì rầm thường thấy ở các triển lãm hội hoạ, một phần để khỏi làm mếch
lòng nghệ sĩ, một phần để khói nói to những lời ngỡ ngẩn dễ buột miệng thốt ra
khi bàn về nghệ thuật. Mikhailov ngỡ là chính họ cũng xúc động trước bức tranh.
Ông bước đến gần hai người.
- Vẻ mặt Jêxe thật tuyệt! - Anna
nói. Trong tất cả những cái nhìn thấy, vẻ mặt đó làm nàng chú ý nhiều nhất.
Nàng cảm thấy đó là trung tâm bức tranh và cho rằng lời khen ngợi sẽ làm vui
lòng hoạ sĩ. - Ta thấy rõ là Người thương hại cho Pilat.
Đó cũng lại là một trong vô số nhận
xét xác đáng có thể nêu ra đối với bức tranh và đối với bộ mặt Jesu. Nàng đã
nói là Người thương hại cho Pilat. Bộ mặt của Đấng Cứu Thế phải biểu lộ cả lòng
nhân từ cũng như tình thương, vẻ bình thản siêu phàm, sự đón nhận cái chết và ý
thức về sự hão huyền của lời nói. Hiển nhiên là Pilat có vẻ một viên quan lại,
còn Jesu biểu lộ lòng thương hại vì một đằng là hiện thân của đời sống xác
thịt, một đằng là hiện thân của đời sống tinh thần. Tất cả những điều đó xen
lẫn với một mớ liên tưởng khác, vụt qua trí óc Mikhailov. Và một lần nữa khuôn
mặt ông lại sáng ngời lên phấn khởi.
- Phải, hình ảnh đó thể hiện rất cừ,
không khí tạo ra thật mênh mông! Có thể đi quanh một vòng được, - Golenichsev
nói, bằng nhận xét đó tỏ ý không tán thành nội dung và cách quan niệm nhân vật.
- Bút pháp thật vững vàng kì lạ! -
Vronxki nói. - Những hình dáng ở bối cảnh nổi bật hẳn lên! Đó mới là kĩ thuật,
- chàng quay lại nói với Golenichsev, hàm ý muốn nhắc tới một cuộc nói với
Golenichsev, hàm ý muốn nhắc tới một cuộc nói chuyện trong đó chàng thú nhận
không hi vọng gì đạt được kĩ thuật đó.
- Vâng, vâng, thật là đặc sắc! -
Golenichsev và Anna hoạ theo.
Mặc dầu Mikhailov đang ở trong tâm
trạng khoan khoái, chữ "kĩ thuật" vẫn làm tim ông đau nhói. Ông tức
giận nhìn Vronxki và cau mày. Ông vẫn thường nghe thấy chữ "kĩ thuật"
đó và quả tình không hiểu nghĩa chữ đó như thế nào. Ông biết người ta dùng chữ
đó để chỉ năng khiếu máy móc về vẽ màu và vẽ hình không dính dáng gì đến nội
dung. Cũng như trong lời họ vừa tán tụng ông xong, ông nhận thấy người ta
thường đối lập kĩ xảo với chân giá trị nội tại của một tác phẩm, làm như có thể
vẽ đẹp những điều chưa được quan niệm thật đầy đủ. Ông biết rằng phải rất chú ý
và khéo léo mới nhấc được từng tấm màn che mà không làm hỏng bản thân tác phẩm
và nhấc được tất cả màn che ra khỏi tranh, nhưng nghệ thuật hội hoạ không dính
dáng gì đến kĩ thuật. Nếu một đứa bé hoặc một bà nấu bếp nhìn thấy được cái ông
nhìn thấy, hẳn họ cũng có thể ghi được những điều quan sát đó. Nhưng nhà kĩ
thuật hội hoạ giàu kinh nghiệm và khéo léo nhất, nếu không tiên lượng thấy nội
dung tác phẩm mà chỉ bằng vào năng khiếu máy móc đơn thuần, thì không thể vẽ
được gì hết. Hơn nữa, nếu đã bàn về kĩ thuật, ông cảm thấy đúng ra không thể
khen ngợi kĩ thuật của ông được. Trong mọi tác phẩm của mình, ông đều thấy
những khuyết điểm đập vào mắt, do vụng về khi nhắc màn che ra: ông không thể
sửa chữa mà không làm hỏng toàn bộ tác phẩm. Và trên tất cả hình dáng, nét mặt,
ông thấy vẫn còn dấu vết sót lại của màn che chưa bóc hết và làm tổn hại đến
toàn thể.
- Nếu ông cho phép được nhận xét,
thì tóm lại, chỉ có thể nói là… - Golenichsev nói.
- Ồ! Tôi rất lấy làm vui lòng, xin
ông cứ nói, - Mikhailov cười gượng, nói.
- Đó là trong tác phẩm ông, Đấng Cứu
Thế là một Con người - Thần thánh chứ không phải Thần thánh nhân hoá. Vả lại,
tôi biết đó là ý định của ông.
- Tôi không thể vẽ Đấng Cứu Thế khác
với hình ảnh của Người trong tâm hồn tôi, - Mikhailov trả lời, vẻ lầm bầm.
- Vâng, nhưng trong trường hợp đó,
nếu ông cho phép tôi được bày tỏ ý nghĩ… bức tranh của ông đẹp đến nỗi nhận xét
của tôi không thể có ảnh hưởng gì và vả lại, đây cũng chỉ là một ý kiến hoàn
toàn cá nhân mà thôi. ý kiến ông lại khác. Bản thân đề tài cũng khác. Nhưng ta
hãy lấy Ivanov, làm thí dụ. Tôi cho rằng khi ông ta đã hạ Đấng Cứu Thế xuống
hàng nhân vật lịch sử thì tốt hơn là ông ta hãy chọn một chủ đề mới hơn, chưa
ai khai thác cả.
- Nhưng nếu đó lại là chủ đều cao cả
nhất đối với nghệ thuật thì sao?
- Nếu chịu tìm tòi thì vẫn có thể
thấy những chủ đề khác. Nhưng quả thật, nghệ thuật là chuyện không thể bàn cãi.
Đứng trước bức tranh của Ivanov, một câu hỏi chung đặt ra cả cho những tín đồ
lẫn người không tín ngưỡng: đây có phải là Chúa hay không phải Chúa?, và thế là
sự nhất quán về ấn tượng bị phá vỡ.
- Tại sao lại như thế được? Tôi cho
là câu hỏi đó không hề đặt ra với người có học, - Mikhailov nói.
Golenichsev không đồng ý và vẫn giữ
ý kiến ban đầu của mình về sự nhất quán trong ấn tượng, cần thiết với nghệ
thuật, làm Mikhailov đuối lí.
Mikhailov bị khích động mạnh nhưng
không biết nói gì để bảo vệ quan điểm của mình.
--------------------------------
1 Pré-raphaélisme: một trường phái
nghệ thuật hồi nửa cuối thế kỷ XIX cho rằng thời kỳ toàn thịnh của hội hoạ chỉ
đến Raphael là chấm dứt.
Chương
12
Anna và Vronxki hồi lâu đã đưa mắt
nhìn nhau, khó chịu vì những lời huênh hoang của ông bạn, cuối cùng Vronxki
không đợi chủ nhân mời, đi sang căn phòng nhỏ ngay cạnh xưởng vẽ.
- Ôi! Đẹp quá, thật tuyệt vời! Thật
thú vị! - cả hai đồng thanh nói. "Cái gì mà làm họ thích thú đến
thế?", Mikhailov thầm nghĩ. Ông đã quên bẵng bức tranh đó, vẽ từ ba năm
trước. Ông đã quên tất cả những đau khổ và vui sướng do bức tranh đem lại trong
mấy tháng ròng rã làm việc ngày đêm. Ông cũng quên là mình thường quên bẵng
những tác phẩm đã hoàn thành. Ông không buồn nhìn đến những bức đó nữa và sở dĩ
còn treo đấy, chỉ là để chờ một người Anh hỏi mua.
- Ồ, có gì đâu, đấy chỉ là một phác
hoạ cũ thôi, ông nói.
- Đẹp quá! - Golenichsev cũng hoạ theo,
có vẻ thích thú bức tranh.
Hai chú bé đang câu cá dưới bóng cây
kim tước. Đứa lớn vừa quăng dây câu xuống và thận trọng gỡ chiếc phao vướng vào
bụi cây; nó như đang để hết tâm trí vào việc đó; đứa nhỏ chống tay nằm trên bãi
cỏ, mái tóc vàng rối bù, đang ngắm nhìn mặt nước bằng đôi mắt xanh tư lự. Nó
nghĩ gì vậy?
Sự hứng thú do bức tranh gây ra lại
làm bừng dậy trong lòng Mikhailov mối xúc động xưa kia; nhưng ông sợ cái tình
cảm phù phiếm đối với dĩ vãng đó, cho nên, mặc dầu lời khen ngợi làm ông vui thích,
ông vẫn muốn lưu ý các vị khách đến một bức thứ ba.
Vronxki hỏi ông có bán bức kia
không. Việc đả động đến tiền nong giữa lúc trong lòng đang xúc động, làm
Mikhailov khó chịu.
- Tranh bày là để bán đấy, - ông cau
mày trả lời, vẻ ủ ê.
Khách đi rồi, Mikhailov ngồi xuống
trước bức tranh Đấng Cứu thế và Pilat, ôn lại trong trí óc những điều khách đã
nói hoặc ít nhất đã ám chỉ. Thật lạ lùng: khi họ còn ở đây và khi ông thầm đặt
mình vào quan điểm của họ, cái điều lúc đó đối với ông trọng yếu là thế, giờ đây
bỗng nhiên mất hết ý nghĩa. Ông lại bắt đầu ngắm tranh với con mắt nghệ sĩ chân
chính và lại vững tin rằng tác phẩm của mình thật hoàn hảo và do đó, thật quan
trọng - cái niềm tin cần thiết cho ông để duy trì tình trạng căng thẳng vượt
lên mọi hứng thú khác và thiếu nó thì không thể làm việc được.
Cái chân thu ngắn lại của Đấng Cứu
thế tuy nhiên còn sai sót. Ông cầm bảng bôi màu và bắt tay vào làm việc. Trong
khi chữa lại cái chân, ông không rời mắt khỏi hình dáng thánh Jăng ở bối cảnh
mà thậm chí các vị khách không hề để ý tới nhưng ông thì ông biết nó hết sức
hoản hảo. Sửa xong cái chân, ông định sửa luôn hình đó, nhưng cảm thấy quá xúc
động. Cả những lúc quá dửng dưng lẫn khi cảm kích và dễ rung động trước mọi
vật, ông đều bất lực mà chỉ có thể làm việc trong trạng thái trung gian giữa
lạnh lùng và phấn khởi. Lúc này, ông đang quá cảm động. Ông muốn che bức tranh
đi, nhưng dừng lại, một tay cầm màn che, ngắm nghía hồi lâu hình dáng thánh
Jăng với một nụ cười ngây ngất. Cuối cùng, như luyến tiếc không nỡ dứt ra, ông
buông màn che xuống và quay về nhà, mệt mỏi nhưng sung sướng.
Trên đường về, Vronxki, Anna và
Golenichsev hết sức vui vẻ và hoạt bát. Họ nói đến Mikhailov và tranh của ông
ta. Trong câu chuyện, họ luôn nhắc đến chữ "tài năng" mà họ dùng để
chỉ một thứ năng khiếu bẩm sinh, gần như thuộc về thể xác, độc lập với tâm hồn
và trí tuệ, cũng như để gọi tên tất cả những gì người nghệ sĩ cảm thụ: chữ đó
cần cho họ để xác định điều muốn nói mặc dầu họ không hiểu gì về điều đó cả. Họ
nói: Không thể phủ nhận tài năng ông ta, nhưng vì thiếu giáo dục nên tài năng
đó không phát triển được, đó là nỗi bất hạnh chung cho tất cả nghệ sĩ Nga của
ta. Nhưng bức tranh hai chú bé đã khắc sâu vào kí ức họ và suýt nữa họ còn định
quay lại xem lần nữa.
- Thật là đẹp! Rất thành công mà lại
rất giản dị! Chính ông ta cũng không thấy hết nó đẹp đến thế nào! Không thể để
lỡ dịp này, tôi phải mua ngay thôi! - Vronxki nói.
Chương
13
Mikhailovna bán bức tranh cho
Vronxki và nhận lời vẽ chân dung Anna. Đúng ngày hẹn, ông đến và bắt đầu làm
việc.
Ngay từ buổi vẽ thứ năm, bức chân
dung đã làm mọi người và nhất là Vronxki phải kinh ngạc vì không những nó giống
mà còn đẹp lạ lùng. Kì lạ thay, Mikhailov đã nắm được tất cả đặc điểm vẻ đẹp
của người mẫu. "Phải hiểu nàng và yêu nàng như mình mới có thể khám phá
được vẻ duyên dáng tuyệt vời đó, nó là một phản ánh của tâm hồn nàng",
Vronxki thầm nghĩ. Nhưng thực ra, chính bức chân dung đã chỉ cho chàng thấy vẻ
duyên dáng tuyệt vời đó, phản ánh tâm hồn Anna. Nhưng cái vẻ đó xác thực đến
nỗi những người khác, cũng như chàng, đều tưởng đã biết từ lâu rồi.
- Tôi hì hục bao lâu nay mà không đi
đến đâu cả, - Vronxki nhắc đến bức chân dung chàng vẽ, - còn ông ta chỉ cần
nhìn qua một cái là thể hiện được ngay. Thế mới thật sự là kĩ thuật.
- Cái đó rồi sẽ đạt được thôi, -
Golenichsev nói để khuyến khích Vronxki, ông cho rằng chàng có tài năng và nhất
là có trình độ văn hoá giúp chàng nâng cao quan điểm nghệ thuật. Golenichsev
càng tin chắc như vậy, vì ông đang cần Vronxki đồng tình và khen ngợi công việc
của chính mình, và theo ông, việc khen ngợi và ủng hộ phải có đi có lại.
Khi ở nhà người khác, và đặc biệt là
trong biệt thự 1 của Vronxki, Mikhailov là một người khác hẳn khi ở xưởng vẽ.
Ông tỏ ra lễ độ một cách gườm gườm như sợ gần gũi thân mật với những người mà
ông không coi trọng. Ông gọi Vronxki là "Quan lớn", và bất kể lời mời
mọc của Anna và Vronxki, không bao giờ ông ở lại ăn uống hoặc đến thăm ngoài
những buổi Anna ngồi làm mẫu vẽ. Anna đặc biệt ân cần và biết ơn ông về bức
chân dung, Vronxki lại càng lịch thiệp hơn đối với ông và rõ ràng muốn biết ý
kiến của nghệ sĩ về bức tranh của mình. Golenichsev không bỏ lỡ dịp nào để nhồi
vào đầu óc ông ta những ý kiến lành mạnh về nghệ thuật. Nhưng Mikhailov đều
lạnh lùng với mọi người. Xem cách nhìn, Anna cảm thấy ông thích ngắm nàng;
nhưng ông tránh không chuyện trò. Khi Vronxki nói với ông về bức tranh của
mình, ông một mực làm thinh và vẫn giữ nguyên vẻ trầm lặng cố tình đó khi bức
tranh được đưa ra cho ông xem; và rõ ràng ông chán ngấy những câu chuyện của
Golenichsev nhưng không hề cãi lại.
Tóm lại, khi hiểu kĩ Mikhailov hơn,
họ đâm phật ý vì thái độ dè dặt và không thân thiện, gần như thù địch của ông.
Họ lấy làm bằng lòng khi các buổi vẽ kết thúc: họ đã có một bức chân dung đẹp
và Mikhailov thôi không đến nữa… Golenichsev là người đầu tiên nói đến cái ý
kiến mà mọi người đều đồng tình, tức là Mikhailov ghen ghét với Vronxki, có thế
thôi.
- Ta không dùng chữ ganh tị, vì ông
ta có tài năng: nhưng ông ta tức tối vì một người giàu có, địa vị cao sang, lại
là bá tước nữa (anh chị cũng biết bọn họ ghét tất cả cái đó) không phải vất vả
quá đáng mà cũng làm được, nếu không hơn, thì cũng bằng ông ta, trong khi ông
ta phải bỏ cả cuộc đời vào việc đó. Cái chính là trình độ văn hoá, mà ông ta
lại không có văn hoá.
Vronxki bênh vực Mikhailov, nhưng
trong thâm tâm, chàng cũng đồng ý, vì theo chàng, một người ở tầng lớp thấp hèn
hơn thì tất phải ghen ghét.
Hai bức chân dung Anna, bức của
chàng và bức của nghệ sĩ, đáng lẽ phải chỉ cho Vronxki thấy sự cách biệt giữa chàng
và Mikhailov, nhưng chàng không nhìn thấy. Tuy nhiên, sau Mikhailov, chàng thôi
không vẽ tiếp chân dung Anna nữa, viện cớ nay nó thành ra thừa rồi. Chàng vẽ
tiếp bức tranh lấy đề tài ở thời Trung cổ. Cũng như Golenichsev, và nhất là
Anna, chàng thấy bức này rất đẹp vì so với những bức của Mikhailov, nó giống
những tác phẩm lớn thuở xưa hơn rất nhiều.
Về phía Mikhailov, mặc dầu rất thích
được vẽ chân dung Anna, ông còn hài lòng hơn cả họ khi các buổi vẽ chấm dứt,
khi không còn phải nghe những lời bình luận của Golenichsev về nghệ thuật và có
thể quên đi cái trò vẽ vời của Vronxki. Ông biết không thể cấm Vronxki tiêu
khiển, ông biết Vronxki cũng như tất cả những kẻ mê hoạ khác đều có quyền vẽ gì
tuỳ thích, nhưng ông vẫn lấy thế làm khó chịu. Ta không thể ngăn cấm một người
nặn một con búp bê lớn bằng sáp và ôm ấp hôn hít nó. Nhưng nếu người đó lại ôm
con búp bê đến ngồi trước một cặp tình nhân mà vuốt ve nó như anh chàng si tình
vuốt ve người yêu, thì thật khó chịu cho chàng si tình kia. Mikhailov cũng có
cảm giác khổ tâm như vậy khi phải xem tranh Vronxki: ông thấy nó thật lố bịch,
đáng bực, thảm hại và chướng mắt.
Vronxki ham mê hội hoạ và thời Trung
cổ không được bao lâu. Chàng cũng tạm đủ ý thức thẩm mĩ để dừng lại không vẽ
nốt bức tranh nữa. Thế là nó bị dở dang. Vronxki mơ hồ cảm thấy rằng những chỗ
kém của mình lúc đầu còn chưa rõ rệt, sẽ càng hiển nhiên, nếu vẽ tiếp. Chàng
cũng giống Golenichsev, ông này cảm thấy mình không có gì đáng nói ra, bèn tiêu
thời giờ để tự lừa dối bằng cách thầm nhủ là tư tưởng mình chưa đạt tới trình
độ chín muồi đầy đủ và còn phải bồi dưỡng đến nơi đến chốn, đồng thời thu thập
tài liệu. Nhưng điều đó làm Golenichsev tức tối và đau khổ, còn Golenichsev thì
không thể tự lừa dối, tự giày vò mình và nhất là không thể vì thế mà cay cú
được. Với tính quả quyết sẵn có, chàng liền ngừng không vẽ nữa, chẳng cần giải
thích, hoặc thanh minh gì cả.
Nhưng thiếu sự bận bịu đó (Anna ngạc
nhiên về sự tỉnh ngộ của chàng), cuộc sống của chàng và nàng hình như vô vị
trong cái thành phố Ý này; chàng thấy cái biệt thự 2 đột nhiên trở nên bẩn thỉu
và điêu tàn; những vết bẩn ở màn cửa, những kẽ nứt sàn nhà, những gờ tường rạn
lở bỗng có vẻ nhớp nhúa; quanh đi quẩn lại vẫn chỉ có độc Golenichsev và vị
giáo sư người ý cùng nhà du lịch người Đức làm bạn, tất cả đều chán ngấy không
chịu được: phải thay đổi cuộc sống thôi. Họ quyết định trở lại nước Nga, về ở
nông thôn.
Tại Petersburg, Vronxki dự định sẽ
chia gia tài với anh, còn Anna thì muốn đến thăm con trai. Họ sẽ ở một trang
trại lớn của Vronxki đến hết mùa hè.
--------------------------------
1 Palazzo (tiếng Ý trong nguyên
bản).
2 Palazzo (tiếng Ý trong nguyên
bản).
Chương
14
Levin cưới vợ đã được gần ba tháng.
Chàng sung sướng nhưng hoàn toàn không như chàng tưởng. Luôn luôn, chàng gặp những
vỡ mộng, nhưng cũng gặp cả những niềm vui bất ngờ. Chàng sung sướng, nhưng khi
đi vào cuộc đời vợ chồng, mỗi bước chàng lại thấy hoàn toàn không phải như đã
tưởng tượng. Chàng cảm thấy cái điều người ta cảm thấy lúc ngồi vào một con
thuyền sau khi ngắm nó trôi dễ dàng và vô sự trên mặt hồ. Chàng thấy không phải
chỉ cần ngồi yên không làm tròng trành là đủ: mà còn phải giữ đúng phương hướng
không rời mắt một phút, nghĩ tới làn nước đang ở dưới chân và phải chèo, và
việc này thật đau đớn cho những bàn tay thiếu kinh nghiệm. Ngắm thuyền đi là
việc dễ dàng, chèo lái có lẽ cũng mê li thật, nhưng rất gay go.
Khi còn sống độc thân, trong thâm
tâm chàng chỉ việc mỉm cười khinh khi trước cảnh sinh hoạt vợ chồng của kẻ
khác, trước những lo lắng tủn mủn, cãi cọ, ghen tuông của họ. Chàng tin chắc
trong đời sống gia đình của chàng, không những không thể xảy ra việc gì tương
tự mà ngay đến hình thức bên ngoài cũng sẽ khác hẳn. Nào ngờ cuộc sống của
chàng với vợ không những không có chút gì mới lạ mà trái lại, chỉ gồm toàn
những cái lặt vặt mà xưa kia chàng rất khinh bỉ và giờ đây, ngược với ý muốn
chàng, chúng có tầm quan trọng khác thường, không sao chối cãi được. Và Levin
thấy giải quyết những việc lặt vặt đó thật không dễ dàng như đã tưởng lúc đầu.
Mặc dầu tự cho mình có ý niệm rất đúng đắn về hôn nhân, cũng như mọi người
khác, chàng hi vọng sẽ tìm thấy trong đó toàn là hoan lạc tình yêu mà không có
chút trở ngại và tiểu tiết tầm thường nào. Chàng nghĩ mình phải tiếp tục công
việc và nghỉ ngơi trong hạnh phúc ái ân bên nàng. Nàng hẳn bằng lòng vì được
yêu. Nhưng cũng như mọi đàn ông khác, chàng đã quên là chính nàng cũng có nhiệ
vụ phải làm tròn. Chàng ngạc nhiên thấy nàng Kitty thơ mộng và xinh tươi, ngay
từ ngày đầu cuộc sống vợ chồng, đã nghĩ tới khăn bàn, đồ đặc, chăn nệm, bếp
nước, bàn ăn v.v… Ngay lúc đính hôn, chàng đã ngạc nhiên về thái độ dứt khoát
của nàng khi từ chối không đi du lịch nước ngoài mà quyết định về nông thôn,
như thể nàng hiểu rõ cái gì phù hợp với họ và ngoài tình yêu nàng có thể nghĩ
tới việc khác nữa. Việc đó đã làm chàng tự ái và giờ đây, chàng vẫn bực mình vì
những lo lắng tủn mủn của nàng. Nhưng chàng thấy nàng không thể làm khác được.
Và, tuy không hiểu tại sao nàng lại làm thế, tuy cười nàng, chàng vẫn không thể
không khâm phục Kitty, bởi vì chàng yêu nàng. Chàng cười khi thấy nàng bày biện
đồ đạc đem từ Moskva về, thay đổi đồ đạc trong buồng họ, treo màn cửa, sửa soạn
những buồng dành cho bạn bè, cho Đôly, sai bảo chị hầu phòng mới và ông bếp
già, bàn cãi với Agafia Mikhailovna và không để bà ta trông nom việc trữ thực
phẩm nữa. Chàng thấy ông bếp già thán phục vẻ kiều diễm của nàng và mỉm cười
khi nghe những lời sai bảo kì quặc không sao thực hiện được; chàng thấy Agafia
Mikhailovna lắc đầu âu yếm và tư lự trước cách sắp đặt mới của cô chủ trẻ;
chàng thấy Kitty đặc biệt dễ thương khi dở khóc dở cười đến mách là Masa vẫn
coi nàng như một cô thiếu nữ và ai nấy đều coi thường nàng cả. Chàng thấy mọi
cái đó đều đáng yêu nhưng kì quái và chàng nghĩ giá đừng thế thì tốt hơn.
Chàng không mảy may đoán được sự
thay đổi nàng đang trải qua; lúc còn ở nhà cha mẹ, nếu nàng thèm ăn cải bắp nấu
rượu kvat hoặc thèm ăn kẹo, cũng có khi không được, nhưng bây giờ nàng tự do
muốn gọi ăn món gì tuỳ thích, tự do mua hàng núi kẹo, bánh ngọt, tha hồ tiêu
bao nhiêu tiền cũng được.
Giờ đây, nàng vui thích mơ tưởng đến
lúc Đôly và các cháu về chơi: nàng sẽ làm cho mỗi đứa một cái bánh ưa thích và
Đôly sẽ khen chỗ ở mới của nàng. Chính nàng cũng không biết tại sao những việc
vặt nội trợ hấp dẫn nàng không sao cưỡng nổi. Linh cảm thấy mùa xuân sắp tới và
biết sẽ còn cả những ngày xấu trời, nàng cố sức xây dựng tổ ấm và đồng thời vừa
vội vã xây dựng cho nhanh vừa học tập cách thức xây dựng.
Những bận bịu tủn mủn của Kitty, vốn
rất trái ngược với lí tưởng về hạnh phúc cao cả mà Levin mơ ước, là một trong
những thất vọng của chàng; và cũng chính những công việc dễ thương đó, mà chàng
không hiểu nổi ý nghĩa nhưng không thể không yêu thích, lại là một trong những
hoan hỉ mới.
Những xích mích cũng vừa là vỡ mộng
vừa là hoan hỉ. Chưa bao giờ Levin lại tưởng tượng ngoài âu yếm, kính trọng và
ân ái ra, còn có thể có quan hệ khác giữa chàng và vợ, thế mà ngay từ ngay đầu
họ đã cãi nhau rồi. Nàng bảo chàng không yêu nàng, chàng chỉ yêu bản thân chàng
thôi và vung tay thất vọng oà lên khóc.
Vụ xích mích đầu tiên xảy ra sau lần
Levin đi thăm một ấp mới; chàng về muộn nửa giờ vì bị lạc trong khi muốn đi
đường tắt. Trên đường về, chàng chỉ nghĩ đến nàng, đến tình yêu và hạnh phúc;
càng đến gần nhà, niềm yêu càng bừng bừng cháy. Chàng chạy vội lên buồng với
một tình cảm mãnh liệt hơn cả lần đến nhà Trerbaxki cầu hôn. ấy thế mà nàng đón
chàng với bộ mặt sa sầm chưa từng thấy. Chàng định ôm hôn; nàng đẩy chàng ra.
- Em làm sao thế?
- Anh đi vui thú thế… - nàng cất
lời, muốn tỏ vẻ lạnh lùng chua chát.
Nhưng vừa mở miệng, sự ghen tuông vô
lí giày vò nàng suốt nửa giờ ngồi trên khung cửa sổ chờ chồng, liền bật ra
thành lời trách móc. Mãi đến lúc đó, chàng mới hiểu được cái điều mới chỉ mang
máng thấy, sau lễ cưới, khi họ cùng bước ra khỏi nhà thờ. Chàng hiểu không
những nàng chỉ gần gũi, mà còn hoà quyện vào chàng đến nỗi không còn biết đâu
là ranh giới giữa hai người. Nay chàng hiểu rõ điều đó qua cái cảm giác phân
thân đau đớn chàng đang trải qua lúc này. Đầu tiên, chàng phật ý, nhưng đồng thời
cảm thấy không thể phật ý với nàng được, vì nàng đã hợp làm một với bản thân
chàng. Trong phút đầu, chàng có cảm giác giống như người bị đánh rất mạnh ở
đằng sau, tức giận quay lại định trả đòn thì nhận ra chính mình đã vô ý tự làm
đau mình, không còn tức ai được nữa và đành chịu đau.
Về sau, không lần nào chàng cảm thấy
điều đó mãnh liệt như thế nữa, nhưng trong lần đầu tiên đó, hồi lâu chàng mới
bình tĩnh lại được. Một tình cảm tự nhiên ra lệnh cho chàng phải thanh minh và
chỉ rõ là nàng lầm; nhưng làm thế chỉ khiến nàng tức thêm và sự xích mích,
nguyên nhân của mọi tai vạ, càng tăng thôi. Một tình cảm quen thuộc xui chàng
không nên nhận lỗi và đổ cho nàng: một tình cảm khác mạnh mẽ hơn, xui chàng nên
dàn xếp xích mích cho thật nhanh, đừng để nó có thời gian phát triển trầm trọng
hơn. Phải cam chịu lời kết tội như vậy, quả thật bực mình, nhưng thanh minh mà
làm khổ nàng thì càng tệ hại hơn. Như người đang đau, khi nửa thức nửa ngủ,
chàng muốn dứt bỏ chỗ đau đi, nhưng bừng tỉnh lại mới nhận thấy chỗ đau lại
chính là bản thân mình. Chỉ có cách gắng kiên nhẫn chịu đau và chàng đã làm như
vậy.
Họ làm lành với nhau. Nhận thấy mình
có lỗi nhưng không muốn nói ra, nàng dịu dàng hơn với chàng và hạnh phúc càng
tăng gấp bội. Nhưng cái đó không ngăn cãi cọ khỏi tái diễn, mà thậm chí còn xảy
ra luôn, với những lí do thật bất ngờ và vụn vặt nhất. Thường thường nguyên do
cãi cọ là vì người nọ vẫn chưa hiểu cái gì là quan trọng đối với người kia và
vì suốt thời gian đầu, cả hai thường luôn cáu kỉnh. Khi người này vui vẻ và
người kia cáu kỉnh thì vẫn giữ được hoà thuận, nhưng khi cả hai đều cáu thì cãi
cọ lại xảy ra với những lí do rất lặt vặt và không sao hiểu được, đến nỗi về
sau họ hoàn toàn không nhớ đã cãi nhau về chuyện gì. Đành rằng khi cả hai đều
vui vẻ thì niềm yêu đời càng tăng gấp bội. Nhưng dù sao, thời kì đầu đó cũng
khiến họ khổ tâm.
Suốt thời gian đó, có sự căng thẳng
giữa hai người, hình như mỗi người đều co kéo về phía mình sợi dây đã ràng buộc
họ với nhau. Nói chung, tuần trăng mật này - theo truyền thống, Levin đặt rất
nhiều hi vọng vào đó - chẳng những không phải là tuần trăng mật, mà trong kí ức
cả hai người, còn là thời kì đau khổ, nhục nhằn nhất đời họ. Sau đó, họ cố gạt
bỏ khỏi kí ức những sự việc xấu hổ và lố lăng của cái thời kì không lành mạnh
trong đó, hoạ hoằn họ mới ở trạng thái bình thường.
Mãi tới tháng thứ ba chung sống, sau
khi đến ở Moskva một tháng rồi quay về, cuộc sống của họ mới bớt va chạm.
Chương
15
Họ vừa ở Moskva về và sung sướng vì
chỉ có hai người với nhau. Chàng ngồi viết ở bàn giấy. Kitty mặc chiếc áo dài
màu hoa cà sẫm mà chồng rất thích, vì đã được mặc trong những ngày đầu sau khi
cưới, nàng ngồi với tấm thêu kiểu Anh 1 trên đi văng, vẫn chiếc đi văng cũ kĩ
bằng da trước đây thường kê ở buồng giấy ông nội và cha Levin. Chàng suy nghĩ
và viết, sung sướng cảm thấy có nàng ngay bên cạnh. Chàng không phải rời bỏ cả
trại ấp lẫn cuốn sách trong đó chàng sẽ trình bày những nguyên lí cơ bản của
nền tân kinh tế nông thôn; nhưng cũng như xưa kia đã từng thấy công việc đó
thật vô nghĩa so với bóng tối bao phủ đời mình, giờ đây chàng lại thấy chúng có
vẻ nhỏ mọn và phù phiếm so với ánh sáng rực rỡ đang tràn ngập cuộc sống của
chàng. Chàng vẫn tiếp tục công việc nhưng giờ đây lại cảm thấy trọng tâm chú ý
đã di chuyển và do đó, chàng nhìn lại hoạt động của mình một cách khác, sáng
suốt hơn. Xưa kia, hoạt động đó là cách giải thoát duy nhất đối với chàng. Bây
giờ chàng cần đến nó để cho cuộc sống khỏi rực rỡ một cách quá đơn điệu. Cầm
tập bản thảo và xemlại những điều đã viết, chàng vui thích thấy công việc đáng
tiếp tục làm nốt. Đây là một công trình nghiên cứu mới mẻ và có ích. Chàng thấy
một số lớn ý kiến cũ là thừa và quá trớn, nhưng trái lại nhiều thiếu sót đã
được bổ sung khi chàng xem xét lại toàn bộ vấn đề.
Giờ đây chàng viết một chương mới về
nguyên nhân tình trạng bấp bênh của nền nông nghiệp ở Nga. Chàng chứng minh sự
bần cùng của nước Nga không những do phân phối bất công tài sản và chỉ đạo sai
lầm, mà còn do cả việc du nhập nền văn minh nước ngoài vào một cách trái khoáy,
đặc biệt là hệ thống đường giao thông, đường xe lửa, dẫn tới tập trung đông dân
ở thành phố, phát triển đời sống xa hoa và do đó, dẫn tới phát triển công
nghiệp, tín dụng và người bạn đồng hành của nó là đầu cơ, làm tổn hại đến nông
nghiệp. Theo chàng, trong điều kiện tài nguyên của nước nhà phát triển bình
thường, tất cả những sự việc ấy chỉ có thể xảy ra khi công sức bỏ vào việc canh
tác đã kha khá, khi tình hình nông nghiệp đã được chấn chỉnh đúng mức bằng
những biện pháp triệt để và những điều kiện rành mạch; tài nguyên đất nước phải
tăng tiến đều đặn và nhất là sao cho các ngành khác không đi trước nông nghiệp;
phù hợp với tình hình đã biết, nông nghiệp phải thích ứng với điều đó, và đường
giao thông, trong điều kiện sử dụng bất hợp lí đường xe lửa - vốn được xây dựng
không phải theo nhu cầu kinh tế mà theo sự cần thiết chính trị, do đó đâm quá
sớm - đáng lí đem lại sự hỗ trợ mà nông nghiệp chờ đợi, thì lại đi trước nó và
khiến cho sự phát triển của công nghiệp và tín dụng ngăn chặn nó; vì vậy, giống
như sự phát triển phiến diện và quá sớm của một cơ quan trong một động vật, làm
hại đến sự phát triển toàn diện của sinh vật đó, sự phát triển tài nguyên ở Nga
cũng bị gây tổn thất bởi tín dụng, đường giao thông, việc đẩy mạnh hoạt động
công nghiệp; những điều rõ ràng là cần thiết và hợp thời ở châu Âu, nhưng lại
gây hại, nguy hiểm cho vấn đề chủ yếu trước mắt là cơ cấu nông nghiệp 2.
Trong khi chàng viết, Kitty nghĩ tới
thái độ chú ý khác thường của chồng đối với cậu ấm Tsarcki đã tán tỉnh nàng khá
lộ liễu trước hôm họ ra về. "Chàng ghen, nàng thầm nghĩ. Lạy Chúa! Chàng
thật đáng yêu mà cũng thật ngốc nghếch. Chàng ghen! Nếu chàng biết mọi người
khác đối với mình chẳng qua cũng chỉ như anh bếp Piotr thôi, nàng thầm nghĩ và
nhìn cái gáy và cổ đỏ ửng của chồng với một ý thức sở hữu vốn xa lạ với bản
chất nàng. Ngắt quãng công việc của chàng kể cũng tội (song chàng còn khối thời
giờ), nhưng mình cần nhìn mặt chàng; không biết chàng có cảm thấy mình đang
nhìn không. Mình muốn chàng phải quay lại cơ… Mình muốn thế, nào!", và nàng
mở to mắt, hi vọng bằng cách đó, làm cái nhìn tăng thêm hiệu lực.
- Phải, những cái đó hút kiệt hết
nhựa và gây nên phồn vinh giả tạo, - chàng lẩm bẩm và ngừng bút, cảm thấy nàng
đang nhìn mình; chàng mỉm cười quay lại.
- Có gì thế em? - chàng mỉm cười hỏi
và đứng dậy.
"Chàng đã quay lại thật",
nàng thầm nghĩ.
- Không có gì cả, em chỉ muốn anh
quay lại thôi, - nàng nhìn chàng nói và thử đoán xem chàng có bực mình vì bị
quấy rầy không.
- Cả hai chúng ta sống thế này thật
sung sướng: hay ít ra cũng có một người sung sướng là anh, - chàng nói, bước
lại gần nàng, mặt rạng rỡ hạnh phúc.
- Cả em nữa! Em không còn muốn đi
đâu cả, nhất là đi Moskva!
- Em đang nghĩ gì thế?
- Em ấy à? Em nghĩ là… Không, không,
anh viết đi, đừng để đãng trí đi mất, - nàng dẩu môi nói.
- Em còn phải cắt tất cả các lỗ nhỏ
này, anh thấy không? Nàng cầm kéo và cắt vải.
- Không, nói cho anh biết em đang
nghĩ gì, - chàng nói và ngồi xuống cạnh nàng, theo dõi chiếc kéo con cắt lượn
tròn.
- À phải! Em nghĩ đến Moskva, đến
cái gáy anh.
- Sao anh sung sướng đến thế này
nhỉ? Điều đó trái với tự nhiên. Thật tốt đẹp quá mức bình thường, - chàng nói
và hôn tay nàng.
- Em thì trái lại, càng tốt đẹp bao
nhiêu, em càng thấy đó là tất nhiên.
- Em có một món tóc con tuột ra, -
chàng nói và thận trọng xoay đầu nàng lại.
- Đây này.
- Thôi mặc nó, ta còn đang bận việc
quan trọng. Nhưng việc quan trọng đã bị bỏ dở và họ đột nhiên rời nhau như hai
kẻ gian khi Kuzma vào mời ra dùng trà.
- Họ ở tỉnh về chưa? - Levin hỏi.
- Vừa mới về đấy ạ. Họ đang soạn thư.
- Nhanh lên anh, - nàng bảo chồng và
ra khỏi buồng giấy, nếu không, em đọc thư trước một mình không chờ anh đâu. Sau
đó ta sẽ chơi đàn tay đôi.
Còn lại một mình, Levin xếp vở vào
chiếc cặp giấy thấm mới do vợ mua cho, rồi rửa tay ở cái bồn rửa đầy đủ phụ
tùng sang trọng cũng mới có từ khi Kitty về đây. Chàng mỉm cười với những ý
nghĩ của mình và lắc đầu ra vẻ không tán thành; một cảm giác gần như hối hận
giày vò chàng. Trong cuộc sống của chàng hiện nay, có một cái gì mềm yếu (những
"khoái lạc của Capoue 3"chàng thầm nghĩ) làm chàng xấu hổ. "Sống
thế này không tốt. Thế là ngót ba tháng nay mình gần như không làm gì cả. Hôm
nay, có thể gọi là lần đầu tiên mình lại bắt tay vào việc, thế mà vừa khởi đầu
đã lại bỏ dở. Thậm chí gần như bỏ bễ cả công việc thường xuyên: mình không
trông nom gì đến trại ấp cả. Khi thì tiếc phải xa nàng, khi lại thấy nàng buồn
không nỡ đi. Thế mà mình lại nghĩ cuộc đời trước khi kết hôn là không đáng kể,
nó chỉ thực sự bắt đầu từ sau này! Thế mà sắp ba tháng rồi, và chưa bao giờ mình
sống nhàn rỗi như thế này. Không, không thể được, phải bắt đầu thôi. Đã đành,
đó không phải là lỗi tại nàng. Không thể trách cứ nàng điều gì. Đáng lẽ mình
phải cứng rắn hơn, phải tìm cách bảo vệ tính độc lập của mình tốt hơn. Tất
nhiên, đó không phải lỗi tại nàng", chàng thầm nhủ.
Nhưng một người bất mãn mà lại không
trách móc kẻ khác và nhất là không trách móc người thân về điều mình bất mãn
thì thật khó. Cho nên, Levin lờ mờ nghĩ đó không phải lỗi tại nàng (nàng không
thể có lỗi gì), mà tại việc giáo dục nàng quá hời hợt và phù phiếm ("cái
gã Tsarcki xấu xa đó, mình hiểu nàng muốn chặn đứng hắn lại nhưng không biết
làm thế nào"). "Phải, ngoài nhà cửa, quần áo và tấm thêu kiểu Anh 4
ra, nàng không quan tâm đến việc gì nghiêm túc. Cả công việc của mình, cả trại
ấp, nông dân, cả âm nhạc, mặc dầu nàng chơi nhạc rất nhiều, cả đọc sách, cũng
đều không làm nàng bận tâm. Nàng không làm gì cả và hoàn toàn mãn nguyện".
Nhận xét như vậy, Levin quả không hiểu rằng Kitty đang chuẩn bị cho một giai
đoạn hoạt động sắp tới, trong đó nàng phải vừa làm vợ, làm chủ nhà, vừa làm mẹ,
làm người nuôi dạy con. Chàng không hiểu rằng nàng đã linh cảm trước việc đó và
trong khi chuẩn bị cho nhiệm vụ ghê gớm đó, nàng tự cho phép mình hưởng vài
phút vô tư lự và hạnh phúc, đồng thời vui vẻ xây dựng tổ ấm tương lai.
--------------------------------
1 Broderie anglaise (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
2 Cả đoạn này, bản Pháp văn của
Sylvie Luneau - và do đó bản dịch của chúng tôi in lần thứ nhất - bỏ sót. Lần
này chúng tôi đối chiếu nguyên bản bổ sung thêm.
3 Capoue: một thành phố của Ý. Ngạn
ngữ: "Nằm ngủ trong những khoái lạc của Capu" có nghĩa là chơi bời
làm mất thời giờ quý báu.
4 Broderie anglaise (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
Chương
16
Levin lên gác và thấy vợ đang ngồi
đó, cạnh ấm đun trà và bộ ấm chén mới tinh. Nàng bảo vú già Agafia Mikhailovna
cầm chén trà ngồi xuống cạnh bàn tròn, rồi đọc thư của Đôly: hai chị em vẫn đều
đặn viết thư cho nhau.
- Cậu thấy chưa, mợ đã bảo tôi ngồi
cạnh mợ đấy, - Agafia Mikhailovna mỉm cười thân ái với Levin.
Trong câu đó, Levin đọc thấy sự cởi
nút tấn kịch xảy ra hồi gần đây giữa Agafia Mikhailovna và Kitty. Chàng thấy
mặc dầu nàng đã giành hết quyền cầm cân nảy mực làm bà vú già buồn phiền, Kitty
chiến thắng vẫn biết cách làm người ta yêu mến mình.
- Em đã bóc lá thư này gửi cho anh,
- Kitty nói và đưa chàng một bức thư chữ viết sai chính tả.
- Em chắc của cái bà đó, của anh
trai anh… Em chưa đọc đâu. Còn em, em nhận được một thư của ba mẹ và một của
chị Đôly. Anh thử tượng tượng xem, Đôly đã dẫn Grisa và Tania đi dự một cuộc
khiêu vũ trẻ con ở nhà Xarmatxki! Tania mặc giả nữ hầu tước.
Nhưng Levin không nghe nàng nói:
chàng đỏ mặt cầm lấy thư của Maria Nicolaievna, người tình cũ của anh trai, và
đọc. Đây là bức thứ hai bà ta gửi đến. Trong bức thứ nhất, Maria Nicolaievna kể
là anh chàng đã đuổi bà ta mặc dầu bà vô tội, và với một giọng thực thà tội
nghiệp, bà viết thêm mặc dầu túng quẫn, bà không yêu cầu gì mà chỉ đau đớn nghĩ
tới Nicolai Dimitrievitr vốn ốm yếu như thế, rồi đến chết dần chết mòn mất thôi
và xin Levin trông nom đến ông ta. Hôm nay, bà viết là đã gặp Nicolai
Dimitrievtr, đã trở lại ăn ở với nhau tại Moskva, rồi về một thành phố nhỏ; ở
đó ông ta xin được việc làm tại một công sở. Tại đây, ông cãi lộn với cấp trên,
rồi lại trở về Moskva, nhưng dọc đường, bị ốm nặng đến nỗi bà lo khó lòng qua
khỏi.
- Anh ấy luôn nhắc đến chú và anh ấy
hết cả tiền rồi, - bà ta nói.
- Này, Đôly nhắc đến anh đấy, -
Kitty mỉm cười nói, nhưng bỗng dừng lại khi nhận thấy vẻ mặt thất sắc của
chồng.
- Anh làm sao thế? Có việc gì xảy ra
thế hở anh?
- Bà ấy viết thư bảo là anh Nicolai
sắp chết. Anh phải đến với anh ấy.
Mặt Kitty đột nhiên biến sắc. Tania
mặc giả nữ hầu tước và Đôly đã biến khỏi đầu óc nàng.
- Bao giờ? - nàng hỏi.
- Ngày mai.
- Em có thể đi với anh được không?
- Ồ, Kitty, sao em lại nghĩ thế? -
chàng nói, giọng trách móc.
- Sao em lại nghĩ thế à? - nàng trả
lời, tự ái vì thấy đề nghị của mình được tiếp nhận một cách bực bội và miễn
cưỡng như vậy.
- Tại sao em lại không đi được? Em
sẽ không làm phiền gì anh cả. Em…
- Anh phải đi vì anh ruột anh sắp
chết, - Levin nói.
- Còn em thì vì sao…
- Vì sao à? Vì cùng một lí do như
anh đấy.
"Ngay cả lúc nghiêm trọng như
thế này, cô ta cũng chỉ lo ở nhà một mình buồn", Levin thầm nghĩ. Và việc
nàng viện cớ tạ sự trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, làm chàng tức giận.
- Không thể được, - chàng nghiêm
khắc nói.
Agafia Mikhailovna thấy họ lại sắp
cãi nhau, lặng lẽ đặt chén xuống và đi ra. Kitty thậm chí không để ý đến điều
đó. Cái giọng của chồng khi nói mấy tiếng cuối cùng càng xúc phạm nàng vì rõ
ràng chàng không tin lời nàng nói.
- Còn em, em nói là nếu anh đi thì
nhất định em cùng đi, nàng hấp tấp nói, giọng giận dữ.
- Tại sao lại không thể được? Tại
sao anh lại nói là không thể được?
- Bởi vì có trời mà biết được chúng
ta sẽ đi đứng như thế nào, đường sá thì xấu, ăn ngủ thì ở hàng, quán… Em sẽ làm
anh vướng víu, - Levin nói, cố giữ điềm tĩnh.
- Không vướng víu chút nào hết. Em
không cần gì cả! Anh có thể đi tới đâu thì em cũng có thể tới đó được…
- Chỉ riêng việc có người đàn bà đó
mà em không thể giao thiệp, cũng đủ là một lí do khiến em không nên đi.
- Em không biết và không muốn biết
gì cả. Em chỉ biết anh ruột chồng em sắp chết, chồng em phải đến với ông ta, và
em sẽ đi theo chồng để…- Kitty! Đừng có nóng nảy. Mà phải suy nghĩ. Hoàn cảnh
rất nghiêm trọng cho nên anh thật khổ tâm thấy em để xen vào đó tình cảm uỷ mị
phải ở nhà một mình. Nếu em buồn thì đến Moskva ở vậy.
- Ra thế đấy, anh luôn luôn gán cho
em những tư tưởng hèn hạ và tầm thường, - nàng nói, ứa nước mắt tức giận.
- Hoàn toàn không phải chuyện uỷ mị.
Em thấy bổn phận em là phải gần chồng trong cơn hoạn nạn, nhưng anh lại cố tình
làm khổ em, anh cố tình làm ra không hiểu…
- Ôi! Thật kinh khủng, phải nô lệ
đến mức thế này! - Levin kêu lên và đứng dậy, không thể nén giận lâu hơn nữa.
Nhưng đồng thời chàng cảm thấy đó là một đòn tự giáng vào đầu mình.
- Thế thì tại sao anh lấy vợ? Nếu
không anh đã tự do. Tại sao anh lại lấy vợ, nếu anh hối hận vì việc ấy? - nàng
nói. Nàng vùng đứng lên và chạy vụt sang phòng khách.
Khi chàng đến bên thì nàng đang khóc
nức nở.
Chàng bắt đầu nói, muốn tìm những
câu nếu không đủ sức thuyết phục thì ít nhất cũng làm cho nàng nguôi giận.
Nhưng nàng không nghe chàng nói và không chịu chấp nhận gì cả. Chàng cúi xuống
cầm tay nàng nhưng nàng giằng ra. Chàng hôn tay, hôn tóc, lại hôn tay lần nữa…
nàng vẫn im lặng. Nhưng khi chàng đưa hai tay ấp lấy mặt nàng và gọi
"Kitty!", đột nhiên nàng trở lại bình tĩnh, sụt sịt chút nữa rồi xiêu
dần, làm lành với chàng.
Họ quyết định ngày hôm sau cùng đi.
Levin bảo vợ là chàng đã tin nàng chỉ muốn theo chồng để giúp đỡ, và thừa nhận
rằng sự có mặt của Maria Nicolaievna bên cạnh anh chàng, không có gì bất tiện
cả; nhưng trong thâm tâm, chàng ra đi, bất mãn với cả vợ lẫn bản thân mình. Chàng
không bằng lòng vợ vì nàng không chịu để chàng đi khi cần phải đi (chàng ngạc
nhiên nghĩ, mới cách đây ít lâu, chàng còn chưa dám tin rằng nàng có thể yêu
mình, thế mà bây giờ, chàng lại khổ sở vì nàng quá yêu!); chàng không bằng lòng
mình vì đã thiếu kiên quyết. Nhưng điều làm chàng lo ngại nhất là việc Kitty sẽ
phải tiếp xúc với người đàn bà cùng sống với ông anh và chàng sợ hãi khi nghĩ
đến tất cả những va chạm có thể xảy ra. Chỉ cần nghĩ đến việc vợ mình, Kitty
của chàng, sẽ ở cùng buồng với một gái điếm, chàng cũng đủ rùng mình kinh sợ và
ghê tởm.
Chương
17
Khách sạn thị trấn nơi Nicolai Levin
đang nằm chờ chết là một trong những khách sạn tỉnh lẻ mà thiết bị gồm mọi cải
tiến mới mẻ, với tham vọng sạch sẽ, tiện nghi và thanh lịch nữa, nhưng lại bị
khách hàng rất nhanh chóng biến thành quán rượu bẩn thỉu mà cầu kì, và sự cầu
kì đó còn làm nó tồi tệ gấp mười những khách sạn cổ lỗ đành phận bẩn sẵn. Khách
sạn này đã đến cái nước đó rồi: nào chú lính giữ chân gác cửa, mặc đồng phục
bẩn thỉu đang hút thuốc lá trong phòng chờ, nào cầu thang bằng gang chạm trổ
buồn tẻ và tối tăm, nào anh bồi lôi thôi lếch thếch trong chiếc áo đuôi tôm nhọ
nhem, nào buồng ăn công cộng với những bó hoa giả bằng sáp bụi bặm bầy trênb
àn, nào cáu ghét, bẩn thỉu cùng với cái kiểu cách hợm hĩnh đang thịnh hành kể
từ khi phát triển đường xe lửa, tất cả gây cho Levin, vừa mới sống cuộc đời vợ
chồng trẻ, một cảm giác thật nặng nề, nhất là ấn tượng giả dối đó lại không phù
hợp chút nào với cái đang chờ họ.
Cũng như trong mọi trường hợp tương
tự, khi người ta hỏi họ muốn thuê loại buồng giá bao nhiêu thì y như rằng không
còn buồng tốt nào chưa có khách: cái thì một ông thanh tra đường sắt thuê, cái
thì một luật sư ở Moskva trọ, cái thứ ba lại xếp cho quận chúa Axtafieva từ
nông thôn ra. Người ta chỉ dành cho họ độc một gian buồng bẩn thỉu, và hứa đến
tối sẽ thu xếp một buồng không bên cạnh. Levin bực mình vì thấy dự đoán đã
thành sự thực: vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã phải lo cho vợ, trong khi đang
thắt lòng thắt ruột nghĩ tới anh và đáng ra cần chạy ngay đến đó. Chàng liền
dắt Kitty vào căn buồng dành cho họ.
- Anh cứ đi đi, đi đi! Nàng nói và
len lét nhìn chàng, vẻ phạm tội.
Chàng lẳng lặng đi ra và đụng ngay
phải Maria Nicolaievna, bà biết chàng đến nhưng chưa dám vào gặp. Bà ta vẫn y
như hồi chàng gặp ở Moskva: cũng vẫn chiếc áo dài len, để hở cánh tay và hở cổ,
vẫn khuôn mặt rỗ, đần độn, hiền lành và hơi xị ra.
- Thế nào? Anh ấy ra sao?
- Yếu lắm. Anh ấy nằm liệt giường
không đi đâu được. Anh ấy nóng lòng chờ chú. Anh ấy… chú… chú đi với thím ấy à?
Levin chưa kịp hiểu ra điều gì làm
bà ta lúng túng thì bà đã vội phân trần ngay.
- Tôi đi ngay đây, tôi sẽ vào bếp, -
bà ta nói. - Anh ấy sẽ hài lòng. Anh ấy biết thím đấy, anh ấy nhớ đã gặp thím ở
nước ngoài.
Levin hiểu bà ta nói về vợ mình và
không biết trả lời ra sao.
- Thôi, ta đi thôi!- chàng nói.
Nhưng chàng vừa bước đi một bước thì
cánh cửa buồng đã mở và Kitty hiện ra. Levin đỏ mặt vừa ngượng vừa bực vì thấy
nàng đã dồn cả hai vợ chồng vào một tình thế éo le; nhưng Maria Nicolaievna còn
đỏ mặt hơn. Bà ta co dúm người lại, nước mắt vòng quanh, hai tay cầm hai đầu
khăn vuông vặn vẹo trong ngón tay đỏ dừ, không biết ăn nói xử sự ra sao.
Trong chớp mắt, Levin thấy vẻ tò mò
hau háu trong cái nhìn Kitty hướng về người đàn bà gớm ghiếc đó mà nàng không
hiểu nổi; nhưng vẻ đó chỉ loé lên như một tia chớp.
- Thế nào, anh ấy ra sao? - nàng vừa
hỏi vừa quay về phía chồng rồi về phía người đàn bà.
- Ta không nên đứng ở hành lang mà
nói chuyện! - Levin nói, vừa cáu kỉnh nhìn một ông chật chưỡng đi qua hành lang
lúc đó.
- Thế thì mời chị vào đây, - Kitty
bảo Maria Nicolaievna lúc này đã trấn tĩnh lại; - hay là cứ đi đi thôi, - nàng
nói thêm, khi nhìn thấy nét mặt hoảng hốt của chồng; - rồi cho tìm em nhé, - và
nàng trở vào buồng. Levin đi đến chỗ ông anh.
Chàng hoàn toàn không hình dung
trước được cảnh tượng đang chờ chàng. Chàng nghĩ sẽ gặp ông anh ở trong trạng
thái khoái hoạt thường thấy ở người lao, chàng vẫn nghe nói vậy, trạng thái đó
từng làm chàng rất ngạc nhiên trong lần anh chàng đến thăm dạo mùa thu. Chàng
chắc trước lúc lâm chung sẽ có triệu chứng rõ rệt hơn, như yếu mệt, gầy còm
hơn, nhưng dù sao anh chàng có lẽ cũng vẫn gần như trong tình trạng cũ. Chàng
dự đoán mình sẽ thương tiếc vì mất người anh yêu quý và sẽ lại cảm thấy nỗi
khiếp hãi trước cái chết mà trước kia chàng đã trải qua, nhưng nay ở mức độ
mãnh liệt hơn. Và chàng chuẩn bị chờ cái đó; nhưng điều chàng thấy lại khác
hẳn.
Trong căn buồng nhỏ nhớp nháp, ván
ghép tường quét sơn đầy vết đờm bẩn, cùng tấm vách mỏng mảnh không ngăn được
tiếng trò chuyện lọt sang, trong bầu không khí hôi hám vì rác rưởi, trên chiếc
giường kê xa tường, một thân hình đắp chăn nằm thườn thượt. Đặt trên mặt chăn
là một bàn tay rộng như cái cào, không hiểu sao lại dính liền với một ống suốt
dài, khúc đầu khúc giữa đều mảnh như nhau. Cái đầu nằm nghiêng trên gối. Levin
nhìn thấy mớ tóc thưa thớt, dính chặt vào hai thái dương bết mồ hôi, và vầng
trán cao gần như trong suốt.
"Lẽ nào cái thây ma này lại là
anh Nicolai của mình?". Levin thầm nghĩ. Nhưng chàng lại gần, trông rõ mặt
và không thể nghi ngờ gì được nữa. Mặc dầu mặt ông ta hốc hác đến phát sợ,
Levin chỉ cần nhìn vào đôi mắt tinh nhanh ngước lên nhìn người đang đi tới,
trông thấy đôi môi thoáng mấp máy dưới cặp ria mép đẫm mồ hôi, là đủ hiểu rõ sự
thật ghê rợn: thây ma này đúng là anh ruột chàng.
Đôi mắt long lanh nghiêm khắc nhìn
chàng đầy oán trách. Và cái nhìn đó lập tức xác lập những quan hệ sinh động
giữa hai người sống. Levin nhìn thấy sự oán trách biểu lộ trong cặp mắt đăm đăm
nhìn chàng và hổ thẹn vì hạnh phúc của mình.
Nicolai mỉm cười khi Konxtantin nắm
tay ông. Một nụ cười yếu ớt, gần như không thấy được trong khi đôi mắt vẫn
nghiêm khắc.
- Chú không ngờ anh đến nông nỗi này
phải không? - ông khó nhọc nói.
- Có… không, - Levin lúng búng nói.
- Tại sao anh không báo cho tôi biết sớm hơn, từ dạo tôi cưới vợ ấy? Tôi đã cho
tìm anh khắp nơi.
Phải trò chuyện, tránh nín lặng, mà
chàng thì không biết nói gì, nhất là ông anh không trả lời mà chỉ ngước mắt
nhìn chàng: rõ ràng ông đang gắng hiểu cho ra ý nghĩa từng câu. Levin báo cho
anh biết vợ chàng cùng đến. Nicôlai tỏ vẻ hài lòng, nhưng nói ông e làm nàng sợ
hãi. Một phút im lặng. Đột nhiên, Nicolai cựa quậy và bắt đầu nói. Qua vẻ mặt,
Levin tưởng ông sắp kể với chàng một việc gì rất quan trọng, nhưng Nicolai chỉ
nói về tình hình sức khỏe của mình. Ông than phiền về thầy thuốc, tiếc rằng
thiếu mặt một danh y ở Moskva và Levin hiểu là ông hãy còn hi vọng.
Lợi dụng giây phút im lặng đầu tiên,
Levin đứng dậy muốn thoát khỏi cảm giác bức bối, dù chỉ một lát thôi, và nói là
phải đi đón vợ lại.
- Được, Để tôi bảo họ quét dọn đây
một tí. Tôi chắc là bẩn và hôi hám lắm phải không. Masa, vào thu dọn đi, -
người bệnh khó nhọc nói. - Và khi nào xong rồi thì đi ra, - ông nói thêm với
Maria Nicolaievna và nhìn em trai, vẻ dò hỏi.
Levin không trả lời. Khi ra đến hành
lang, chàng dừng lại. Chàng đã nói là đi đón vợ, nhưng bây giờ, nhận thức ra
cái cảm giác vừa trải qua, trái lại, chàng quyết định sẽ cố khuyên nàng không
nên đến chỗ người ốm, "Tại sao nàng phải chịu đựng như mình?" - chàng
thầm nghĩ.
- Thế nào, anh ấy ra sao?- Kitty
hỏi, vẻ mặt sợ hãi.
- Ồ! Thật là khủng khiếp, khủng
khiếp! Tại sao em lại đến đây nhỉ? - Levin nói.
Kitty nín lặng vài giây, ngắm chồng,
vẻ rụt rè và khổ sở. Rồi nàng bước đến gần và níu cả hai tay vào cánh tay
chồng.
- Koxtia, cứ dẫn em đến chỗ anh ấy,
như thế đỡ khổ tâm cho cả hai ta. Cứ dẫn em đến, em van mình, và để mặc em với
anh chị ấy, - nàng nói.
- Mình nên hiểu, điều khổ tâm cho em
hơn cả là thấy mình mà không được thấy anh ấy, còn nếu ở đó, có lẽ em cũng giúp
ích được. Mình nhận lời đi, em van mình, - nàng nói bằng một giọng cầu khẩn,
làm như hạnh phúc của nàng tuỳ thuộc vào đó.
Levin đành bằng lòng và sau khi trấn
tĩnh, chàng liền cùng Kitty quay lại chỗ ông anh; chàng hoàn toàn quên bẵng
Maria Nicolaievna.
Dáng đi nhẹ nhàng, bộ mặt can đảm và
thương cảm luôn luôn hướng nhìn về phía chồng, Kitty bước vào buồng người ốm,
thong thả quay lại, khe khẽ đóng cửa. Rồi nàng nhanh nhẹn và lặng lẽ bước đến
gần giường người ốm, tìm một chỗ ngồi thuận hướng để ông khỏi phải quay đầu
lại, cầm bàn tay to lớn trong bàn tay trẻ trung, tươi mát của mình, khe khẽ bóp
chặt và với cái tài đặc biệt của phụ nữ là tỏ ra thương cảm mà không làm phật
lòng, nàng nói chuyện với ông, vẻ hồ hởi dịu dàng.
- Chúng ta đã gặp nhau ở Xođen,
nhưng dạo ấy chưa quen nhau. Chắc anh không ngờ em sẽ trở thành em dâu anh.
- Chắc thím không nhận ra tôi phải
không? - ông nói. Khuôn mặt ông sáng lên một nụ cười từ lúc nàng bước vào.
- Ồ! Có chứ. Anh báo cho chúng em
biết tin như thế là phải lắm! Koxtia đang lo lắng, ngày nào anh ấy cũng nói với
em về anh. Nhưng người ốm phấn khởi không được lâu.
Nàng chưa kịp dứt lời, mặt ông đã
lại nghiêm trang, lộ rõ vẻ trách móc và ghen tị của người sắp chết với người
sống.
- Em e anh ở đây không được tốt lắm,
- nàng nói, tránh cái nhìn đăm đăm của ông và đưa mắt nhìn quanh phòng. - Phải
hỏi chủ khách sạn lấy một buồng khác để chúng ta có thể gần nhau, - nàng bảo
chồng.
Chương
18
Levin không thể điềm nhiên nhìn anh
trai, không thể tự nhiên và bình tĩnh trước mặt ông được. Khi bước vào buồng
người ốm, cả mắt lẫn sự chú ý của chàng bất giác nhoà hẳn đi, không nhìn thấy
và phân biệt được chi tiết tình cảnh ông anh. Chàng chỉ ngửi thấy một mùi tởm
lợm, nhìn thấy sự bẩn thỉu, bừa bãi, nghe thấy tiếng rên và cảm thấy bó tay
không sao cứu vãn nổi tình cảnh khủng khiếp đó. Chàng cũng không hề nghĩ đến
chuyện phân tích những chi tiết của tình cảnh đó, chuyện tự hỏi xem cái thân
hình đắp chăn kia đang nằm như thế nào, đôi cẳng chân gầy giơ xương, cái thân,
cái lưng được đặt như thế nào và liệu có thể tìm một tư thế nào tốt hơn không,
làm một cái gì đó để người ốm nếu không dễ chịu hơn thì cũng bớt đau đớn. Một
cảm giác ớn lạnh chạy suốt sống lưng khi chàng nghĩ đến tất cả những chi tiết
đó. Chàng tin chắc không còn cách nào để kéo dài đời sống hoặc giảm bớt đau đớn
cho ông. Nhưng ý thức về sự bất lực hoàn toàn làm chàng đau khổ và bực tức. Do
đó, chàng càng khó chịu. Phải ở trong buồng người ốm thật là một cực hình,
nhưng tránh không vào lại càng tệ hơn, cho nên chàng kiếm đủ mọi cớ linh tinh
để luôn luôn đi ra đi vào, không đủ can đảm ở lại một mình.
Nhưng Kitty lại suy nghĩ, cảm giác
và hành động hoàn toàn khác hẳn. Nhìn thấy người ốm, nàng đã chạnh lòng thương.
Nhưng tình thương không làm nảy nở trong tâm hồn phụ nữ của nàng cảm giác ghê
sợ và kinh tởm như ở Levin mà chỉ khiến nàng thấy cần phải hành động, phải biết
đầy đủ, tỉ mỉ về tình hình người ốm và tìm cách săn sóc. Và vì không lúc nào nàng
nghi ngờ nhiệm vụ mình là phải săn sóc người ốm, cho nên nàng cũng không hề
nghi ngờ khả năng làm được việc đó; cho nên nàng lập tức bắt tay vào việc. Nàng
chú ý ngay tới những chi tiết mà chồng chỉ nghĩ tới cũng đủ khiếp sợ rồi. Nàng
cho đi mời thầy thuốc, cho mang thuốc đến, sai cô hầu phòng cùng Maria
Nicolaievna quét dọn, lau chùi, tự mình giặt giũ quần áo, sửa sang lại giường
người ốm, cho mang tới mang lui mọi thứ đồ dùng. Nàng đã mấy lần quay về buồng
mình, không hề bận tâm tới những người gặp ngang đường, đem đến nào vải lót
giường, áo gối, nào khăn lau tay, áo sơ mi.
Gã bồi đang hầu bàn cho bữa trưa của
các kĩ sư ở phòng ăn công cộng nghe nàng gọi, đã mấy lần phải chạy đến, nét mặt
hầm hầm tức giận, nhưng không thể trốn tránh những việc nàng sai bảo, vì nàng
nói rất khẩn thiết hoà nhã đến nỗi không nỡ nào từ chối. Levin không tán thành
mọi cái đó. Chàng không tin người ốm có thể do đó mà thuyên giảm chút nào. Và
nhất là chàng còn lo ông anh sẽ nổi giận nữa. Nhưng, mặc dầu ra vẻ thờ ơ với
những việc đó, người ốm vẫn không nổi giận; ông chỉ tỏ vẻ bối rối và hình như
cũng để ý tới sự chăm sóc của nàng đối với mình. Levin được Kitty phái đi mời
bác sĩ và ở đó trở về, lúc mở cửa bước vào, chàng thấy mọi người đang thay quần
áo cho người ốm. Chiếc lưng dài trắng phơi trần với đôi xương bả vai to tướng,
bộ xương sườn và xương sống nhô ra, và Maria Nicolaievna cùng tên bồi đang lúng
túng với đôi tay áo sơ mi, không sao xỏ đôi cánh tay dài cứng đơ của người ốm
vào được. Kitty nhanh nhẹn đóng cửa ra vào đằng sau Levin và không nhìn về phía
đó; nhưng người ốm bắt đầu rên vì nàng vội tới ngay chỗ ông.
- Nhanh lên! - nàng nói.
- Đừng lại gần, - người ốm cáu kỉnh
bảo nàng.
- Để tôi mặc lấy…
- Mình bảo gì? - Nicolaievna hỏi.
Nhưng Kitty đã nghe thấy và hiểu ông
ta xấu hổ vì phải cởi trần trước mặt nàng.
- Em không nhìn đâu, không nhìn đâu!
- nàng nói và cầm tay anh chồng xỏ vào áo. - Maria Nicolaievna, chị giúp anh ấy
ở phía bên kia, - nàng nói thêm.
- Mình giúp em đi lấy cái lọ con ở
trong xắc, - nàng bảo chồng, - mình biết chứ, ở cái túi con bên cạnh ấy; mình
mang nó lại đây, trong lúc đó bọn em sẽ thu dọn xong cái phòng này.
Khi chàng cầm chiếc lọ con trở lại,
Levin thấy người ốm đã nằm xuống. Chung quanh chàng, tất cả đã hoàn toàn thay
đổi. Mùi nồng nặc nhường chỗ cho mùi dấm thơm mà Kitty đang bặm môi, phồng đôi
má đỏ hồng thổi vào cái ống con phun ra. Bụi bặm đã quét sạch, thảm trải ngay
cạnh giường. Trên bàn bày gọn gàng chai lọ, một chồng quần áo và tấm thêu kiểu
Anh 1 của Kitty. Một lọ thuốc nước, cây nến và gói thuốc bột đặt trên một cái
bàn khác kê cạnh giường người ốm. Còn người ốm đã rửa ráy và chải đầu, mình mặc
sơ mi sạch, nằm nghỉ trong tấm mền sạch sẽ, đầu gối lên chồng gối cao; cái cổ
gầy nghẹo ngọ thò ra khỏi cổ áo trắng và một tia hi vọng mới hiện lên trong đôi
mắt dán chặt vào Kitty.
Levin gặp bác sĩ ở ngoài câu lạc bộ
và dẫn đến, đây không phải người vẫn chữa cho Nicolai Levin và thường làm ông
bực mình. Bác sĩ chẩn đoán bệnh cho người ốm, lắc đầu, kê đơn rồi căn dặn kĩ
lưỡng, trước tiên là cách thức dùng thuốc và sau đó chế độ ăn uống kiêng khem
thế nào. Ông ta khuyên nên ăn trứng sống hoặc trứng lòng đào và uống nước suối
với sữa nóng tới một nhiệt độ nhất định. Bác sĩ đi rồi, người ốm nói vài lời
với em trai, Levin chỉ nghe ra mấy tiếng cuối: "Katya của chú" 2,
nhưng qua cặp mắt ông nhìn vợ chàng, Levin biết ông khen ngợi nàng. Rồi ông kêu
Katya đến, vẫn gọi nàng bằng cái tên đó.
- Tôi khá hơn nhiều lắm rồi, - ông
nói.
- Giá có thím thì có lẽ tôi đã khỏi
bệnh từ lâu rồi. Tôi dễ chịu lắm! - ông cầm tay nàng và đưa lên môi nhưng hình
như sợ làm nàng khó chịu, ông ghìm ngay lại, đặt xuống và chỉ vuốt ve thôi.
Kitty nắm chặt bàn tay đó vào hai tay mình.
- Bây giờ, thím trở người cho tôi
nằm nghiêng bên trái rồi thím đi ngủ đi, - ông nói. Chỉ có mình Kitty hiểu rõ
lời ông. Nàng hiểu rõ vì luôn luôn tự hỏi ông đang cần gì.
- Về phía bên kia, - nàng nói với
chồng, - bao giờ anh ấy cũng nằm ngủ nghiêng về phía bên kia; mình hãy trở
người cho anh ấy một mình, đừng gọi bồi, thêm phiền ra. Em thì không đủ sức.
Thế còn chị? - Nàng hỏi Maria Nicolaievna.
- Tôi sợ lắm, - bà ta trả lời.
Mặc dầu Levin rất khiếp sợ phải ôm
trong tay thân hình ghê rợn đó, phải sờ vào những bộ phận cơ thể dưới cái chăn
đó mà chàng không muốn biết tới, chàng vẫn làm theo ý vợ. Với vẻ mặt quả quyết,
quen thuộc đối với nàng, chàng ôm ngang người ông anh, nhưng mặc dầu rất khoẻ,
chàng vẫn kinh ngạc vì sức nặng kì lạ của những chân tay kiệt lực đó. Trong khi
chàng trở người cho anh và cảm thấy một cánh tay gầy giơ xương quàng lấy cổ thì
Kitty nhanh nhẹn lật gối, phủi bụi và vuốt gọn mớ tóc thưa của Nicolai đã lại
dính bết vào hai bên thái dương.
Người ốm nắm lấy tay em trai. Levin
cảm thấy ông định làm gì đó với bàn tay mình và đang kéo nó. Chàng để mặt ông
làm, trong lòng thổn thức. Cuối cùng, ông đưa tay chàng lên môi hôn. Levin nức
nở khóc rung cả người, ra khỏi phòng không nói nên lời.
--------------------------------
1 Broderie anglaise (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
2 Tên gọi thân mật của Ekaterina
(tức Kitty).
Chương
19
"Người đã vạch cho trẻ nhỏ biết
những điều Người giấu các nhà hiền triết và các bậc trí nhân", Levin thầm
nghĩ khi trò chuyện với vợ tối đó.
Sở dĩ Levin nghĩ tới câu đó trong
kinh Phúc âm, không phải vì chàng tự cho mình là hiền triết. Chàng không tự cho
mình là hiền triết, nhưng không thể không biết mình thông minh hơn vợ và Agafia
Mikhailovna, mặt khác, chàng cũng hiểu khi nghĩ đến cái chết, chàng đã nghĩ với
tất cả sức lực tâm hồn. Chàng lại biết, vì đã đọc những suy nghĩ của họ về vấn
đề đó, rất nhiều vĩ nhân cũng từng nghĩ đến cái chết nhưng không khám phá được
lấy một phần trăm những điều vợ chàng và Agafia Mikhailovna hiểu về nó. Agafia
Mikhailovna và Katya -như ông anh Nicolai thường gọi và Levin bây giờ cũng
thích gọi thế - hai người đàn bà rất khác nhau lại hoàn toàn giống nhau về
phương diện này. Không chút nghi ngờ, họ hiểu thế nào là sự sống và thế nào là
cái chết, và mặc dầu không trả lời được những vấn đề đặt ra với Levin và cũng
không hiểu nổi những vấn đề ấy, họ vẫn không hề ngờ vực ý nghĩa của hiện tượng
đó và cùng chung một quan điểm với hàng triệu người khác. Họ tỏ ra hiểu biết
sâu sắc về ý nghĩa cái chết: không một phút do dự, họ biết cách cư xử với kẻ
hấp hối và không hề ghê sợ. Levin và rất nhiều người khác, mặc dầu có khả năng
suy nghĩ khá nhiều về cái chết, rõ ràng vẫn không hiểu tại sao mình lại sợ cái
chết và hoàn toàn không biết làm gì khi có người hấp hối. Nếu lúc này Levin ở
một mình với ông anh Nicolai, hẳn chàng sẽ khiếp sợ ngắm ông ta, sẽ chờ đợi với
một nỗi khiếp sợ còn lớn hơn thế nữa và không biết làm gì khác.
Hơn nữa, chàng cũng không biết nói
gì, xử sự thế nào, đi đứng ra sao. Nói chuyện bâng quơ thì xấu hổ; nói đến cái
chết, đến chuyện buồn, thì không nên. Im lặng cũng không được. "Nếu mình
nhìn anh ấy, anh ấy sẽ tưởng mình nghiên cứu anh ấy, mình sợ hãi; nếu không
nhìn, anh ấy lại tưởng mình nghĩ tới việc khác; nếu đi rón rén trên đầu ngón
chân, anh ấy sẽ bực tức, mà đi lại ầm ĩ thì không dám". Kitty rõ ràng
không nghĩ và cũng không có thời giờ nghĩ tới bản thân nàng; nàng nghĩ tới người
ốm vì biết những điều cần làm và thu xếp rất chu tất. Nàng kể cho ông nghe
chuyện mình, chuyện đám cưới, nàng mỉm cười, đầy vẻ thương xót, hết sức săn sóc
ông, kể cho ông nghe những trường hợp khỏi bệnh, và mọi việc đều trôi chảy; như
thế, tức là nàng có biết. Và những hoạt động của nàng, cũng như của Agafia
Mikhailovna, không phải là bản năng, thú vật, không suy xét, vì ngoài những săn
sóc về thể xác, làm dịu đau đớn, cả Agafia Mikhailovna lẫn Kitty đều đòi hỏi
phải mang lại cho kẻ hấp hối một cái gì còn quan trọng hơn cả sự săn sóc và
không liên quan gì với đời sống thể xác. Agafia Mikhailovna khi nhắc tới một
ông già vừa mới chết có nói: "Đội ơn Chúa, ông lão đã chịu lễ ban thánh
thể, được làm phép rửa tội, cầu Chúa cho mỗi người đều được chết như thế!".
Katya cũng vậy, ngoài mọi lo lắng về quần áo, thuốc men, bông băng, ngay từ hôm
đầu đã thuyết phục được người ốm về sự cần thiết phải chịu lễ ban thánh thể và
chịu phép lâm chung rửa tội.
Buổi tối, khi Levin quay về buồng
riêng, chàng cứ ngồi yên, đầu cúi gằm, không biết làm gì. Chàng không thể ăn
tối, sửa soạn chỗ ngủ, suy nghĩ về những việc sẽ phải làm, chàng cũng không dám
nói chuyện với vợ: chàng cảm thấy ân hận. Kitty trái lại, càng hoạt bát hơn
ngày thường. Nàng sai dọn ăn tối, tự mình tháo hành lí, giúp việc trải giường
và không quên rắc bột sát trùng lên giường. Ở nàng toát ra cái sôi nổi, cái khả
năng nhận xét nhanh nhạy thường thấy ở những trang nam nhi trước khi xung trận,
trước cuộc đấu tranh, trong nguy hiểm hoặc vào những phút quyết định đời mình,
những phút mà người đàn ông dứt khoát trổ hết tài trí và tỏ rằng quá khứ không
uổng phí vô ích mà chỉ là chuẩn bị cho giây phút hiện tại.
Chưa đến nửa đêm mà mọi cái đã đâu
vào đấy; đồ đạc bày biện theo sở thích riêng và gian buồng trở nên giống căn
nhà họ: giường đã trải xong, bàn chải, lược gương bày trên bàn, khăn mặt treo
lên.
Levin thấy không thể ăn, ngủ, thậm
chí cả trò chuyện nữa và cảm thấy mỗi cử chỉ của mình đều thất thố. Còn nàng
thì vẫn xếp bàn chải, nhưng mọi việc nàng làm đều không có chút gì là chướng
cả. Tuy nhiên, cả hai đều không ăn gì và khuya rồi vẫn chưa chợp mắt, thậm chí
cũng không định đi nằm nữa.
- Em rất hài lòng đã thuyết phục
Được anh ấy đồng ý chịu lễ rửa tội ngày mai, - nàng nói, và mình khoác áo
choàng ngồi xuống trước tấm gương dùng khi đi đường, chải mái tóc mềm và thơm
bằng chiếc lược xinh xắn.
- Em chưa bao giờ được xem làm lễ
rửa tội, nhưng mẹ nói người ta còn cầu kinh để chữa bệnh nữa.
- Chắc em không tin anh ấy có thể
khỏi được chứ, - Levin nói, mắt nhìn đường ngôi hẹp đằng sau mái đầu tròn nhỏ
luôn luôn biến mất mỗi lần nàng đưa lược chải về đằng trước.
- Em đã hỏi bác sĩ: ông ta bảo anh
ấy không sống nổi quá ba ngày nữa đâu. Nhưng chắc gì họ biết đích xác? Dù sao
em cũng rất hài lòng đã thuyết phục được anh ấy, - nàng nói, khẽ liếc nhìn
chàng qua mớ tóc. - Mọi việc đều có thể xảy ra, - nàng nói thêm với cái vẻ đặc
biệt, hơi láu lỉnh thường thấy trên mặt nàng mỗi khi bàn đến tôn giáo.
Kể từ sau lần giãi bày tâm sự hồi
sắp cưới, cả hai đều không bao giờ nhắc đến vấn đề đó nữa, nhưng nàng vẫn làm
tròn công việc bổn đạo với lòng tin bình thản là đã làm tròn phận sự. Mặc dầu
chàng đã nói rõ quan niệm ngược lại của mình, nàng vẫn đinh ninh rằng nếu chàng
không ngoan đạo hơn thì cũng bằng mình và tất cả những lời chàng nói về việc đó
chỉ là một cách bông lơn của đàn ông, như khi chàng nói về tấm thêu kiểu Anh 1.
"Những người đứng đắn thì mạng lại những lỗ rách, còn em, em lại mua vui
bằng cách khoét nó ra" v.v…
- Phải, cái chị Maria Nicolaievna,
chị ta không biết cách thu xếp những loại việc đó, - Levin nói. - Còn… anh phải
thú nhận là anh rất hài lòng về việc em đã cùng đến đây. Em trong trắng đến
nỗi… - chàng cầm tay nàng nhưng không hôn (hẳn chàng thấy hôn tay khi có người
sắp chết kề bên là bất tiện) nắm chặt lấy và nhìn vào đôi mắt sáng long lanh
của nàng với một vẻ phạm lỗi.
- Nếu chỉ có mình anh đến thì thật
kinh khủng quá nàng nói và giơ hai cánh tay lên che đôi má đỏ bừng, vì vui
sướng, cuốn tròn bím tóc trên gáy và lấy trâm cài lại.
- Phải, - nàng nói tiếp, - chị ấy
không biết… Còn em, may quá, em đã học được rất nhiều ở Xođen.
- Ở đó có người ốm nặng như thế này
không?
- Còn nặng hơn nữa kia.
- Điều kinh khủng nhất là anh không
thể không nhớ lại hình ảnh anh ấy hồi còn trẻ… Em không thể tin trước kia anh
ấy là một thanh niên đáng yêu như thế nào… nhưng hồi đó, anh chưa hiểu rõ anh
ấy.
- Có chứ, em tin, rất tin thế. Đáng
lẽ chúng mình thân với anh ấy từ trước mới phải, - nàng nói và bỗng lo sợ vì
những lời thốt ra; nàng quay lại chồng và rưng rưng nước mắt.
- Phải, lẽ ra nên thế từ trước mới
đúng, - chàng buồn rầu nói.
- Anh ấy chính thuộc loại người mà
ta nói là sinh ra không hợp thời thế này.
- Chúng ta còn phải vất vả nhiều
ngày nữa đấy, đi ngủ thôi, - Kitty nói, sau khi xem giờ ở chiếc đồng hồ nhỏ
xíu.
CÁI CHẾT
Hôm sau, bệnh nhân chịu lễ ban thánh
thể và chịu phép lâm chung rửa tội. Trong buổi lễ, Nicolai Levin đã sôi nổi cầu
nguyện. Đôi mắt ông mở to chăm chú nhìn bức tượng thánh đặt trên bàn đánh bài
phủ tấm khăn nhuộm màu, lộ rõ một niềm hi vọng thiết tha đến nỗi Levin phát
hoảng. Chàng biết những lời cầu nguyện những hi vọng đó sẽ càng làm nặng nề
thêm việc xa lìa cuộc sống mà ông xiết bao yêu quý. Levin hiểu rõ anh trai và
quá trình tư tưởng của ông; chàng biết việc ông không tin đạo tuyệt nhiên không
xuất phát từ chỗ ông cho rằng sống không tín ngưỡng vẫn dễ dàng hơn, mà do
những giải thích theo khoa học đương thời về những hiện tượng trên thế gian,
từng bước một, đã đánh bạt tín ngưỡng của ông, cho nên chàng hiểu sự khôi phục
tín ngưỡng hiện nay của anh hoàn toàn không phải là kết quả bình thường của vận
động trí tuệ mà là một nhượng bộ tạm thời, vụ lợi, với hi vọng phi lí là sẽ
khỏi bệnh. Levin cũng biết Kitty đã củng cố hi vọng đó bằng những chuyện khỏi
bệnh thần kì. Chàng biết mọi việc đó, và rất đỗi khổ tâm khi trông thấy cái
nhìn cầu khẩn, tràn đầy hi vọng cùng bàn tay gầy đét khó nhọc giơ lên vầng trán
xương xẩu để làm dấu thánh giá, đôi vai xo ro, bộ ngực lép kẹp thở khò khè đã
đến lúc không đủ sức chứa cuộc sống mà người bệnh cầu xin. Trong khi làm lễ,
Levin đã làm cái mà chàng, vốn không tin đạo, từng làm hàng nghìn lần rồi.
Chàng nói với Chúa: "Nếu quả Người có thực, hãy làm cho người này khỏi
bệnh, và thế là Người đã cứu cả hai chúng tôi".
Sau lễ rửa tội, người bệnh bỗng
nhiên cảm thấy khoẻ khoắn hơn nhiều. Cả một giờ sau đó, ông không ho lần nào;
ông mỉm cười, vừa hôn tay Kitty, vừa rơm rớm nước mắt cảm ơn nàng, và cho biết
ông thấy dễ chịu, không đau chỗ nào nữa, thấy trở lại khỏe mạnh và thèm ăn. Ông
còn ngồi nhổm dậy một mình khi xúp mang tới và đòi ăn thịt băm viên. Tuy hết
mọi hi vọng, và mặc dầu chỉ nhìn vẻ mặt người ốm cũng biết chắc không thể khỏi
được, Levin và cả Kitty đều sống giờ phút đó với tâm trạng phấn khởi sung
sướng, xen lẫn nỗi lo bị nhầm lẫn.
- Anh ấy có khá hơn không? - Có, khá
hơn nhiều lắm. - Thật kì lạ! - Chẳng có gì kì lạ hết! Quả là anh ấy có khoẻ hơn
thật, họ thì thầm và mỉm cười với nhau.
Ảo tưởng đó không kéo dài được bao
lâu. Người bệnh ngủ yên giấc, nhưng nửa giờ sau, cơn ho đánh thức ông dậy. Và
đột nhiên, mọi hi vọng biến mất ở bàn thân ông ta cũng như ở mọi người xung
quanh. Thực tế cơn bệnh đã phá tan mọi hi vọng.
Không buồn đả động tới điều trước
đây nửa giờ ông còn tin tưởng, dường như chỉ nhớ tới cũng đủ hổ thẹn, ông đòi
hít thuốc i ốt. Levin đưa cho ông chiếc lọ con bọc một mảnh giấy châm thủng lỗ
chỗ. Ông vẫn nhìn chàng bằng cặp mắt hi vọng mãnh liệt như khi chịu lễ lâm
chung rửa tội, tựa hồ đang chờ đợi sự chứng thực cho lời nói thầy thuốc bảo đảm
việc hít thuốc i ốt sẽ đưa đến hiệu quả thần kì.
- Kitty có đấy không? - ông hỏi,
giọng khàn khàn, liếc nhìn chung quanh, trong khi Levin miễn cưỡng nhắc lại cho
ông nghe những lời thầy thuốc. - Không à, nếu thế tôi có thể nói được… chính vì
thím ấy mà tôi đóng kịch đó thôi. Thím ấy tốt quá, nhưng còn tôi với chú, ta
không thể hi vọng hão được. Tôi chỉ tin có cái này thôi, - ông nói, nắm chặt
chiếc lọ trong bàn tay xương xẩu, và hối hả hít thuốc.
Đến tám giờ tối, Levin đang cùng vợ
ngồi uống trà ở buồng riêng thì Maria Nicolaievna thở hổn hển chạy bổ vào.
- Anh ấy đang hấp hối! - bà ta lắp
bắp nói. - Tôi e chết đến nơi mất.
Cả hai người chạy đến buồng ông ta.
Ông ngồi trên giường tì một bên khuỷu tay, lưng gù xuống, đầu cúi gằm.
- Anh thấy thế nào? - Levin thì thầm
hỏi sau một lát im lặng.
- Tôi thấy tôi đang đi đây, -
Nicolai nói, gắng gượng nhưng rành rọt lạ thường, chậm rãi lẩy từng chữ ra khỏi
lồng ngực. Ông không ngửng đầu mà chỉ ngước mắt nhìn lên nhưng không tới nổi
mặt em trai.
- Katya, thím ra đi! - ông lại nói
thêm.
Levin đứng phắt dậy, và giọng nghiêm
nghị, khẽ bảo vợ đi ra.
- Tôi sắp đi thôi, - ông nhắc lại.
- Tại sao anh lại tin như vậy? -
Levin nói cho có chuyện.
- Vì tôi sắp đi đây, - ông nhắc lại
như ưa thích câu đó. - Thế là hết.
Maria Nicolaievna đến gần.
- Mình nằm xuống dễ chịu hơn, - bà
ta nói.
- Tôi cũng sắp sửa nằm thôi, - ông
nói, giọng dịu dàng, rồi lại nói thêm, vẻ nhạo báng, tức giận, - sắp chết thôi.
Nhưng cho tôi nằm xuống cũng được, tuỳ các người.
Levin đặt anh nằm ngửa, ngồi xuống
cạnh và nín thở, ngắm nghía khuôn mặt ông ta. Kẻ hấp hối nhằm mắt lại, những
thớ thịt ở trán đôi lúc lại động đậy như đang căng hết trí não suy nghĩ sâu xa.
Levin bất giác cũng nghĩ tới điều đang diễn biến trong ông lúc này, nhưng mặc
dầu đã gắng hết sức theo dõi, chàng chỉ cần nhìn vẻ mặt bình thản và nghiêm nghị
cùng những thớ thịt đang giần giật trên đôi lông mày kẻ hấp hối, cũng đủ biết
ông ta đã khám phá mỗi lúc một rõ ràng cái điều còn mờ mịt đối với Levin.
- Phải, phải, ra thế đấy, người hấp
hối thong thả nói dóng một - Khoan đã, - ông ta lại nín lặng. - Thế đấy, - ông
đột nhiên nói, giọng quả quyết như thể mọi đều đã giải quyết xong. - Ôi! Lạy
Chúa tôi! - ông kêu lên và thở dài đánh thượt.
Maria Nicolaievna sờ chân ông.
Chương
20
Kể từ khi Alecxei Alecxandrovich,
qua câu chuyện trao đổi với Betxy và Stepan Ackađich, suy luận ra rằng người ta
chỉ yêu cầu ông để mặc cho vợ được yên thân, đừng làm phiền nàng bằng sự có mặt
của mình, và chính nàng cũng muốn như vậy, ông hoang mang đến nỗi không thể
quyết định được điều gì, tự mình cũng không hiểu giờ đây mình muốn gì, và trong
khi phó thác số phận vào tay những người rất vui thích được can thiệp vào việc
của ông, ông đã ưng thuận mọi sự. Mãi tới khi Anna bỏ nhà ra đi và cô gia sư
người Anh cho đến hỏi là sẽ cùng ăn với ông hay ăn riêng, ông mới hiểu rõ ràng
hoàn cảnh mình và hoảng sợ.
Điều khổ tâm nhất là ông hoàn toàn
không thể dung hoà được dĩ vãng với hiện tại. Phải đâu là cái dĩ vãng, cái thời
kì còn sống hạnh phúc với vợ, làm ông bối rối. Ông đã đau đớn cam chịu bước quá
độ từ dĩ vãng đó đến lúc biết vợ bội bạc. Tình trạng đó thật nặng nề nhưng có
thể hiểu được. Giá sau khi thú nhận đã bội bạc, vợ ông bỏ đi ngay thì có lẽ ông
sẽ ô nhục, đau khổ, nhưng sẽ không lâm vào tình thế khó hiểu và hầu như không
lối thoát hiện nay. Giờ đây, ông không thể vá víu cái dĩ vãng mới đây, tình âu
yếm, thương yêu đối với người vợ ốm và đứa trẻ không phải con ông, vào với hiện
tại, nói cách khác là với cái tình cảnh cô đơn, ô danh, lố bịch, vô tích sự và
bị mọi người khinh bỉ mà ông đang lâm vào, coi như phần thưởng cho mọi tình cảm
tốt đẹp nói trên. Hai ngày sau khi vợ bỏ đi, Alecxei Alecxandrovich tiếp những
người đến cầu cạnh, đi họp và ăn trưa ở phòng ăn như thường lệ. Cũng không tự
cắt nghĩa tại sao mình làm như vậy, trong hai hôm đó, ông dốc toàn tâm toàn ý
vào mục tiêu duy nhất: tỏ vẻ bình tĩnh và thậm chí dửng dưng nữa. Khi sai thu
dọn đồ đạc và phòng của Anna Arcadievna, ông đã cố gắng phi thường để tỏ vẻ coi
những biến cố vừa xảy ra chẳng có gì là bất ngờ và cũng chẳng khác gì những sự
việc bình thường. Ông đã đạt mục đích: không ai ngờ ông tuyệt vọng cả. Nhưng
ngày thứ ba sau hôm Anna bỏ đi, khi Kornây đem tới hoá đơn của cửa hàng y phục
nữ mà Anna quên không thanh toán và cho biết gã bán hàng đang đợi ở ngoài,
Alecxei Alecxandrovich bèn cho gọi hắn vào.
- Thưa quan lớn, xin ngài thứ lỗi
cho tôi đã mạo muội làm phiền ngài. Nếu phải gửi hoá đơn này cho bà lớn, thì
xin quan lớn làm ơn cho biết địa chỉ bà nhà.
Alecxei Alecxandrovich ra vẻ suy
nghĩ, rồi đột nhiên quay mặt đi và ngồi xuống trước bàn giấy. Hai tay ôm đầu, ông
ngồi mãi như thế; ông định nói mấy lần, song lại thôi.
Hiểu rõ nỗi lòng chủ, Kornây bảo gã
bán hàng hôm khác trở lại. Còn lại một mình, Alecxei Alecxandrovich cảm thấy
không đủ sức đảm đương vai kịch nữa. Ông cho tháo ngựa khỏi xe đang chờ, đóng
cửa không tiếp khách và cũng không ra khỏi phòng để ăn trưa nữa.
Ông thấy không còn chịu đựng nổi sự
công kích tứ bề của vẻ khinh mạn và tàn nhẫn mà ông nhìn thấy rất rõ trên các
bộ mặt của gã bán hàng, của Kornây, của tất cả mọi người ông gặp, trong hai
ngày đó, không trừ một ai. Ông cảm thấy không thể tránh được sự ghét bỏ của mọi
người vì nó trút xuống đầu ông không phải vì ông xấu xa (nếu vậy ông có thể cố
gắng tốt hơn), mà vì ông khổ sở ghê gớm. Ông biết họ tàn nhẫn chính vì cõi lòng
ông đang tan nát. Ông cảm thấy mọi người sẽ xâu xé ông như đàn chó cắn xé một
con chó đầy mình thương tích và đang rống lên đau đớn. Ông biết phương pháp duy
nhất để thoát khỏi bọn họ là giấu kín vết thương đi và chính ông đã theo bản
năng thử làm như vậy trong hai ngày đầu, nhưng bay giờ, ông thẩy rõ mình không
còn đủ sức.
Nỗi tuyệt vọng càng tăng vì ông biết
rõ mình hoàn toàn cô độc trong đau buồn. Ông không có ai ở Petersburg hoặc bất
cứ nơi nào để tâm sự mọi nỗi niềm và khiến họ thương xót, ông không phải với tư
cách một quan chức cao cấp hoặc một thành viên xã hội, mà giản dị với tư cách
một người đau khổ.
Alecxei Alecxandrovich mồ côi từ
thuở nhỏ. Ông có hai anh em. Ông không nhớ bố ra sao. Còn mẹ thì chết hồi ông
mới mười tuổi. Tài sản để lại cũng ít ỏi. Ông chú Karenin, một quan chức trọng
yếu, ngày xưa là triều thần sủng ái của tiên đế, đã nhận nuôi nấng dạy dỗ hai
anh em.
Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại
học vào loại ưu, Alecxei Alecxandrovich, dưới sự che chở của chú, đã hiển hách
bước vào con đường công danh sự nghiệp và chuyên tâm hiến mình vào đó. Cả ở
trung học và Đại học, cả sau này nữa, ông không hề kết bạn với ai. Người anh
đối với ông là thân nhất, nhưng ông ta làm việc ở Bộ ngoại giao, phần lớn thời
gian đều sống ở nước ngoài và chết ở đó ít lâu sau khi Alecxei Alecxandrovich
lấy vợ.
Hồi ông còn làm tỉnh trưởng, bà cô
của Anna, một mệnh phụ rất giàu, đã tạo cơ hội thuận lợi cho viên quan còn trẻ
này (so với phẩm hàm) gặp gỡ chuyện trò với cháu gái và đặt ông vào tình thế
chỉ còn cách cầu hôn hoặc bỏ thành phố mà đi.
Alecxei Alecxandrovich đã lưỡng lự
khá lâu. Ông có đầy đủ lí lẽ để tán thành cũng như phản đối cuộc hôn nhân đó,
mặt khác ông không đủ cương quyết làm trái với nguyên tắc của mình: "Khi
còn nghi ngờ, hãy dè chừng". Nhưng bà cô Anna nhờ người đánh tiếng cho
biết là ông đã làm tổn hại đến thanh danh cô gái và nhiệm vụ người đàn ông
trọng danh dự buộc ông phải cầu hôn. Ông đànhưng thuận và trao tất cả yêu
thương có thể có cho vị hôn thê, sau trở thành vợ.
Mối tình gắn bó ông với Anna loại
trừ trong tâm hồn ông những nhu cầu cuối cùng về quan hệ thân ái với người xung
quanh. Và giờ đây, trong tất cả những người thường đi lại, ông không có ai thân
thiết. Ông có vô số chỗ "giao du", nhưng không có bạn tri âm.
Alecxei Alecxandrovich quen rất
nhiều người có thể mời đến ăn uống, thăm dò ý kiến về công việc hoặc có thể
giúp đỡ một người cầu cạnh, có thể cùng họ tự do chỉ trích hành động của các
nhân vật khác hoặc chính phủ, nhưng quan hệ của ông với những người đó chỉ hạn
chế trong một phạm vi chật hẹp, không vượt ra khỏi khuôn khổ lề thói cố định.
Ông có một người bạn cùng học ở Đại
học, và sau đi lại thân thiết hơn, có thể thổ lộ nỗi buồn phiền được, nhưng ông
này lại làm đốc học ở một học khu xa xôi. Những người thân thuộc duy nhất ở
Petersburg là chánh văn phòng và thầy thuốc của ông.
Mikhain Vaxilievich Xliudin, chánh
văn phòng của ông, là người đứng đắn, giản dị, thông minh và tốt bụng, Alecxei
Alecxandrovich rất có cảm tình với ông ta, nhưng năm năm làm việc hành chính đã
dựng lên giữa họ một hàng rào ngăn cách mọi thổ lộ tâm tình.
Sau khi kí xong công văn giấy tờ,
Alecxei Alecxandrovich thường nín lặng hồi lâu, thỉnh thoảng lại nhìn Mikhain
Vaxilievich và đã nhiều lần thử gợi chuyện mà không được. Ông đã sắp sẵn câu
mào đầu "ông có nghe thấy người ta xì xào gì về nỗi bất hạnh của tôi
không?", nhưng cuối cùng lại nói như thường lệ: "Thế nhé, ông chuẩn
bị công việc này cho tôi", và cho ông ta lui.
Người kia là bác sĩ cũng có thiện
cảm với ông, nhưng từ lâu, giữa họ đã có một thoả thuận ngầm, là cả hai đều rất
bận và luôn luôn vội vã.
Còn những chỗ quen biết thuộc phái
nữ, kể cả bà bạn thân nhất là nữ bá tước Lidia Ivanovna, Alecxei Alecxandrovich
chả hơi đâu mà nghĩ tới. Ông thấy ghê tởm và khiếp sợ tất cả các bà, đơn giản
chỉ vì họ là phụ nữ.
Chương
21
Alecxei Alecxandrovich quên bẵng nữ
bá tước Lidia Ivanovna nhưng bà lại không quên ông. Ngay giữa lúc ông đang cô
đơn thất vọng, bà đến chơi và đi thẳng vào phòng làm việc của ông, không để
người nhà báo trước. Bà thấy ông đang ngồi bàn giấy, hai tay ôm đầu.
- Tôi đã vi phạm lệnh không tiếp ai
1, - bà nhanh nhẹn bước vào, hổn hển vì đi vội và xúc động. - Alecxei
Alecxandrovich, ông bạn của tôi, tôi biết hết cả rồi, - bà nói, đưa cả hai tay
xiết chặt tay Karenin và nhìn ông bằng cặp mắt đẹp tư lự.
Alecxei Alecxandrovich cau mày đứng
dậy, rút tay và kéo ghế mời bà ngồi.
- Nữ bá tước, xin mời bà ngồi. Tôi
không tiếp khách vì đang mệt, - ông nói và đôi môi run run.
- Ông bạn của tôi ơi! - nữ bá tước
Lidia Ivanovna nhắc lại, cặp mắt không rời khỏi ông, và đột nhiên đôi lông mày
giương lên thành hình tam giác trên trán khiến cho khuôn mặt vàng bủng càng xấu
hơn. Nhưng Alecxei Alecxandrovich cảm thấy bà thương hại ông và sắp khóc đến
nơi, nên cũng xúc động: ông cầm bàn tay mũm mĩm của bà đưa lên miệng hôn.
- Ông bạn của tôi ơi! - bà nói,
giọng nghẹn ngào cảm động, - ông không nên đắm mình trong sầu não. Nỗi bất hạnh
to lớn thật, nhưng ông phải tìm lấy nguồn an ủi.
- Lòng dạ tan nát, tôi đứt từng khúc
ruột, tôi không còn là con người nữa! - Alecxei Alecxandrovich nói, buông tay
bà nhưng vẫn đăm đăm nhìn đôi mắt bà đẫm lệ. - Hoàn cảnh tôi đáng sợ ở chỗ
không tìm đâu ra một chỗ dựa, kể cả ở bản thân mình.
- Ông sẽ tìm thấy chỗ dựa đó, đừng
tìm kiếm ở tôi, mặc dầu tôi xin ông hãy tin vào tình bạn của tôi, - bà thở dài
nói. - Chỗ dựa của ta là tình thường yêu, tình thương yêu mà Chúa đã ban cho
ta. Gánh nặng của Người là nhẹ nhõm, - bà nói với cái nhìn cuồng nhiệt mà
Alecxei Alecxandrovich biết rất rõ. - Người sẽ nâng đỡ cứu giúp ông.
Mặc dầu lời nói tỏ ra uỷ mị trước
tình cảm cao thượng của bà và phơi bày cái khuynh hướng thần bí mới đang lan
rộng ở Petersburg và bị Alecxei Alecxandrovich phản đối, ông vẫn vui thích được
nghe câu đó lúc này.
- Tôi vốn yếu đuối, tôi đâm hoang
mang. Tôi đã không tiên đoán được điều gì và nay tôi không hiểu gì hết.
- Ông bạn của tôi ơi! - nữ bá tước
Lidia Ivanovna lại thốt lên.
- Tôi không than khóc cho tổn thất
đã phải chịu, - Alecxei Alecxandrovich nói tiếp.- Nhưng tôi không khỏi hổ thẹn
về hoàn cảnh hiện tại của mình. Thật xấu xa, nhưng không biết làm thế nào,
không biết làm thế nào cả.
- Không phải bản thân ông đã có cử
chỉ tha thứ cao quý mà mọi người cũng như tôi đều khâm phục, mà chính là Đấng
đang ngự trong lòng ông đấy, - nữ bá tước Lidia Ivanovna nói, ngước mắt nhìn
lên trời vẻ ngây ngất, - do đó, ông không nên lấy thế làm hổ thẹn.
Alecxei Alecxandrovich cau mày và
gập ngón tay lại, bắt đầu bẻ khục từng khớp.
- Bà cần biết mọi chi tiết, - ông
nói, giọng nhỏ nhẻ. - Sức người có hạn, nữ bá tước ạ, và tôi cũng tới giới hạn
của tôi rồi. Suốt ngày nay, tôi phải lo liệu những chuyện gia sự phát sinh (ông
nhấn mạnh vào chữ "phát sinh") từ cái hoàn cảnh mới, một thân một
mình này. Nào đầy tớ, nào gia sư, nào tính toán tiền nong… Tất cả những cái ti
tiện đó hành hạ, day dứt tôi từng tí một, tôi không đủ sức chịu đựng. Chiều
qua, trong bữa ăn… tôi đã suýt bỏ bàn đứng dậy. Tôi không chịu đựng nổi cái
nhìn của con trai tôi. Nó không hỏi mọi điều đó nghĩa là thế nào, mà như muốn
cầu khẩn và tôi không đương nổi cái nhìn của nó. Nó len lét nhìn tôi, nhưng đó
chưa phải là điều tệ hại nhất.
Alecxei Alecxandrovich muốn nhắc đến
cái hoá đơn người ta đưa cho ông nhưng giọng run lên, và ông ngừng bặt. Ông
không thể nghĩ tới cái hoá đơn giấy xanh về một chiếc mũ và những dải băng mà
không thương hại cho chính mình.
- Ông bạn của tôi ơi, tôi hiểu mà! -
nữ bá tước Lidia Ivanovna nói. - Tôi hiểu hết. Không phải tôi sẽ tìm thấy sự
giúp đỡ và an ủi ở bản thân tôi đâu, nhưng dù sao tôi cũng xin đến đây để giúp
ông, nếu tôi làm được việc đó. Nếu tôi có thể đỡ cho ông những lo lắng ti tiện
và nhục nhằn đó… tôi thấy ở đây cần có bàn tay đàn bà. Ông có tin cậy tôi
không?
Alecxei Alecxandrovich nắm chặt bàn
tay bà ta không nói gì, tỏ vẻ biết ơn.
- Cả hai chúng ta sẽ cùng chăm nom
Xergei. Tôi cũng không hiểu gì về công việc thực tế cả. Nhưng tôi sẽ bắt tay
vào làm, tôi sẽ là quản gia cho ông. Đừng có cảm ơn tôi. Không phải tự tôi làm
cái đó đâu.
- Tôi không thể không cảm ơn bà.
- Nhưng, ông bạn của tôi ơi, ông
đừng có mắc vào cái tâm trạng mà ông từng nói với tôi: hổ thẹn về điều cao quý
nhất trong một con người Cơ đốc giáo: "Kẻ nào tự hạ mình là nâng mình
lên". Cho nên ông đừng cảm ơn tôi, mà phải cảm ơn Chúa và cầu xin Người
cứu giúp. Chỉ có ở Người, chúng ta mới tìm thấy sự bằng yên, an ủi, rỗi linh
hồn và tình thương yêu, - bà nói và ngước nhìn lên trời, bắt đầu cầu nguyện.
Alecxei Alecxandrovich biết vậy vì thấy bà im lặng.
Alecxei Alecxandrovich đã lắng nghe
bà và những lời lẽ đó, trước kia nếu không chướng tai thì cũng là thừa, lúc này
lại có vẻ tự nhiên và hởi lòng hởi dạ.
Alecxei Alecxandrovich không ưa kiểu
sùng mộ mới đó. Ông là người tin đạo và quan tâm đến tôn giáo, trước nhất về
phương diện chính trị; về nguyên tắc ông thấy khó chịu với những giáo lí mới
dung dưỡng, những cách giải thích mới, do đó mở cửa cho tha hồ tranh luận và
phân tích. Xưa kia, ông từng tỏ ra lạnh nhạt và đối địch với cái giáo lí mới
này và với nữ bá tước Lidia Ivanovna vốn say mê cái đó: ông không bao giờ tranh
luận mà chỉ một mực né tránh sự khiêu khích của bà ta bằng thái độ im lặng. Hôm
nay là lần đầu, ông vui thích nghe bà nói, trong thâm tâm cũng không phản đối
gì cả.
- Tôi rất, rất cảm tạ hành vi và lời
nói của bà, - ông nói khi bà cầu nguyện xong.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna lại xiết
chặt tay ông bạn thân một lần nữa.
- Bây giờ, tôi sẽ bắt tay vào việc,
- bà mỉm cười nói sau một phút im lặng và lau những ngấn nước mắt trên mặt. -
Tôi đi tìm cháu Xergei đây. Tôi sẽ chỉ gặp ông trong trường hợp cấp bách nhất.
- Bà đứng dậy và đi ra.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna sang buồng
Xergei và ở đó, tưới đẫm nước mắt lên đôi má đứa bé khiến nó thất đảm, bà bảo
bố nó là một vị thánh và mẹ nó chết rồi.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna giữ đúng
lời hứa. Bà thực sự đảm đương công việc nội trợ cho Alecxei Alecxandrovich. Nhưng
bà không quá lời khi tự nhận là không biết gì về đời sống thực tế. Mọi lời sai
bảo không sao thực hiện nổi của bà đều cần phải sửa đổi và Kornây, gã hầu phòng
của Alecxei Alecxandrovich đã hứng lấy việc đó. Việc cai quản nhà cửa dần dà
chuyển sang tay hắn; trong khi mặc quần áo cho chủ, hắn điềm đạm và thận trọng
tường trình những việc cần làm. Nhưng dù sao sự giúp đỡ của Lidia Ivanovna cũng
rất có hiệu quả; lòng quý mến và kính trọng của bà là một nâng đỡ tinh thần cho
Alecxei Alecxandrovich và đặc biệt bà gần như đã cải giáo được ông, đó là nguồn
an ủi lớn cho bà; ít ra, từ một kẻ tín ngưỡng hững hờ và lãnh đạm, bà đã làm
ông trở thành một tín đồ nhiệt thành của cách diễn giải mới về giáo lí Cơ đốc
đang thịnh hành ở Petersburg thời kì gần đây. Alecxei Alecxandrovich đã dễ dàng
thừa nhận cách diễn giải đó. Giống như Lidia Ivanovna và những người cùng quan
điểm, Alecxei Alecxandrovich hoàn toàn không có chút tưởng tượng nào sâu sắc,
không có cái khả năng tinh thần có thể khiến những ý niệm tưởng tượng trở nên
thực đến nỗi đòi hỏi phải phù hợp với những ý niệm khác và với thực tế. Ông
chẳng thấy có gì không chấp nhận được và phi lí trong ý niệm cho rằng cái chết,
vốn có thực đối với những kẻ vô tín ngưỡng, lại không hề tồn tại đối với ông;
rằng với lòng tín ngưỡng trọn vẹn mà duy chỉ có ông mới tự đánh giá được, linh
hồn ông đã gột sạch mọi tội lỗi, và ngay từ cõi đời này, ông đinh ninh mình đã
siêu thoát.
Thực tình, đôi lúc ông cũng cảm thấy
cái giáo lí đó là nông nổi và mỏng manh, ông cũng biết khi mình tha thứ một
cách hồn nhiên không nghĩ đó là do sức mạnh bề trên sai khiến, ông thấy hạnh
phúc hơn bây giờ, khi suốt ngày lúc nào cũng phải đinh ninh rằng Chúa Cứu Thế
ngự trong linh hồn mình, rằng khi kí giấy tờ công văn, ông đã làm tròn ý Chúa;
nhưng đối với Alecxei Alecxandrovich, nghĩ như vậy là cần thiết; trong nỗi nhục
nhằn hiện tại, ông rất cần đến sự cao cả đó - dù là do mình bày đặt ra - để có
thể khinh bỉ lại tất cả những kẻ khinh bỉ mình và ông bám chắc lấy cái phao cấp
cứu tưởng tượng đó.
--------------------------------
1 J' ai forcé la consigne (tiếng
Pháp trong nguyên bản).
Chương
22
Nữ bá tước Lidia Ivanovna, khi còn
là một thiếu nữ rất bồng bột, đã kết hôn quá sớm với một người tuy tốt bụng
nhưng là tay ăn chơi nổi tiếng, rất giàu, rất truỵ lạc. Một tháng sau khi cưới,
ông ta bỏ bà và chỉ nhạo báng và thậm chí hằn học đáp lại những biểu hiện yêu
thương bồng bột của bà, điều mà những người vốn biết tấm lòng tốt của bá tước
và không thấy thói xấu nào ở nàng Liđya nhiệt tình, đều không sao giải thích
nổi. Từ hồi đó, tuy không li dị, họ sống mỗi người mỗi nơi, và khi chồng gặp
vợ, trước sau như một, ông vẫn nói với bà bằng vẻ nhạo báng mỉa mai mà người ta
không rõ nguyên nhân vì đâu.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna từ lâu
không yêu chồng nữa, nhưng từ dạo ấy, bao giờ bà cũng phải lòng một người nào
đó. Bà phải lòng nhiều người một lúc, cả đàn ông lẫn đàn bà; bà phải lòng hầu
hết những người có vẻ xuất chúng về mặt này hoặc mặt khác: tất cả những ông
hoàng, bà chúa có quan hệ với hoàng tộc, một đại chủ giáo, một tổng chủ giáo,
một linh mục, một kí giả, ba người thuộc phái yêu văn hoá "Xlav" 1,
Komissarov 2, một bộ trưởng, một thầy thuốc, một nhà truyền giáo người Anh và
Karenin. Tất cả những mối tình đó, khi lạt lẽo, khi mãnh liệt, vẫn không cản
trở bà giữ được những mối giao thiệp rộng rãi và phức tạp nhất ở trong triều và
ngoài xã hội thượng lưu. Nhưng từ khi che chở cho Karenin sau nỗi bất hạnh đến
với ông và từ khi dành công sức chăm nom gia đình Karenin, lo lắng cho sự an
lạc của ông, bà cảm thấy tất cả những mối tình khác chỉ là giả dối và bà chỉ
thực sự yêu có mình Karenin thôi. Bà thấy mối tình hiện nay dành cho ông hình
như mãnh liệt hơn tất cả những mối tình bà đã trải qua Xưa kia. Khi phân tích
và so sánh tình yêu này với những mối tình trước đây, bà thấy rõ bà ắt không
yêu Kômixarôp nếu ông ta không cứu thoát tính mệnh Nga hoàng, bà ắt không yêu
Rixtic Kujixki nếu không có chủ nghĩa yêu văn hoá Xlav, nhưng bà yêu Karenin là
vì bản thân ông, vì tâm hồn cao thượng không được ai hiểu đúng đắn, vì tiếng
nói nhỏ nhẹ làm bà thích thú, vì cách uốn giọng kéo dài, cái nhìn mệt mỏi, tính
tình và bàn tay dịu dàng trắng muốt nổi gân của ông. Không những bà vui thích
khi gặp ông, mà còn tìm đọc trên nét mặt ấn tượng bà gây ra cho ông. Bà muốn
làm ông vui lòng không phải chỉ bằng câu chuyện, mà bằng tất cả con người bà.
Vì ông, bà ăn mặc chải chuốt hơn bao giờ hết. Bà mơ tưởng tới điều có thể xảy
ra nếu bà chưa kết hôn và nếu ông còn tự do. Bà đỏ mặt xúc động khi ông bước
vào căn phòng có mặt bà, bà không nén được một nụ cười vui sướng khi ông nói
đôi câu trìu mến với bà.
Mấy hôm nay, nữ bá tước Lidia
Ivanovna rất bồn chồn: bà được biết Anna và Vronxki đang ở Petersburg. Phải
tránh không để cho Alecxei Alecxandrovich gặp mặt nàng; thậm chí, phải làm sao
cho ông không biết người đàn bà ghê gớm đó hiện đang ở cùng thành phố và bất cứ
lúc nào ông cũng có thể chạm trán với nàng.
Qua bè bạn thân thuộc, Lidia
Ivanovna điều tra được những dự định của bọn "người xấu xa" đó - bà
vẫn gọi Anna và Vronxki như vậy, - và bà gắng điều khiển nhất cử nhất động của
ông bạn thân sao cho Karenin không thể gặp họ. Viên phó quan trẻ tuổi, bạn
Vronxki, người nhận cung cấp tin tức cho bà, với hi vọng kiếm chác được chút
đặc ân, vừa báo là họ đã thu xếp xong công việc và ngày mai sẽ ra đi. Lidia
Ivanovna bắt đầu yên tâm, nhưng sáng hôm sau, có người mang đến cho bà một bức
thư khiến bà kinh hãi khi nhận ra nét chữ. Đó là nét chữ Anna Karenina. Phong
bì làm bằng thứ giấy như vỏ cây: trên tờ giấy dài màu vàng, có một mẫu hoa tự
lớn và mùi nước hoa thơm ngát toả ra.
- Ai mang cái này lại thế?
- Một người ở khách sạn.
Hồi lâu, nữ bá tước Lidia Ivanovna
không ngồi xuống nổi để đọc thư. Sự xúc động làm bà lên cơn hen (bà vốn dễ lên
cơn). Khi trấn tĩnh lại, bà đọc bức thư sau đây, viết bằng tiếng Pháp:
"Thưa bá tước phu nhân 3, những
tình cảm Cơ đốc giáo tràn ngập tâm hồn bà cho phép tôi mạnh dạn viết thư cho
bà, mặc dầu biết thế là không thể dung thứ được. Tôi đau khổ vì phải xa cách
con trai tôi. Tôi xin bà cho phép tôi được gặp nó một lần trước khi ra đi. Xin
bà tha lỗi cho tôi đã làm bà lại nhớ đến sự tồn tại của tôi. Sở dĩ tôi viết thư
cho bà mà không viết cho Alecxei Alecxandrovich, đó chỉ là vì tôi không muốn
làm cho con người độ lượng đó lại đau khổ vì phải nhớ đến tôi. Biết rõ tình bạn
của bà đối với ông ấy, tôi tin chắc bà sẽ hiểu. Xin bà cho biết, bà sẽ cho
người đưa Xergei đến chỗ tôi hay tôi phải đến nhà vào một giờ hẹn nhất định,
hay sẽ cho nhắn tôi đến đâu vào lúc nào để gặp cháu ở ngoài nhà? Tôi nghĩ bà sẽ
không từ chối vì tôi biết rõ tấm lòng đại lượng của người quyết định việc này.
Bà không thể tưởng tượng hết nỗi khao khát của tôi muốn được gặp con và do đó,
cũng không hình dung hết lòng biết ơn của tôi đối với sự giúp đỡ mà hẳn bà sẽ
vui lòng ban cho
Anna".
Mọi cái trong thư đều làm nữ bá tước
Lidia Ivanovna tức giận; cả nội dung lẫn việc nhắc đến lòng đại lượng và nhất
là cái giọng mà bà cho là phóng túng.
- Bảo họ là không có thư trả lời
đâu, - nữ bá tước Lidia Ivanovna nói, và lập tức mở tập giấy thấm, viết thư báo
cho Alecxei Alecxandrovich biết bà mong gặp ông hồi một giờ tại triều đình vào
buổi chầu chúc tụng.
"Tôi cần nói chuyện với ông về
một việc đáng buồn và quan trọng. Ta sẽ hẹn chỗ gặp sau. Tốt nhất là ở nhà tôi,
tôi sẽ sai pha trà cho ông. Việc cần đấy. Chúa bắt ta đau khổ, nhưng Người cũng
cho ta sức chịu đựng, bà viết thêm để chuẩn bị tinh thần cho ông.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna thường
xuyên mỗi ngày viết hai ba bức thư cho Alecxei Alecxandrovich. Bà thích cách
liên lạc đó, nó khiến cho quan hệ riêng tư của họ có cái vẻ phong nhã và bí ẩn
vốn đang thiếu.
--------------------------------
1 Phái yêu văn hoá Xlavơ là một
khuynh hướng tư tưởng xã hội Nga, theo chủ nghĩa dân tộc, thể hiện quyền lợi
của tầng lớp quý tộc chủ nô gia trưởng.
2 Komissarov: người đã cứu Nga hoàng
Alecxandr II khi bị ám sát.
3 Madame la Comlesse (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
Chương
23
Buổi lễ chầu đã tan. Những người ra
về bàn tán về những tin tức cuối cùng trong ngày: khen thưởng và thuyên chuyển.
- Thế nhỡ nữ bá tước Maria Borixovna
được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ chiến tranh và quận chúa Vatkôpxkaia làm tham
mưu trưởng thì sao? - một ông già thấp bé mặc triều phục thêu nói với một nữ
quan cao lớn và xinh đẹp đang hỏi ông về những bổ nhiệm mới đây.
- Còn tôi thì làm sĩ quan phụ cận, -
nữ quan mỉm cười trả lời.
- Cô ấy à, cô đã là bộ trưởng bộ Lễ…
với Karenin làm thứ trưởng.
- Chào hoàng thân! - ông già thấp bé
nói và bắt tay một nhân vật đang đến gần.
- Ông nói gì về Karenin thế? hoàng
thân hỏi.
- Ông ta và Putiatov đều được thưởng
huân chương Alecxandr Nevxki.
- Tôi tưởng ông ta được thưởng từ
trước rồi.
- Không, ông hãy nhìn ông ta xem, -
ông già thấp bé nói, cầm mũ thêu chỉ Karenin đang đứng trong khung cửa nói
chuyện với một uỷ viên có thế lực trong Hội đồng Quốc gia: ông ta đeo chéo trên
bộ triều phục một dải băng đỏ mới tinh. Sung sướng và mãn nguyện như một đồng
xu mới toanh, ông già nói thêm rồi ngừng lại để bắt tay một quan thị vệ vóc
người lực lưỡng.
- Không, ông ta già đi chứ, viên thị
vệ nói.
- Lo buồn đấy thôi. Ông ta chỉ suốt
ngày dự thảo kế hoạch. Ngay bây giờ, ông ta cũng sẽ không buông tha người tiếp
chuyện bất hạnh kia trước khi trình bày hết từng điểm một.
- Ông ta không già đi đâu, có người
đang mê ông ta 1 đấy. Tôi nghĩ bây giờ nữ bá tước Lidia Ivanovna chắc đang ghen
với vợ ông ta.
- Ồ! Tôi xin ông, đừng nói xấu nữ bá
tước Lidia Ivanovna.
- Phải lòng Karenina có gì mà xấu
kia chứ?
- Có Karenina hiện ở đây không?
- Không phải ở ngay tại triều đình
này, nhưng ở Petersburg. Hôm qua, tôi gặp bà ta đi cùng Alecxei Vronxki, tay
khoác tay 2 ở đường Morxkaia.
- Ông ta là người không có… 3 - quan
thị vệ định nói, nhưng nín bặt, tránh sáng bên nhường bước và chào một người
trong hoàng tộc đi qua.
Trong khi mọi người bàn tán, chỉ
trích và chế giễu Alecxei Alecxandrovich như vậy, ông ta đang chắn đường vị uỷ
viên Hội đồng Quốc gia và không bỏ lỡ một giây, thao thao bất tuyệt trình bày
cho vị đó nghe từng điểm trong kế hoạch tài chính của ông.
Đang lúc vợ sắp bỏ, Alecxei
Alecxandrovich đã gặp phải một sự kiện đặc biệt đau buồn cho một viên chức:
bước đường thăng quan tiến chức của ông bị đứt đoạn. Mọi người đều thấy rõ việc
đó, nhưng bản thân Karenin vẫn chưa biết con đường công danh sự nghiệp của mình
đã đến lúc tận cùng. Vì vấp phải Xtremov chăng, vì không may hoặc chỉ đơn giản
vì ông đã đạt tới giới hạn quy định chăng? Dù sao mọi người đều thấy rõ ràng
năm đó, bước hoạn lộ của ông đã chấm dứt. Ông vẫn giữ một cương vị quan trọng,
là uỷ viên của nhiều tiểu ban và uỷ hội, nhưng ông đã hết thời và người ta
không còn chờ đợi gì ở ông nữa. Dù ông muốn nói gì, muốn đề nghị gì, điều đó
cũng bị coi là đã biết tỏng và lỗi thời. Nhưng Alecxei Alecxandrovich không
thấy cái đó; trái lại, giờ đây khi đã bị loại không được trực tiếp tham gia
chính phủ, ông càng nhìn thấy rõ hơn bao giờ hết những khuyết điểm và sai lầm
của kẻ khác và tự đặt cho mình bổn phận phải chỉ ra những biện pháp sửa chữa.
ít lâu sau khi Anna bỏ đi, ông bắt đầu viết về những toà án mới, đó là bài thứ
nhất trong một loạt vô số luận văn hoàn toàn vô ích mà người ta giao cho ông
thảo về mọi ngành của chính phủ.
Alecxei Alecxandrovich không những
không nhận thấy sự thất thế đó, không lấy thế làm bực tức, mà hơn bao giờ hết,
ông còn mãn nguyện về hoạt động của mình.
"Kẻ nào có vợ thì nghĩ tới lạc
thú cõi trần, kẻ nào không vợ thì lo lắng làm vui lòng Chúa", thánh tông
đồ Pôn đã nói. Alecxei Alecxandrovich từ nay bất cứ dịp nào cũng chỉ viện đến
Thánh Kinh, luôn thầm nhắc câu đó. Ông thấy hình như từ khi vợ bỏ, ông phụng sự
Chúa tốt hơn xưa bằng những kế hoạch đúng đắn của mình.
Sự sốt ruột ra mặt của vị uỷ viên
Hội đồng Quốc gia đã muốn cáo từ, không hề làm Alecxei Alecxandrovich nao núng.
Mãi đến lúc người tiếp chuyện lợi dụng một vị trong hoàng tộc đi ngang qua để
đi thoát, ông mới ngừng trình bày.
Còn lại một mình, Alecxei
Alecxandrovich cúi đầu, tập trung suy nghĩ rồi lơ đãng nhìn xung quanh và đi ra
cửa, ông hi vọng gặp nữ bá tước Lidia Ivanovna ở đó.
"Sao mà họ đều lực lưỡng và
khoẻ mạnh đến thế". Alecxei Alecxandrovich thầm nghĩ nhìn thấy viên quan
thị vệ hùng dũng có bộ ria chải mượt sức nước hoa và chiếc gáy đỏ ửng của vị
hoàng thân gọn ghẽ trong bộ triều phục, lúc ông đi qua chỗ họ. "Không phải
vô cớ mà người ta nói tất cả ở cõi đời này đều dối trá", ông thầm nghĩ,
một lần nữa liếc nhìn đôi bắp chân quan thị vệ.
Alecxei Alecxandrovich thong thả
bước đi, nghiêng mình chào một cách trịnh trọng và mệt mỏi trước các quý quan
đang bàn tán về ông, rồi nhìn ra cửa, đưa mắt tìm nữ bá tước Lidia Ivanovna.
- Ồ! Alecxei Alecxandrovich! - ông
già thấp bé nói với một ánh nham hiểm trong khoé mắt, khi Karenin đi tới và
lạnh lùng chào ông ta.
- Tôi vẫn chưa chúc mừng ngài, - ông
già chỉ dải băng mới nhận.
- Cảm ơn ngài, - Alecxei
Alecxandrovich nói. - Trời đẹp quá, - ông nói thêm, quen miệng nhấn mạnh vào
chữ "đẹp".
Ông biết họ đang chế giễu mình,
nhưng ông không chờ ở họ cái gì khác ngoài sự thù địch: ông quen rồi.
Khi nhìn thấy đôi vai vàng bủng của
nữ bá tước Lidia Ivanovna lộ ra khỏi áo nịt và đôi mắt đep tư lự đang gọi ông,
Alecxei Alecxandrovich mỉm cười để lộ hàm răng trắng và bước đến gần. Liđia
Ivanovna phải bận tâm rất nhiều về bộ cánh này cũng như tất cả những trang phục
trong thời gian gần đây. Mục đích việc trang điểm này trái ngược với mục đích
bà theo đuổi trước đây ba mươi năm. Dạo ấy, bà muốn trang sức càng nhiều càng
tốt. Giờ đây, ngược lại, việc làm dáng đâm lạc điệu với tuổi tác và hình dáng
nên bà chỉ còn một nỗi lo lắng duy nhất: giảm bớt sự tương phản giữa cách ăn
mặc và vẻ người. Kể ra đối với Alecxei Alecxandrovich, bà cũng đã đạt mục đích
và ông thấy bà cũng dễ thương. Đối với ông, bà là hòn đảo duy nhất không những
của thiện tâm mà còn của tình ái giữa cái biển thù địch và giễu cợt đang vây
bọc ông. Khi đi qua trước một hàng rào những con mắt nhạo báng, ông bị cái nhìn
đa tình của bà thu hút không sao cưỡng nổi như cái cây bị ánh sáng thu hút.
- Tôi xin chúc mừng ông, - bà nói và
đưa mắt ra hiệu chỉ dải băng. Cố nén một nụ cười mãn nguyện, ông nhún vai, nhắm
mắt lại như muốn nói cái đó không làm ông vui thích chút nào.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna thừa biết,
trái lại, đó là một trong những niềm vui lớn nhất của ông, nhưng không bao giờ
ông chịu thừa nhận.
- Chú tiên đồng của chúng ta thế
nào? - bà hỏi, ý muốn nói với Xergei.
- Tôi không thể nói là hoàn toàn hài
lòng về nó, - Alecxei Alecxandrovich nói, dướn lông mày lên và mở mắt ra. - Cả
Xitnicov cũng không vừa ý về nó (Xitnicov là nhà giáo được ông giao phó việc
dạy dỗ Xergei). Như tôi từng nói với bà, nó có phần hững hờ đối với những vấn
đề thiết yếu đáng lẽ phải tác động đến tâm hồn mỗi người và mỗi đứa trẻ, -
Alecxei Alecxandrovich nói, bắt đầu trình bày ý kiến về vấn đề duy nhất làm ông
quan tâm ngoài nghề nghiệp: việc giáo dục con trai.
Khi Alecxei Alecxandrovich, nhờ sự
giúp đỡ của Liđia Ivanovna trở lại sinh hoạt và hoạt động bình thường, ông thấy
cần phải lo đến việc giáo dục con trai. Vì trước đây chưa từng quan tâm đến
việc này, ông bèn dành thời gian để nghiên cứu mặt lí luận của vấn đề. Sau khi
đọc vài quyển sách bàn về nhân chủng học, về khoa sư phạm và giáo huấn, Alecxei
Alecxandrovich đích thân vạch ra một chương trình giáo dục và mời nhà sư phạm
xuất sắc nhất ở Petersburg tới thực hiện chương trình đó. Ông luôn lo lắng tới
vấn đề này.
- Phải, nhưng còn tâm hồn nó? Tôi
thấy nó có tâm hồn của bố, và với tâm hồn như vậy, đứa trẻ không thể hư được, -
Lidia Ivanovna sôi nổi nói.
- Có thể như vậy… Về phần tôi, tôi
gắng làm tròn bổn phận và tôi chỉ có thể làm được thế.
- Mời ông lại đằng nhà tôi, - nữ bá
tước Lidia Ivanovna nói tiếp sau một phút im lặng. Chúng ta phải bàn một vấn đề
đau lòng cho ông. Tôi sẵn sàng hi sinh tất cả để tránh cho ông một vài kỉ niệm
nào đó, nhưng người khác lại không nghĩ thế. Tôi vừa nhận được thư cô ta. Cô ta
đang ở đây, ở Petersburg.
Alecxei Alecxandrovich giật mình khi
nghe nhắc đến vợ, nhưng liền đó, bộ mặt ông lại đờ ra như xác chết, lộ rõ sự
bất lực hoàn toàn trước việc này.
- Tôi vẫn chờ đợi điều đó, - ông
nói.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna nhìn ông
bằng con mắt khâm phục và ứa nước mắt xúc động trước tâm hồn cao thượng đó.
--------------------------------
1 It fait des passions (tiếng Pháp
trong nguyên bản).
2 Bras dessus bras dessous (tiếng
Pháp trong nguyên bản).
3 C' est un homme n'a pas… (tiếng
Pháp trong nguyên bản)
Chương
24
Khi Alecxei Alecxandrovich bước vào
tư thất lộng lẫy của Lidia Ivanovna, trang trí đầy chân dung và đồ sứ cổ, nữ
chủ nhân vẫn chưa có mặt tại đó.
Bà đang thay quần áo.
Bộ đồ trà Trung Quốc và chiếc ấm đun
bằng bạc đặt trên bàn tròn phủ khăn. Alecxei Alecxandrovich lơ đãng nhìn những
chân dung quen thuộc treo nhan nhản trong tư thất và ngồi xuống cạnh bàn, mở
quyển Kinh Phúc âm đặt ở đó. Tiếng áo lụa sột soạt của nữ bá tước làm ông
chuyển hướng chú ý.
- Thế! Bây giờ, ta có thể yên tĩnh
được rồi, - nữ bá tước Lidia Ivanovna vừa nói vừa lướt qua giữa bàn và đi văng
với một nụ cười xúc động, - ta sẽ vừa uống trà vừa nói chuyện một lát.
Sau vài câu mào đầu, nữ bá tước
Lidia Ivanovna đỏ mặt lên thở hổn hển đưa cho Alecxei Alecxandrovich bức thư
vừa nhận được. Đọc xong thư, ông nín lặng hồi lâu.
- Tôi thấy mình không có quyền từ
chối cô ta việc này, - ông ngước mắt rụt rè nói.
- Ông bạn ơi, ông chẳng nhìn thấy sự
xấu xa ở đâu cả!
- Trái lại, tôi nhìn thấy nó ở khắp
mọi nơi. Nhưng như thế liệu có đúng không khi mà…?
Bộ mặt ông lộ vẻ lưỡng lự và mong
muốn một lời khuyên, một sự nâng đỡ, một chỉ dẫn đối với một vấn đề ông không
hiểu gì cả.
- Không, - nữ bá tước Lidia Ivanovna
ngắt lời ông. - Cái gì cũng có giới hạn. Tôi hiểu được sự vô luân vô đạo, - bà
nói, không phải hoàn toàn thành thực, vì bà chẳng bao giờ hiểu nổi cái gì đẩy
người đàn bà đến chỗ vi phạm quy tắc đạo đức, - nhưng tôi không hiểu nổi sự tàn
ác, mà tàn ác đối với ai kia chứ? Đối với ông! Làm sao cô ta nỡ lưu lại ở thành
phố này, nơi ông đang sống! À! Phải, ở vào tuổi nào, cũng có thể học cho sáng
mắt ra được. Tôi đây, tôi đã học vỡ ra, hiểu được tâm hồn cao thượng của ông và
sự đê tiện của cô ta.
- Ai lại cạn tàu ráo máng thế được?
- Alecxei Alecxandrovich nói, hài lòng ra mặt về vai trò của mình. - Tôi đã tha
thứ tất cả, tôi không thể tước đoạt cái điều vốn là nhu cầu của trái tim cô ta:
tình mẫu tử…
- Ông bạn ơi, nhưng đó có phải là
tình mẫu tử không kia chứ? Nó có thành thực không? Cứ cho rằng trước đây ông đã
tha thứ và nay ông vẫn còn tha thứ… Nhưng liệu ta có quyền làm ảnh hưởng đến
tâm hồn chú tiên đồng đó không chứ? Nó đã tin là cô ta chết rồi. Nó cầu nguyện
cho cô ta và cầu Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho cô ta… như thế tốt hơn. Bây giờ,
nó sẽ nghĩ thế nào?
- Tôi không nghĩ tới điều đó, -
Alecxei Alecxandrovich nói, rõ ràng tỏ vẻ đồng ý.
Nữ bá tước Lidia Ivanovna lấy hai
tay che mặt và nín lặng. Bà cầu nguyện.
- Nếu ông hỏi ý kiến tôi, - bà nói
sau khi cầu nguyện xong và không che mặt nữa, - tôi xin khuyên ông không nên
làm như vậy. Ông tưởng tôi không thấy ông đau khổ, không thấy việc này đã khơi
lại tất cả vết thương của ông hay sao? Nhưng cứ giả dụ ông vẫn quên mình như
xưa nay vậy. Cái đó sẽ dẫn ông đến đâu? Đến những đau khổ mới, và đến những day
dứt thực sự cho con ông. Nếu thực cô ta còn chút lòng nhân đạo, thì đừng nên
mong muốn như vậy. Không, tôi không chút do dự khuyên ông đừng làm như vậy và
nếu ông cho phép, tôi sẽ viết thư cho cô ta.
Alecxei Alecxandrovich đồng ý và nữ
bá tước Lidia Ivanovna liền viết bức thư sau đây bằng tiếng Pháp:
"Thưa bà. "Hồi ức về bà có
thể khiến con trai bà đặt ra những câu hỏi không thể giải đáp mà không gieo vào
đầu óc đứa bé ý muốn lên án những cái lẽ ra phải là thiêng liêng với nó. Cho
nên tôi xin bà hiểu cho sự từ chối của ông nhà với tinh thần từ thiện Cơ đốc
giáo. Tôi cầu xin Đấng Chí Cao rủ lòng từ bi đối với bà.
Nữ bá tước Lidia".
Bức thư đã đạt được cái mục đích
thầm kín mà nữ bá tước Lidia Ivanovna vẫn tự giấu cả bản thân mình: nó làm cho
Anna đau đớn tận đáy lòng.
Về phía Alecxei Alecxandrovich, sau
khi ở nhà Lidia Ivannovna về, trong ngày hôm đó ông cũng không bắt tay làm công
việc bình thường được và cũng không tìm lại được sự yên tĩnh tâm hồn của kẻ mộ
đạo đã siêu thoát, như ông thường thấy trước đây.
Nhớ đến người vợ tội lỗi, mà, theo
lời nữ bá tước, ông đã cư xử với cô ta như bậc thánh nhân, lẽ ra ông không việc
gì phải bối rối, nhưng vẫn thấy không yên tâm; ông đọc sách mà không hiểu gì,
ông không thể gạt bỏ những kỉ niệm day dứt về quan hệ vợ chồng xưa kia, về
những sai lầm mà giờ đây ông thấy hình như mình đã mắc phải. Nhớ lại cách tiếp
nhận lời thú tội phụ bạc của vợ khi ở trường đua ngựa trở về (chỉ yêu cầu nàng
giữ thể diện mà không thách Vronxki đấu súng), ông day dứt chẳng khác gì đang
ăn năn hối hận. Ông cũng đau khổ khi nghĩ tới bức thư đã viết cho vợ, tới sự
tha thứ chẳng ai cần đến, tới việc chăm sóc đứa trẻ không phải con ông: mọi cái
đó làm ông bừng bừng hổ thẹn và hối tiếc.
Và giờ đây, điểm lại tất cả quá khứ
sống với vợ, hồi tưởng tới lời nói vụng về lúc đi cầu hôn sau thời gian dài do
dự, ông cũng cảm thấy xấu hổ và hối hận như vậy.
"Nhưng ta có lỗi gì kia
chứ", ông tự hỏi. Câu hỏi đó bao giờ cũng kéo theo một câu hỏi khác:
"Tất cả những kẻ khác, những Vronxki, những Oblonxki… những quan thị vệ có
bắp chân to béo, họ cảm nghĩ, yêu đương, kết hôn có khác ta không?". Và
ông nhớ tới cả loạt người khoẻ mạnh, béo tốt và tự tin đó, bất kì lúc nào và ở
đâu cũng thu hút sự chú ý của ông. Ông gạt bỏ ý nghĩ đó và cố tự thuyết phục
rằng mình sống không phải vì cuộc đời phù du nơi hạ giới này, mà vì cuộc đời
vĩnh viễn, rằng lòng yêu thương cùng sự yên tĩnh vẫn ngự trong tâm hồn ông.
Nhưng một vài sai lầm, theo ông không đáng kể, mắc phải trong cuộc đời phù du
và đáng khinh miệt này, lại dằn vặt ông đến nỗi tưởng như không hề có sự cứu độ
linh hồn vĩnh cửu ông hằng tin tưởng. Sự cám dỗ đó không kéo dài và sau đó, tâm
hồn Alecxei Alecxandrovich trở lại bình tĩnh và lâng lâng, khiến ông có thể
quên cái điều ông không muốn nhớ tới.
Chương
25
- Thế nào bác Kapitonich? - Xerioja,
mặt đỏ bừng vui thích sau cuộc dạo chơi hôm trước sinh nhật, hỏi lão gác cổng
già khi lão cởi áo khoác cho nó và đứng cao sừng sững, mỉm cười nhìn xuống chú
bé. - Cái ông viên chức đeo băng có đến không? Ba có tiếp ông ta không?
- Có. Khi ông chánh văn phòng ra về,
tôi đã vào báo với ông nhà tiếp ông ta, - lão gác cổng vui vẻ nháy mắt nói với
chú bé. Cậu để tôi cởi áo cho nhé. - Xerioja! - viên gia sư người Xerbi đứng
trên ngưỡng cửa thông sang các gian buồng gọi. - Em hãy cởi áo lấy một mình!
Nhưng Xerioja không chú ý đến những
lời đó, mặc dầu đã nghe thấy cái giọng nhỏ nhẻ của ông gia sư: chú bé đứng đó,
nắm lấy dây lưng lão gác cổng và nhìn thẳng vào mặt lão.
- Thế ba có làm giúp những việc ông
ta cần không?
Lão gác cổng gật đầu. Ông viên chức
đeo băng đã bảy lần đến thỉnh cầu Alecxei Alecxandrovich việc gì đó, làm Xergei
và lão gác cổng phải chú ý. Một hôm Xerioja gặp ông trong phòng chờ và nghe
thấy ông ta nài nỉ van lơn, nhờ lão gác cổng báo xin tiếp kiến, nếu không ông
chỉ còn cách cùng chết với lũ con.
Từ hôm đó, sau một lần gặp nữa tại
phòng chờ, Xerioja quan tâm đến ông ta.
- Ông ta có hài lòng lắm không? -
chú bé hỏi.
- Tôi chắc là có! Ông ta ra khỏi đây
như muốn nhảy cẫng lên.
- Có ai mang gì lại đây không? -
Xerioja hỏi, sau khi nín lặng hồi lâu.
- Thưa cậu, có ạ, - lão gác cổng gật
đầu nói nhỏ với chú bé, - của nữ bá tước gửi đến.
Xerioja hiểu ngay đó là quà của nữ
bá tước Lidia Ivanovna tặng nó nhân kỉ niệm ngày sinh.
- Bác bảo sao hả? Đâu?
- Kornây đưa lên phòng của ba rồi.
Chắc là một đồ chơi đẹp lắm!
- To chừng nào? Bằng này nhé?
- Không, nhỏ hơn, nhưng đẹp lắm.
- Sách à?
- Không đồ chơi. Thôi, cậu đi đi,
Vaxili Lukich gọi cậu đấy, - lão gác cổng nói vậy khi nghe thấy tiếng chân ông
gia sư. Lão nhẹ nhàng gỡ bàn tay bé nhỏ đã tuột nửa găng ra ngoài, đang bím lấy
dây lưng lão và nháy mắt ra hiệu chỉ về phía gia sư Lukich.
- Vaxili Lukich, em đến ngay đây, -
Xerioja trả lời với nụ cười vui vẻ và âu yếm bao giờ cũng làm xiêu lòng thầy
Vaxili Lukich nghiêm khắc. Xerioja đang sung sướng quá nên không thể không chia
xẻ với ông bạn gác cổng niềm vui của gia đình mà đứa cháu gái nữ bá tước vừa
cho chú biết trong khi dạo chơi ở vườn hoa mùa hè. Chú bé thấy niềm vui đó càng
lớn hơn vì nó trùng hợp với niềm vui của ông viên chức và niềm vui của bản thân
chú khi được biết có người mang đồ chơi đến tặng. Xerioja thấy hôm nay hình như
mọi người đều phải được sung sướng và hài lòng.
- Bác có biết ba được thưởng huân
chương Alecxandr Nevxki không?
- Tất nhiên có biết chứ! Người ta
đến chức mừng ông rồi đấy.
- Ba có thích không?
- Được Nga hoàng ban ơn thì ai mà
chả thích. Ông nhà xứng đáng được như vậy, - lão gác cổng nói giọng nghiêm
trang và trịnh trọng.
Xerioja vừa ngẫm nghĩ, vừa ngắm
khuôn mặt lão gác cổng mà chú thuộc đến từng nét nhỏ nhất, nhất là cái cằm lơ
lửng giữa hai chòm râu má hoa râm, điều không ai nhận thấy trừ Xerioja vì bao
giờ chú bé cũng nhìn ông bạn từ dưới lên.
- Con gái bác đến thăm bác đã lâu
chưa?
Con gái lão gác cổng ở trong đội vũ
balê.
- Ngày thường nó không có thì giờ
lại đâu. Nó cũng phải học chứ. Thôi mời cậu đi học bài đi.
Bước vào phòng, đáng lẽ ngồi xuống
học bài thì Xerioja lại bảo gia sư là nó đoán người ta đã mang đến cho nó một
cái đầu tàu hoả.
- Thầy bảo có đúng không? - nó hỏi.
Nhưng Vaxili Lukich đang nghĩ tới
việc chuẩn bị bài ngữ pháp cho vị giáo sư sẽ đến đây hồi hai giờ.
- Không, thưa thầy, - nó đột nhiên
hỏi sau khi ngồi vào bàn học, tay cầm quyển sách, - thầy bảo cho em biết trên
huân chương Alecxandr Nevxki còn có huân chương gì nữa? Thầy biết là ba vừa
được thưởng huân chương Alecxandr Nevxki chứ?
Vaxili Lukich trả lời còn có huân
chương Thánh Vladimia.
- Thế to hơn nữa là huân chương gì?
- Thánh Andrei.
- Thế cao hơn huân chương Thánh
Andrei là gì?
- Tôi không biết.
- Sao kia, cả thầy cũng không biết
à? - và Xerioja tì khuỷu tay xuống bàn, triền miên suy nghĩ.
Những ý nghĩ đó thuộc loại phức tạp
và linh tính nhất. Chú bé tưởng tượng đủ điều, nào là ba chú cùng một lúc được
hưởng cả huân chương Thánh Vladimia lẫn huân chương Thánh Andrei, nào là hôm
nay ông sẽ dễ dãi hơn nhiều đối với bài học và bản thân chú, nào là khi lớn
lên, chú cũng sẽ được hưởng mọi thứ huân chương, kể cả những huân chương sẽ đặt
ra cao hơn huân chương thánh Andrei nữa. Hễ họ đặt ra huân chương nào là chú sẽ
xứng đáng được thưởng ngay huân chương đó. Họ sẽ đặt ra những huân chương ngày
càng cao hơn và chú sẽ lập tức xứng đáng được thưởng ngay mọi huân chương đó.
Thời gian trôi theo những ý nghĩ đó
và khi giáo sư đến, bài học về những bổ từ thời gian, địa điểm và trạng thái,
chú vẫn chưa thuộc và giáo sư chẳng những không bằng lòng mà còn buồn phiền. Vẻ
buồn rầu của giáo sư làm Xerioja xúc động. Chú không cảm thấy mình có lỗi: dù
cố gắng thế nào, chú cũng không thể học thuộc được bài; khi giáo sư giảng, chú
thấy hình như mình hiểu cả, nhưng khi còn lại một mình, quả thực chú không sao
hiểu nổi tại sao một chữ ngắn như vậy và dễ hiểu như vậy, chẳng hạn chữ
"bỗng nhiên" lại được mệnh danh là "bổ từ trạng thái";
nhưng chú vẫn hối hận vì đã làm phiền lòng giáo sư. Chú chọn lúc giáo sư đang
lẳng lặng tìm gì đó trong quyển sách:
- Thầy Mikhain Ivanovich, sinh nhật
của thầy vào ngày nào ạ? - chú đột nhiên hỏi.
- Em hãy nghĩ đến việc học của em
thì hơn; ngày hội không có gì quan trọng đối với một người đứng đắn. Đó cũng là
một ngày phải làm việc như mọi ngày thôi.
Xerioja chăm chú nhìn giáo sư, nhìn
bộ râu thưa thớt, cặp kính tuột xuống mũi của ông và suy nghĩ miên man đến nỗi
lần này chú hoàn toàn không nghe thấy những lời ông giảng. Chú biết giáo sư
không nghĩ đúng như ông nói, chú cảm thấy thế qua giọng ông khi thốt ra lời đó.
"Nhưng tại sao họ lại cứ đồng
tình nói giống hệt nhau những chuyện buồn tẻ và vô ích như vậy với mình? Tại
sao ông ta lại xa lánh mình? Tại sao ông ta không yêu mình?", đứa bé buồn
rầu tự hỏi mà không tìm nổi câu trả lời.
Chương
26
Sau bài học của giáo sư đến bài học
của ông bố. Trong khi chờ đợi, Xerioja ngồi trước bàn học nghịch con dao con và
tiếp tục suy nghĩ. Một trong những công việc ưa thích của chú là tìm mẹ trong
những lúc dạo chơi. Chú không tin vào cái chết nói chung và nhất là không tin
là mẹ chết, mặc dầu Lidia Ivanovna nói thế và bà cũng xác nhận điều ấy: cho
nên, sau khi họ nói mẹ đã chết, chú vẫn tiếp tục tìm mẹ khi dạo chơi. Tất cả
những phụ nữ xinh đẹp, tóc nâu, hơi đậm người đều là mẹ chú. Mỗi khi thấy một
bà như vậy, một niềm yêu thương mãnh liệt tràn ngập tâm hồn Xerioja đến nỗi chú
nghẹn thở và rưng rưng nước mắt. Và lần nào chú cũng hi vọng có một trong những
người đàn bà đó đến với chú và nhấc mạng che mặt lên. Chú sẽ nhìn thấy khắp mặt
mẹ, mẹ sẽ mỉm cười, ôm chú trong tay. Chú sẽ ngửi thấy mùi thơm của mẹ, cảm
thấy bàn tay hiền dịu và khóc oà lên, vui sướng như cái tối nằm dưới chân mẹ,
cho mẹ cù và chú cười chảy cả nước mắt rồi cắn vào bàn tay mẹ đẹp, trắng muốt,
đầy nhẫn. Sau đó, khi bà vú nuôi cho biết mẹ chưa chết và khi bà cùng Lidia Ivanovna
giảng giải là đối với chú, mẹ chết rồi vì mẹ không tốt (chú yêu mẹ nên chẳng
bao giờ tin thế), chú lại tiếp tục tìm kiếm và chờ đợi mẹ như không có việc gì
xảy ra. Hôm nay, ở Vườn hoa mùa hè, chú thấy một bà đeo mạng màu hoa cà men
theo cùng một lối tiến lại gần, chú nhìn mà cứ thổn thức hi vọng đó chính là
mẹ. Nhưng bà không đến tận nơi mà rẽ đi khuất. Hôm nay, Xerioja thấy lòng yêu
thương mẹ tràn ngập mãnh liệt hơn bao giờ hết và chú vừa ngồi đợi bố, vừa lấy
dao gọt cạnh bàn, đôi mắt long lanh nhìn thẳng đằng trước, vẻ lơ đãng, tưởng
nhớ tới mẹ.
- Bà đang đến đấy, - Vaxili Lukich
bảo chú.
Xerioja đứng phắt dậy, ra đón bố và
sau khi hôn tay bố, liền chăm chú nhìn mặt ông, tìm xem có dấu hiệu gì vui mừng
sau khi được thưởng huân chương Alecxandr Nevxki.
- Con đi dạo chơi có thích không? -
Alecxei Alecxandrovich hỏi con, ngồi vào ghế bành và mở cuốn kinh Cựu ước. Mặc
dầu đã nhiều lần bảo Xerioja rằng bất cứ tín đồ nào cũng phải thuộc làu Kinh
Thánh, chính ông cũng thường phải luôn tra cứu kinh Cựu ước để giảng bài. Chú
bé nhận thấy thế.
- Có ạ, con chơi thích lắm ba ạ, -
Xerioja nói, ngồi ngang trên ghế và lắc lư người, điều chú không được phép làm.
- Con gặp Nađenca (Nađenca là cháu
gái Lidia Ivanovna được bà nuôi nấng dạy dỗ). Nó bảo con là ba được thưởng huân
chương mới. Ba có thích không hả ba?
- Thứ nhất, ba yêu cầu con không
được lắc lư thế, - Alecxei Alecxandrovich nói, - và thứ hai, đối với chúng ta
công việc mới là quý, chứ không phải khen thưởng. Ba muốn con hiểu điều đó. Nếu
con làm việc, học tập để nhận phần thưởng, con sẽ cảm thấy vất vả; nhưng nếu
yêu thích công việc trong khi lao động con sẽ tìm thấy phần thưởng ngay trong
đó. (Alecxei Alecxandrovich nhớ lại sáng nay đã phải kí tới một trăm mười tám
công văn và ông chỉ lấy tinh thần trách nhiệm cao mà tự động viên mình làm xong
cái công việc bạc bẽo ấy).
Đôi mắt long lanh yêu thương và vui
sướng của Xerioja tối sầm lại trước cái nhìn của bố. Lần nào nói chuyện với nó,
Alecxei Alecxandrovich cũng giữ nguyên một giọng như vậy và đứa trẻ đã tập làm
quen với điều đó. Bao giờ cũng vậy - ít ra cũng là cảm tưởng của chú bé - ông
nói với nó như nói với một đứa trẻ tưởng tượng thường thấy trong sách, không
giống nó chút nào. Và đứng trước mặt bố, Xerioja cố gắng để giống đứa bé nọ.
- Ba chắc con hiểu chứ! - ông bố bảo
con.
- Thưa ba vâng, - Xerioja trả lời,
đóng vai đứa trẻ tưởng tượng.
Bài học gồm việc học thuộc lòng mấy
đoạn kinh Phúc âm và đọc những chương đầu kinh Cựu ước. Xerioja thuộc bài nhưng
trong khi đọc, chú lại mải ngắm cái gờ trán bố gần như thẳng góc với thái dương
nên đâm lú lấp và đọc nhầm hai đoạn kinh, một đoạn thì kết thúc và một đoạn lại
bắt đầu bằng cùng một chữ. Đối với Alecxei Alecxandrovich thì hiển nhiên là chú
bé không hiểu gì lời mình đọc cả và điều đó làm ông bực tức.
Ông cau mày và bắt đầu giảng giải,
Xerioja từng nghe những lời đó hàng bao lần rồi và không bao giờ nhớ được, vì
trong đó chẳng có gì đáng tìm hiểu cả. Đại loại như: "bỗng nhiên" là
một bổ từ trạng thái, Xerioja nhìn bố, khiếp hãi, và chỉ nghĩ tới một việc: liệu
bố có bắt nhắc lại lời ông vừa nói như một vài lần trước không? ý nghĩ đó làm
chú khiếp sợ đến nỗi không còn hiểu gì. Nhưng bố không bắt chú nhắc lại và
chuyển sang học Kinh Cựu ước. Xerioja kể rất trôi chảy các sự tích nhưng đến
khi phải giải thích ý nghĩa những sự tích đó, chú cứ ngồi im thin thít, mặc dầu
có lần đã phải phạt vì bài đó. Đến đoạn các tộc trưởng trước trận hồng thuỷ,
chú không nói được gì nữa: chú ngắc ngứ, lấy dao gọt bàn, lắc lư trên ghế. Chú
chỉ nhớ có Enôc, còn sống, được đưa lên trời. Trước đây một lát, chú còn nhớ
những tên khác, thế mà bây giờ đã quên tiệt, chủ yếu vì trong toàn bộ kinh Cựu
ước, Enôc là nhân vật chú ưa thích nhất vì trong đầu óc chú việc Enôc được đưa
lên trời gắn liền với chuỗi dài ý nghĩ đã choán hết tâm tư, trong khi chú đăm
đăm nhìn cái dây đeo đồng hồ của bố và khuy áo gi lê tuột một nửa ra ngoài
khuyết.
Xergei không tin hẳn là có cái chết,
mà người ta thường nói với chú. Chú không tin là những người chú yêu và cả bản
thân chú có thể chết. Đối với chú, cái đó hoàn toàn không thể có và không thể
hiểu được. Nhưng ai cũng nói tất cả mọi người đều chết: chú tìm hỏi những người
chú tin cậy và họ đều thừa nhận điều đó; bà vú nuôi cũng bảo thế, mặc dầu miễn
cưỡng. Nhưng nếu Enôc không chết, thế tức là mọi người đều không chết.
"Tại sao mỗi người lại không xứng đáng được lên trời từ lúc còn
sống?" Xerioja thầm nghĩ. Những kẻ độc ác, nói cách khác là những người
Xerioja không thích, có thể chết, nhưng người tốt thì có thể được như Enôc.
- Thế nào, những tộc trưởng khác tên
là gì?
- Enôc… Enôc…
- Con nói tên đó rồi, Xerioja, như
thế là không tốt. Rất không tốt. Nếu con không gắng học điều cần thiết hơn cả
đối với một tín đồ, - ông bố đứng dậy và nói, - thì liệu con còn quan tâm đến
cái gì nữa kia chứ? Ba không bằng lòng con và Petr Igantiêvich (tức ông giáo
chính) cũng không bằng lòng con… Ba buộc phải phạt con.
Bố và thầy giáo, cả hai đều bực
Xerioja và quả thực, nó học rất kém. Tuy nhiên, không thể bảo nó là đứa trẻ đần
độn. Trái lại, nó còn thông minh hơn nhiều so với những đứa trẻ thầy giáo đã
nêu lên làm gương. Theo cách nhìn của ông bố, nó không chịu học điều người ta
dạy nó. Sự thực, nó không thể học được. Nó không học được vì tâm hồn nó chứa
đựng những yêu cầu cấp thiết hơn nhiều so với yêu cầu mà bố và thầy giáo đề ra.
Những yêu cầu khác nhau đó chống đối nhau, cho nên nó công khai đối lập với
những người giáo dục nó.
Nó lên chín, nó chỉ là một đứa con
nít; nhưng nó hiểu tâm hồn nó, tâm hồn đó thân thiết với nó, nó bảo vệ tâm hồn
như hàng mi bảo vệ con mắt, chống lại những ai muốn đi sâu vào tâm hồn mà không
có chìa khoá của tình yêu. Những người giáo dục than phiền nó không chịu học
trong khi tâm hồn nó lại đang khao khát hiểu biết. Nếu nó học được gì là học ở
Kapitonich, ở bà vú, ở Nađenca, ở Valixi Lukich, chứ không phải ở các giáo sư.
Dòng nước mà ông bố và nhà sư phạm chờ đợi sẽ xoay chuyển bánh cối xay của họ,
từ lâu đã thấm vào miếng đất khác để tác động ở đó.
Để phạt Xerioja, ông bố cấm nó không
được đến thăm Nađenca - cháu gái Lidia Ivanovna: nhưng hình phạt hoá ra lại có
lợi cho nó. Vaxili Lukich hôm đó đang phấn khởi, đã bày cho nó cách làm cối xay
gió. Nó dành cả buổi tối để làm một cái và mơ tưởng cách dùng cối xay như vậy
để quay lộn trong không trung: liệu có phải buộc người vào hay chỉ cần bám chặt
cánh cối xay thôi? Cả buổi tối nó không nghĩ đến mẹ, nhưng khi đi nằm, đột
nhiên nhớ tới, nó bèn cầu nguyện theo cách riêng để mẹ thôi đừng ẩn trốn nữa và
đến thăm nó trong dịp sinh nhật ngày mai.
- Thầy Vaxili Lukich, thầy có biết
em cầu xin thêm cái gì nữa không?
- Cầu học giỏi hơn?
- Không.
- Cầu đồ chơi?
- Không. Thầy chẳng đoán ra được
đâu. Tuyệt lắm kia, nhưng bí mật! Khi nào thành sự thực, em sẽ nói cho thầy
biết. Thầy không đoán được, phải không?
- Chịu. Chú sẽ nói cho tôi biêt sau
nhé, - Vaxili Lukich nói và mỉm cười, một việc hiếm thấy ở ông.
- Chú ngủ đi, tôi tắt nến đây.
- Không có ánh sáng, em càng nhìn
thấy rõ điều em đã khẩn cầu. ấy, suýt nữa em lộ cho thầy biết điều bí mật rồi
đấy! - Xerioja nói và cười khanh khách.
Khi ông đem nến đi rồi, Xerioja cảm
thấy như mẹ hiện ra. Mẹ đứng bên cạnh và âu yếm nhìn chú. Nhưng những cối xay,
con dao liền chen vào, tất cả đều rối mù… và chú bé ngủ thiếp đi.
Chương
27
Tại Petersburg, Vronxki và Anna trọ
ở một khách sạn loại sang nhất. Vronxki ở dưới nhà, Anna cùng con gái, chị vú
và chị hầu ở một gác rộng gồm bốn buồng.
Ngay hôm mới đến, Vronxki đã lại nhà
anh trai: ở đó, chàng gặp mẹ, bà đến Moskva để thu xếp công việc. Mẹ và chị dâu
tiếp chàng như thường lệ: hai người hỏi thăm về chuyến du lịch nước ngoài, nói
chuyện về những người cùng quen biết, nhưng không hề đả động câu nào tới chuyện
dan díu của chàng với Anna. Trái lại, hôm sau, đến thăm chàng, ông anh nhắc đến
nàng trước tiên. Và Alecxei không quanh co úp mở nói tuột rằng chàng coi mối
tình với Karenina là hôn nhân, chàng định thu xếp cho xong chuyện li dị để kết
hôn, nhưng trong khi chờ đợi chàng vẫn coi nàng như vợ chính thức và nhờ anh kể
lại chuyện đó cho mẹ và chị dâu biết.
- Mặc cho thế gian phản đối, tôi
không cần, - Vronxki nói, - nhưng nếu gia đình còn muốn hoà thuận với tôi, thì
cũng cần đối xử hoà hảo với vợ tôi.
Ông anh cả, vốn luôn luôn tôn trọng
ý kiến em trai, còn phân vân không biết Alecxei phải hay trái, chừng nào mọi
người chưa kết luận dứt khoát về vấn đề này; nhưng bản thân ông thì không phản
đối gì cho nên ông cùng em trai lên phòng Anna.
Trước mặt anh, cũng như trước mặt
bất cứ ai, Vronxki gọi Anna bằng "chị" và đối xử như một bạn gái
thân, nhưng hàm ý rằng ông anh đã hiểu rõ quan hệ giữa hai người, cho nên họ
bàn đến dự định đưa Anna về sống ở trang trại của Vronxki.
Mặc dầu có kinh nghiệm xã giao,
Vronxki vẫn phạm phải một sai lầm kì quặc, nó là hậu quả hoàn cảnh mới hiện nay
của chàng. Đáng lẽ chàng phải hiểu xã hội thượng lưu sẽ cấm cửa hai người; trái
lại, chàng mơ hồ nghĩ rằng thời trước mới thế, còn bây giờ, nhờ những tiến bộ
nhanh chóng (vô hình chung gần đây chàng trở thành người ủng hộ mọi tiến bộ),
dư luận xã hội đã thay đổi và vấn đề họ có tiếp Anna và chàng hay không, còn
chưa ngã ngũ.
"Tất nhiên, chàng thầm nghĩ,
giới quý phái chính thức sẽ không tiếp nàng, nhưng những người thân của mình có
thể và phải hiểu hoàn cảnh cho thích đáng".
Người ta có thể ngồi bắt chéo khoeo
hàng giờ liền nếu biết không có gì cản trở mình thay đổi tư thế, nhưng hễ đã
biết mình bắt buộc phải ngồi gập chân là y như rằng bị chuột rút và đôi chân sẽ
theo bản năng tìm cách duỗi ra. Đó đúng là điều Vronxki cảm thấy đối với giới
thượng lưu. Mặc dầu, trong thâm tâm, chàng biết hai người không thể bén mảng
đến giới xã giao được nữa, chàng vẫn tiếp tục tự hỏi liệu giới thượng lưu có
thay đổi không và liệu họ có tiếp hai người không. Nhưng rồi chàng đành thừa
nhận: nếu giới thượng lưu còn mở cửa tiếp chàng, thì họ vẫn cấm cửa Anna. Như
trong trò chơi mèo đuổi chuột, những bàn tay giơ lên cho chàng chui qua lập tức
hạ xuống chắn Anna.
Một trong những phụ nữ đầu tiên
thuộc giới thượng lưu Petersburg chàng gặp lại là bà chị họ Betxy.
- À đây rồi! - bà vui vẻ thốt lên
khi thấy chàng.
- Thế còn Anna đâu? Tôi rất mừng! Cô
chú trọ ở đâu? Tôi chắc sau cuộc hành trình thú vị vừa rồi, chú hẳn thấy thành
phố Petersburg thật gớm ghiếc nhỉ. Tôi có thể mường tượng ra tuần trăng mật của
chú ở Rôm. Thế còn việc li dị? Thu xếp xong cả rồi chứ?
Vronxki thấy vẻ vui mừng của Betxy
biến mất khi được biết việc li dị vẫn chưa thành.
- Tôi biết họ sẽ ném đá vào tôi,
nhưng tôi sẽ đến thăm Anna, phải, nhất định tôi sẽ đến. Cô chú ở đây có lâu
không?
Quả thực, ngay hôm đó, bà đến chơi
với Anna; nhưng thái độ bà không giống như trước nữa. Rõ ràng bà kiêu hãnh vì
sự táo bạo của mình và muốn Anna phải kính phục cái bằng chứng về lòng chung
thuỷ và hữu ái đó. Bà ngồi nói chuyện tin tức trong ngày không quá mười phút và
trước khi ra về còn bảo:
- Chị vẫn chưa nói cho tôi biết bao
giờ sẽ li dị? Vì dù tôi có bất chấp mọi dư luận, thì bọn lên mặt đạo đức vẫn cứ
lãnh đạm với chị chừng nào hai người chưa kết hôn. Mà bây giờ thì thật dễ dàng.
Việc đó có thể làm được 1. Thế ra thứ sáu này chị đi à? Thật đáng tiếc, từ nay
đến hôm đó, ta không gặp nhau được.
Xem thái độ Betxy, lẽ ra Vronxki đã
có thể hiểu là chẳng thể trông mong gì nữa ở giới thượng lưu, nhưng chàng vẫn
ướm thử lần nữa ở gia đình. Chàng không đặt chút hi vọng nào ở mẹ. Chàng biết
mẹ yêu thích Anna trong lần gặp đầu tiên, nhưng bây giờ bà rất khắc nghiệt với
người đã phá hoại sự nghiệp con trai bà. Nhưng chàng hi vọng rất nhiều ở bà chị
dâu Varya. Chàng tin bà sẽ không lên án hai người, sẽ vui vẻ, mạnh dạn đến thăm
và tiếp Anna ở nhà bà.
Ngay sau hôm đến Petersburg, Vronxki
lại nhà, và thấy bà chỉ có một mình, liền nói thẳng ý muốn của mình.
- Alecxei, chú biết tôi rất quý chú
và rất sẵn sàng làm mọi việc giúp chú, - bà nói, sau khi nghe chàng kể từ đầu
đến cuối.
- Sở dĩ tôi vẫn làm thinh, vì biết
không giúp ích gì được cho hai người, cả chú lẫn Anna Arcadievna (bà phát âm
thật rành rọt: Anna Arcadievna). Chú đừng cho rằng tôi kết tội cô ta. Hoàn toàn
không phải thế: có thể, ở vào địa vị đó, tôi cũng sẽ làm như vậy. Tôi không đi
sâu vào chi tiết và cũng không làm thế được, bà nói, thỉnh thoảng lại rụt rè
nhìn bộ mặt lầm lầm của chàng. Nhưng ta cần nói thẳng thắn với nhau. Chú muốn
tôi đến thăm cô ấy, tiếp cô ấy tại nhà và bằng cách đó, khôi phục lại địa vị cô
ấy trong xã hội thượng lưu; nhưng chú hiểu cho tôi không thể làm thế được. Tôi
còn lũ con gái đang tuổi lớn và bắt buộc phải sống trong chốn thượng lưu vì nhà
tôi. Giả dụ tôi đến thăm Anna Arcadievna; chắc cô ấy sẽ hiểu tôi không thể mời
cô ấy đến nhà được hoặc cùng bất đắc dĩ thì tôi phải liệu cách mời thế nào để
cô ấy khỏi gặp những người có cách nhìn nhận khác: chính cô ấy sẽ tự ái trước.
Tôi không thể nâng cô ấy dậy…
- Nhưng tôi cho rằng cô ấy cũng
chẳng sa ngã gì hơn hàng trăm phụ nữ chị vẫn tiếp! - Vronxki ngắt lời, mặt càng
sa sầm, và lẳng lặng đứng dậy, biết không thể lay chuyển được chị dâu.
- Alecxei! Chú đừng giận tôi. Tôi xin
chú, chú hãy hiểu cho đó không phải lỗi tại tôi, - Varya nói tiếp và nhìn chàng
với một nụ cười e dè.
- Tôi không giận chị, chàng nói, mặt
vẫn buồn rười rượi, nhưng điều đó càng làm tôi khổ tâm gấp đôi. Và tôi lấy làm
tiếc là điều đó sẽ cắt đứt tình thân giữa chúng ta. Cứ tạm cho rằng điều đó
không cắt đứt mà chỉ làm nhạt tình thân. Chị cũng hiểu đối với tôi, không có
cách nào khác.
Nói rồi, chàng liền từ giã bà.
Vronxki hiểu dù có thử vận động thêm
người khác cũng vô ích và mấy ngày đó hai người sống tại Petersburg như ở một
thành phố xa lạ, tránh mọi tiếp xúc với chốn thượng lưu cũ, để khỏi hứng lấy
những bực mình và nhục nhã có thể xúc phạm sâu sắc đến chàng. Một trong những
bực dọc chủ yếu là tên chàng luôn luôn bị ghép liền với tên Alecxei Alecxandrovich.
Không thể nói bất cứ vấn đề gì mà câu chuyện không chuyển sang Alecxei
Alecxandrovich; không thể đi đâu mà không vấp phải tên ông ta. ít nhất, đó cũng
là cảm tưởng của Vronxki, tựa hồ người có ngón tay đau, ở đâu cũng như bị ai cố
tình chạm phải ngón tay khốn khổ đó.
Vronxki thấy những ngày ở Petersburg
càng nặng nề thêm vì suốt thời kì đó, chàng thấy tính nết Anna đâm khác thường
và khó hiểu. Khi thì nàng có vẻ say mê chàng, khi lại lạnh lùng, bực bội và bí
hiểm. Nàng không chịu thổ lộ cho chàng biết điều gì đang giày vò mình và hình
như không chú ý tới những bực bội đang đầu độc cuộc sống Vronxki, những điều lẽ
ra còn cay cực gấp bội đối với nàng, con người thường ngày vốn tinh tế nhạy cảm
là thế.
--------------------------------
1 Ca se fait (tiếng Pháp trong
nguyên bản)
Chương
28
Một trong những mục đích đã định của
Anna khi trở về Nga là thăm con trai. Kể từ hôm rời khỏi ý, ý định gặp gỡ đó
không ngừng khuấy động lòng nàng. Và càng về đến gần Petersburg, niềm vui và
tầm quan trọng của việc đó càng tăng lên trước mắt nàng. Nàng thấy việc đến
thăm con là rất giản dị và tự nhiên, một khi ở cùng thành phố với nó; nhưng sau
khi đến Petersburg, nàng đột nhiên nhìn thấy rõ cương vị hiện tại của mình
trong xã hội và nàng hiểu việc bố trí gặp gỡ sẽ khó khăn.
Nàng đến Petersburg đã được hai
ngày. Lòng thương nhớ con không lúc nào nguôi nhưng nàng vẫn chưa gặp được nó.
Nàng cảm thấy mình không có quyền về thẳng nhà, nhỡ ra chạm trán với Alecxei
Alecxandrovich ở đó. Người ta có thể cự tuyệt không tiếp nàng, làm nhục nàng.
Viết thư cho chồng, bắt liên lạc với ông ta, chỉ nghĩ vậy nàng đã không chịu
nổi: nàng chỉ bình tĩnh khi nào không nghĩ tới chồng. Gặp con lúc dạo mát, sau
khi hỏi dò được giờ giấc đi chơi của nó, nàng thấy chẳng thấm tháp gì: nàng đã
bao lâu chờ đón cuộc gặp gỡ này, có bao nhiêu chuyện cần nói với nó, vô cùng
thèm khát ghì nó trong tay, hôn nó. Bà vú già của Xerioja có thể giúp đỡ và
mách nước cho nàng. Nhưng bà ta không còn ở nhà Alecxei Alecxandrovich nữa.
Nàng mất đứt hai ngày loay hoay và tìm kiếm bà vú già.
Được biết quan hệ khăng khít giữa
Alecxei Alecxandrovich và nữ bá tước Lidia Ivanovna, sang ngày thứ ba, Anna
quyết định viết thư cho bà ta, việc này đòi hỏi nàng hết sức cố gắng; trong
thư, nàng chủ tâm nói việc cho phép đến thăm con trai tuỳ thuộc vào lòng cao
thượng của chồng. Nàng biết nếu chồng xem thư, ông ta sẽ không từ chối nàng để
tiếp tục đóng cho trọn vai trò cao thượng của mình.
Người mang thư đem về cho nàng câu
trả lời độc ác và bất ngờ nhất, khi hắn nói người ta không phúc đáp thư nàng.
Nàng chưa bao giờ cảm thấy nhục nhã bằng lúc gọi người đưa thư lên phòng, nghe
hắn kể lại tỉ mỉ việc người ta bắt hắn chờ đợi ra sao để rồi bảo là không có
thư trả lời. Anna cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng hiểu rằng, đứng về quan điểm bà
ta, nữ bá tước Lidia Ivanovna đã làm đúng. Nỗi đau buồn càng khốc liệt vì nàng
phải chịu đựng một mình. Nàng không thể và cũng không muốn chia xẻ với Vronxki.
Nàng biết mặc dầu là nguyên nhân chủ yếu của đau khổ này, chàng vẫn có thể coi
nhẹ cuộc gặp gỡ của nàng với con trai. Nàng biết không bao giờ chàng có thể
hiểu nổi tất cả tầm sâu sắc nỗi đau của nàng: biết đâu, khi nhắc đến chuyện đó,
chàng lại chẳng dùng một giọng hờ hững khiến nàng có thể đâm ghét chàng. Đó là
điều nàng sợ nhất trên đời, cho nên nàng giấu chàng tất cả những gì dính dáng
đến con trai.
Nàng ở nhà suốt ngày, nghĩ cách gặp
con và cuối cùng quyết định viết thư cho chồng. Nàng bắt đầu viết thì có người
đem thư của Lidia Ivanovna đến. Sự im lặng của nữ bá tước đã làm nàng nguôi đi,
cam chịu, nhưng bức thư của bà ta, với tất cả ẩn ý trong đó, khiến nàng tức
giận đến cực độ, nàng thấy sự tàn nhẫn đó đối với lòng thương yêu con tha thiết
và chính đáng của mình thật đáng phẫn nộ đến nỗi nàng đâm bất bình với mọi
người khác và thôi không tự kết tội mình nữa.
"Thật là vô tình và đạo đức
giả! Nàng thầm nghĩ. Họ chỉ muốn làm nhục mình, làm khổ con mình, thế mà mình
lại chịu khuất phục ư! Không đời nào! Mụ ta còn xấu xa hơn mình. Mình đây, ít
nhất, mình cũng không nói dối". Và nàng lập tức quyết định ngay hôm sau,
sinh nhật Xerioja, nàng sẽ đến gặp kì được con trai và chấm dứt sự dối trá kinh
tởm mà họ đang vây quanh đứa bé tội nghiệp.
Nàng đến cửa hàng đồ chơi, mua rất
nhiều thứ và bố trí cả một kế hoạch hành động. Sáng mai, nàng sẽ đến vào hồi
tám giờ: Alecxei Alecxandrovich chắc chắn vẫn chưa dậy. Nàng sẽ sắp sẵn tiền
giúi cho lão gác cổng và gã hầu phòng để họ cho nàng vào nhà, và không nhấc
mạng che mặt, nàng sẽ nói bố đỡ đầu Xerioja phái nàng đến chúc mừng chú và ông
ta dặn nàng phải đặt đồ chơi ngay cạnh giường chú bé. Nhưng nàng không chuẩn bị
trước những lời sẽ nói với con. Nàng suy nghĩ mãi, nhưng không tìm được câu
nào.
Hôm sau, hồi tám giờ sáng, Anna một
mình trên xe ngựa thuê bước xuống và giật chuông trước bậc thầm chính ngôi nhà
cũ của nàng.
- Ra xem người ta hỏi gì. Có một phu
nhân đấy, - Kapitonich, mặc áo bành tô, đi ủng cao su nói vậy sau khi ghé nhìn
qua cửa sổ thấy một bà mặt che mạng đứng trước cửa ra vào. Người giúp việc lão,
một gã thanh niên Anna không quen, vừa mở cửa thì nàng đã bước luôn vào và rút
trong bao tay ra tờ giấy bạc ba rúp, nhét vội vào tay gã.
- Xerioja… Xergei Alecxeiêvich, -
nàng nói và định đi xộc vào nhà trong. Nhưng sau khi liếc nhìn tờ giấy bạc, gã
trai trẻ liền ngăn nàng lại trước cửa kính thứ hai.
- Bà hỏi ai ạ? - nó hỏi.
Nàng không nghe gã hỏi và không trả
lời gì. Thấy vẻ bối rối của bà khách lạ, Kapitonich đích thân ra khỏi buồng
cánh cửa, mời khách vào và hỏi bà muốn gì.
- Hoàng thân Xcorodumov phái tôi đến
thăm Xergei Alecxeievich, - nàng nói.
- Cậu ấy chưa dậy, - lão gác cổng
trả lời và chăm chú nhìn nàng. Anna không ngờ gian phòng chờ vẫn y nguyên của
căn nhà này, nơi nàng đã sống chín năm, lại tác động tới nàng đến thế. Từng kỉ
niệm vui sướng hoặc đau buồn lần lượt nổi dậy trong tâm hồn và trong giây lát,
nàng quên bẵng tại sao mình đến đây.
- Xin bà chờ cho một lát, Kapitonich
nói và cởi áo khoác cho nàng. Ngay lúc đó, lão nhận ra nàng và lẳng lặng không
nói gì, cúi rạp xuống chào.
- Xin mời bà lớn vào, - lão nói.
- Nàng muốn nói gì đó, nhưng nghẹn
lời không thốt ra được tiếng nào; sau khi liếc nhìn ông già với một vẻ phạm lỗi
và van lơn, nàng thoăn thoắt nhẹ nhàng bước lên thang gác. Kapitonich cúi gập
người, đôi ủng cao su vấp vào bậc thang, chạy theo sau, gắng đuổi kịp nàng.
- Ông giáo có lẽ vẫn chưa mặc quần
áo. Tôi xin đi báo trước.
Anna vẫn tiếp tục leo lên chiếc cầu
thang thân thuộc, không hiểu ông già bảo gì mình.
- Xin mời bà đi về phía này, bên
trái kia ạ. Xin bà tha lỗi cho nhà cửa bừa bộn. Cậu hiện nay ở phòng khách nhỏ
cũ, - lão gác cổng thở hổn hển nói. - Thưa bà lớn, xin bà chờ cho một lát, để
tôi đi ngó qua một cái, - lão vượt lên trước, mở chiếc cửa lớn và đi khuất.
Anna dừng bước và đứng chờ.
- Cậu vừa dậy xong, - lão gác cổng
lại hiện ra ở cửa và nói.
Ngay khi lão gác cổng nói câu đó,
Anna nghe thấy tiếng trẻ con ngáp. Nàng nhận ra tiếng con trai và hình dung rõ
ràng như nó đứng ngay trước mặt.
- Để tôi vào, để tôi vào, nào!
Nàng nói và bước vào phòng. Bên phải
cánh cửa, kê một chiếc giường và ngồi trên đó là một đứa trẻ mặc sơ mi không
cài khuy, cái thân hình bé nhỏ cúi về đằng trước, vừa vươn vai ngáp xong. Đôi
môi vừa mím lại thoáng mỉm cười ngái ngủ và nó lại uể oải, khoan khoái gieo
mình xuống gối.
- Xerioja! - nàng khẽ gọi, bước lại
gần êm như ru.
Suốt thời gian hai mẹ con xa nhau và
những ngày gần đây, khi lòng yêu thương con trào lên dào dạt, nàng vẫn hình
dung nó như hồi lên bốn, cái tuổi nàng yêu nó nhất. Giờ đây, nó không còn như
hồi nàng bỏ đi; nó lớn thêm và gầy đi. Trời! Sao mặt nó gầy thế! Sao tóc nó
ngắn thế! Sao hai cánh tay nó dài thế! Nhưng dù sao, vẫn là nó, hình dáng cái
đầu, đôi môi, cái cổ mảnh dẻ và đôi vai rộng của nó.
- Xerioja! nàng nhắc lại bên tai đứa
bé.
Nó chống khuỷu tay nhỏm dậy, quay
cái đầu rối bù sang trái như tìm ai và mở mắt. Trong một vài giây, nó nhìn mẹ
đứng trước mặt, vẻ dò hỏi, rồi mỉm cười ngây ngất, và lại khép đôi mi mắt dính
vào nhau, gieo mình vào cánh tay mẹ.
- Xerioja! Con trai bé bỏng yêu quý
của mẹ! - nàng hổn hển nói, ôm tấm thân bé nhỏ mũm mĩm.
- Mẹ ơi! - nó vừa gọi, vừa cựa quậy
trong tay mẹ để mọi bộ phận thân thể đều cảm thấy sức ghì vòng tay đó.
Vẫn mỉm cười và ngái ngủ, mắt nhắm
nghiền, nó buông thành giường và vòng hai cánh tay tròn trĩnh ôm lấy vai mẹ,
nép vào người mẹ, phả ra cái mùi thơm âm ấm, dìu dịu của trẻ con đang ngủ bao
bọc lấy nàng rồi dụi mặt vào vai và cổ nàng.
- Con biết ngay mà, - nó nói và mở
mắt ra. - Hôm nay là sinh nhật con. Con biết thể nào mẹ cũng đến. Con dậy ngay
bây giờ đây.
Và vừa nói xong, nó lại ngủ luôn.
Anna đắm đuối nhìn con; nàng thấy nó đã lớn và thay đổi rất nhiều trong thời
gian nàng vắng mặt. Nàng nửa nhận ra nửa bỡ ngỡ với đôi cẳng chân để trần giờ
đây dài ngoẵng; đôi má gầy gò, mái tóc cắt ngắn xoắn lại ở gáy, chỗ nàng hay
hôn trước đây. Nàng sờ nắn tất cả thân hình con và không nói nên lời: nàng
nghẹn ngào nước mắt.
- Tại sao mẹ lại khóc, mẹ? - nó tỉnh
hẳn và nói. - Mẹ ơi, sao mẹ lại khóc? - nó hỏi, giọng ảo não.
- Mẹ không khóc nữa đâu… mẹ khóc vì
vui sướng đấy thôi. Bao nhiêu lâu mẹ không được trông thấy con! Mẹ không khóc
nữa, không khóc nữa, - nàng nói, nuốt nước mắt và quay mặt đi.
- Bây giờ, đến lúc con mặc quần áo
rồi đấy, - nàng nói thêm khi trấn tĩnh lại sau một phút im lặng, và vẫn nắm tay
nó, nàng ngồi xuống chiếc ghế tựa xếp sẵn quần áo, kê cạnh giường.
- Vắng mẹ, con mặc lấy quần áo như
thế nào hả? Làm thế nào… - Nàng muốn chuyện trò vui vẻ, bình thường, nhưng
không được và một lần nữa, lại quay mặt đi.
- Bây giờ, con không tắm nước lạnh
nữa đâu, ba cấm con không được tắm thế. Mẹ chưa gặp Vaxili Lukich à? Thầy ấy
sắp đến đấy. Mẹ ngồi lên quần áo của con rồi!
Và Xerioja cười khanh khách. Nàng
nhìn nó mỉm cười.
- Mẹ ơi, mẹ yêu quý ơi! - nó kêu lên
và lại lăn vào trong tay mẹ.
Dường như mãi đến lúc này, nhìn thấy
mẹ cười, nó mới hiểu rõ sự việc xảy ra.
- Mẹ cất cái này đi, nó nói và bỏ mũ
nàng ra. Và như đã hoàn toàn nhận ra mẹ với cái đầu để trần, nó lại hôn nàng.
- Con đã nghĩ như thế nào về mẹ hả?
Con không tin là mẹ chết chứ?
- Không đời nào.
- Có thật không, con yêu quý của mẹ?
- Con biết lắm chứ, con biết lắm
chứ! - nó nói, nhắc lại câu nói ưa thích. Và cầm bàn tay đang vuốt ve tóc mình,
nó úp lòng bàn tay vào miệng và hôn khắp lên đó.
Chương
29
Trong khi đó, Vaxili Lukich thoạt
đầu không hiểu vị phu nhân đó là ai, nhưng rồi qua lời trò chuyện của gia nhân,
mới biết đó chính là người mẹ trẻ đã bỏ chồng, ông vào làm ở đây sau khi nàng
đi nên không biết, ông bối rối không biết nên vào phòng hay nên đi báo cho
Alecxei Alecxandrovich.
Sau khi suy nghĩ, ông quyết định cứ
triệt để thi hành đúng bổn phận là đến giờ quy định thì vào đánh thức Xergei dậy,
không cần biết người ngồi trong phòng đứa bé là mẹ nó hay người nào khác, và
ông mặc quần áo bước đến mở cửa phòng. Nhưng thấy hai mẹ con âu yếm vuốt ve
nhau, nghe giọng họ và những lời nói với nhau, ông bèn thay đổi ý định. Ông lắc
đầu và khép cửa lại. "Ta hãy chờ thêm mươi phút nữa", ông tự nhủ, vừa
đằng hắng vừa lau mắt.
Cùng lúc đó, đám gia nhân xôn xao cả
lên. Tất cả đều biết bà chủ đã đến, Kapitonich để bà vào nhà, và bà hiện đang ở
trong buồng Xergei; ông chủ bao giờ cũng đến đó hồi chín giờ và tất cả đều hiểu
phải tránh đừng để cho hai vợ chồng gặp nhau. Kornây, gã hầu phòng, chạy xuống
buồng canh cửa và khi biết chính Kapitonich đã tiếp đón và đưa Anna vào nhà,
hắn liền mắng ông lão tàn tệ. Lão gác cửa vẫn giữ vẻ lặng thinh ương bướng,
nhưng khi Kornây bảo lão thật đáng tống cổ đi, Kapitônnich bèn chồm lên và vung
hai tay trước mặt Kornây nói rằng:
- Thế còn mày, dễ mày không để bà ấy
vào chắc? Sau mười năm hầu hạ người ta, lĩnh lương cao bổng hậu bỏ túi, bây giờ
mày lại đi nói: "Xin bà ra cho tôi nhờ!". Mày là thằng mật thám chính
trị xảo quyệt, thế đấy! Nhưng mày vẫn không quên ăn cắp của ông lớn và đánh thó
cả áo khoác ngoài của ông ấy!
- Đồ tốt đen! - Kornây khinh bỉ nói
và quay lại phía bà vú đang đi vào. Maria Efimovna, bà cứ thử nghĩ xem. Lão ta
để bà ấy vào, chẳng bảo ai cả.
Alecxei Alecxandrovich sắp sửa bất
chợt đi sang phòng chú bé.
- Chao ôi! Cơ sự đến là rắc rối! -
bà vú nói. - Kornây Vaxilievich, anh hãy tìm cách nào giữ ông lớn lại, còn tôi,
trong lúc đó, tôi sẽ chạy lại dẫn bà ra. Chao ôi! Cơ sự rắc rối quá!
Khi bà vú bước vào buồng, Xerioja
đang kể cho mẹ nghe nó và Nađenca, hai đứa đã ngã khi trượt trên núi Nga 1
xuống và vấp lộn ba lần liền như thế nào. Anna nghe giọng con, nhìn khuôn mặt
và những sắc thái thay đổi, sờ nắn bàn tay nó, mà không hiểu nó nói gì. Nàng
phải đi, phải rời nó bây giờ. Nàng chỉ còn nghĩ đến điều đó. Nàng đã nghe thấy
tiếng chân Vaxili Lukich vừa ho vừa lại gần cửa ra vào, rồi tiếng chân bà vú
già, nhưng nàng vẫn ngồi lì ra đó, như đã hoá thành tượng đá, không đủ sức nói
năng hoặc đứng dậy nữa.
- Bà lớn thân yêu! - bà vú nói, bước
đến gần Anna và hôn vai, hôn tay nàng. - Đây là niềm vui Chúa gửi đến cho cậu
bé nhà ta. Bà vẫn thế, không thay đổi chút nào.
- Ồ! Vú già thân yêu, tôi không biết
vú vẫn ở đây, - Anna nói, sau một lát trấn tĩnh lại. - Tôi hiện không ở đây
nữa, tôi ở với con gái tôi, nhưng tôi đến để chúc mừng cậu Xerioja. Anna
Arcadievna, bà lớn hiền hậu của tôi!
Bà lão đột nhiên oà lên khóc và hôn
tay Anna. Xerioja tươi cười, cặp mắt long lanh, một tay nắm lấy mẹ, tay kia nắm
lấy vú già, đôi chân trần nhỏ bé giậm giậm lên thảm. Thái độ trìu mến của vú
già với mẹ làm chú vui thích.
- Mẹ ơi! Vú già vẫn đến thăm con
luôn và khi vú tới… - chú nói, nhưng dừng lại khi thấy bà vú ghé vào tai mẹ nói
thầm và thấy mặt mẹ tỏ ra sợ hãi cùng một vẻ gần như xấu hổ không hợp với mẹ
chút nào.
Nàng bước lại gần con.
- Con yêu quý của mẹ! - nàng nói.
Nàng không thể nói từ biệt được, nhưng nhìn vẻ mặt mẹ, nó hiểu thế.
- Con thân yêu của mẹ, Kutich bé
bỏng thân yêu của mẹ! nàng nói, gọi nó bằng cái tên hồi nhỏ, - con sẽ không
quên mẹ chứ? Con… - nàng không nói nổi hết câu.
Về sau, nàng nghĩ ra biết bao lời
đáng lẽ có thể nói với nó! Nhưng lúc này, nàng không thể thốt ra được tiếng
nào. Nhưng Xerioja hiểu tất cả những điều mẹ muốn nói. Nó hiểu mẹ đau khổ và mẹ
yêu nó. Nó hiểu tất cả những điều vú già đã nói thầm. Nó nghe thấy: "Bao
giờ cũng vào hồi chín giờ", nó đoán là nói ba nó, và ba mẹ nó không nên
giáp mặt nhau. Có một điều nó không hiểu nổi. Đó là vẻ sợ hãi và xấu hổ nó thấy
hiện trên nét mặt mẹ, mẹ không có tội, tuy nhiên mẹ vẫn sợ ba, mẹ xấu hổ. Nó
muốn hỏi mẹ một câu có thể xua tan mọi nghi ngờ, nhưng không dám. Nó thấy mẹ
đang đau khổ và nó thương mẹ. Nó im lặng ghì chặt lấy mẹ rồi khẽ nói:
- Mẹ đừng đi vội! Ba chưa đến ngay
đâu.
Mẹ kéo nó nhích ra xem nó có nghĩ
đúng như nó nói không, và thấy vẻ mặt nó hoảng sợ, nàng biết không những nó
nhắc đến bố mà hình như còn muốn hỏi nàng xem nó nên nghĩ thế nào về bố.
- Xerioja, con của mẹ, con hãy yêu
ba, ba tốt hơn mẹ và mẹ có tội với ba. Lớn lên, con sẽ nhận xét lấy.
- Không ai tốt hơn mẹ được, - đứa
trẻ tuyệt vọng kêu lên qua hàng nước mắt và nó nắm lấy vai mẹ, ráng hết sức ghì
chặt vào người đến nỗi đôi cánh tay run lên.
- Con bé bỏng xinh đẹp của mẹ! -
Anna nói và oà lên khóc như nó, như một đứa con nít.
Trong lúc đó, cánh cửa mở ra, Vaxili
Lukich bước vào. Có tiếng chân ở gần cánh cửa đằng kia. Bà vú nuôi thì thầm, vẻ
sợ hãi: "Ông đến đấy", và đưa mũ cho Anna.
Xerioja nằm lăn ra giường khóc nức
nở, hai tay ôm lấy mặt. Anna gỡ tay nó ra để hôn lần nữa lên đôi má đẫm nước
mắt và thoăn thoắt bước ra cửa. Alecxei đang đi tới. Thoáng thấy nàng ông dừng
lại và cúi đầu chào.
Mặc dầu vừa nói là ông tốt hơn nàng,
nhưng khi đảo mắt nhìn khắp người ông ta, đến tận những nét nhỏ nhất, lòng nàng
bỗng tràn đầy một cảm giác ghê tởm, căm thù và ghen tức vì con trai. Nàng vội
kéo mạng che mặt xuống và rảo bước gần như chạy ra khỏi phòng.
Trong lúc hấp tấp, nàng đã để quên
trong xe những đồ chơi mà hôm qua nàng chọn với biết bao thương yêu, sầu tủi!
Nàng đành mang về khách sạn.
--------------------------------
1 Một trò chơi phổ biến thường thấy
ở các công viên Nga.
Chương
30
Mặc dù khao khát sôi nổi và từ lâu
chờ đón cuộc gặp gỡ đó. Anna vẫn không ngờ nó lại gây cho nàng những xúc động
mãnh liệt như vậy. Về tới căn buồng cô độc của mình, trong một lát, nàng vẫn
chưa hiểu nổi tại sao mình ở đây? "Phải, thế là hết và ta lại chỉ còn một
mình ở đây", nàng thầm nhủ, và không bỏ mũ, ngồi xuống ghế bành gần lò
sưởi. Đôi mắt đăm đăm nhìn chiếc đồng hồ bằng đồng đặt trên chiếc bàn kê giữa
hai cửa sổ, nàng suy nghĩ.
Cô hầu phòng người Pháp đưa từ nước
ngoài về bước vào và hỏi nàng có thay quần áo không. Anna ngỡ ngàng nhìn cô ta
và nói:
- Lát nữa.
Một gã bồi khách sạn đến mời nàng đi
ăn sáng, nàng nhắc lại.
- Lát nữa.
Chị vú nuôi người Ý bế đứa con gái
nhỏ vừa mặc quần áo xong vào cho nàng. Cũng như mọi khi, trông thấy mẹ, đứa bé
hé cái miệng chưa mọc răng mỉm cười, úp sấp hai bàn tay xinh xắn và bắt đầu vẫy
vẫy như con cá quẫy vây, vỗ vào những nếp hồ cứng trên chiếc váy thêu. Không
thể không mỉm cười, không thể không hôn con gái, không thể không chìa ngón tay
cho nó níu lấy, vừa la hét vừa nhảy cỡn lên, không thể không chìa môi để cái
miệng nó đớp lấy như hôn vậy. Anna làm mọi cái đó: nàng bế con trong tay cho nó
nhún nhảy, hôn đôi má tươi mát và cánh tay trần nhỏ bé; nhưng vừa nhìn thấy đứa
con này, nàng càng thấy rõ tình cảm đối với nó không thể so với lòng nàng yêu
thương Xerioja. Con bé xinh đẹp mọi vẻ, nhưng tất cả cái đó không hề làm lòng
nàng rung động. Nàng đã trút tất cả sức mạnh của mối tình chưa thoả vào đứa con
đầu lòng, dù không yêu bố nó; còn đứa con gái đã sinh ra trong hoàn cảnh đau
buồn nhất, lại không được hưởng tới một phần trăm sự nâng niu săn sóc dành cho
đứa đầu lòng. Vả lại con bé mới chỉ là niềm hi vọng, trong khi Xerioja đã gần
thành người lớn rồi; ở nó, tư tưởng và tình cảm đã có xung đột, nó hiểu nàng,
yêu nàng, nhận xét nàng, nàng thầm nghĩ khi nhớ tới lời nói và cái nhìn của nó.
Thế mà phải vĩnh viễn xa nó, không những về thể xác mà cả về tinh thần, và
không có cách nào cứu vãn cả!
Nàng trao trả con gái cho vú nuôi,
bảo chị ta đi ra và mở chiếc huy hiệu hình trái tim, trong có chân dung Xerioja
hồi bằng đứa con gái hiện nay. Nàng đứng dậy và bỏ mũ, cầm quyển an bum đặt
trên bàn tròn, trong đó có dán ảnh con trai ở các thời kì khác nhau. Nàng muốn
so sánh những ảnh đó, và lấy tất cả ảnh ra khỏi an bum. Chỉ còn lại một cái, đó
là cái đẹp nhất: nó đang cưỡi lên ghế tựa, mặc áo choàng, lông mày nhíu lại và
miệng tươi cười. Đây là vẻ mặt có cá tính nhất của nó. Bằng đôi bàn tay nhỏ
nhắn và mềm mại với những ngón lóng ngóng, đặc biệt co quắp lại lúc này, nàng
định nạy những góc bức chân dung ra; nhưng ảnh bị rách và không bóc ra được.
Không sẵn dao rọc giấy trong tay, nàng bèn cầm bức ảnh bên cạnh, (đó là bức
chân dung Vronxki đội mũ vành mềm, tóc để dài chụp ở Rôm) và dùng để gỡ ảnh con
trai ra. "À! Đây!", nàng nói, nhìn ảnh Vronxki và đột nhiên nhớ tới
người đã gây ra mọi đau khổ cho mình. Suốt buổi sáng nay, không lần nào nàng
nhớ tới chàng. Nhưng nhìn thấy bộ mặt thân yêu, quý phái, anh tuấn, xiết bao
quen thuộc, nàng bỗng cảm thấy dào dạt yêu thương chàng.
"Chàng đang ở đâu nhỉ? Tại sao
chàng lại bỏ ta một mình với nỗi đau khổ thế này?", nàng bỗng thầm nghĩ
với ý trách móc, quên bẵng là chính nàng đã giấu chàng mọi cái dính dáng đến
con trai. Nàng sai người mời chàng lên ngay; rồi ngồi chờ chàng, lòng thổn
thức, tưởng tượng tới những lời mình sẽ nói để thổ lộ mọi nỗi niềm cùng những
lời âu yếm chàng dùng để an ủi nàng. Người hầu trở lại báo là chàng đang tiếp
khách, và hỏi nàng có thể tiếp chàng cùng hoàng thân Yasvin vừa mới đến
Petersburg không? "Chàng không tới một mình; từ bữa ăn chiều qua đến giờ
chàng chưa gặp mình; và mình sẽ không thể nói hết với chàng, vì có cả Yasvin
nữa". Đột nhiên nàng nảy ra một ý nghĩ kì lạ: "Nhỡ chàng không yêu
mình nữa?".
Nghĩ lại những việc trong mấy ngày
gần đây, nàng có cảm tưởng tất cả đều chứng thực cho cái giả định kì quái đó:
hôm qua, chàng không ăn ở nhà, chàng đã khăng khăng đòi thuê hai buồng riêng ở
Petersburg, và bây giờ chàng lên buồng nàng lại có người đi cùng như sợ phải
đối diện tay đôi.
"Nhưng chàng phải nói cho mình
hay chứ! Mình phải được biết điều đó. Nếu quả thực thế, mình sẽ biết phải làm
nốt những gì, nàng thầm nhủ, không dám hình dung tới hoàn cảnh sẽ lâm vào khi
biết chắc chàng đã nhạt tình. Đinh ninh là chàng không yêu mình nữa, nàng gần
như tuyệt vọng và xao xuyến lạ lùng. Nàng giật chuông gọi cô hầu phòng và sang
phòng thay quần áo. Nàng mặc hết sức chải chuốt, tưởng như Vronxki dù lạnh nhạt
với nàng cũng sẽ trở lại say mê khi trông thấy chiếc áo dài và mái tóc đặc biệt
hợp với nàng.
Nàng chưa chuẩn bị xong thì chuông
đã réo. Khi bước vào phòng khách, thoạt tiên nàng bắt gặp cái nhìn của Yasvin
chứ không phải của Vronxki. Vronxki đang xem những tấm ảnh con trai nàng để
quên trên bàn và chưa vội ngước mắt nhìn nàng.
- Chúng ta đã quen biết nhau, - nàng
nói và đặt bàn tay bé nhỏ vào bàn tay to lớn của Yasvin đang rất lúng túng
(dáng điệu này trái ngược kì lạ với vóc người đồ sộ và khuôn mặt hơi thô của
chàng). Năm ngoái chúng ta đã gặp nhau tại trường đua. Lại đây anh, - nàng nói
và nhanh nhẹn giằng lấy những ảnh Vronxki đang xem, đôi mắt long lanh nhìn
chàng đầy ý nghĩa. - Những cuộc đua năm nay có thành công không? Còn tôi, tôi
đã được xem những cuộc đua ở Rom, ở Coocx. Nhưng hình như ông không ưa sống ở
nước ngoài thì phải, - nàng nói với một nụ cười thân mật. - Tôi biết ông và
biết cả mọi sở thích của ông, mặc dù chúng ta ít gặp nhau.
- Rất tiếc là phần lớn thị hiếu của tôi
đều quê kệch, - Yasvin nói và nhấm nhấm hàng ria mép trái.
Trò chuyện một lúc, thấy Vronxki xem
đồng hồ, Yasvin hỏi Anna có định ở lại Petersburg lâu không, và vươn cái thân
hình đồ sộ đứng dậy, chàng cầm lấy mũ lưỡi trai.
- Tôi chắc cũng không ở lại đây lâu,
nàng nói và nhìn Vronxki bằng con mắt ngơ ngác.
- Nếu thế chúng ta sẽ không gặp nhau
nữa? - Yasvin quay lại hỏi Vronxki - Anh ăn ở đâu?
- Mời ông lại ăn với chúng tôi, -
Anna nói, giọng quả quyết. Nàng hình như bực mình vì đã tỏ ra lúng túng, đồng thời
lại đỏ mặt xấu hổ như mỗi lần để lộ hoàn cảnh mình trước người thứ ba. - Ăn ở
đây không khá lắm đâu, nhưng ít nhất các ông cũng được gặp nhau. Trong tất cả
các bạn ở trung đoàn, ông là người Alecxei mến nhất.
- Rất hân hạnh, - Yasvin nói với một
nụ cười tỏ cho Vronxki biết chàng rất hài lòng về Anna. Yasvin cúi chào và đi
ra, Vronxki nán lại sau.
- Anh cũng đi chứ? - nàng hỏi.
- Anh bị muộn giờ rồi đấy! - chàng
trả lời.
- Cứ xuống đi, tôi sẽ ra ngay bây
giờ! chàng nói to với Yasvin.
Nàng cầm tay chàng và vẫn ngước mắt
đăm đăm nhìn chàng. Nàng đang tìm cách nói thế nào để giữ chàng lại.
- Khoan đã, em có việc này muốn nói
với anh, - và nàng cầm bàn tay ngắn của Vronxki áp lên má mình.
- Em mời ông ta đến ăn như thế có
được không?
- Em làm như thế là phải lắm! -
chàng nói với một nụ cười bình thản, để lộ hàm răng đều đặn và hôn tay nàng.
- Alecxei, anh không thay đổi gì đối
với em chứ? - nàng nói, dùng cả hai tay bóp chặt tay chàng. - Alecxei, ở đây em
không chịu nổi nữa rồi. Bao giờ chúng mình đi?
- Sắp thôi, sắp thôi. Em không thể
hình dung cuộc sống của chúng ta ở đây cũng làm anh khó chịu đến mức nào, -
chàng nói và chìa tay cho nàng.
- Thôi được, anh đi đi! - nàng nói
giọng giận dỗi và vội vã bỏ đi.
Chương
31
Khi Vronxki trở về, vẫn chưa thấy Anna
ở nhà. Nghe nói có một phu nhân đến gặp nàng sau khi chàng đi được một lát, và
cả hai cùng ra phố. Cách vắng mặt mà không nhắn lại là đi đâu (chưa bao giờ
nàng làm như vậy), vẻ mặt xao xuyến, kì lạ của nàng sáng nay, giọng nói hằn học
khi nàng gần như giật khỏi tay chàng những tấm hình con trai ngay trước mặt
Yasvin, tất cả cái đó cộng lại khiến chàng phải suy nghĩ. Chàng định tâm yêu
cầu nàng giải thích việc đó. Và chàng đợi ở buồng nàng. Nhưng Anna không trở về
một mình, nàng dẫn về một bà cô, một bà già không chồng, quận chúa Oblonxcaia.
Đó là cái bà đến đây hồi sáng và đã cùng Anna đi sắm sửa đồ dùng. Anna vờ như
không thấy vẻ mặt lo lắng và dò hỏi của Vronxki mà vui vẻ liệt kê cho chàng
nghe những thứ mua được. Chàng thấy nàng đã thay đổi: một vẻ chăm chú tập trung
hiện trong đôi mắt long lanh khi dừng lại nhìn chàng giây lát, và lời nói cùng
cử chỉ đều bộc lộ cái vẻ hoạt bát sôi nổi và cái duyên dáng mà xưa kia trong
thời gian đầu gắn bó, đã làm chàng say mê, nhưng bây giờ lai làm chàng lo lắng
và sợ hãi.
Bữa ăn được bày cho bốn người. Mọi
người sắp sang phòng ăn nhỏ thì Tuskievich đến, do Betxy nhờ lại báo cho Anna
một việc. Bà ta xin lỗi không đến từ biệt nàng được vì bị mệt. Nhưng bà mời
Anna đến chơi nhà từ sáu rưỡi đến chín giờ.
Vronxki liếc nhìn Anna ý muốn bảo
cho nàng hiểu giờ đó được lựa chọn để nàng không phải gặp ai cả, nhưng Anna lờ
đi làm như không thấy.
- Tôi rất tiếc lại mắc bận vào đúng
từ sáu rưỡi đến chín giờ, - nàng khẽ mỉm cười nói.
- Nếu vậy quận chúa sẽ rất lấy làm
tiếc.
- Cả tôi cũng vậy.
- Chắc bà đi nghe cô đào Patti hát?
- Tuskievich hỏi.
- Đào Patti à?… Ông gợi cho tôi một
ý hay đấy. Nếu kiếm được một khoang ghế "lô" thì tôi sẽ đi.
- Tôi có thể kiếm được cho bà, -
Tuskievich nói.
- Tôi xin cảm tạ, rất cảm tạ ông, -
Anna nói. - Nhưng mời ông ở lại ăn với chúng tôi nhé?
Vronxki khẽ nhún vai. Chàng quả tình
không hiểu những việc Anna làm. Tại sao nàng lại dẫn cái bà quận chúa già này
về, tại sao nàng lại giữ Tuskievich ở lại ăn, và nhất là tại sao nàng lại nhờ
ông ta đi lấy vé xem hát? Với hoàn cảnh hiện tại làm sao nàng có thể đến Ca
kịch viện vào một ngày toàn khán giả thuê bao 1 từ trước, một ngày mà những
người nàng quen đều có mặt? Chàng nghiêm nghị nhìn nàng, nhưng nàng đáp lại
bằng một cái nhìn khiêu khích, nửa giễu cợt nửa tuyệt vọng mà chàng không hiểu
nổi.
Trong bữa ăn, Anna vui vẻ quá đáng.
Nàng như làm đỏm với Tuskievich và Yasvin. Ăn xong, Tuskievich liền đi lấy vé
và Yasvin xuống nhà hút thuốc với Vronxki. Được một lát, Vronxki lại lên gác.
Anna đã mặc chiếc áo lụa dài màu tươi viền nhung, hở cổ rất rộng, may ở Pari;
hàng ren trắng quý giá ôm lấy khuôn mặt và đặc biệt làm tôn vẻ đẹp lộng lẫy.
- Em đi xem hát thực đấy à? - chàng
nói và cố không nhìn nàng.
- Tại sao anh lại hỏi tôi với cái vẻ
khiếp hãi như vậy? - nàng nói, giận dỗi thấy chàng tránh nhìn mình.
- Tại sao tôi lại không đi xem được
kia chứ? Nàng làm như không hiểu ý chàng muốn nói.
- Tất nhiên là chẳng tại sao cả! -
chàng cau mày nói.
- Thì chính tôi cũng muốn nói vậy, -
nàng nói, vờ như không thấy giọng nhạo báng trong câu chàng trả lời và ung dung
xỏ chiếc găng tay dài xức nước hoa.
- Anna, lạy Chúa tôi, em làm sao
thế? - chàng nói, muốn thức tỉnh nàng, y như xưa kia chồng nàng đã từng làm
thế.
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì.
- Em cũng biết em không thể đến đó
được.
- Tại sao? Tôi không đi một mình.
Quận chúa cùng đi với tôi. Chàng nhún vai thất vọng:
- Thế em không hiểu là… - chàng nói.
- Mà tôi không muốn hiểu gì cả! -
nàng nói gần như thét lên. Tôi không muốn. Thử hỏi tôi có hối hận vì những việc
tôi làm không? Không, không và không! Nếu cần làm lại thì tôi sẽ làm lại như
cũ. Đối với chúng ta, đối với tôi và đối với anh, chỉ có một chuyện duy nhất
quan trọng thôi: là chúng ta yêu nhau. Những cái khác đều không đáng đếm xỉa
tới. Tại sao ở đây chúng ta lại sống cách biệt nhau, không gặp mặt nhau? Tại
sao tôi không thể đến đó được! Em yêu anh và em bất chấp tất cả, miễn là anh
không thay lòng đổi dạ, - nàng nói bằng tiếng Nga và nhìn chàng với một ánh mắt
kì dị mà chàng không hiểu nổi. Tại sao anh lại không nhìn em?
Chàng ngước mắt nhìn nàng. Chàng
thấy tất cả vẻ đẹp của khuôn mặt và bộ đồ trang sức vẫn rất thích hợp với nàng,
nhưng giờ đây chính vẻ đẹp và thanh lịch đó lại khiến chàng tức giận.
- Tôi không hề thay đổi lòng dạ, em
cũng biết đấy, nhưng tôi xin em, tôi van em đừng đi, - chàng nói tiếp bằng
tiếng Pháp, giọng tuy dịu dàng nhưng cái nhìn vẫn lạnh lùng. Nàng không nghe
thấy chàng nói gì, chỉ nhìn thấy vẻ lạnh lùng trong khoé mắt, và nàng trả lời,
giọng tức tối:
- Còn tôi, tôi xin anh cắt nghĩa cho
tôi hiểu tại sao tôi không nên đi?
- Vì cái đó có thể gây cho em những…
chàng ngập ngừng nói.
- Tôi không hiểu. Yasvin không thể
làm ai mang tiếng 2 và quận chúa Vacvara thì cũng không thua kém ai cả. Bà ấy
kia rồi.
--------------------------------
1 Hồi đó các gia đình quý phái
thường đặt thuê bao từng khoang buồng riêng ở các nhà hát cho suốt mùa kịch.
2 N' est pas compromettant (tiếng
Pháp trong nguyên bản).
Chương
32
Lần đầu tiên, Vronxki thấy một cảm
giác oán giận gần như hằn học đối với Anna, vì nàng cố ý không chịu hiểu hoàn
cảnh mình. Cảm giác đó càng tăng thêm vì chàng không thể giải thích nguyên nhân
nỗi bực tức của mình cho nàng hiểu. Nếu có thể nói thẳng tuột những điều suy
nghĩ thì chàng sẽ nói thế này: "Mặc bộ cánh ấy đến rạp hát cùng với một
người tiếng tăm bất hảo như quận chúa, không những em thừa nhận mình là người
hư hỏng mà còn khiêu khích cả xã hội thượng lưu, tức là vĩnh viễn tự tách mình
khỏi xã hội đó".
Chàng không thể nói điều đó ra với nàng.
"Nhưng tại sao nàng không hiểu nổi điều đó và có gì đang xảy ra trong lòng
nàng vậy?…, chàng tự hỏi. Chàng cảm thấy mình đánh giá nàng thấp đi, đồng thời
càng nhận ra nàng đẹp biết bao.
Chàng đăm chiêu lo lắng quay về
phòng, ngồi xuống cạnh Yasvin đang uống rượu cô nhắc pha nước suối, hai chân
duỗi thẳng lên ghế tựa và chàng cũng pha cho mình một cốc như vậy.
- Thế cậu bảo là con Dũng Mãnh của
Lancovxki à? Con ngựa ấy tốt và mình khuyên cậu nên mua, - Yasvin nói, sau khi
nhìn vẻ mặt u ám của bạn. Cái mông nó thon, nhưng chân và đầu thì… không thể
ước ao có con nào tốt hơn nữa.
- Có lẽ mình sẽ mua con đó, -
Vronxki trả lời.
Câu chuyện về ngựa làm chàng thích
thú, nhưng chàng không phút nào lãng quên Anna. Bất giác, chàng lắng tai nghe
ngóng tiếng chân ngoài hành lang và thỉnh thoảng lại nhìn lên đồng hồ treo trên
lò sưởi.
- Anna Arcadievna cho đến thưa với
ông là bà đã đi đến rạp hát, - một gã đầy tớ vào báo.
Yasvin rót thêm một li nhỏ cô nhắc
vào cốc nước suối, uống cạn và đứng dậy cài khuy áo ngoài.
- Thế nào, ta đi chứ? - chàng nói,
hơi nhếch mép mỉm cười dưới hàng ria, bằng nụ cười đó, tỏ ra mình đã hiểu rõ
nguyên nhân bực tức của Vronxki, nhưng không coi là quan trọng.
- Mình không đi đâu! - Vronxki rầu
rầu trả lời.
- Còn mình, mình trót hẹn rồi, đành
phải đi thôi. Tạm biệt. Nếu cậu thay đổi ý kiến thì cứ đến chỗ dàn nhạc, ngồi
vào ghế của Kraxinxki, - Yasvin nói thêm và đi ra.
- Không, mình bận.
"Có vợ đã là phiền, nhưng với
tình nhân lại càng khổ hơn", Yasvin thầm nghĩ khi ra khỏi khách sạn. Còn
lại một mình, Vronxki đứng dậy và đi bách bộ quanh phòng.
"Hôm nay chương trình gì nhỉ?
Tối diễn thứ tư cho khán giả thuê bao. Anh mình sẽ có mặt ở đó với bà vợ, có lẽ
cả mẹ mình nữa. Nghĩa là tất cả Petersburg! Bây giờ, nàng đã vào đến nơi, đã
cởi áo lông, thế là ngồi phơi mặt ra trước mọi con mắt. Tuskievich, Yasvin,
quận chúa Vacvara… chàng thầm nghĩ, thử hình dung cảnh tượng đó. Thế còn mình
thì sao? Mình sợ hay là mình đã trao cho Tuskievich quyền che chở nàng? Việc
này, dù muốn nhìn nhận dưới góc độ nào, cũng thật là phi lí, phi lí… Và tại sao
nàng lại dồn mình vào cái thế như vậy?", chàng nói và vung tay giận dữ. Cử
chỉ này khiến chàng chạm phải cái bàn tròn có đặt cốc nước suối cùng chai rượu
cô nhắc và suýt nữa xô đổ. Chàng định giữ cái bàn lại, nhưng lại hất nó đổ nhào
và chàng cáu kỉnh đá một cái vào bàn, rồi giật chuông.
- Nếu anh còn muốn làm với tôi, -
chàng nói với gã hầu phòng đang bước vào, - thì đừng có làm ăn chểnh mảng thế.
Từ này đừng để xảy ra thế nữa. Cất cái này đi.
Gã hầu phòng thấy bị mắng oan, toan
cãi lại, nhưng nhìn mặt chủ, hắn hiểu im đi là tốt hơn; hắn vội xin lỗi và quỳ
xuống thảm nhặt những mảnh chai cốc vỡ.
- Đấy không phải công việc của anh,
đi gọi bồi lại và chuẩn bị quần áo cho tôi.
Vronxki bước vào rạp hát lúc tám giờ
rưỡi. Vở kịch đã đến đoạn cao trào. Lão già đưa chỗ 1 cởi áo choàng lông cho
Vronxki và khi nhận ra chàng, liền bẩm "Quan lớn"; rồi lão nói là
chàng không cần số ghế mà chỉ việc gọi Fedor là được. Trong hành lang sáng đèn,
không có ai, ngoài lão xếp chỗ 2 và hai tên hầu trông áo khoác đứng nghe hóng
cạnh cửa ra vào. Từ cánh cửa hé mở, vẳng ra tiếng dàn nhạc đệm theo tiết tấu
staccato êm nhẹ và một giọng nữ hát uyển chuyển rành rọt một câu nhạc. Cửa mở
ra một lát để một gã xếp chỗ đi vào và câu nhạc sắp kết thúc, đập rõ vào tai
Vronxki. Cửa lập tức đóng lại: Vronxki không nghe thấy đoạn cuối câu nhạc,
nhưng nghe tiếng vỗ tay, chàng biết khúc ca đã hết. Khi chàng bước vào rạp sáng
trưng những chùm đèn treo và đèn đất bằng đồng đen, tiếng vỗ tay vẫn kéo dài.
Trên sân khấu, cô đào hát, mặc áo hở ngực và đeo đầy kim cương, mỉm cười cúi
chào; và với sự giúp đỡ của ca sĩ giọng nam cao đang cầm tay mình, cô nhặt
những bó hoa vụng về tung lên qua hàng biên sân khấu. Cô bước đến gần một vị
tóc chải bóng mượt và bôi sáp rẽ ngôi giữa, đang giơ hai cánh tay dài ngoẵng
qua hàng biên sân khấu để đưa cô một tặng vật, trong khi toàn thể công chúng
ngồi hàng nghế giữa và ghế "lô" náo động, nhô mình ra trước, hò reo
và vỗ tay. Nhạc trưởng đứng trước giá nhạc chuyển giúp tặng phẩm lên và sửa lại
cà vạt.
Vronxki tiến tới giữa hàng ghế gần
dàn nhạc và dừng lại, nhìn quanh. Hơn bao giờ hết, hôm nay chàng càng ít chú ý
tới khung cảnh quen thuộc, sân khấu, tiếng động, tất cả lũ khán giả quần áo sặc
sỡ và tẻ ngắt ngồi chật ních trong rạp.
Vẫn những phu nhân ấy trong hàng ghế
"lô" với vẫn những sĩ quan ấy ngồi sau; vẫn những phụ nữ quần áo sặc
sỡ, vẫn những bộ triều phục, những áo đuôi tôm ấy, vẫn đám quần chúng bẩn thỉu
ngồi trên tít dãy ghế chuồng gà ấy, và trong tất cả đám người ngồi ở dãy ghế
"lô" và dãy ghế đầu, chỉ có khoảng bốn chục nhân vật thượng lưu thực
sự. Vronxki chú ý ngay tới những ốc đảo đó và tiến lại gần.
Khi chàng bước vào thì màn vừa hạ,
do đó chàng không vào dãy ghế "lô" của ông anh mà đi lên dãy ghế đầu
và dừng lại trước hàng biên sân khấu cạnh Xerpukhovxkoi, ông này co gối, lấy
gót giầy gõ vào hàng biên sân khấu, từ xa ông đã trông thấy và mỉm cười gọi
chàng.
Vronxki vẫn chưa trông thấy Anna;
chàng tránh không nhìn về phía nàng. Nhưng theo hướng những cặp mắt, chàng biết
nàng ngồi đâu rồi. Chàng kín đáo liếc nhìn chung quanh nhưng không phải để tìm
nàng, lo ngay ngáy điều tệ hại nhất có thể xảy ra, chàng đưa mắt tìm Alecxei
Alecxandrovich. Vừa may, tối nay, ông ta không có mặt ở rạp hát.
- Trông anh chẳng còn có vẻ gì là sĩ
quan nữa! Xerpukhovxkoi nói. - Một nhà ngoại giao, một nghệ sĩ thì đúng hơn.
- Phải, về đến nhà là tôi mặc thường
phục ngay, - Vronxki mỉm cười trả lời và thong thả rút ống nhòm ra.
- Về mặt đó, thú thực là tôi thèm
Được như anh đấy. Khi ở nước ngoài về và mặc cái này vào, - ông nói và sờ lên
cầu vai ra hiệu, - tôi thấy luyến tiếc tự do.
Xerpukhovxcoi đã từ lâu không giục
Vronxki đi vào con đường sự nghiệp nữa, nhưng vẫn quý chàng như xưa và lúc này
càng tỏ ra đặc biệt hoà nhã.
- Đáng tiếc anh đến chậm quá không
được xem màn thứ nhất.
Vronxki chỉ lơ đãng nghe có một bên
tai, chàng lia ống nhòm từ khoang ghế dưới nhà lên dãy bao lơn tầng thượng và
ngó một lượt khắp hàng ghế "lô". Bên cạnh một phu nhân chít khăn và
ông già thấp bé hói trán, đang hấp háy mắt, vẻ giận dữ sau chiếc ống nhòm,
chàng bỗng trông thấy đầu Anna, kiêu hãnh, tươi cười và đẹp mê hồn giữa đường
ren cuốn quanh. Nàng ngồi trong khoang thứ năm, cách chàng khoảng hai mươi
bước. Nàng ngồi hàng ghế "lô" trước, hơi quay người lại và nói chuyện
với Yasvin. Cái ngấn cổ, đôi vai rộng xinh đẹp, cái ánh rạng rỡ vừa phấn khởi
vừa dè dặt của khoé mắt và tất cả khuôn mặt làm chàng thấy nàng giống hệt khi ở
cuộc khiêu vũ trước kia tại Moskva. Nhưng bây giờ chàng cảm thụ sắc đẹp nàng
hoàn toàn khác hẳn. Giờ đây mối tình chàng dành cho nàng không còn có gì bí ẩn,
cho nên sắc đẹp nàng vừa quyến rũ mãnh liệt hơn xưa, lại gần như xúc phạm tới
chàng. Nàng không nhìn về phía chàng, nhưng Vronxki có cảm giác là nàng đã thấy
mình rồi.
Khi Vronxki xoay ống nhòm nhìn về
phía đó lần nữa, chàng thấy quận chúa Varvara mặt đỏ tía tai, đang cười gượng
và luôn quay nhìn sang dãy ghế "lô" bên cạnh; Anna cầm quạt gấp lại
gõ vào thành ghế "lô" bọc nhung và nhìn đăm đăm vào một điểm, với
dụng ý rõ ràng không thèm để ý tới những việc xảy ra bên cạnh. Còn Yasvin, anh
ta vẫn có vẻ mặt như thua bạc. Anh cau mày, ấn sâu mãi ria mép trái vào mồm và
liếc nhìn sang hàng ghế "lô" bên cạnh.
Trong dãy ghế "lô" phía
bên trái nàng là vợ chồng Kartaxov, Vronxki quen họ và biết Anna cũng có giao
thiệp với họ. Kartaxova, một bà bé nhỏ gầy gò, đứng trong hàng ghế
"lô", nhưng quay lại Anna và đang xỏ tay vào chiếc áo khoác thường
mặc sau khiêu vũ do chồng đưa cho. Khuôn mặt bà ta tái xanh, giận dữ và bà vùng
vằng nói. Kartaxov, một ông to béo hói trán, luôn đưa mắt về phía Anna, cố dỗ
dành vợ. Khi bà ta đã đi ra, ông chồng còn nán lại hồi lâu để tìm gặp cái nhìn
của Anna, rõ ràng muốn chào nàng. Nhưng rõ ràng Anna làm ngơ không muốn biết
tới việc đó, quay mặt đi và nói chuyện với Yasvin đang cúi cái đầu húi ngắn
xuống phía nàng. Kartaxov đi ra không chào được nàng và khoang ghế
"lô" bỏ trống.
Vronxki không biết đích xác chuyện
gì xảy ra giữa vợ chồng Kartaxov và Anna, nhưng đoán là nàng vừa bị làm nhục.
Chàng biết vậy qua những điều trông thấy và nhất là qua vẻ mặt Anna mà chàng
thấy đang tập trung tất cả sức lực cuối cùng để đảm đương vai trò của mình đến
phút chót. Nàng vẫn giữ thái độ ngang nhiên lãnh đạm. Những ai không quen biết
nàng, không nghe thấy tất cả những lời thương cảm, bất bình và kinh ngạc của
bạn bè cũ của nàng trước cái gan dám lộ diện ở chốn thượng lưu xã hội một cách
ngang nhiên với tấm khăn quàng viền ren và hào quang sắc đẹp của mình, những kẻ
đó hẳn phải khâm phục sự bình tĩnh và vẻ duyên dáng của người đàn bà đó và không
thể ngờ là nàng đang chịu đựng những cảm giác của người bị bêu trên giá nhục
hình.
Biết có việc chẳng lành xảy ra nhưng
không hiểu đích xác việc gì, Vronxki cảm thấy lo sợ vô cùng, và với hi vọng
biết rõ thêm, chàng đến khoang ghế "lô" của ông anh. Sau khi chủ tâm
đi ngang qua hàng ghế gần dàn nhạc đối diện với khoang ghế "lô" của
Anna, lúc ra đến cửa, chàng chạm trán với đại tá cũ của mình đang trò chuyện
với hai người khác, Vronxki nghe thấy nhắc đến Karenin và thấy đại tá vừa vội
vàng lớn tiếng gọi chàng, vừa liếc nhìn những người tiếp chuyện với một vẻ bao
hàm đầy ý nghĩa.
- A! Vronxki! Bao giờ thì anh tới
trung đoàn? Chúng tôi chưa chiêu đãi tiễn biệt thì chưa để anh đi đâu. Bây giờ
anh là khách của chúng tôi rồi đấy, - đại tá nói.
- Rất tiếc tôi không có thời giờ,
xin để đến lần khác, - Vronxki nói và chạy lên cầu thang dẫn tới khoang ghế
"lô" của ông anh.
Bà bá tước già, mẹ Vronxki, với
những búp tóc xoăn màu thép, đang ngồi trong khoang ghế "lô". Varya
và tiểu thư Xorokina ở trong hành lang đi lại gặp chàng.
Sau khi dẫn tiểu thư Xorokina đến
với mẹ chàng, Varia liền bắt tay em chồng và nói ngay về việc chàng đang quan
tâm. Không mấy khi chàng thấy bà ta bị khích động thế.
- Tôi cho thế là hèn và đê tiện.
Kartaxova không có quyền làm như vậy, Karenina… - bà nói…
- Nhưng có chuyện gì thế? Tôi không
biết gì cả.
- Sao kia, chú không nghe thấy à?
- Chị hiểu cho, tôi là người nghe
thấy sau rốt.
- Còn có người nào độc địa hơn cái
mụ Kartaxova nữa kia chứ!
- Nhưng bà ta làm gì vậy?
- Nhà tôi kể lại là… mụ ta đã sỉ
nhục Karenina. Chồng mụ từ khoang ghế mình nói chuyện với cô ấy ở khoang ghế
bên kia và mụ Kartaxova đã rầy la ông ta. Hình như mụ lớn tiếng nói một câu
lăng mạ rồi bỏ đi.
- Bá tước, cụ nhà gọi anh đấy, -
tiểu thư Xorokina thò đầu khỏi cửă buồng ghế "lô" và gọi.
- Tôi chờ anh mòn con mắt, - mẹ
chàng nói với một nụ cười mỉa mai. - Không còn thấy anh ở đâu nữa.
Con trai bà thấy rõ bà không nén
được một nụ cười vui thích.
- Chào mẹ. Con đã đến gặp mẹ, -
chàng lạnh lùng trả lời.
- Thế con không đi ve vãn Karenin
phu nhân 3 nữa à? - bà nói thêm khi tiểu thư Xorokina đã ra ngoài. Bà ta làm
xôn xao dư luận. Vì bà mà người ta quên bẵng cả đào Patti 4.
- Mẹ, con đã xin mẹ đừng nói chuyện
đó với con, - chàng cau mày trả lời.
- Mẹ chỉ nói điều mọi người đều nói.
Vronxki không trả lời và chuyện trò
vài câu với tiểu thư Xorokina rồi đi ra. Chàng gặp ông anh trên ngưỡng cửa.
- A! Alecxei! - anh chàng nói.
- Thật là đê tiện! Nó chỉ là một con
mụ ngu xuẩn, có thế, thôi… Tôi đang định đến gặp Karenina đây, chúng ta cùng đi
đi.
Vronxki không nghe anh chàng nói.
Chàng vội chạy xuống cầu thang; chàng cảm thấy mình phải hành động nhưng lại
không biết làm thế nào; chàng vừa tức Anna đã dồn cả hai vào hoàn cảnh éo le
như vậy, vừa thương nàng vì những đau khổ đang phải chịu đựng. Chàng xuống dãy
ghế gần dàn nhạc và đi thẳng vào khoang ghế Anna. Xtremov đứng trước khoang
ghế, đang nói chuyện với Anna.
- Bây giờ không có giọng nam cao
nữa, - ông nói. Khuôn đúc vỡ rời 5.
Vrônxki cúi chào Anna và dừng lại để
lên tiếng chào Xtremov.
- Tôi thấy hình như ông đến muộn nên
đã để lỡ bài ca hay nhất, Anna nói với Vronxki và chàng cảm thấy nàng nhìn mình
giễu cợt.
- Tôi không phải người sành thưởng
thức, chàng trả lời và nghiêm khắc nhìn nàng.
- Giống như hoàng thân Yasvin, ông
ta cho là nàng Patti hát to quá, - nàng mỉm cười nói. - Cảm ơn, - nàng nói thêm
và giơ bàn tay nhỏ nhắn đi găng cầm lấy tờ chương trình Vronxki đưa cho và đột
nhiên, khuôn mặt xinh đẹp run lên. Nàng đứng dậy và lui vào mãi trong cùng
khoang ghế.
Nhận thấy, khi bắt đầu màn sau,
khoang ghế "lô" của Anna bỏ trống, Vronxki, bất chấp lời phản đối của
khán giả đang trầm lặng lắng nghe khúc độc xướng, ra khỏi dãy ghế giữa rạp và
trở về. Anna đã về tới nhà. Khi Vronxki bước vào buồng, nàng vẫn còn mặc chiếc
áo dài đi xem hát. Nàng ngồi ngay ở cái ghế đầu tiên kê sát tường và nhìn thẳng
về phía trước. Nàng ngước mắt nhìn chàng rồi trở lại ngay dáng ngồi cũ.
- Anna… - chàng nói. - Chính anh,
anh đã gây nên mọi sự! - nàng đứng dậy thét lên, giọng nghẹn ngào nước mắt,
tuyệt vọng và giận dữ. - Anh đã xin em, van em đừng đến đấy! Anh biết là sẽ khó
chịu cho em…
- Khó chịu à! - nàng kêu lên, - kinh
khủng ấy chứ lại! Chừng nào còn sống, em vẫn không bao giờ quên việc này. Nó
bảo ngồi cạnh em là ô nhục.
- Đó là lời một con mụ ngu ngốc, -
chàng nói, - nhưng tại sao lại cứ liều lĩnh, khiêu khích…
- Em ghét cái tính trầm tĩnh của
anh. Lẽ ra anh không nên đẩy em đến bước này… Nếu anh yêu em…
- Anna! Tình yêu của anh thì có quan
hệ gì đến việc này kia chứ?
- Phải, nếu anh yêu em như em yêu
anh, nếu anh đau khổ như em… - nàng nói và nhìn chàng, vẻ khiếp hãi.
Chàng thấy thương nhưng vẫn giận
nàng. Chàng thề thốt thanh minh về tình yêu của mình vì thấy đó là phương pháp
duy nhất để an ủi và tránh không trách nàng, nhưng trong thâm tâm, chàng vẫn
trách nàng.
Nàng uống những lời thanh minh yêu
đương dường như quá nhạt nhẽo đối với Vronxki, đến nỗi chàng nói lên mà thấy
ngượng mồm, và nàng nguôi dần. Hôm sau, cả hai hoàn toàn làm lành với nhau và
về nông thôn.
--------------------------------
1 Kapelldiener (tiếng Đức trong
nguyên bản).
2 Cách chơi dứt từng tiếng một.
3 Faire la cour à Madame Karenine
(tiếng Pháp trong nguyên bản).
4 Elle fait sensation: On oublie la
Patti pour ell (tiếng Pháp trong nguyên bản).
5 Le moule en est brisé (tỉếng Pháp trong
nguyên bản) Ý nói không tìm đâu ra loại danh ca đó nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét