Tác giả : Lep Tolstoi
Chương
1
Hai tháng trôi qua. Lúc đó vào giữa
mùa hạ, thời tiết rất nóng; tuy vậy, mãi tới bây giờ, Xergei Ivanovich mới sửa
soạn rời Moskva.
Thời gian gần đây, nhiều biến cố đã
xảy ra trong đời Xergei Ivanovich. Khoảng một năm trước, ông viết xong cuốn
sách, kết quả của sáu năm trời lao động, nhan đề: "Luận về những nguyên lí
và hình thức cai trị ở châu Âu và ở Nga". Đoạn nhập đề và một số chương
của tác phẩm đã đăng trong các tạp chí và ông cũng đã đọc vài đoạn cho bạn bè
chung quanh nghe, nên những ý kiến nêu lên trong đó đối với công chúng không
còn mới mẻ lắm; tuy nhiên, Xergei Ivanovich vẫn hi vọng việc xuất bản tác phẩm
sẽ làm xôn xao dư luận và nếu nó không dấy lên một cuộc cách mạng trong khoa
học thì ít nhất cũng gây xúc động mạnh mẽ trong giới bác học.
Cuốn sách sau khi chỉnh lí cẩn thận,
đã phát hành năm ngoái và đưa bán ở các hiệu sách.
Tuy không nói chuyện với ai về cuốn
sách, giả tảng thờ ơ khi bạn bè hỏi tác phẩm có được hoan nghênh không, cũng
không hỏi các cửa hiệu xem sách bán có chạy không. Xergei Ivanovich vẫn ngong
ngóng xem công trình nghiên cứu đó gây ấn tượng thế nào trong xã hội và giới
văn học.
Nhưng một tuần, rồi hai tuần, ba
tuần trôi qua mà xem ra vẫn không có làn sóng nào làm chấn động xã hội; vài
người bạn thân là chuyên gia hoặc học giả hoạ hoằn có nhắc tới, rõ ràng vì lịch
sự. Những người quen khác vốn chẳng quan tâm tới học thuật, không hề bàn đến
một câu. Nhất là quần chúng lúc đó đang bận tâm vì những chuyện khác nên hoàn
toàn dửng dưng. Còn báo chí thì chẳng buồn đả động tới.
Xergei Ivanovich tính toán tỉ mỉ
thời gian cần thiết để những bài giới thiệu có thể ra mắt, nhưng hai tháng sau
vẫn cứ im lìm như cũ.
Chỉ có độc tờ "Bọ dừa phương
Bắc", trong một bài châm biếm ca sĩ Đrabanti bị hỏng giọng, nhân tiện có
chêm vài câu miệt thị về cuốn sách của Koznưsev, ngụ ý rằng ai nấy đều xác định
ý kiến về cuốn sách đó, vốn từ lâu đã là trò cười cho thiên hạ.
Cuối cùng, đến tháng thứ ba mới có
một bài phê bình đăng trên một tạp chí đứng đắn. Xergei Ivanovich biết tác giả
bài báo, ông đã gặp anh ta một lần tại nhà Gôlupxôp. Đó là một nhà phê bình rất
trẻ, ốm yếu, bút pháp rắn rỏi, nhưng rất ít học và nhút nhát trong quan hệ với
mọi người.
Mặc dầu hoàn toàn coi thường tác
giả, Xergei Ivanovich vẫn đọc bài báo với niềm trân trọng lớn. Bài báo thật
khủng khiếp.
Rõ ràng tác giả tiểu phẩm hiểu cuốn
sách ngược hẳn với lương tri. Nhưng hắn đã khéo chọn trích dẫn đến nỗi, với
những ai không đọc (và hầu như chẳng ai đọc cả), thì rõ ràng toàn bộ tác phẩm
chỉ là một mớ câu kệ rườm rà, hơn nữa lại dùng không đắt (như nhà phê bình đã
vạch ra bằng những dấu chấm hỏi) và tác giả cuốn sách quả thực dốt như lừa. Và
tất cả những điều đó được nói một cách rất thông minh đến nỗi chính Xergei
Ivanovich cũng không thể phủ nhận sự sắc sảo đó; nhưng chính cái đó lại đáng sợ
nhất.
Xergei Ivanovich đã hết sức thận
trọng kiểm tra sự chính xác của những lập luận nhà phê bình đưa ra, nhưng không
phút nào, ông chịu dừng lại suy nghĩ về những khuyết điểm hoặc sai lầm bị chế
giễu: bất giác, ông lập tức nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhất của cuộc gặp gỡ và
trò chuyện giữa ông với tác giả bài báo.
"Hay là ta làm hắn phật lòng gì
chăng?". Xergei Ivanovich tự hỏi.
Và, sực nhớ trong buổi nói chuyện,
ông có nêu lên một chữ chứng tỏ sự dốt nát của người bạn đồng nghiệp trẻ tuổi,
Xergei Ivanovich bèn cho rằng chính đó là căn nguyên giọng văn của bài báo.
Sau đó là im lặng hoàn toàn và
Xergei Ivanovich nhận thấy cái tác phẩm viết trong sáu năm ròng với bao công
phu và tâm huyết, đã qua đi không để lại dấu vết gì.
Sự nhàn rỗi càng khiến cho hoàn cảnh
của Xergei Ivanovich thêm nặng nề: trước đây, công việc viết sách còn chiếm
phần lớn thời giờ của ông.
Xergei Ivanovich là người thông
minh, có học thức, khoẻ mạnh, ưa hoạt động, và giờ đây, ông không biết dùng
năng lực hoạt động vào việc gì. Những buổi nói chuyện ở phòng khách, ở hội
nghị, uỷ ban, ở tất cả những nơi có thể nói chuyện được chiếm một phần thời giờ
của ông; nhưng vốn là người sống ở thành thị lâu, ông rất chú ý dè giữ, không
dốc hết tâm lực vào những buổi nói chuyện đó, như chú em cục mịch của ông
thường làm trong những ngày đến ở Moskva. Ông còn thừa rất nhiều thời giờ nhàn
hạ và trí lực. Vừa may vào thời kì đặc biệt khổ tâm này vì sự thất bại của tác
phẩm, những vấn đề thời sự như: các tông phái dị giáo, tình hữu nghị Mỹ quốc,
nạn đói ở Xamara, những triển lãm và trò đồng cốt chiêu hồn đều nhường chỗ cho
vấn đề Xlav từ trước đến nay vẫn âm ỉ, và Xergei Ivanovich từ lâu vốn là một
trong những người khởi xướng, liền dốc toàn bộ tâmlực vào vấn đề đó.
Trong giới giao du của Xergei
Ivanovich, giờ đây người ta chỉ bàn đến cuộc chiến tranh Xerbi. Tất cả những
việc đám đông nhàn rỗi thường làm để giết thời giờ, hiện nay đều hướng vào cứu
giúp những "người Xlav anh em". Khiêu vũ, hoà nhạc, yến tiệc, diễn
thuyết, nữ trang, rượu bia, tiệm nước, tất cả đều để biểu lộ mối thiện cảm của
mọi người đối với dân Xerbi.
Xergei Ivanovich bất đồng ý kiến với
phần lớn những điều được nói hoặc viết ra trong dịp này. Ông thấy vấn đề Xlav
đã trở thành một trong những thứ say mê thời thượng vẫn nối tiếp nhau ở chốn
thượng lưu, nhờ đó những người trong giới này mới có việc mà làm, ông cũng thấy
rất nhiều người quan tâm đến vấn đề chỉ vì một mục đích phù phiếm hoặc vụ lợi.
Ông thừa nhận báo chí đã in ra những chuyện tầm bậy hoặc khuếch đại với mục đích
duy nhất là thu hút sự chú ý của mọi người và to mồm hò hét át giọng những kẻ
khác. Ông nhận thấy trong sự xô đẩy ào ạt chung này, chính những kẻ thất thế và
mất quyền lại đi đầu và to tiếng át giọng người khác: những vị tướng không có
quân, những bộ trưởng không có bộ, những nhà báo không có báo, những lãnh tụ
đảng phái không có đảng viên. Ông thấy tất cả những khía cạnh phù phiếm và lố
bịch của phong trào dư luận này; nhưng ông cũng nhìn thấy một luồng phấn khởi
rõ rệt đang đoàn kết tất cả các giai cấp xã hội, đang phát triển từng giờ từng
phút, khiến ta không thể không đồng tình. Sự tàn sát những người anh em đồng
chủng và đồng tín ngưỡng làm nổi dậy lòng thương xót đối với kẻ bị áp bức, lòng
phẫn đối với kẻ đi áp bức. Sự dũng cảm của người Xerbi và người Mongtenegro,
chiến đấu cho một mục đích vĩ đại, làm nẩy sinh trong toàn thể nhân dân ý muốn
giúp đỡ họ không chỉ bằng lời nói mà bằng cả việc làm.
Cuối cùng, một hiện tượng khác làm
cho Xergei Ivanovich rất vui sướng. Đó là sự biểu thị của dư luận quần chúng.
Xã hội đã bày tỏ rõ ràng nguyện vọng của mình. Theo lối nói của Xergei
Ivanovich thì tâm hồn dân chúng đã tìm ra cách biểu đạt. Và càng bắt tay vào
làm, ông càng thấy chắc chắn công cuộc đó sẽ có quy mô rộng lớn, sẽ đánh dấu
một thời đại. Ông cống hiến toàn tâm toànlực nhằm phục vụ mục đích vĩ đại ấy và
do đó, quên không nghĩ tới cuốn sách nữa.
Hiện nay, tất cả thời giờ của ông
đều bận rộn: thậm chí ông cũng không còn rảnh rỗi để trả lời hết mọi thư từ và
yêu cầu đã gửi đến. Sau khi làm việc suốt mùa xuân và một phần mùa hạ, đến
tháng bảy, ông chuẩn bị về nông thôn với em trai.
Ông về đó để nghỉ ngơi chừng mươi
mười lăm ngày và để hưởng thụ, giữa thánh thất thâm nghiêm của dân chúng, mãi
tận cuối vùng nông thôn hẻo lánh, cảnh tượng thức tỉnh của tinh thần dân tộc mà
tất cả cư dân hai thủ đô và những thành phố lớn đang tin tưởng vững chắc.
Katavaxov, từ lâu vẫn muốn thực hiện lời hứa đến thăm Levin, cũng đi theo ông.
Chương
2
Xergei Ivanovich và Katavaxov vừa
đến ga Kursk, hôm đó đặc biệt náo nhiệt, và bước xuống xe để xem lại hành lí
thì có bốn xe ngựa thuê chở quân tình nguyện chạy tới. Các bà ôm hoa ra đón họ
và tất cả bước vào ga, đằng sau là một đám đông chạy ùa theo.
Một bà tới hoan nghênh quân tình
nguyện ra khỏi phòng đợi tàu và nói với Xecgây Ivanovich:
- Ông cũng tới tiễn họ đấy à? - bà
hỏi ông bằng tiếng Pháp.
- Thưa quận chúa không ạ, tôi về
nghỉ nhà chú em. Bà vẫn luôn trung thành với nhiệm vụ đấy chứ? - Xergei
Ivanovich thoáng mỉm cười nói.
- Nhất định phải thế chứ, - quận
chúa trả lời. - Có thực chúng ta gửi đi tám trăm rồi phải không? Manvinxki
không chịu tin lời tôi nói.
- Hơn tám trăm kia. Tính cả những
người không trực tiếp đi từ Moskva thì nay đã có tới hơn một nghìn rồi, -
Xergei Ivanovich đáp.
- Thì đúng tôi đã bảo thế mà! - bà
vui sướng nói. - Và có thực đến nay đã quyên góp được ngót một triệu đồng rồi
phải không?
- Hơn nữa kia, thưa quận chúa!
- Ông đọc bản tin hôm nay chưa? Lại
một lần nữa quân Thổ Nhĩ Kỳ bị đánh bại.
- Vâng, tôi đọc rồi, - Xergei
Ivanovich trả lời.
Trong bản tin, người ta thông báo
quân Thổ ba ngày liền đều bị đánh bại trên khắp các mặt trận, phải bỏ chạy
trốn: mọi người chờ đợi một trận quyết định trong ngày mai.
- À, tôi muốn nói với ông việc này,
có một thanh niên rất khá cũng muốn xin đi. Tôi không hiểu tại sao người ta lại
gây khó khăn với anh ta. Tôi muốn nhờ ông viết vài chữ giới thiệu. Tôi có quen
anh ta, do nữ bá tước Lidia Ivanovna giới thiệu.
Sau khi hỏi những điều cần biết mà
quận chúa nắm được về chàng thanh niên đó, Xergei Ivanovich sang phòng chờ tàu
hạng nhất, viết một bức thư gửi người có thẩm quyền giải quyết việc đó và trao
cho bà ta.
- Ông biết chứ, bá tước Vronxki,
nhân vật trứ danh… hôm nay cũng đi đấy, - quận chúa nói với nụ cười đắc thắng
và đầy ý nghĩa, khi ông tới cạnh bà.
- Tôi cũng nghe nói ông ta ra đi,
nhưng không biết bao giờ. Ông ta đi chuyến tàu này à?
- Vâng, tôi có trông thấy. Ông ta
đang ở đây. Chỉ có mỗi bà mẹ đi tiễn. Ông ta… chỉ còn biết cách làm thế là hơn
cả.
- Tất nhiên.
Trong khi họ nói chuyện, đám đông ùa
tới quầy hàng ăn. Hai người bị xô đẩy theo và nghe thấy giọng nói sang sảng của
một vị tay cầm chén rượu đang diễn thuyết với quân tình nguyện. "Phụng sự
tín ngưỡng, phụng sự nhân loại, phụng sự những người anh em của chúng ta! Ông
nói, mỗi lúc một cất cao giọng hơn. Moskva, mẹ của chúng ta sẽ ban phước lành
cho các bạn vì sự nghiệp vĩ đại này, Jivio" 1, ông ta hô to, giọng nghẹn
ngào nước mắt.
Tất cả cùng hô: "Jivio" và
người ta lại ùa sang phòng đợi tàu, suýt xô ngã cà bà quận chúa.
- Quận chúa thấy thế nào? - Stepan
Ackađich nói, đột nhiên xuất hiện giữa đám đông, mặt ngời lên một nụ cười rạng
rỡ.
- Ông ta nói hay lắm, những lời xuất
phát tự đáy lòng! Hoan hô! A! Xergei Ivanovich, ông đấy à! Ông cũng nên nói với
họ vài câu khích lệ, ông giỏi hùng biện lắm mà, - ông ta nói thêm với một nụ
cười vừa dịu dàng, kính cẩn lại vừa thận trọng. Và ông cố khoác tay Xergei
Ivanovich lôi đi.
- Không, tôi phải đi ngay bây giờ.
- Đi đâu?
- Về nhà chú em, - Xergei Ivanovich
trả lời.
- Ồ, thế thì ông sẽ gặp nhà tôi ở
đấy. Tôi vừa viết thư nhưng chắc ông sẽ gặp trước khi nhà tôi nhận được; nhờ
ông làm ơn nói giúp là đã gặp tôi và mọi sự đều tốt đẹp cả. Nhà tôi sẽ hiểu. à
phải, và cũng nhờ ông vui lòng nói giúp là tôi đã được bổ nhiệm làm uỷ viên uỷ
ban các đại lí liên hợp… Tóm lại, rồi vợ tôi sẽ hiểu. Đó là những nỗi khốn khổ
nho nhỏ trong đời sống con người, - ông quay lại phân bua với bà quận chúa. -
Tôi đã nói với ông là quận chúa Miagcaia, - không phải là Liza đâu mà là bà
Bibitsơ ấy - có gửi đi một nghìn khẩu súng và mười hai nữ y tá chưa nhỉ?
- Vâng tôi có nghe nói, - Koznưsev
miễn cưỡng trả lời.
- Thật đáng tiếc là ông phải đi, -
Stepan Ackađich nói. - Ngày mai, chúng tôi thết tiệc chiêu đãi hai người ra đi:
Đime Barnianxki ở Petersburg tới và anh chàng Vexlovxki của chúng ta. Grisa ấy
mà. Cả hai đều đi sang đó. Vexlovxki mới kết hôn được ít lâu. Đó là một gã
trung thực, phải không, thưa quận chúa? - ông quay lại nói với bà ta.
Quận chúa không trả lời, nhìn
Coznưsev. Nhưng dù Xergei Ivanovich hay bà quận chúa có khó chịu vì sự có mặt
của ông ta, Stepan Ackađich vẫn không bối rối chút nào. Khi ông mỉm cười chăm
chú nhìn cái lông vũ trên mũ bà quận chúa, lúc lại đảo mắt nhìn quanh, như cố
nhớ lại điều gì. Thấy một bà cầm hộp quyên góp tiền đi qua, ông gọi lại và bỏ
vào một tờ giấy bạc năm rúp.
- Tôi không thể dửng dưng nhìn những
hộp quyên tiền đó chừng nào trong người còn có tiền, - ông nói. - Về bản tin
hôm nay, các ông bà thấy thế nào? Những người Mongtenegro đó, thật là cừ! Không
có lẽ! - ông kêu lên, khi được bà quận chúa cho biết Vronxki sẽ đi chuyến tàu
sau. Trong một giây, nét mặt Stepan Ackađich lộ vẻ buồn rầu, nhưng chỉ ngay lát
sau, khi ông vừa vuốt râu má vừa nhún nhẩy bước vào căn phòng có Vronxki ở đấy,
Stepan Ackađich đã hoàn toàn quên bẵng những tiếng nức nở tuyệt vọng của mình
trên thi hài em gái và chỉ còn thấy ở Vrônxki một vị anh hùng và một người bạn
cũ.
- Tuy ông ấy có nhiều tật, ta vẫn
phải công bằng mà đánh giá cho đúng, - bà quận chúa nói với Xergei Ivanovich
khi Oblonxki rời họ đi. Đó là một tính cách rất Nga, điển hình Xlav! Tôi chỉ e
Vronxki gặp ông ta sẽ chẳng hứng thú gì. Ông muốn nói sao thì nói, số phận con
người đó vẫn làm tôi xúc động. Ông hãy cố tranh thủ nói chuyện với ông ta trong
khi đi đường, - bà nói.
- Vâng, nếu có dịp.
- Xưa nay tôi vốn không ưa ông ta.
Nhưng hành động của ông ta sẽ chuộc lại rất nhiều lầm lỗi. Ông ta không chỉ
bằng lòng tự nguyện ra đi mà còn bỏ tiền túi ra dẫn theo cả một phân đội.
- Vâng, tôi cũng nghe nói như vậy.
Tiếng chuông réo lên. Tất cả kéo đến tụ tập trước cửa ra vào.
- Ông ta đây rồi! - quận chúa nói và
chỉ Vronxki. Chàng mặc áo choàng dài, đội mũ đen rộng vành và đưa tay cho mẹ
khoác. Oblonxki đi bên cạnh, và đang sôi nổi nói chuyện với chàng.
Vronxki cau mày, nhìn thẳng về đằng
trước, như không buồn nghe Stepan Ackađich nói.
Hẳn là được Oblonxki cho biết, chàng
quay nhìn về phía bà quận chúa và Xergei Ivanovich, và lặng lẽ nhấc mũ chào.
Mặt chàng già đi và võ vàng vì đau khổ, đanh lại.
Lúc tới sân ga, sau khi né người
nhường mẹ đi trước, chàng bước lên tàu và ở lì trong buồng toa xe.
Trên sân ga vang lên điệu quốc ca
"Thượng đế che chở cho Nga hoàng" lẫn tiếng "hoan hô!" và
tiếng Xerbi "jivio!". Một tình nguyện quân, người trẻ măng cao lớn,
lưng hơi gù, vẫy mũ dạ và bó hoa trên đầu, vênh vang đáp lại những lời chào.
Sau anh ta là hai sĩ quan và một người đứng tuổi râu rậm rì, đầu đội mũ lưỡi
trai bẩn thỉu, đang đứng trước cửa sổ và cũng ra hiệu chào mọi người.
--------------------------------
1 Tiếng Xerbi: muôn năm.
Chương
3
Sau khi chào tạm biệt bà quận chúa,
Xergei Ivanovich trèo lên tàu chật ních cùng với Katavaxov đã theo kịp ông và
đoàn tàu chuyển bánh.
Ở Xaritxưn, một đội hợp xướng gồm
toàn thanh niên nhịp nhàng hát bài: "Vinh quang thay Nga hoàng của chúng
ta!" để chào đón đoàn tàu. Tình nguyện quân lại thò đầu ra ngoài cửa toa
xe để vẫy chào: nhưng Xergei Ivanovich không chú ý tới họ: ông tiếp xúc với
tình nguyện quân thường xuyên quá rồi nên giờ đã thuộc làu cái điển hình thông
thường của lớp người đó và không quan tâm tới họ nữa. Trái lại, Katavaxov, vì
bận nghiên cứu khoa học, không có dịp quan sát tình nguyện quân, nên bị hấp dẫn
lớn và cứ hỏi Xergei Ivanovich dồn dập.
Coznưsev khuyên ông sang toa hàng
hải và trực tiếp nói chuyện với những bạn đồng hành ở đó.
Tới ga sau, Katavaxov làm theo như
vậy. Tới chỗ tàu đỗ đầu tiên, ông sang toa hạng hai và bắt chuyện với các tình
nguyện quân. Họ ngồi trong góc toa xe và nói chuyện oang oang, rõ ràng biết
hành khách cùng Katavaxov vừa bước vào, đều đang chú mục vào họ. Anh thanh niên
cao lớn có đôi vai hơi gù càng to mồm hơn mọi người. Anh ta chắc say rượu và
đang kể chuyện gì đó. Trước mặt anh ta là một sĩ quan đứng tuổi mặc binh phục
cận vệ áo. Ông mỉm cười nghe anh ta kể chuyện và thỉnh thoảng lại ngắt lời.
Người thứ ba, mặc binh phục pháo thủ, ngồi cạnh, trên một cái rương quân dụng.
Người thứ tư đang ngủ.
Katavaxov nói chuyện với gã trẻ nhất
và được biết anh ta là một thương nhân giàu có ở Moskva. Chưa đầy hăm hai tuổi
đầu, anh ta đã phung phí hết một tài sản kếch xù. Katavaxov không ưa anh ta vì
vẻ người thướt tha, ẻo lả và ốm yếu; rõ ràng anh ta đinh ninh mình đang làm một
hành động anh hùng, nhất là sau khi đã nốc cạn vài chén rượu, và huênh hoang
một cách hết sức khó chịu.
Người thứ hai, một sĩ quan giải ngũ,
cũng gây ấn tượng xấu với Katavaxov. Anh ta hình như đã trải đủ mọi nghề rồi.
Anh ta đã làm việc ở ngành hoả xa, rồi làm quản gia, rồi làm giám đốc công
xưởng. Anh ta nói đủ mọi chuyện vô bổ và dùng danh từ khoa học không đúng chỗ.
Trái lại, người thứ ba, là pháo thủ,
khiến Katavaxov rất có thiện cảm. Đó là một người trầm tĩnh và kín đáo; ông tỏ
vẻ nhún nhường trước sự thông thái của vị sĩ quan cùng gương hi sinh anh hùng
của gã thương nhân và không nói gì về mình cả. Khi Katavaxov hỏi cái gì thúc
đẩy ông ta đi Xerbi, ông chỉ khiêm tốn trả lời:
- Tôi chỉ làm như mọi người khác
thôi. Cũng cần giúp đỡ người Xerbi một tay. Tội nghiệp họ!
- Họ thiếu nhất là những pháo thủ
như ông, - Katavaxov nói.
- Ồ, tôi trước phục vụ trong pháp
binh cũng không lâu đâu, có lẽ họ sẽ điều động tôi sang bộ binh hoặc kị binh.
- Tại sao lại thế, khi mà họ đang
cần trước hết là pháo thủ? Katavaxov nói, ngỡ là với tuổi tác đó, ông ta hẳn ở
cấp quân hàm cao.
- Vì tôi trước không ở pháo binh
lâu, mới chỉ là chuẩn uý, - ông ta nói và cắt nghĩa tại sao mình thi trượt.
Tất cả những cái đó họp lại thành
một ấn tượng xấu đối với Katavaxov và khi những tình nguyện quân xuống uống
nước ở ga sau, ông cảm thấy cần trao đổi tâm sự với một người nào đó. Một ông
già bé nhỏ mặc áo bành tô nhà binh cùng ngồi toa đó: ông ta cũng đã nghe
chuyện. Khi chỉ còn lại hai người, Katavaxov quay lại phía ông già:
- Hoàn cảnh những người ra đi này
thật nhiều màu nhiều vẻ, ông nói bâng quơ ý kiến mình để khêu gợi ông già bé
nhỏ phát biểu.
Ông già là sĩ quan, ông đã từng tham
dự hai chiến dịch. Ông đã hiểu thế nào là người lính và căn cứ vào dáng điệu
cùng lời nói của những người kia, vào cách họ tìm nguồn dũng cảm trong hũ rượu
đi đường, ông coi họ là bọn lính tồi. Hơn nữa, ông sống ở tỉnh lẻ; ông đã toan
kể chuyện trong cái thành phố nhỏ của ông, có một người lính nghỉ dài hạn,
nghiện rượu và ăn cắp, không ai muốn thuê mướn, đã ra đi làm tình nguyện quân.
Nhưng, vốn từng trải, ông biết trong tình hình tâm lí hiện nay, phát biểu ngược
lại ý kiến chung, nhất là lại chỉ trích tình nguyện quân, là điều nguy hiểm,
nên ông cũng chờ Katavaxov bộc lộ rõ thâm ý ra.
- Ông bảo biết làm thế nào, bên đó
đang cần người, - ông già nói, nheo mắt cười.
Họ bàn tới bản thông báo cuối cùng
và hai bên đều giấu nhau sự ngạc nhiên của mình: theo tin giờ chót, nếu quân
Thổ bị bánh bại trên khắp các mặt trận, thì ngày mai còn giao tranh với ai nữa?
Họ chia tay mà không ai chịu bộc lộ ý nghĩ sâu kín của mình ra.
Trở về toa xe của mình, Katavaxov
bất giác tự dối mình, kể cho Xergei Ivanovich nghe kết quả cuộc thẩm tra: theo
ông, tình nguyện quân đều là những chàng trai ưu tú.
Tới thành phố lớn đầu tiên, vẫn lại
ca hát và hoan hô: những bà, những cô đi quyên tiền lại xuất hiện với hòm
quyên, những bà mệnh phụ của thị trấn mang hoa tới cho tình nguyện quân và theo
họ ra quầy hàng ăn: nhưng sự tiếp đón đã lạnh nhạt hơn ở Moskva nhiều.
Chương
4
Khi tàu dừng ở tỉnh lị, Xergei
Ivanovich không vào quầy hàng ăn mà chỉ dạo bước quanh sân ga.
Lần thứ nhất đi qua toa xe, ông thấy
rèm cửa đều hạ xuống. Nhưng đến lần thứ hai, ông thấy bà bá tước già ở cửa sổ.
Bà vẫy Koznưsev lại gần.
- Ông ạ, - bà nói, tôi đưa tiễn em
nó tới Kursk.
- Vâng, tôi cũng đã nghe nói, -
Xergei Ivanovich trả lời, dừng lại trước cửa sổ và đưa mắt nhìn vào trong toa
xe. - Ông ấy hành động như thế thật là đẹp đẽ! - ông nói thêm khi thấy Vronxki
không ở đó.
- Thì sau nỗi bất hạnh ấy, nó còn
biết làm gì hơn nữa?
- Thật là một sự việc khủng khiếp! -
Xergei Ivanovich nói.
- Chao ôi! Tôi thật đến là khổ nhục!
Nhưng mời ông lên đây đã… Chao ôi! Tôi thật đến là khổ nhục! - bà nhắc lại, khi
Xergei Ivanovich đã lên ngồi cạnh trên chiếc ghế đệm dài. - Thật không thể
tưởng tượng được! Sáu tuần liền, nó không nói năng với ai và chỉ khi nào tôi ép
mới chịu ăn. Và không thể để nó một mình một phút nào cả. Chúng tôi cất đi tất
cả những gì có thể dùng để tự sát; chúng tôi ở tầng dưới, nhưng vẫn phải đề
phòng mọi bất trắc. Ông cũng biết nó đã có lần vì cô ta mà tự bắn vào người
rồi, - bà nói, và lông mày bà nhíu lại khi nhớ lại chuyện đó. - Phải, đúng là
cái kết thúc tất yếu của hạng đàn bà như vậy. Cô ta đã chọn một cái chết đê
tiện, xấu xa.
- Thưa bá tước phu nhân, chuyện phán
xét đâu phải việc chúng ta, - Xergei Ivanovich thở dài nói, - nhưng tôi rất
hiểu chuyện đó đã làm phu nhân vô cùng khổ tâm.
- Thôi, ông đừng nhắc tới chuyện đó
nữa. Tôi đang ở trang trại thì nó đến thăm. Có người mang tới một lá thư và nó
lập tức trả lời ngay. Chúng tôi không ngờ cô ta lại ở ngoài ga. Buổi tối, tôi
vừa về buồng riêng thì mụ hầu phòng Maria cho biết có một phu nhân nhảy xuống
gầm tàu. Tin đó làm tôi choáng váng cả người! Tôi biết ngay là cô ta. Câu đầu
tiên của tôi là bảo họ đừng cho con tôi hay. Nhưng nó đã biết rồi. Gã xà ích
lúc bấy giờ ở ngoài đó và trông thấy tất cả. Khi tôi chạy tới buồng nó, nó như
phát điên, trông thật đáng sợ. Không nói nửa lời, nó chạy vụt đi. Tôi không
biết có chuyện gì xảy ra ngoài đó nhưng khi đưa về thì nó như người chết rồi.
Tôi không nhận ra nó nữa. Hoàn toàn quỵ hẳn, bác sĩ bảo như vậy. Sau đấy, nó
như cuồng dại! Nhưng thôi, nhắc đến chuyện đó làm gì! - bà bá tước khoát tay nói.
- Thật là thời kì kinh khủng! Không, ông muốn nói gì tuỳ ông, nhưng cô ta quả
là người xấu xa. Những chuyện đam mê, tuyệt vọng như vậy nghĩa là thế nào kia
chứ? Tất cả những cái đó, chỉ cốt làm ra khác người. Cô ta quả là rất thành
công! Cô ta tự giết đời mình và còn làm hại cả cuộc đời hai người đàn ông ưu
tú: chồng cô ta và đứa con trai khốn khổ của tôi.
- Thế chồng bà ta thì sao ạ? -
Xergei Ivanovich hỏi.
- Ông ta đã đón đứa con gái về nhà.
Lúc đó, Alecxei thoả thuận tất cả. Nhưng bây giờ nó rất tiếc đã bỏ con gái mình
cho người dưng. Nhưng nó không thể nuốt lời. Karenin có đi đưa ma. Chúng tôi đã
thu xếp để ông ta khỏi gặp mặt Alecxei. Đối với nó cũng như với ông chồng, dứt
đi như vậy còn hơn. Đó là một sự giải thoát. Nhưng đứa con tội nghiệp của tôi
nữa, nó cũng bỏ tất. ấy thế mà cô ta không thèm thương hại nó, cô ta làm nó gục
hẳn hay cũng gần như vậy! Không, muốn nói thế nào thì nói, đó là cái chết của
một phụ nữ đê tiện, vô đạo. Cầu Chúa xá tội nhưng tôi không khỏi căm ghét khi
nhớ tới cô ta, khi thấy cái tai hoạ cô ta gây ra cho con tôi.
- Ông ấy bây giờ thế nào ạ?
- Chúa đã cứu vớt chúng ta bằng cuộc
chiến tranh Xerbi này. Tôi già rồi, không hiểu gì về mọi cái đó, nhưng tôi thấy
chính thượng đế đã ra tay phù hộ nó. Tất nhiên, đối với người mẹ, chuyện này
thật ghê sợ; và nhất là người ta nói ở Petersburg, việc này không được coi
trọng lắm đâu. Nhưng biết làm thế nào? Đó là điều duy nhất có thể làm nó phấn
chấn lại tinh thần. Chả là Yasvin, bạn thân của nó, đánh bạc thua sạch, bèn
chuẩn bị đi Xerbi. Anh ta đến thăm và thuyết phục nó đi theo. Giờ đây, nó đang
bận tâm vì chuyện đó. Xin ông hãy nói chuyện với nó, tôi rất mong có người đến
làm nó khuây khoả. Nó đang buồn lắm. Nó sẽ sung sướng được tiếp ông. Xin ông
hãy đi gặp nó, nó đang đi dạo đằng kia.
Xergei Ivanovich vui vẻ nhận lời và
sang bên kia sân ga.
Chương
5
Trong chiều tà, giữa đống ba lô hắt
bóng chênh chếch trên sân ga, Vronxki, mình mặc áo khoác dài, mũ kéo sụp tận
mắt và hai tay đút túi, đang đi đi lại lại như con thú dữ trong chuồng, cứ
khoảng hai mươi bước lại quay ngoắt trở lại. Xergei Ivanovich nhận thấy Vronxki
hình như đã trông thấy ông nhưng giả tảng không nhận ra. Koznưsev hoàn toàn
không để bụng việc đó. Đối với Vronxki, ông dẹp bỏ mọi suy xét cá nhân.
Lúc này, trước con mắt Xergei
Ivanovich, Vronxki đóng một vai trò hợp tác quan trọng trong một sự nghiệp vĩ
đại và Koznưsev thấy bổn phận của ông là phải cổ vũ, khuyến khích. Ông đến gần
chàng.
Vronxki dừng bước, nhìn vào mặt
Xergei Ivanovich và khi nhận ra, liền tiến lên mấy bước xiết chặt tay ông.
- Có lẽ ông không muốn gặp tôi, -
Xergei Ivanovich nói. - Tôi có thể giúp ông được việc gì không?
- Lúc này, tôi thấy gặp ông là đỡ
khó chịu nhất. Xin ông tha lỗi. Đối với tôi, cuộc sống giờ đây không còn gì vui
thú nữa.
- Tôi hiểu và muốn được giúp đỡ ông,
- Xergei Ivanovich nói, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khuôn mặt đau khổ của Vronxki.
- Ông có cần thư giới thiệu với
Rixtic, với Milang 1 không?
- Ồ, không! - Vronxki nói, như phải
khá vất vả mới hiểu nổi câu nói trên. - Nếu ông không thấy phiền thì ta đi dạo
một chút. Trong toa xe ngột ngạt quá! Thư giới thiệu ư? Không, xin cảm ơn; đi
vào chỗ chết thì cần gì giới thiệu. Trừ phi gửi thư cho quân Thổ… - chàng nói,
chỉ hơi nhếch mép mỉm cười. Đôi mắt chàng vẫn đượm vẻ đau buồn và bực bội.
- Phải, nhưng nó sẽ tạo thuận lợi
cho ông trong quan hệ với một người sẵn sàng giúp ông, dù sao, sự giao thiệp
này cũng cần thiết. Nhưng thôi, cái đó tuỳ ông. Tôi rất sung sướng khi được
biết quyết định của ông. Người ta dèm pha tình nguyện quân rất nhiều: một người
như ông sẽ nâng giá trị họ lên trước dư luận quần chúng.
- Ưu điểm duy nhất của tôi là không
thiết sống nữa, - Vronxki nói. - Tôi biết mình còn đủ thể lực để chọc thủng một
thế trận hoặc bị giết tại trận. Và tôi sung sướng tìm được một lí do để từ bỏ
cuộc sống, chẳng những không chút cần thiết mà còn nặng nề đối với tôi. Cái đó
cũng có thể giúp ích cho người nào đó.
Gò má chàng giật thon thót. Một cơn
đau răng nhức nhối không lúc nào dịu đi ngăn không cho chàng nói năng với giọng
điệu mong muốn.
- Ông sẽ hồi sinh, tôi xin nói trước
như vậy, - Xergei Ivanovich xúc động nói. - Giải phóng anh em ta khỏi ách áp
bức là một mục đích xứng đáng cho ta sống và chết vì nó. Cầu Chúa ban phước
lành cho ông thắng lợi trong sự nghiệp và yên tĩnh trong tâm hồn, - ông nói và
chìa tay cho chàng.
Vronxki bắt tay Xergei Ivanovich
thật chặt.
- Với tư cách là công cụ, tôi vẫn
còn đôi chút ích lợi. Nhưng xét về mặt con người, tôi chỉ còn là dư tàn, -
chàng chậm rãi nói.
Cơn đau nhói buốt làm miệng chàng
đầy ứ nước dãi và không nói được. Chàng nín lặng; mắt chàng dừng lại ở những
bánh xe một toa than đang từ từ lướt tới. Đột nhiên, một nỗi bồn chồn mơ hồ và
nặng trĩu làm chàng quên cơn đau răng trong chốc lát. Do nhìn toa than và đường
ray, dưới tác động của cuộc trò chuyện với một người bạn chưa có dịp gặp lại từ
khi xảy ra tai hoạ, chàng đột nhiên nhớ tới nàng hoặc đúng hơn nhớ tới những gì
còn lại của thi thể nàng khi chàng bước vào căn nhà lán trong ga như một thằng
điên; tấm thân đẫm máu vừa lìa cuộc sống nằm phơi ra trơ trẽn trước mắt những
người xa lạ; cái đầu còn nguyên vẹn ngật ra đằng sau với bím tóc dày nặng cùng
những búp loăn xoăn hai bên thái dương: trên khuôn mặt xinh đẹp hiện lên đờ đẫn
một vẻ kì lạ, thiểu não với đôi môi tươi tắn hé mở, dễ sợ, với cặp mắt mở to
như muốn nhắc lại lời đe doạ thốt ra trong cuộc cãi lộn: "Rồi anh sẽ phải
hối hận về việc này!".
Chàng cố gợi lên hình ảnh nàng đúng
như lần đầu gặp ở ga: bí ẩn, quyến rũ, đa tình, cùng một lúc vừa tìm kiếm vừa
ban phát hạnh phúc, chứ không phải như chàng trông thấy vào giây phút cuối
cùng: dữ tợn và khao khát trả thù. Chàng cố nhớ lại những giờ phút đẹp đẽ nhất
trong đoạn đời đã qua của họ; những giờ phút đó vĩnh viễn bị thẩm độc rồi. Sắc
diện duy nhất giờ đây chàng thấy ở nàng là vẻ đắc thắng, sau khi thực hiện được
lời đe doạ: và sự hối hận từ nay sẽ giày vò chàng mà chẳng ích lợi gì cho ai.
Chàng không thấy đau răng nữa và những tiếng nức nở làm cho khuôn mặt chàng dúm
lại.
Chàng dạo mấy bước dọc theo những ba
lô chất đống và sau khi đã trấn tĩnh lại, chàng bình thản quay về phía Xergei
Ivanovich.
- Ông có xem những tin điện sau bản
hôm qua không? Bọn chúng bị đánh bại lần thứ ba, người ta đang chờ đợi một trận
quyết chiến trong ngày mai.
Và sau khi bàn bạc thêm về lời tuyên
ngôn của Milang vừa xưng vương cùng những hậu quả to lớn mà việc đó có thể đưa
lại, họ chia tay và mỗi người bước lên toa xe của mình sau tiếng chuông thứ
hai.
--------------------------------
1 Tên Thủ tướng và Quốc vương Xecbi.
Chương
6
Vì không biết lúc nào có thể rời
Moskva nên Xergei Ivanovich không đánh điện báo cho em trai đi đón khi ông tới
nơi. Lúc Katavaxov và Xergei Ivanovich, đen nhẻm vì bụi đường, từ chiếc xe ngựa
tối tân thuê ở ga bước xuống trước căn nhà tại Pokhrovxcoie vào khoảng giữa
trưa, Levin lại đi vắng. Kitty đang ngồi trên bao lơn với bố và chị, nhận ra
anh chồng, liền chạy vội xuống đón.
- Anh tệ thế, về mà chẳng báo trước
cho chúng em biết gì cả, - nàng vừa nói vừa chìa tay cho Xergei Ivanovich bắt
và giơ trán để ông hôn.
- Chúng tôi đã đi đến nơi đến chốn
không cần phiền nhiễu chú thím, - Xergei Ivanovich trả lời. Người tôi bụi bặm
đến nỗi không dám chạm vào thím nữa. Tôi bận quá không biết lúc nào dứt ra
được. Thế còn thím, - ông mỉm cười nói, - thím vẫn tiếp tục hưởng hạnh phúc
bình yên trong nơi ẩn dật, tách ngoài dòng đời đấy chứ. Và đây, ông bạn Fedor
Vaxilievich của chúng ta, rốt cuộc, cũng đã quyết định về chơi đấy.
- Tôi không phải là mọi đâu; tắm rửa
xong, tôi cũng sẽ giống mọi người, -Katavaxov nói với vẻ châm biếm quen thuộc,
bắt tay Kitty và mỉm cười: bộ mặt đen nhẻm của ông càng làm nổi hàm răng trắng
bóng.
- Kôtxtya sẽ rất vui sướng. Anh ấy
đang ở ngoài trại. Chắc cũng sắp về bây giờ đấy.
- Lúc nào cũng bận bịu việc canh
tác. Ông bà ở đây thực là kín. Ngoài thành phố giờ đây, chỉ toàn bàn chuyện
chiến tranh Xerbi. Ông bạn chúng tôi nghĩ thế nào về vấn đề đó? Chắc ông ấy
không đồng ý với mọi người?
- Có chứ, tôi chắc vậy, - Kitty trả
lời, hơi lúng túng và đưa mắt nhìn Xergei Ivanovich. - Để tôi cho đi tìm anh ấy
về. Ba tôi hiện cũng đang ở đây. Ông cụ vừa ở nước ngoài về chưa được bao lâu.
Sau khi sai đi tìm Levin và dẫn
khách đi rửa ráy, người ở buồng giấy, người ở căn phòng cũ của Đôly, Kitty sai
dọn ăn sáng cho khách và chạy trở về bao lơn, sung sướng vì được vận động thoải
mái, điều không được phép làm trong thời gian có mang.
- Đó là Xergei Ivanovich và giáo sư
Katavaxov, - nàng nói.
- Ồ, đến vào lúc nóng nực thế này,
quả là cái tội cái nợ, - lão quận công nói.
- Không đâu, ba ạ, anh ấy rất tốt và
Koxtia quý anh ấy lắm, - Kitty nói với một nụ cười cầu khẩn vì thấy cha tỏ vẻ
giễu cợt.
- Thì ba có bảo sao đâu.
- Chị thân yêu, chị ra gặp và tiếp
họ nhé.- Kitty quay lại nói với chị. Họ có gặp Xtiva ở ngoài ga: anh ấy khoẻ
lắm. Em đi bế Mitia đây. thật hỏng quá, từ sau bữa trà đến giờ, em vẫn chưa cho
nó bú. Nó dậy rồi và chắc đang khóc đấy, và thấy sữa đã ứ lên bầu vú, nàng vội
chạy sang buồng trẻ.
Đây không phải chỉ là ước đoán đơn
thuần mà là biết chắc (mối dây nối liền nàng với đứa trẻ chưa dứt): thấy sữa ứ
lên bầu vú, nàng biết ngay con đang đói.
Nàng biết nó sẽ khóc thét trước khi
nàng kịp đến gần phòng trẻ. Và quả thực, nó đang khóc. Nghe tiếng khóc, nàng
rảo bước. Nàng càng vội, nó càng khóc to hơn. Giọng nó tốt, khoẻ nhưng có vẻ
đang đói và giục giã.
- Em khóc lâu chưa? - nàng hỏi vú
nuôi, ngồi xuống ghế tựa và cởi nịt vú ra. - Đưa em đây cho tôi, nhanh lên. ồ,
chị đến là nhiễu sự! Chị buộc dải mũ cho nó sau cũng được.
Đứa bé khóc nhiều khản cả cổ.
- Cứ nhẩn nha mợ ạ, - Agafia
Mikhailovna nói, bà ta gần như không lúc nào rời phòng trẻ.
- Phải mặc cho tươm tất chứ. Âu! âu!
- Bà ta ầm ừ dỗ đứa trẻ, không để ý tới người mẹ.
Chị vú nuôi ẵm đứa bé lại cho Kitty.
Agafia Mikhailovna theo sau, mặt hớn hở, âu yếm.
- Nó quen tôi, nó quen tôi đấy. Nó
nhận ra tôi, thật đấy, thật như Chúa trời có thật vậy, Ecaterina Alecxandrovna
ạ, - bà ta nói, tiếng còn to hơn cả tiếng khóc thét của thằng bé.
Nhưng Kitty không nghe bà ta nói. Sự
sốt ruột của nàng tăng lên cùng lúc với sự sốt ruột của đứa trẻ.
Sự nôn nóng đó làm cả hai hồi lâu
không đạt tới mục đích. Đứa trẻ không bú trúng đầu vú và càng gắt tợn.
Rốt cuộc, sau khi đứa bé sặc sụa
lồng lộn bú trượt lần cuối vào khoảng không, mọi sự đi đến chỗ ổn thoả. Hai mẹ
con tự nhiên nguôi dịu, cùng nín lặng.
- Tội nghiệp thằng bé, mồ hôi mồ kê
đầm đìa, - Kitty khẽ nói và sờ nắn đứa trẻ.
- Tại sao u cho là em nhận ra u? -
nàng nói và ghé nhìn đôi mắt đứa bé như đang ranh mãnh - nàng cho là thế - liếc
mẹ dưới chiếc mũ sụp xuống tận rán, nhìn đôi má xinh xắn đang phập phồng đều
đặn và bàn tay bé tí tẹo đỏ hồng đang quơ tròn.
- Không có lẽ! Nếu nó nhận ra ai thì
chỉ là tôi thôi! - Kitty nói và mỉm cười.
Nàng mỉm cười vì tuy phủ nhận điều
đó, trong thâm tâm nàng vẫn biết không những nó nhận ra Agafya Mihailôpna mà
còn hiểu biết và nhận ra tất cả, kể cả những cái không ai biết và chính nàng,
mẹ nó, cũng phải nhờ nó mới biết và hiểu ra. Đối với Agafia Mikhailovna, với vú
nuôi, với ông nó, ngay với cả bố nó, Mitia là một sinh thể mới chỉ đỏi hỏi
những chăm chút vật chất thôi, nhưng riêng mẹ nó từ lâu đã xem nó như một nhân
cách tinh thần có những liên hệ trí tuệ phức tạp với nàng.
- Khi nào em dậy rồi mợ sẽ thấy. Tôi
chỉ cần ra hiệu thế này là mặt nó sáng ngời lên, cái chú bé kháu khỉnh này.
Thật y như mặt trời mọc ấy!
- Thôi được, thôi được, rồi sau sẽ
hay, - Kitty khẽ nói. - Bây giờ u hãy đi ra, em ngủ đấy.
Chương
7
Agafia Mikhailovna rón rén đi ra;
chị vú nuôi hạ rèm cửa, đuổi mấy con ruồi đã chui vào màn nôi và cả con ong bầu
vẽ húc đầu vào cửa kính, rồi ngồi xuống và phe phẩy trên đầu hai mẹ con một
nhành bạch dương chớm héo.
- Nóng quá! Giá ông trời mưa xuống
một tí nhỉ, - chị ta nói.
- Ừ, ừ, suỵt…- Kitty nói, khẽ lắc lư
người và âu yếm ghì lấy cánh tay nhỏ bé, mũm mĩm như có sợi chỉ buộc ngấn cổ
tay vẫn đang ngọ nguậy của Mitia, thằng bé khi thì nhắm mắt, lúc lại hé mở.
Cánh tay bé nhỏ đó làm Kitty bối rối: nàng thèm hôn nhưng lại sợ con thức giấc.
Cuối cùng, cánh tay bé nhỏ thôi ngọ ngậy và đôi mắt nhắm lại. Tuy nhiên, thỉnh
thoảng, chú bé lại tiếp tục bú và dướn đôi hàng mi dài cong lên nhìn mẹ: đôi
mắt ươn ướt của nó đen láy trong khoảng tranh tối tranh sáng. Chị vú nuôi thôi
phe phẩy cành bạch dương và gà gà ngủ. Từ gác trên vang xuống giọng nói của lão
quận công và tiếng cười của Katavaxov.
"Vắng mình chuyện vẫn rôm rả,
Kitty thầm nghĩ, nhưng kể cũng tiếc là Koxtia không có nhà. Chắc chàng còn đến
vườn nuôi ong. Chàng cứ đi luôn, kể cũng buồn, nhưng mình vẫn bằng lòng. Như
thế chàng mới khuây khoả. Độ này, chàng vui và khoẻ hơn dạo mùa xuân. Dạo ấy,
chàng lầm lì, buồn phiền đến nỗi mình đâm lo. Chàng đến là ngộ nghĩnh! Nàng mỉm
cười thì thầm.
Nàng hiểu cái gì đã giày vò chồng.
Đó là sự vô tín ngưỡng. Nếu ai hỏi ở thế giới bên kia, kẻ vô tín ngưỡng có được
cứu vớt linh hồn không, nàng ắt trả lời là không, ấy thế mà sự vô tín ngưỡng
của chồng không hề làm nàng đau khổ: một mặt thừa nhận rằng kẻ vô đạo không
được cứu vớt linh hồn, mặt khác lại yêu quý linh hồn chồng hơn mọi thứ trên
đời, nàng mỉm cười thầm nghĩ tới sự vô tín ngưỡng của chồng và tự nhủ chàng
thật là ngộ nghĩnh.
"Vì sao chàng đọc triết học
hoài, hết năm này sang năm khác? Nàng thầm nghĩ. Nếu mọi chuyện đều có trong
sách, làm gì chàng chẳng hiểu. Nhưng nếu sách chỉ nói những điều dối trá thì
đọc làm gì? Chính chàng cũng nói là muốn tin đạo. Thế thì tại sao chàng lại
không tín ngưỡng? Chắc chàng suy nghĩ nhiều quá chăng? Và nếu chàng suy nghĩ
nhiều quá, đó là vì chàng cô độc. Chàng bao giờ cũng cô độc. Có những chuyện
chàng không thể nói với bọn mình được. Mình chắc hai ông khách này sẽ làm chàng
vui thích, nhất là Katavaxov. Chàng vốn thích tranh luận với ông ta", nàng
thầm nghĩ và lập tức nhớ tới việc xếp đặt chỗ ở cho Katavaxov: nên sắp xếp cho
ông ấy ngủ riêng hay ngủ cùng buồng với Xergei Ivanovich đây? Ngay lúc đó, một
ý nghĩ khiến nàng giật mình, đụng vào Mitia khiến nó gườm gườm nhìn nàng. "Hình
như Pratxca vẫn chưa mang đồ giặt về. Thế là thiếu vải trải giường cho khách.
Nếu mình không mó tay vào, khéo Agafia Mikhailovna đưa cho Xergei Ivanovich vải
trải giường dùng dở mất thôi…" Chỉ nghĩ tới việc đó, máu đã dồn lên mặt.
"Mình phải đi thu xếp mới được", nàng quyết định và trở lại những ý
nghĩ lúc đầu, nàng sực nhớ mình đang suy nghĩ dở chừng về một vấn đề tâm tình
quan trọng và cố moi trong đầu xem đó là chuyện gì. "À phải, Koxtia là
người vô tín ngưỡng", nàng mỉm cười nhớ lại.
"Mặc kệ! Mình thích chàng cứ
mãi mãi như thế, còn hơn như bà Stan hoặc như mình đã làm hồi ở nước ngoài. ít
nhất, chàng cũng không bao giờ đạo đức giả".
Và một hành động nhân từ mới đây của
chồng trở lại rõ ràng trong đầu nàng. Hai tuần trước, Stepan Ackađich viết cho
vợ một bức thư sám hối. Ông van xin bà cứu vớt danh dự bằng cách bán trại ấp để
trang trải công nợ cho ông. Đôly đã đến nước tuyệt vọng: bà căm ghét, khinh bỉ
chồng, rồi lại thương hại; sau đó, bà quyết định li hôn và cự tuyệt yêu cầu đó
nhưng rồi cuối cùng, cũng bằng lòng bán đi một phần ruộng đất. Kitty bất giác
nở một nụ cười xúc động khi nhớ lại thái độ lúng túng của chồng, tất cả những
cung cách vụng về rào đón để cuối cùng để nghị với nàng một biện pháp duy nhất,
bất ngờ đối với Kitty, nhằm giúp đỡ Đôly mà không làm bà mếch lòng: nhường lại
phần tài sản của họ cho bà.
"Vô đạo ư? Với tấm lòng như
vậy, chỉ sợ xúc phạm đến bất cứ ai, kể cả đứa trẻ con, thế mà là vô đạo à? Tất
cả vì người khác, không dành lại chút gì cho mình cả.
Xergei Ivanovich coi chàng như quản
gia của anh ấy. Cả bà chị cũng vậy. Giờ đây, Đôly và các cháu lại nhờ vả chàng.
Chàng tự đặt cho mình nhiệm vụ giúp đỡ tất cả những nông dân hàng ngày đến gặp
chàng… Phải, chỉ cần con giống được như bố, mẹ chỉ mong có thế thôi", nàng
kết luận, đôi môi hôn nhẹ lên má con và đưa Mitia cho vú nuôi.
Chương
8
Kể từ lần đầu tiên, bên người anh
hấp hối, Levin chuyển sang nhìn vấn đề sống và chết theo cái quan điểm mới
(chàng gọi như vậy), mà, vào khoảng từ hai mươi đến ba mươi tư tuổi, đã dần dà
thay thế cho tín ngưỡng hồi thơ ấu và thanh niên, chàng thấy cái chết không làm
cho chàng hoang mang bằng sự sống. Chàng hoàn toàn không biết gì về nguồn gốc,
mục đích và bản chất sự sống. Cơ thể, sự huỷ diệt của cơ thể, sự bất diệt của
vật chất, luật bảo tồn năng lượng, sự tiến hoá: đó là những danh từ đã thay thế
cho tín ngưỡng cũ của chàng. Những danh từ đó cùng những khái niệm liên quan
đều rất tốt về phương diện tri thức; nhưng trong cuộc sống, những danh từ đó
thật vô ích và Levin cảm thấy như đột nhiên rơi vào cảnh huống một người vừa
đem đổi cái áo choàng lót lông ấm áp lấy một cái áo the và lần đầu tiên, trong
không khí giá buốt, đành phải thừa nhận, không phải qua suy luận mà bằng cảm
giác toàn thân, rằng mình gần như trần truồng và không thể tránh khỏi cái chết
đau đớn.
Kể từ đó, mặc dầu không tự giác và
vẫn tiếp tục sống như trước, Levin luôn luôn hiếp sợ vì sự ngu dốt của mình.
Hơn nữa, chàng mơ hồ cảm thấy cái mà
chàng gọi là quan điểm mới, ngoài sự bất tri, còn thể hiện một chiều hướng tư
duy khiến chàng không hiểu nổi những điều cần hiểu.
Lúc đầu, việc hôn nhân cùng những
niềm vui và bổn phận mới mẻ đã lấn át những ý nghĩ đó; nhưng thời gian gần đây
sống nhàn rỗi ở Moskva, sau lần sinh đứa con, Levin cảm thấy một nhu cầu ngày
càng thường xuyên và cấp bách là phải giải quyết vấn đề kia.
Vấn đề đặt ra như sau: "Nếu ta
không thừa nhận sự giải đáp của đạo Cơ đốc đối với các vấn đề của cuộc sống thì
ta sẽ thừa nhận cách giải đáp nào?". Và trong cả cái kho tín niệm của
mình, không những chàng không thể tìm được câu giải đáp nào mà ngay cả một cái
gì từa tựa như thế cũng chẳng có nốt.
Chàng giống như người đi tìm thức ăn
ở một cửa hàng đồ chơi hoặc một kho vũ khí.
Giờ đây, một cách không tự giác và
vô ý thức, chàng đi tìm trong mỗi cuốn sách, mỗi lần trò chuyện, mỗi con người,
những mối liên quan và cách giải đáp những vấn đề kia.
Điều làm chàng ngạc nhiên và thất
vọng hơn cả, là đa số những người cùng môi trường và cùng lứa tuổi với chàng,
sau khi đánh đổi tín ngưỡng cũ lấy quan điểm mới như chàng, vẫn không hề vì thế
mà khổ hơn, vẫn hoàn toàn an tâm và mãn nguyện. Cho nên, bên cạnh vấn đề trung
tâm đó, Levin còn băn khoăn với những câu hỏi khác: những người đó có thành
thực không? Họ có đóng kịch không hoặc giả, khác với chàng, họ đã hiểu rành rọt
hơn những câu giải đáp do khoa học mang lại cho những vấn đề chàng đang quan
tâm chưa? Và chàng lao vào chuyên tâm nghiên cứu cả những ý kiến của họ lẫn
những sách báo nêu lên các câu giải đáp.
Từ khi lăn vào tìm tòi, chàng chỉ
phát hiện ra một điều duy nhất: chàng đã lầm khi cùng các bạn đồng môn ở Đại
học võ đoán là tôn giáo hết thời rồi. Tất cả những người thân thuộc mà đời sống
khiến chàng khâm phục đều có tín ngưỡng. Cả lão quận công, cả Lvov, cả Xergei
Ivanovich và tất cả phụ nữ đều tín ngưỡng; vợ chàng cũng tín ngưỡng như bản
thân chàng lúc thiếu thời đã từng tín ngưỡng; chín mươi chín phần trăm nhân dân
Nga, toàn thể dân tộc mà cuộc sống gợi cho chàng niềm tôn kính chân thành, đều
tín ngưỡng.
Sau khi đọc rất nhiều sách, chàng có
thể yên trí là những người đồng ý với mình đều không coi quan điểm đó có ý
nghĩa gì đặc biệt cả: họ chỉ cần phủ nhận những vấn đề đó là đủ, trong khi
chàng cảm thấy mình không thể sống nổi nếu không tìm ra cách giải đáp, và họ ra
sức giải quyết những vấn đề khác mà chàng không hơi đâu quan tâm tới, thí dụ sự
tiến hoá của cơ thể, cách giải thích cơ học về linh hồn, v.v…
Hơn nữa, trong thời gian vợ đẻ, một
điều kì lạ đã xảy ra. Chàng, con người vô tín ngưỡng, chàng đã cầu nguyện và
trong lúc cầu nguyện, chàng đã tín ngưỡng. Nhưng giây phút đó vụt qua đi và
chàng không thể gán cho cái tâm trạng thoáng qua đó một vị trí nào trong cuộc
sống hiện nay của mình.
Chàng không thể thừa nhận là hồi đó
mình đã nắm được chân lí rồi trở lại sai lầm, vì mỗi lần bình tĩnh nghĩ lại thì
tất cả đều vụn ra như cám; chàng cũng không thể thừa nhận là lúc đó mình lầm
lẫn vì chàng luôn quý trọng những giờ phút quá khứ đó: nếu coi đó là yếu đuối,
chẳng hoá ra bôi nhọ giây phút đó sao. Chàng đau đớn thấy mình tự mâu thuẫn với
mình, và vươn hết sức lực tâm hồn để thoát khỏi tình trạng đó.
Chương
9
Những tư tưởng đó dằn vặt chàng lúc
dữ dội, lúc dịu đi, nhưng không bao giờ buông tha hẳn. Chàng đọc sách và suy
nghĩ, nhưng càng đọc sách và suy nghĩ, càng thấy xa cái mục đích hằng theo
đuổi. Thời gian gần đây, ở Moskva và ở nông thôn, đinh ninh là không thể tìm
thấy lời giải đáp ở những nhà duy vật, chàng đọc lại Platon, Xpinôza, Kăng,
Selinh, Heghen và Xcôpenhao, những triết gia tìm cách giải thích cuộc sống ở
cái khác ngoài vật chất. Chàng thấy những tư tưởng đó chỉ phong phú khi dùng để
bác bỏ học thuyết khác, đặc biệt những học thuyết duy vật; nhưng mỗi khi dùng
để giải đáp vấn đề, chàng bao giờ cũng thấy mình đứng nguyên chỗ cũ. Sau phần
định nghĩa dài dặc những danh từ mơ hồ như: tinh thần, ý chí, tự do, thực chất,
cố ý tự gieo mình vào cái cạm-bẫy-danhtừ do các triết gia dăng ra hoặc tự mình
dăng ra, chàng thấy hình như bắt đầu hiểu ra ít nhiều. Nhưng chỉ cần quên quá
trình giả tạo đó của tư tưởng và quay lại tiếp xúc với cuộc sống, quay lại
những cái làm chàng mãn nguyện khi suy nghĩ theo một đường dây định sẵn, là đột
nhiên tất cả cái dàn dáo giả tạo đó sụp đổ như toà lâu đài bằng quân bài giấy
và chàng thấy rõ toà dinh thự đó chỉ xây bằng những danh từ được di chuyển vị
trí, thiếu sự trợ lực của một cái gì trong cuộc sống còn quan trọng hơn lí tính.
Một hôm, nhân đọc Xcôpenhao, chàng
đã thử thay thế cái ông ta gọi là ý chí bằng tình yêu và triết học mới này làm
chàng yên tâm được vài ngày trước khi từ bỏ nó; nhưng khi trở về tiếp xúc với
cuộc sống, chàng quay lại nhìn thì nó cũng sụp đổ như mọi triết học khác: chàng
thấy nó cũng giống bộ quần áo the, không sao chống nổi cái rét.
Ông anh Xergei Ivanovich khuyên
chàng đọc những trước tác thần học của Khomiacov, Levin liền đọc tập hai của
tác phẩm đó và mặc dầu cái giọng luận chiến cùng bút pháp kiểu cách lúc đầu làm
chàng chán ghét, chàng vẫn xúc động vì học thuyết của ông ta về giáo hội. Thoạt
đầu, chàng ngạc nhiên chú ý tới ý kiến cho rằng sự giác ngộ chân lí thần thánh
không phải dành cho một người, mà cho khối cộng đồng những người gắn bó với nhau
bằng tình yêu, tức là giáo hội. Sau đó, chàng vui sướng với ý kiến cho rằng cứ
tin ở một giáo hội sống, liên kết mọi tín ngưỡng của tín đồ, có Chúa đứng đầu,
do đó, là một giáo hội thần thánh, không thể lầm lỗi, rồi sau mới tiếp thu lời
răn dạy của giáo hội về Chúa, sự sáng thế, sự sa ngã và sự chuộc tội, làm thế
dễ dàng hơn là bắt đầu bằng tín Chúa, một đức Chúa Trời thần bí và xa xôi, sự
sáng thế v.v… Nhưng ít lâu sau, đọc xong hai quyển lịch sử giáo hội, quyển thứ
nhất do một nhà văn Cơ đốc giáo viết và quyển kia do một nhà văn Chính giáo
viết, chàng nhận thấy hai cái giáo hội căn bản không thể lầm lỗi đó đã phủ định
lẫn nhau: trước mắt chàng, cả học thuyết của Khomiacov cũng mất nốt vẻ lí thú
và toà kiến trúc đó tan thành tro bụi như những kiến trúc khác của mọi triết
gia.
Suốt mùa xuân, chàng không còn là
chàng nữa và phải trải qua những giây phút khủng khiếp.
"Nếu không biết mình là cái gì
và tại sao mình tồn tại, thì quả là không thể sống được. Và mình không biết
điều đó, vậy mình không thể sống được", Levin tự bảo.
"Trong khoảng vô tận của thời
gian, vật chất và không gian, một bong bóng hữu cơ đã hình thành, tồn tại ít
lâu, rồi nổ vỡ. Và cái bong bóng đó… chính là ta".
Lời nguỵ biện đau đớn đó là kết quả
duy nhất và cuối cùng của những suy tưởng hàng trăm năm nay của con người trên
bước đường đó.
Đó là niềm tin tối hậu nâng đỡ toàn
bộ những tìm tòi của trí tuệ con người trong hầu khắp các ngành. Đó là niềm xác
tín bao trùm và giữa tất cả những cách giải thích khác, Levin tự mình cũng
không hiểu vô hình chung, chàng đã thấm nhuần cách giải thích đó từ lúc nào và
như thế nào, chắc hẳn vì đó là cách giải thích rõ ràng nhất.
Song, đó không chỉ là một lời nguỵ
biện mà còn là sự nhạo báng bỉ ổi của một thế lực yêu quái và thù địch mà ta
không có quyền khuất phục. Phải tự giải thoát khỏi thế lực đó. Và sự giải thoát
đó vừa tầm khả năng mỗi người. Phải chấm dứt sự chế ngự của thế lực xấu xa đó.
Chỉ còn một phương tiện duy nhất: cái chết.
Và người bố của gia đình hạnh phúc
đó, con người khoẻ mạnh đó nhiều lần đã suýt tự tử, đến nỗi phải cất giấu từ
sợi dây nhỏ nhất e có lúc nảy ra ý định thắt cổ và mỗi lần cắp súng đi săn, lại
sợ sẽ tự bắn vào sọ mình.
Nhưng Levin không tự tử và tiếp tục
sống.
Chương
10
Khi tự hỏi mình là cái gì và tại sao
mình sống, Levin không tìm ra được câu trả lời và đâm tuyệt vọng; nhưng khi
thôi không đặt câu hỏi đó nữa, chàng lại cảm thấy như biết được mình là cái gì
và tại sao mình sống, vì chàng vẫn tuân theo một đường lối hành động kiên quyết
và chính xác, thời gian gần đây càng kiên quyết và chính xác hơn.
Việc chàng quay về đồng ruộng dạo
đầu tháng sáu cũng là quay về những công việc thường lệ của mình. Công việc sản
xuất của ấp trại, quan hệ với nông dân và láng giềng, việc trông nom nhà cửa,
những công việc của ông anh, bà chị mà chàng phải cáng đáng, những liên hệ với
vợ và họ hàng, đứa con và thú say mê mới nuôi ong đã chiếm tất cả thời giờ của
chàng.
Sở dĩ bận rộn như thế, đó không phải
vì chàng muốn chứng minh sự đúng đắn của những công việc đó với chính mình bằng
quan điểm chung chung như thường làm trước đây: trái lại, phần chán nản vì thất
bại của những cố gắng trước kia nhằm phục vụ lợi ích công cộng, phần quá bận
bịu, mải mê dồn hết tâm lực vào những suy nghĩ và trăm công nghìn việc từ khắp
nơi đổ lên đầu, chàng đã hoàn toàn dứt bỏ những ý nghĩ về lợi ích công cộng và
giờ đây chàng quan tâm đến mọi hoạt động đó chỉ vì thấy hình như phải làm thế
và không có cách nào khác.
Xưa kia (điều này hầu như bắt đầu từ
hồi còn bé và càng đến tuổi trưởng thành, càng phát triển) khi cố gắng hoạt
động để đem lại lợi ích cho mọi người, cho nhân loại, cho nước Nga, cho xóm
làng, chàng thấy loại tư tưởng đó rất thú vị, nhưng sự hoạt động xuất phát từ
đó lại không làm chàng vừa ý: chàng không tin mình đã làm một công việc cần
thiết và sự hoạt động lúc đầu dường như rất quy mô ngày càng thu hẹp và rốt
cuộc chẳng còn gì; bây giờ, từ khi lấy vợ, chàng chỉ co lại sống cho bản thân,
mặc dầu không còn chút hứng thú gì khi nghĩ tới chuyện hoạt động, chàng lại tin
chắc mình đang hoàn thành một công việc cần thiết, đem đến những kết quả ngày
càng mãn ý và rồi đây sẽ càng phát triển.
Bây giờ, gần như ngược với ý muốn,
chàng như cái lưỡi cày, mỗi lúc một cắm sâu xuống đất và chỉ rút ra được sau
khi cày xong luống.
Sống như xưa kia cha mẹ và ông bà đã
sống, với một trình độ kiến thức nhất định, và ít nhiều có giáo dục con cái,
tất nhiên là cần. Nó cũng cần như đói bụng thì phải ăn; và cũng vì cần phải sửa
soạn bữa ăn nên phải quản lí sản xuất ở Pokhrovxcoie theo cách nào để có thể
sinh lợi. Cũng như vì cần phải trả nợ cha ông nên phải giữ gìn ruộng đất hương
hoả tổ tiên sao cho về sau, đứa con trai, khi thừa hưởng gia tài, cũng sẽ cảm
ơn chàng như Levin đã từng cảm ơn ông nội vì tất cả những gì Người đã xây dựng
và trồng trọt. Và muốn thế thì không được phát canh mà phải tự mình khai khẩn
ruộng đất, chăn nuôi súc vật, bón ruộng, trồng cây.
Chàng cũng không thể từ chối không
trông nom công việc của Xergei Ivanovich, của bà chị, của nông dân thường đến
hỏi han ý kiến, họ quen thế rồi: làm thế có khác nào từ bỏ đứa bé đã trót ẵm
trên tay. Chàng phải chăm lo đời sống đầy đủ cho chị vợ cùng các cháu trong
thời gian họ ở nhà chàng, cho cả vợ chàng cùng con trai, và ít nhất hằng ngày
cũng phải ở cạnh họ vài giờ.
Tất cả những cái đó cộng với việc
săn bắn và niềm say mê mới là nuôi ong đã choán đầy cái cuộc sống mà mỗi khi
suy nghĩ, chàng đều thấy chẳng có ý nghĩa gì.
Levin không những biết chắc những
công việc cần làm, mà còn biết chắc cả cách thức tiến hành cùng thứ bậc quan
trọng của những công việc đó nữa.
Chàng biết là phải thuê mướn thợ
thuyền càng rẻ càng tốt; tuy nhiên, không nên nô dịch họ bằng cách ứng trước
công non thấp hơn mức tiền công bình thường, mặc dù làm thế rất có lợi. Chàng
có thể bán rơm rạ khi nông dân thiếu cỏ ăn cho gia súc tuy rất thương họ; nhưng
chàng phải đóng cửa quán ăn và cửa hàng rượu, mặc dầu đó là một nguồn lợi. Phải
trừng phạt hết sức nghiêm khắc việc đốn gỗ, nhưng trái lại không thể phạt vạ
nông dân nếu gia súc của họ xâm phạm ruộng vườn chàng hoặc bắt giữ những gia
súc đó, mặc dầu tuần canh thường bực tức về chuyện đó.
Chàng có thể cho Petr vay tiền để
anh ta thoát khỏi nanh vuốt một tên cho vay nặng lãi, đòi mỗi tháng mười phân;
thế nhưng chàng không thể gia hạn hoặc miễn giảm cho những nông dân không nộp
địa tô. Chàng nhất định không tha thứ nếu quản lí lơ là không cho cắt hết
khoảnh đồng cỏ, nhưng lại tự ngăn cấm không đụng chạm tới tám mươi mẫu đã trồng
cây non. Nếu thợ bỏ về nhà giữa mùa gặp vì bố chết, Levin tuy trong lòng không
muốn vẫn khấu trừ tiền công những tuần lễ nghỉ việc; nhưng chàng tiếp tục trợ
cấp cho những đầy tớ già không làm được việc nữa.
Levin cũng hiểu là một khi về tới
nhà, nếu Kitty ốm, nhiệm vụ đầu tiên là phải thăm vợ; còn những nông dân đã chờ
chàng ba tiếng đồng hồ, hãy chịu khó chờ thêm lát nữa; mặt khác, tuy rất thích
gây tổ ong, chàng vẫn phải gác thú vui đó lại nhường cho ông già phụ trách vườn
ong làm việc đó một mình, để bàn luận với những nông dân đến gây phiền hà chàng
ngay giữa lúc bận bịu ấy.
Nhưng chàng không biết mình hành
động như vậy là đúng hay sai, và không những chàng không tìm lí lẽ tự bào chữa
mà còn tránh cả chuyện trò và suy nghĩ về vấn đề đó nữa.
Sự suy nghĩ dồn chàng đến chỗ nghi
hoặc và khiến chàng không nhìn thấy việc gì nên làm và không nên làm. Trái lại,
khi sống không suy nghĩ, chàng luôn cảm thấy trong tâm hồn có một viên quan toà
tối minh, chỉ cho thấy giữa hai việc có thể làm, đằng nào tốt hơn, và mỗi khi
hành động không đúng, chàng thấy ngay.
Cho nên chàng sống mà không tự biết
và thậm chí cũng không thấy khả năng có thể tự biết mình là cái gì và tại sao
mình lại sống trên trái đất này. Chàng khổ sở vì tình trạng không tự giác đó
đến nỗi sợ mình có thể đi tới chỗ tự tử, tuy nhiên chàng vẫn tiếp tục kiên
quyết vạch lấy con đường riêng trong cuộc sống.
Chương
11
Hôm Xergei Ivanovich đến
Pokhrovxcoie là một trong những ngày buồn bực nhất của Levin.
Đó là thời kì công việc bận rộn nhất
trong năm: thời kì mà toàn thể nông dân bộc lộ một tinh thần lao động quên mình
phi thường, không bao giờ thấy trong những hoàn cảnh sinh hoạt khác, tinh thần
này ắt được đánh giá rất cao nếu bản thân những người nêu cao gương đó cũng coi
trọng nó, nếu điều đó không lặp lại hằng năm và nếu kết quả của sự cố gắng đó
không đến nỗi quá mỏng manh.
Hái và gặt lúa đại mạch và yến mạch,
xe rơm về, cày lượt thứ hai, đập lúa, gieo lúa thu, mọi việc đó đều có vẻ giản
đơn và bình thường; nhưng muốn cho mọi việc xong kịp thời vụ, tất cả dân làng
từ già đến trẻ đều phải làm việc không ngừng ròng rã từ ba đến bốn tuần lễ với
cường độ gấp ba ngày thường, ăn uống chỉ có rượu kvat, hành tỏi và bánh mì đen,
vừa đập lúa vừa chở lúa ban đêm và mỗi ngày không ngủ quá hai, ba tiếng đồng
hồ. Và đó là việc hằng năm vẫn xảy ra trên khắp nước Nga.
Levin hầu như thường xuyên sống ở
nông thôn, vốn có quan hệ chặt chẽ với nông dân, đến vụ mùa cũng lây niềm phấn
khởi chung đó.
Sáng hôm đó, chàng đi trông coi việc
gieo lúa loã mạch và đánh đống lúa yến mạch; chàng trở về nhà lúc vợ và chị vợ
đã ngủ dậy, cùng uống cà phê với họ và lại đi bộ tới trại, ở đó sắp cho chạy
một máy xay lúa kiểu mới.
Suốt ngày, trong khi nói chuyện với
quản lí cùng bà con nông dân cũng như với vợ, với Đôly, lũ trẻ và bố vợ ở nhà,
Levin chả suy nghĩ về cái điều làm chàng bận tâm, mặc dầu đang phải lo toan
công việc trong cương vị chủ gia đình, và tất cả đều dẫn tới câu hỏi: "Ta
là cái gì? Ta đang ở đâu? Tại sao ta ở đây?"
Đứng trong một gian nhà kho mới lợp
lại, hàng rào cây trăn còn phủ đầy lá thơm được cột chặt với những thân hoàn
diệp liễu đã tước vỏ dùng để đỡ mái rạ, Levin hướng tầm mắt qua cánh cửa mở toang,
ở đó lớp bụi khô và hắc từ chỗ xay lúa đang quay cuồng thốc vào, khi nhìn lớp
cỏ trên khu đất rào kín chói lọi ánh nắng nóng bỏng và đống rơm tươi vừa ở kho
đưa ra, khi nhìn đàn chim én bụng trắng và đầu lốm đốm đến núp dưới chái nhà,
chiêm chiếp kêu hoặc đập cánh bay tới đậu trong lỗ cửa con khoét ở cánh cổng,
khi lại nhìn đám đông chen chúc trong nhà kho tối tăm và bụi mù, và những ý
nghĩ kì lạ đến với chàng.
"Mọi công việc này liệu có ích
gì? Chàng thầm nghĩ. Tại sao mình lại đứng gác ở đây mà thúc ép họ làm việc?
Tại sao bọn họ đều lăng xăng để tỏ vẻ tận tâm trước mặt mình? Bà lão Matriôna
này mình biết rất rõ (mình đã thuốc men chạy chữa cho bà khi bà bị một cái rầm
nhà rơi xuống người trong đám cháy), tại sao bà ta làm cật lực như vậy? Chàng
thầm nghĩ vànhìn bà lão nông dân xương xẩu đang giạng đôi chân cháy nắng, gò
người trên nền sân phơi gồ ghề, cào thóc. Bà ta giờ đã khỏi, nhưng nay mai hoặc
mươi mười năm nữa, người ta sẽ chôn bà và sẽ chẳng gì còn lại nơi bà và cả nơi
cô gái đỏm dáng trong chiếc váy ngắn vải đỏ kia, cái cô đang gạt rơm khỏi vỏ
trấu, động tác thật khéo léo và uyển chuyển biết bao. Cả cô ta nữa, người ta
cũng sẽ chôn cô và con ngựa lang trắng kia sẽ đi đời sớm hơn, chàng thầm nhủ và
ngắm con ngựa chở nặng luôn hít không khí bằng đôi lỗ mũi nở to và tiến bước
chậm chạp kéo theo sau cái bánh xe nghiêng nghiêng. Cả con ngựa đó, người ta
cũng sẽ chôn nó, cũng như sẽ chôn anh chàng thợ xay Fedor kia với bộ râu xoắn
tít đầy vỏ trấu và chiếc sơ mi rách hở ra cái vai trắng. Nhưng giờ đây, anh ta
đang cởi bó lúa, sai bảo hò hét đám phụ nữ và nhanh nhẹn chỉnh lại dây da
chuyền ở tay lái. Và nhất là, người ta cũng sẽ chôn cả mình và không còn lại
chút gì nữa. Vậy thì, liệu có ích gì?"
Bụng nghĩ vậy, nhưng chàng vẫn nhìn
đồng hồ để tính số lượng lúa xay trong một giờ. Chàng cần biết số lượng đó để
ấn định công việc trong ngày.
"Thế là sắp được một giờ mà mới
bắt đầu xay đến đống lúa thứ ba", Levin nhận xét. Chàng lại gần gã thợ xay
và nói to át cả tiếng máy chạy rầm rầm, bảo anh ta mỗi mẻ đổ thóc vơi hơn.
- Fedor, anh đổ nhiều thóc quá! Anh
thấy không, nó tắc lại và không chạy được nữa. San đều nữa ra!
Đen nhẻm dưới lớp bụi dính bết vào
bộ mặt ướt đẫm mồ hôi, Fedor kêu lên câu gì đó để trả lời, nhưng không làm theo
lời Levin chỉ dẫn. Chàng đến gần thùng xay, gạt Fedor ra và tự mình đổ thóc
vào.
Sau khi làm việc tới bữa ăn trưa của
nông dân vào một lát sau đó, chàng ra khỏi kho lúa cùng với gã thợ xay và bắt
chuyện với anh ta. Họ dừng lại cạnh một đống lúa loã mạch chất cẩn thận, dành
cho vụ gieo hạt.
Gã thợ xay ở một làng xa tới, nơi
Levin đã thí nghiệm việc hợp tác sản xuất. Giờ đây, ruộng đất ở đó phát canh
cho một người cai chợ tên là Kirilov.
Levin lái câu chuyện sang vấn đề đó
và hỏi Fedor xem Platon, một nông dân giàu và tốt cùng làng với anh ta, có định
lĩnh canh ruộng đất của chàng không.
- Địa tô cao quá, Platon không làm
được đâu, ông Konxtantin Dimitrievich ạ, - gã nông dân trả lời, nhặt cuộng rơm
lọt vào giữa áo sơ mi và lồng ngực đẫm mồ hôi.
- Thế tại sao Kirilov lại làm được?
- Mitiuc ấy à? (Đó là cái tên tắt có
ý khinh miệt mà gã nông dân đặt cho lão cai chợ). Ông Konxtantin Dimitrievich
ạ, thằng cha ấy làm gì mà chẳng xoay xở được kia chứ? Hắn chỉ biết bóp nặn
người ta thôi. Hắn chẳng thương xót gì chiên lành, còn bác Focanitr (gã gọi ông
lão Platon như vậy) không phải là kẻ đi cứa cổ dân nghèo. Nơi thì bác ấy phát
canh cho chịu tô, nơi thì giảm tô. Thật chỉ vừa đủ thu về tiền vốn. Nhưng bác
ta cũng chỉ là con người.
- Tại sao ông ta lại làm như vậy?
- Ông Konxtantin Dimitrievich ạ, vì
mọi người không phải đều giống nhau; có người chỉ nghĩ đến lợi ích của mình,
như Mitiuc chỉ lo nhét cho đầy bụng; Focanitr thì khác: đó là một ông già có
phẩm cách. Bác ta sống cho linh hồn mình và không quên Chúa.
- Ông ta không quên Chúa! Ông ta
sống cho linh hồn! Anh định nói gì vậy? - Levin thốt ra gần như kêu lên.
- Thì chính ông cũng biết như tôi
đấy: như thế có nghĩa là bác ta sống theo chân lí, theo đạo Chúa. ồ, không, mọi
người không phải đều giống nhau. Cả ông nữa, ông cũng không làm gì có hại cho
đồng loại…
- Phải, phải, tạm biệt! - Levin nói,
nghẹn ngào và xúc động. Chàng quay lại cầm lấy chiếc can và rảo bước về nhà.
Khi gã nông dân nói Focanitr sống
"cho linh hồn, theo chân lí, theo đạo Chúa", những tư tưởng hỗn độn
nhưng quan trọng, từ ngóc ngách nào đó trong lòng chàng, chợt bật ra và xô cả
về một mục đích, quay cuồng trong đầu làm chàng loá mắt vì cái ánh chói ngời
của chúng.
Chương
12
Levin bước từng bước dài trên đường,
không chỉ chú ý tới những tư tưởng còn rối như tơ vò của mình, mà chính là tập
trung vào một tâm từ trạng trước từ tới nay chàng chưa hề trải qua.
Lời nói của gã mugich tác động đến
chàng theo kiểu một tia điện: nó đột nhiên biến hoá và kết hợp thành một khối
tất cả mớ tư tưởng rời rạc, linh tinh và bất lực vẫn không ngừng ám ảnh chàng.
Khi chàng nói chuyện phát canh ruộng đất, những tư tưởng này nằm sẵn trong óc
mà chàng chưa biết.
Chàng cảm thấy trong tâm hồn có một
cái gì mới mẻ và vui sướng dò dẫm yếu tố mới đó, nhưng vẫn chưa biết đó là gì.
"Không sống vì những dục vọng
của mình mà sống vì Chúa. Vì Chúa nào? Còn có lời nào khó lọt tai hơn câu anh
ta nói nữa? Không nên sống vì những dục vọng cá nhân: nói cách khác, không nên
sống vì những cái ta đã hiểu, vì những cái đang hấp dẫn ta, vì những cái ta thèm
muốn mà nên sống vì một cái gì đó không hiểu nổi, vì một đức Chúa không ai quan
niệm và xác định được. Vậy mà sao? Mình đã chẳng hiểu được lời nói khó nghe của
Fedor đấy sao? Mình có nghi ngờ sự xác đáng của lời nói đó không? Mình có thấy
lời nói đó là ngu xuẩn, mơ hồ, sai trái không?
"Không, mình hiểu lời nói đó,
đúng như anh ta đã hiểu, mình hoàn toàn hiểu và còn hiểu rõ hơn bất cứ điều gì
khác: mình chưa từng bao giờ nghi ngờ những lời đó. Và mình không phải là
trường hợp duy nhất: đó là điều duy nhất mỗi người đều hoàn toàn hiểu rõ, điều
duy nhất không ai nghi ngờ bao giờ.
"Fedor nói Kirilov sống vì cái
bụng anh ta. Thật dễ hiểu và hợp lí. Là con người có lí trí, ta không thể sống
cho cái gì khác ngoài cái bụng. Thế mà ngay sau đó, cũng lại anh chàng Fedor đó
nói sống vì cái bụng là không tốt, người ta phải sống vì chân lí, vì Chúa, và
anh ta chỉ nói nửa lời mình đã hiểu! Cả mình lẫn hàng triệu con người sống
trước đây hàng thế kỉ và hiện đang sống, những nông dân, những kẻ nghèo nàn về
trí tuệ cũng như những nhà hiền triết từng suy nghĩ và viết sách để nhắc lại
cùng một sự việc bằng cái ngôn ngữ tối mò của họ, tất cả chúng ta đều đồng ý về
điểm đó và chỉ về điểm đó thôi: về mục đích cuộc sống và điều thiện. Mình chỉ
có chung với những người khác một nhận thức minh bạch, vững vàng, không thể
nghi ngờ, và nhận thức đó không thể xác định bằng lí trí được: nó đứng ngoài lí
trí, không dựa trên nguyên lí nào và cũng không thể có kết quả nào kèm theo cả.
"Nếu điều thiện có một nguyên
nhân nào đó, nó thôi không còn là điều thiện nữa; nếu nó có một kết quả là sự
đền bồi, nó cũng không phải là điều thiện. Cho nên điều thiện đứng ngoài mọi
tương quan, từ nguyên nhân đến kết quả.
"Điều đó mình đã biết và tất cả
chúng ta đều biết.
"Thế mà mình lại chờ đợi những
phép thần kì, mình cứ phàn nàn không được thấy những phép thần kì đủ sức thuyết
phục mình! Một phép thần kì vật chất có lẽ sẽ quyến rũ ta. Và đây, phép thần kì
duy nhất có thể có và hằng có; nó bao bọc khắp phía, thế mà mình không nhận ra!
"Liệu còn phép thần kì nào to
lớn hơn nữa không?
"Phải chăng mình đã tìm ra lời
giải đáp? Những đau khổ của mình sắp chấm dứt rồi chăng?", Levin thầm
nghĩ, chân bước trên con đường lấm cát bụi, chẳng còn biết gì là nóng nực và
mệt mỏi, chìm đắm trong cái cảm giác là những đau khổ dai dẳng của mình đang
dịu dần. Cảm giác đó làm lòng chàng tràn ngập một niềm vui lớn đến nỗi không
dám tin là thật. Chàng bồi hồi xúc động; không đủ sức đi xa hơn nữa, chàng rẽ
vào một khu rừng và ngồi xuống đám cỏ cao dưới bóng một khóm cây hoàn diệp
liễu. Chàng bỏ mũ ra cho vầng trán đẫm mồ hồi thoáng mát và chống khuỷu tay nằm
dài trên đám cỏ rậm ứ nhựa.
"Phải, mình cần làm sáng tỏ mọi
ý nghĩ, cần hiểu cho ra nhẽ", chàng thầm nghĩ, mắt đăm đăm nhìn đám cỏ
tươi, theo dõi cử động của một con bọ rầy nhỏ xanh xanh đang leo dọc một nhánh
cỏ may và bị đọt lá chặn lại trong khi leo lên. "Mình đã khám phá ra điều
gì? Chàng tự hỏi và gạt đọt lá chặn lối con bọ rầy rồi uốn cong một ngọn cỏ
khác cho nó bò lên. Cái gì đã mang lại cho mình niềm vui sướng như thế này?
Mình đã khám phá được điều gì?
"Xưa kia, mình nói trong cơ thể
mình cũng như trong cơ thể cái cây này, con bọ rầy này (kìa, nó lại không muốn
leo lên ngọn cỏ mình vít xuống cho, nó dang cánh và bay đi rồi), đang hoàn
thành một sự giao lưu vật chất theo những định luật vật lí, hoá học và sinh lí.
Và trong tất cả chúng ta, kể cả những cây hoàn diệp liễu, những đám mây và
những đám tinh vân, đều diễn ra một quá trình tiến hoá. Tiến hoá xuất phát từ
đâu? Để đi tới đâu? Tiến hoá không ngừng và đấu tranh… Tưởng như tiến hoá và
đấu tranh có thể tiếp diễn vô cùng tận! Và mình từng ngạc nhiên là, mặc dầu trí
tuệ đã cố gắng tột cùng theo hướng đó, mình vẫn không khám phá ra ý nghĩa cuộc
sống, ý nghĩa những xung động và khát vọng của mình. Hiện giờ, mình nói đã tìm
thấy ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa những xung động và khát vọng của mình. Hiện
giờ, mình nói đã tìm thấy ý nghĩa cuộc sống: sống vì Chúa, vì linh hồn mình. Và
mặc dầu ý nghĩa đó rất rõ ràng, nó vẫn bí hiểm, thần kì. Tất cả những gì tồn
tại đều như vậy.
"Mình chẳng phát hiện được gì
hết. Mình chỉ phát hiện ra điều mình đã biết. Mình đã hiểu được sức mạnh trước
đây từng cho mình cuộc sống và hiện nay vẫn còn cho mình cuộc sống. Mình đã
thoát khỏi lừa lọc, mình đã nhận ra người chủ của mình".
Và chàng gợi lại một cách tóm tắt
tất cả quá trình tư tưởng của mình trong hai năm qua: từ ngày ý nghĩ về cái
chết nhập vào đầu khi ở cạnh người anh yêu quý mắc bệnh không thể chữa khỏi.
Sau lần đầu tiên hiểu rõ, như mọi
người khác, là trước mặt chỉ có đau khổ, cái chết cùng sự quên lãng vĩnh viễn,
chàng đã khẳng định: không thể sống như vậy và phải, hoặc là tự giải đáp vấn đề
cuộc sống sao cho nó không còn xuất hiện như sự giễu cợt cay độc của hồn ma nào
đó, hoặc là tự sát quách đi.
Song le, cả hai việc đó chàng đều
không làm: chàng vẫn tiếp tục sống, suy nghĩ và cảm giác, hơn nữa, còn lấy vợ,
trải qua nhiều hoan lạc và khi nào không suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống thì
chàng đều sung sướng.
Thế nghĩa là thế nào? Thế nghĩa là
chàng sống đúng nhưng nghĩ sai.
Chàng sống (một cách không tự giác)
theo những chân lí tinh thần đã bú theo cùng với sữa mẹ, còn khi suy nghĩ thì
không những chàng phủ nhận mà còn thận trọng lảng tránh những chân lí đó.
Hiện giờ, chàng thấy rõ sở dĩ mình
sống nổi, đó chỉ là nhờ vào tín ngưỡng đã được dạy dỗ.
"Mình sẽ trở thành người thế
nào và sẽ sống ra sao nếu không thấm nhuần tín ngưỡng đó, nếu không hiểu là
phải sống vì Chúa, chứ không phải vì dục vọng? Hẳn mình sẽ ăn cắp, lừa dối,
giết người. Mình sẽ hoàn toàn không biết đến tất cả những gì tạo nên nguồn vui
chính của cuộc đời". Và mặc dầu hết sức cố gắng tưởng tượng, chàng vẫn
không hình dung nổi mình sẽ thành con-người-thú-vật như thế nào nếu không hiểu
vì sao mà sống.
"Mình đi tìm một câu giải đáp
cho vấn đề đang bận tâm. Và sự suy nghĩ không thể đem đến lời giải đáp, vì giữa
suy nghĩ và vấn đề này lại không có chung một thước đo. Chính bản thân cuộc đời
đã đem lại cho mình lời giải đáp do chỗ mình hiểu thế nào là cái thiện và thế
nào là cái ác. Và hiểu biết đó không phải tự mình kiếm ra, nó được ban cho mình
cũng như cho tất cả những người khác, nói là được ban cho vì mình không tài nào
tìm thấy nó ở bất cứ nơi nào.
"Thử hỏi mình có thể tìm thấy
nó ở đâu? Có phải lí trí đã chứng minh cho mình thấy phải yêu thương đồng loại
chứ không nên áp bức họ? Người ta đã nói cho mình biết điều đó từ thời thơ ấu,
và mình vui sướng tin theo vì người ta đã diễn đạt hộ mình điều có sẵn trong
tâm hồn. Nhưng ai vạch cho ta thấy rõ điều đó? Không phải lí trí. Lí trí vạch
cho ta thấy cuộc cạnh tranh sinh tồn và cái quy luật đòi hỏi phải áp bức tất cả
những ai cản trở sự thoả mãn dục vọng của ta. Cái đó là suy diễn của lí trí. Lí
trí không dạy ta yêu thương đồng loại vì làm thế là điên rồ".
"Phải, đó là kiêu ngạo",
chàng thầm nhủ, quay người nằm sấp bụng xuống và thử lấy hai nhánh cỏ thắt nút
lại, thận trọng không để đứt.
"Không những chỉ là sự kiêu
ngạo của trí tuệ mà còn là sự ngu xuẩn của trí tuệ. Và nhất là… sự dối trá của
trí tuệ, không còn chữ nào khác nữa. Sự lừa lọc của trí tuệ, đúng thế",
chàng nhắc lại 1.
--------------------------------
1 Trong bản dịch Pháp văn của Sylvie
Luneau, chương này có một số đọn bị đảo lộn trạt tự một cách tuỳ tiện. Chúng
tôi đã đối chiếu nguyên bản để chỉnh lại
Chương
13
Và Levin nhớ tới một cảnh tượng gần
đây giữa Đôly và lũ con. Bọn trẻ được thả lỏng một mình đã chơi nghịch, đem bỏ
phúc bồn tử vào chén, đốt nến đun lên và bơm sữa vào mồm nhau. Bà mẹ bắt được
quả tang đã mắng chúng trước mặt Levin và giảng giải một thôi, nào những cái mà
chúng phá huỷ đó, người lớn phải tốn bao công sức mới có được, nào là vì chúng
mà người ta phải vất vả, nào là đánh vỡ chén thì sẽ không có gì ăn và chết đói.
Levin ngạc nhiên vì vẻ hoài nghi,
buồn bực và thản nhiên của lũ trẻ khi nghe mẹ nói. Chúng chỉ bực tức vì nỗi
buộc phải chấm dứt trò chơi thích thú như vậy, và không tin câu nào trong những
điều Đôly dạy bảo. Vì không hình dung nổi toàn bộ của cải được hưởng thụ, chúng
không thể hiểu nổi những cái chúng phá huỷ chính là những cái nuôi sống chúng.
"Tất nhiên là thế, chúng nghĩ
vậy, việc đó không có gì hay ho và quan trọng vì xưa nay vẫn thế và sau này lại
cứ thế. Và bao giờ cũng vẫn là cái trò lặp đi lặp lại. Bọn ta cần làm những
việc khác hơn là nghĩ về cái có sẵn: bọn ta muốn phát minh một cái gì mói mẻ và
của riêng ta. Thí dụ: đổ phúc bồn tử vào chén rồi đốt nến đun lên và bơm sữa
vào mồm nhau. Như thế mới thật thú vị và mới mẻ, và cũng không kém gì uống bằng
chén".
"Chúng ta đã chẳng làm giống
như vậy, chính mình đã chẳng làm giống như vậy khi tìm hiểu ý nghĩa những lực
lượng tự nhiên và ý nghĩa cuộc sống con người đó sao?", Levin tiếp tục suy
nghĩ.
"Và những lí luận triết học dẫn
dắt con người qua con đường tư tưởng kì quái hết sức phi tự nhiên đối với anh
ta, để đi tới nhận thức những điều anh ta biết từ lâu và biết một cách chắc
chắn đến nỗi thậm chí không có cái đó, anh ta sẽ không sống nổi, những lí luận
triết học đó đã chẳng làm giống như vậy sao? Trong sự phát triển lí luận của
mỗi triết gia, há chẳng rành rành là ông ta biết trước mục đích chủ yếu của
cuộc sống đích xác không hơn không kém gã mugich Fedor và dùng con đường lập lờ
nước đôi của trí tuệ rốt cuộc cũng chỉ để quay về điều ai nấy đều đã biết?
"Thử để mặc lũ trẻ kiếm ăn lấy,
làm ra bát đĩa, vắt bò sữa, v.v… liệu chúng có tiếp tục nghịch ngợm nữa không?
Không, chúng sẽ chết đói. Bây giờ thử để mặc chúng ta với những dục vọng và tư
tưởng của chúng ta, không có khái niệm gì về một đức Chúa duy nhất và sáng thế,
hoặc không có kiến thức gì về điều thiện và điều ác tinh thần xem…
"Không có những quan niệm đó,
cứ thử xây dựng bất kì cái gì xem có được không nào!
"Chúng ta chỉ biết phá huỷ, vì
ta đã no nê về tinh thần. Nhất là bọn trẻ con!
"Do đâu mình có được nhận thức
tốt đẹp như của người nông dân kia, mà chỉ có nó mới đem lại cho mình sự yên
tĩnh về tâm hồn? Mình đã vớ được nó ở đâu vậy?"
"Được giáo dưỡng theo đạo Chúa,
là một tín đồ suốt đời tràn đầy của cải tinh thần do đạo Cơ đốc ban cho, no nê
và sống nhờ vào những của cải đó, như một đứa trẻ vô ý thức, mình đang phá huỷ,
hoặc, đúng hơn, đang tìm cách phá huỷ cái mà mình nhờ vào để sống. Và chỉ trong
những giờ phút nghiêm trọng của cuộc đời như những đứa trẻ khi đói rét, mình
mới quay về với Người, và khác nào những đứa trẻ bị mẹ mắng vì nghịch bậy, mình
mới thấy những mưu toan kiểu con cưng của mình là chẳng đáng kể gì.
"Điều mình biết, không phải nhờ
lí trí mà biết được. Cái đó do Chúa ban cho, vạch cho mình thấy. Mình biết điều
đó là nhờ trái tim, nhờ lòng tin vào lời răn dạy chủ yếu của Giáo hội.
"Giáo hội? Giáo hội!",
Levin nhắc lại, xoay mình và tì lên khuỷu tay, đăm đăm nhìn đàn gia súc đang đi
xuống dòng sông đằng xa.
"Liệu mình có thể tin được tất
cả những điều Giáo hội răn dạy không?", chàng thầm nghĩ để tự thẩm tra và
điểm lại tất cả những gì có thể phá mất niềm thanh thản hiện nay. Chàng chủ tâm
dừng lại ở những giáo lí thường làm chàng hoang mang và tức tối hơn hết.
"Sự sáng thế? Nhưng mình sẽ cắt nghĩa sự sinh tồn thế nào đây? Bằng bản
thân sự sinh tồn ư? Không bằng cái gì cả à?… Ma quỷ và tội lỗi? Vậy mình sẽ cắt
nghĩa điều ác như thế nào?… Sự cứu thế?…
"Mình chẳng biết gì hết, chẳng
biết gì hết, và chỉ biết được những điều đã được truyền đạt cho mình cũng như
mọi người khác thôi".
Giờ đây, chàng có cảm tưởng không
giáo lí nào của Giáo hội có thể làm tổn thương điều chủ yếu: lòng tin ở Chúa, ở
điều thiện như là mục tiêu duy nhất của con người. Mỗi giáo lí của Giáo hội đều
ngụ ý rằng ta phải phục vụ chân lí hơn là phục vụ những dục vọng của mình. Và
mỗi giáo lí đó không những không làm tổn hại đến quy tắc sống này mà còn góp
phần thực hiện phép thần kì to lớn nhất vẫn thường xuyên hoàn thành trên trái
đất: cái phép thần kì giúp cho hàng triệu con người đủ các nguồn gốc: bậc hiền
triết và kẻ thiển trí, trẻ con và ông già, cho mọi người, từ gã nông dân đến
Lvov, Kitty, từ kẻ hành khất đến Nga hoàng, cùng hiểu biết chân lí chung và tạo
nên cuộc sống linh hồn - cái duy nhất đáng vì nó mà sống và đáng để ta coi
trọng.
Giờ đây chàng nằm ngửa nhìn lên bầu
trời thăm thẳm và quang mây. "Mình biết rõ đó là khoảng không gian vô tận,
mình vẫn hoàn toàn có lí khi chỉ thấy một vòm xanh lơ, kiên cố, có lí hơn rất
nhiều so với khi gắng nhìn thấy xa hơn".
Levin bèn ngừng suy nghĩ, lắng nghe
những tiếng nói thần bí trong nội tâm đang trao đổi về một điều gì vừa vui vẻ
vừa pha chút ưu tư.
"Đó là lòng tín ngưỡng
chăng?", chàng thầm nghĩ, không dám tin vào hạnh phúc của mình. "Lạy
Chúa tôi, xin cám ơn Người!", chàng vừa thầm thì nói, vừa nén những tiếng
nức nở dâng lên chẹn ngang cổ họng và lấy hai tay lau đôi mắt đẫm lệ.
Chương
14
Levin nhìn về phía trước mặt thấy
đàn gia súc ở xa, rồi đến cỗ xe thắng con Hắc mã đang đi lại. Tới gần đàn gia
súc, gã xà ích nói gì với gã chăn cừu; lát sau, chàng nghe thấy không xa chỗ
mình, tiếng bánh xe lăn và tiếng ngựa hí, nhưng chàng đang triền miên suy nghĩ
đến nỗi không buồn tự hỏi xem gã xà ích đến tìm mình có việc gì.
Mãi tới khi gã xà ích lên tiếng gọi
cách chàng có mấy bước, chàng mới như sực tỉnh.
- Bà sai tôi đến tìm ông. Ông anh
ông cùng một vị khách khác vừa về tới đây.
Levin trèo lên xe và cầm dây cương.
Hồi lâu, chàng vẫn chưa trấn tĩnh
lại được. Chàng như vừa bừng tỉnh sau một cơn mơ. Chàng nhìn con ngựa béo tốt,
cổ và ức đầy bọt mồ hôi ở chỗ dây cương cọ xát, nhìn gã xà ích Ivan ngồi cạnh
và sực nhớ ra: chàng đang chờ ông anh tới và Kitty hẳn lo lắng vì chàng đi lâu
quá. Chàng cố đoán xem vị khách cùng đi với ông anh là ai. Giờ đây, chàng hình
dung anh trai cũng như vợ và cả vị khách chưa biết tên kia khác hẳn trước.
Chàng có cảm tưởng từ nay về sau những quan hệ của chàng với mọi người cũng sẽ
thay đổi rất nhiều.
"Giờ đây, khoảng cách thường
ngăn chia mình với ông anh sẽ biến mất. Chúng ta sẽ không tranh luận nữa; mình
sẽ không cãi cọ với Kitty, cả với vị khách bất kể ông ta là ai: mình sẽ niềm nở
và tốt với đầy tớ, trước hết với gã Ivan này… Tất cả sẽ thay đổi".
Levin vừa ghìm cương con tuấn mã thở
phì phì đang nôn nóng muốn phi nhanh, vừa quay lại nhìn Ivan ngồi cạnh mình;
anh ta không biết dùng đôi bàn tay rỗi rãi vào việc gì, bèn ghì chặt vào người
chiếc áo ngoài căng gió. Levin tìm cớ để gợi chuyện. Chàng định bảo là anh ta
buộc dây đai đỡ càng xe chặt quá, nhưng câu đó giống như một lời trách mắng,
nên chàng tìm một đầu đề khác thân mật hơn. Chàng không nghĩ ra được điều gì.
- Ông nên đi tránh sang phải, có cái
gốc cây kia kìa, - gã xà ích nói và kéo gò một bên cương để chỉnh hướng xe
chạy.
- Anh cứ mặc tôi nào, đừng có dạy
khôn, - Levin nói, rất khó chịu thấy gã xà ích nhúng tay vào. Chàng lại cảm
thấy bực dọc y như trước kia khi người ta dây vào việc của mình. Chàng lập tức
buồn rầu nhận ra mình đã lầm to khi dự đoán rằng tâm thế mới sẽ làm thay đổi
tức khắc các phản ứng trước thực tại. Còn cách nhà chừng một phần tư dặm, Levin
thấy Grisa và Tanya chạy lại đón.
- Chú Kôtxtya ơi! Mẹ cháu cùng ông
và bác Xergei Ivanovich với một ông khách nữa, đang đến đấy, - chúng nói và
trèo lên xe.
- Ông đó là ai?
- Ông ấy khiếp lắm! Ông ấy cứ vung
tay như thế này này, Tanya vừa trèo vào xe, vừa làm điệu bắt chước Katavaxov.
- Ông ấy già hay trẻ? - Levin hỏi,
bật cười khi thấy điệu bộ Tanya làm chàng nhớ tới một người nào đó.
"Miễn là không phải một người
khó chịu", chàng thầm nghĩ.
Khi rẽ ở chỗ ngoặt và trông thấy đám
người đang đi ngược lại, Levin nhận ra Katavaxov, đầu đội mũ rơm. Ông ta bước
đi, hai cánh tay vung vẩy hệt như cách Tanya đã mách.
Katavaxov rất thích nói chuyện triết
học. Ông nhìn nhận triết học theo con mắt nhà tự nhiên học, nghĩa là theo con
mắt một người chưa bao giờ bận tâm về triết học và hồi gần đây, khi ở Moskva,
Levin đã tranh luận nhiều với ông ta. Điều đầu tiên chàng nhớ tới khi nhận ra
ông bạn là một cuộc nói chuyện trong đó rõ ràng Katavaxov cho là mình thắng.
"Thôi được, mình sẽ không nông
nổi phát biểu ý kiến bạt mạng nữa", Levin tự nhủ.
Sau khi xuống xe chào khách, Levin
hỏi xem vợ mình đâu.
- Dì ấy bế Mitia ra Kôlốc (đó là tên
khu rừng ở cạnh nhà). Dì ấy muốn đặt cháu ngủ ngoài đó. Ở trong nhà nóng quá, -
Đôly nói.
Levin thường ngăn vợ không nên bế
con vào rừng, cho thế là nguy hiểm và tin đó làm chàng bực mình.
- Nó cứ bế con chạy hết chỗ này đến
chỗ khác, - lão quận công mỉm cười nói. - Tôi đã khuyên nó thử đặt thằng bé
trong hầm nước đá.
- Dì ấy định đến vườn nuôi ong. Dì
ấy nghĩ chú ở đó. Chúng tôi cũng đang định tới đó, - Đôly nói.
- Thế nào, chú dạo này ra sao? -
Xergei Ivanovich nói, chờ mọi người đi cách một quãng để tụt lại sau với em
trai.
- Không có gì đặc biệt cả. Tôi vẫn
trông nom trại ấp như thường thôi, - Levin trả lời. - Anh có ở lại đây lâu
không? Chúng tôi chờ anh mãi.
- Chừng nửa tháng. Tôi còn bận nhiều
việc ở Moskva.
Nói tới đây, luồng mắt hai anh em
gặp nhau và mặc dầu lúc này chàng hết sức mong muốn tạo quan hệ thân mật và
nhất là tự nhiên với anh, Levin vẫn thấy gượng gạo khi nhìn ông. Chàng cụp mắt
xuống và không biết nói gì thêm.
Chàng điểm lại tất cả những đầu đề
nói chuyện có thể làm Xergei Ivanovich thích thú, muốn lái ông ra khỏi chuyện
chiến tranh Xerbi cùng vấn đề Xlav mà ông vừa ám chỉ tới khi nói về công việc ở
Moskva, và chàng gợi sang chuyện cuốn sách của ông anh.
- Thế nào, họ có phê bình tác phẩm
của anh không, - chàng hỏi.
Xergei Ivanovich mỉm cười nghĩ đến
dụng ý của câu hỏi đó.
- Chẳng ai quan tâm đến nó cả, còn
anh lại càng ít quan tâm hơn bất cứ ai, - ông nói. - Bà nhìn xem kìa, bà Đarya
Alecxandrovna, trời sắp mưa rồi, - ông nói thêm, lấy ô chỉ những đám mây trắng
vừa xuất hiện trên những ngọn cây hoàn diệp liễu.
Những lời đó đủ để cho cái quan hệ
lạnh nhạt tuy chưa đến mức đối địch mà Levin rất muốn tránh, lại phục hồi giữa
hai anh em.
Levin đi lên kịp Katavaxov.
- Anh đến chơi thật hay quá! - chàng
nói.
- Tôi định đến chơi nhà anh từ lâu.
Giờ chúng ta có thể tha hồ nói chuyện. Anh đọc Xpenxơ chưa?
- Tôi chưa đọc xong. Vả lại bây giờ
tôi cũng không cần đọc nữa.
- Sao lại thế? Hay đấy. Vì sao?
- Vì cuối cùng, tôi đã đi đến chỗ
tin chắc không thể tìm thấy ở ông ta hoặc những người như ông ta lời giải đáp
cho vấn đề tôi đang quan tâm. Hiện nay…
Nhưng vẻ mặt vui tươi và bình thản
của Katavaxov đột nhiên làm chàng sững lại. Chàng chẳng muốn để câu chuyện làm
vẩn đục tâm trạng mình, và, nhớ tới quyết định vừa rồi, chàng liền ngừng bặt.
- Ta sẽ quay lại chuyện đó sau, -
chàng nói thêm. - Nếu chúng ta định tới vườn nuôi ong thì phải đi theo đường
hẻm này, chàng nói với mọi người.
Mọi người theo con đường hẻm chật
hẹp tới một quãng rừng thưa cỏ mọc um tùm, một bên có hàng rào huyền sâm màu
sắc rực rỡ xen lẫn những bụi trị diên thảo lá xanh sẫm. Dưới bóng râm mát của
một khóm hoàn diệp liễu, Levin mời khách ngồi chờ trên một chiếc ghế dài và
những ghế thô vốn dành cho khách sợ ong, còn chàng đi về phía vườn để lấy bánh
mì, mật ong tươi và dưa chuột cho mọi người.
Chàng cố cử động thật ít, lắng nghe
tiếng vo ve của đàn ong bay đến gần mỗi lúc một đông hơn, và tới tận căn nhà gỗ
nhỏ. Chàng vừa tới ngưỡng cửa thì một con ong bay đến mắc vào râu nhưng chàng
nhẹ nhàng gỡ ra. Trong phòng mờ tối, chàng cầm lấy chiếc mặt nạ bằng dây thép
treo ở tường, đeo vào, và hai tay đút túi, bước ra vườn đến chỗ những tổ ong
đặt giữa một khoảng đất đã phát cỏ: những tổ cũ nhất (chàng biết lai lịch từng
tổ) được đặt thành dãy đều đặn và buộc chặt vào cọc bằng dây vỏ cây và những tổ
mới nhất, vừa gây trong năm, xếp dọc theo hàng rào. Ở cửa mỗi tổ là một đám bay
lộn không ngừng hoa cả mắt: ong cái và ong đực bay là là tại chỗ trong khi ong
thợ theo hành trình khứ hồi bay tới một cây bồ đề ra hoa rồi trở lại mang theo
đầy nhị hoa.
Các âm thanh hỗn tạp nhất vẳng tới
tai: khi thì một cô ong thợ vụt qua, mải mê công việc, lúc lại một chàng ong
đực nhàn rỗi bay vo ve, hoặc là ong gác tổ sẵn sàng lấy vòi châm kẻ thù định
xâm phạm tài sản của chúng. Phía bên kia hàng rào, bác gác già đang giũa đai
thùng, không trông thấy Levin, chàng không gọi bác mà dừng lại ở giữa vườn ong.
Chàng vui sướng có dịp đứng riêng
một mình chốc lát và kiểm điểm bản thân: thực tiễn đã làm tư tưởng chàng sa
sút.
Mới thoáng qua chốc lát, chàng đã có
dịp nổi giận với Ivan, lạnh nhạt với anh và nông nổi bắt chuyện với Katavaxov.
"Có thể đó chỉ là một tâm trạng
thoáng qua, sẽ mất đi ngay không để lại dấu vết gì chăng?", chàng thầm
nghĩ.
Nhưng đồng thời, ngay lúc đó, chàng
thấy lại tâm trạng lúc trước và vui sướng cảm thấy một cái gì mới mẻ và quan
trọng đã nảy sinh trong lòng. Thực tiễn chỉ tạm thời che phủ sự thanh thản vừa
tìm thấy: nó vẫn nguyên vẹn trong thâm tâm chàng.
Giống như đàn ong giờ đây đang bay
lộn quanh mình, trong khi đe doạ và khiến chàng phải lưu ý, chúng đã làm chàng
mất thoải mái về thể xác, buộc chàng thu mình né tránh, những mối lo lắng bủa
vây lúc bước chân lên xe cũng đã làm chàng mất sự thanh thoát về tâm hồn, nhưng
trạng thái đó chỉ kéo dài khi nào chàng bị mắc giữa những lo lắng đó. Cũng như
thể lực vẫn nguyên vẹn mặc dầu có bầy ong, trí lực mà chàng vừa tự giác nhận
thấy, vẫn không suy suyển.
Chương
15
- Koxtia, chú có biết Xergei
Ivanovich cùng đi một chuyến tàu với ai không? - Đôly nói, sau khi chia dưa
chuột và mật ong cho các con. Với Vronxki! Anh ta đi Xerbi.
- Và không phải chỉ đi một mình đâu
nhé! Anh ta còn bỏ tiền dẫn theo một phân đội nữa! - Katavaxov nói. - Việc đó
quả là hợp với anh ta, - Levin nói. - Hiện vẫn còn nhiều người tình nguyện sang
đó chứ? - chàng hỏi thêm và liếc nhìn Xergei Ivanovich.
Xergei Ivanovich không trả lời, cố
lấy con dao cùn khẽ vớt từ đáy bát lên một con ong còn sống dính vào lớp nước
ngọt của tầng mật ong trắng.
- Chứ sao! Giá anh được thấy cảnh
ngoài ga hôm qua! - Katavaxov nói và cắn dưa chuột kêu rau ráu.
- Thật không còn hiểu ra sao nữa!
Lạy Chúa lòng lành, Xergei Ivanovich, ông thử cắt nghĩa cho tôi hiểu tất cả
những tình nguyện quân đó đi đâu và đánh nhau với ai, - lão quận công hỏi, rõ
ràng nói tiếp câu chuyện bắt đầu từ trước khi gặp Levin.
- Với bọn Thổ, - Xergei Ivanovich
bình tĩnh mỉm cười trả lời. Ông đã gỡ được con ong dính đầy mật đang tuyệt vọng
ngọ nguậy cẳng chân và dùng con dao đặt nó lên một chiếc lá hoàn diệp liễu dày.
- Nhưng ai đã tuyên chiến với bọn
Thổ kia chứ? Ivan Ivanovich Ragôzôp, nữ bá tước Lidia Ivanovna, và Stan phu
nhân à?
- Không ai tuyên chiến với chúng cả,
nhưng mọi người động lòng thương xót anh em mình đang đau khổ và muốn giúp đỡ
họ thôi.
- Quận công không hỏi về cái đó mà
muốn nói đến chiến tranh kia, - Levin nói và đứng về phe bố vợ. - Cụ cho rằng
tư nhân không thể tham gia chiến tranh nếu không được phép của chính phủ.
- Koxtia, con ong kìa! Khéo nó đốt
bọn ta tịt khắp người lên mất, Đôly nói và xua một con ong bầu vẽ.
- Đó không phải là ong thường mà là
ong bầu vẽ, - Levin nói.
- Thế nào, thế nào, vậy lí luận anh
ra sao? - Katavaxov mỉm cười nói, rõ ràng muốn kéo Levin vào cuộc tranh luận. -
Tại sao tư nhân lại không có quyền tham gia chiến tranh.
- Đây, lí luận của tôi thế này: một
mặt, chiến tranh là điều rất khủng khiếp, rất thú vật và rất tàn khốc mà không
một ai, khoan nói đến tín đồ Cơ đốc giáo vội, có thể lấy tư cách cá nhân gánh
lấy trách nhiệm khởi chiến: chỉ có chính phủ mới làm thế được, đó là nhiệm vụ
của nó và nó tất yếu bị lôi cuốn vào chiến tranh. Mặt khác, theo khoa học và
lương tri, trong công việc quốc gia và nhất là trong thời gian chiến tranh,
những công dân phải hi sinh mọi ý chí cá nhân.
Xergei Ivanovich và Katavaxov tranh
nhau nói một lúc: họ đã có sẵn câu đối đáp.
- Anh bạn thân yêu ơi, chính thế
đấy, có thể có trường hợp chính phủ không làm theo nguyện vọng của nhân dân;
chính lúc đó xã hội cần buộc chính phủ thể theo ý chí của mình, - Katavaxov
nói.
Nhưng Xergei Ivanovich rõ ràng không
tán thành lời phản đối đó. Ông cau mày khi nghe ý kiến Katavaxov và diễn đạt tư
tưởng của mình một cách khác.
- Chú đặt vấn đề không đúng. Ở đây
không có vấn đề tuyên chiến, mà chỉ có sự biểu hiện một thứ tình cảm Cơ đốc,
nhân đạo. Có kẻ đang giết hại những anh em cùng nòi giống và cùng tôn giáo với
ta. Cứ tạm cho họ không phải là anh em, cũng chẳng phải người cùng tôn giáo, mà
chỉ là đàn bà, trẻ con và người già: tình cảm sẽ nổi dậy và những người Nga sẽ
chạy tới giúp họ chấm dứt sự tàn bạo đó. Chú thử tưởng tượng mình đang đi ngoài
phố và thấy bọn say rượu đánh đập một người đàn bà hoặc một đứa trẻ; tôi tin là
chú sẽ không tự hỏi xem có cần tuyên chiến với kẻ hành hung hay không mà sẽ
nhảy vào luôn để bênh vực người bị đánh.
- Nhưng tôi sẽ không giết nó, -
Levin nói.
- Có chứ, chú sẽ giết nó.
- Tôi không rõ. Nếu gặp việc đó, tôi
sẽ phó mặc cho tình cảm bột phát: tôi không thể nói gì trước được. Thế nhưng
tôi không có và không thể có tình cảm bột phát đối với việc áp bức người Xlav.
- Chú thì có thể là không có. Những
người khác chắc chắn là có, - Xergei Ivanovich bất giác cau mày nói. - Trong
nhân dân, hãy còn truyền tụng những chuyện về người theo đạo chính thống bị đau
khổ dưới ách những "tín đồ Aga vô đạo" 1. Nhân dân nghe nói đến nỗi
thống khổ của những người anh em và họ đã lên tiếng.
- Có thể như vậy, - Levin thoái thác
nói, - nhưng tôi không thấy điều đó; bản thân tôi cũng là một người trong nhân
dân nhưng không hề biêt đến thứ tình cảm đó.
- Tôi cũng vậy, - lão quận công nói.
- Lúc đó tôi đang ở nước ngoài, tôi có đọc báo và xin thú thực là ngay từ trước
khi xảy ra hành động tàn bạo ở Bungari, tôi vẫn không hiểu tại sao người Nga
đột nhiên lại yêu thương những người anh em Xlav đến thế. Bản thân tôi thì
không cảm thấy chút tình hữu ái nào đối với họ. Điều đó làm tôi rất phiền lòng;
tôi nghĩ có lẽ mình là một con quái vật hay mình bị ảnh hưởng suối nước nóng
Kaclơxbat chăng. Đến khi về đây, tôi mới yên tâm: tôi nhận thấy ngoài tôi ra,
còn có những người quan tâm đến nước Nga nhiều hơn là đến những anh em Xlav của
chúng ta. Như Konxtantin chẳng hạn.
- Những ý kiến cá nhân không có
nghĩa gì trong chuyện này, Xergei Ivanovich nói. - Ý kiến cá nhân không thành
vấn đề khi mà toàn thể nước Nga, toàn thể nhân dân đã tỏ rõ ý chí.
- Nhưng xin lỗi, tôi chẳng thấy cái
gì như vậy cả. Còn nhân dân, họ chẳng hiểu tí gì về vấn đề đó, - lão quận công
nói.
- Không phải, ba ạ, ba nói gì vậy?
Thế hôm chủ nhật ở ngoài nhà thờ thì sao? - Đôly từ nãy vẫn lắng nghe câu
chuyện, xen vào.
- Bác làm ơn lấy giúp tôi cái khăn
lau tay, - bà nói với ông lão nông dân đang mỉm cười nhìn lũ trẻ.
- Không có lí nào tất cả những người
đó…
- Ừ, thì hôm chủ nhật đã xảy ra
chuyện gì nào? Người ta ra lệnh cho linh mục đọc một tờ giấy. Ông ta đã đọc nó.
Người ta chẳng hiểu gì hết, chỉ thở dài như mỗi lẫn nghe giảng đạo, - lão quận
công tiếp tục nói. - Thế rồi, người ta bảo là sẽ có cuộc lạc quyên cho một việc
đạo và thế là họ móc ra mấy đồng kôpêch, nhưng thậm chí họ cũng không biết vì
sao lại cúng tiền nữa.
- Nhân dân không thể không biết tới
điều đó. Họ vẫn giữ được ý thức về vận mệnh của họ và ý thức đó nổi bật vào
những giây phút như bây giờ, Xergei Ivanovich nói, giọng dứt khoát, và nhìn ông
lão gác vườn ong.
Ông già đẹp lão với bộ râu đen lốm
đốm hoa râm và mái tóc dày bạc trắng, đứng vững chãi trước mặt họ, tay cầm bát
mật. Với một vẻ dịu dàng và bình thản, ông đứng cao sừng sững nhìn xuống các
ông bà chủ, rõ ràng không hiểu gì và cũng không muốn hiểu gì hết.
- Đúng thế đấy, - ông già nói, gật
đầu ra vẻ tán thành, khi Xergei Ivanovich nói dứt lời.
- Này cứ hỏi ông lão xem. Ông ta
không hiểu gì đâu và cũng chẳng suy nghĩ về việc gì cả, - Levin nói.
Mikhailich, bác có nghe nói gì về chiến tranh không? - chàng quay lại hỏi ông
lão nông dân. - Bác có nhớ những cái người ta đọc ở nhà thờ không? Bác thấy
chuyện đó thế nào? Ta có cần phải đi chiến đấu cho những đạo hữu Cơ đốc không?
- Chúng ta có gì mà phải nghĩ. Đức
hoàng đế Alecxandr Nicolaiêvich sẽ nghĩ thay cho chúng ta trong mọi trường hợp.
Người nhìn thấy mọi việc rõ ràng hơn chúng ta… Có cần mang thêm bánh cho chú bé
nữa không ạ? - ông già hỏi Đarya Alecxandrovna và chỉ Grisa đang nuốt miếng cùi
bánh.
- Không cần phải hỏi ông lão làm gì
cho vô ích, - Xergei Ivanovich nói, - chúng tôi đã từng thấy và hiện còn đang
thấy hàng trăm hàng ngàn người bỏ lại tất cả để đi phục vụ một mục đích chính
nghĩa, họ từ khắp các nơi trên nước Nga tới và bộc lộ rõ ràng tư tưởng cùng mục
đích của mình. Họ mang tiền hoặc mang bản thân mình đến và không quanh co, nói
thẳng lí do vì sao họ đến. Vậy thế nghĩa là thế nào?
- Theo tôi, - Levin bắt đầu hăng máu
nói, - thế nghĩa là trong một dân tộc gồm tám mươi triệu người, thì không những
chỉ có hàng trăm như bây giò mà lúc nào cũng có hàng vạn kẻ thất thế, những tên
ngoài pháp luật luôn luôn sẵn sàng… theo bọn Pugatsev 2 đi tới Khiva hoặc
Xerbi…
- Tôi xin nói với chú là họ không
chỉ có hàng trăm mà nhiều hơn nữa và họ cũng không phải là đồ vô lại, mà là
những đại biểuưu tú nhất của dân tộc! - Xergei Ivanovich, giận sôi lên như đang
bảo vệ những tài sản cuối cùng của mình. - Thế còn những tặng vật! Đó chính là
nhân dân biểu lộ thẳng thắn ý chí của mình!
- Cái chữ "nhân dân" đó
thật mơ hồ, - Levin nói. - Hiểu được đó là vấn đề gì, hoạ chăng có những viên
thư kí quận, giáo học và có lẽ một phần nghìn tổng số nông dân. Số còn lại
trong tám mươi triệu dân như Mikhailic, chẳng những không biểu lộ ý chí mà còn
không mảy may nghĩ là họ cần phải biểu lộ ý chí. Vậy thử hỏi ta có quyền gì mà
nói đó là ý chí của nhân dân?
--------------------------------
1 Tức tín đồ Hồi giáo.
2 Lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa nông
dân thời nữ hoàng Ecaterina.
Chương
16
Vốn sành môn biện chứng, Xergei Ivanovich
không đối đáp lại mà đặt vấn đề tranh luận sang một lĩnh vực khác.
- Nếu chú muốn dùng số học để đo
tinh thần nhân dân thì tất nhiên rất khó đấy. Ngay cả phổ thông đầu phiếu, vốn
không thể áp dụng ở nước ta, cũng không nói lên được ý chí nhân dân; nhưng vẫn
có những phương pháp đánh giá khác. Người ta cảm thấy cái đó trong không khí,
bằng trái tim. Tôi chưa cần nói đến những đợt sóng ngầm làm chuyển động lớp
nước tù váng trong biển cả nhân dân và sờ sờ trước mắt con người thiển cận
nhất. Chú thử nhìn vào cái "xã hội" theo nghĩa hẹp nhất mà xem. Những
bè phái khác nhau nhất của giới trí thức đã hoà hợp với nhau. Tất cả sự bất
đồng ý kiến đều biến mất, mọi báo chí đều nói giống nhau, mọi người đều ý thức
được cái lực lượng cơ bản chi phối và lôi cuốn họ cùng đi về một hướng.
- Cái ấy thì đúng đấy, tất cả báo
chí đều nói giống nhau, - lão quận công nói. - Quả đúng thế thật. Giống hệt như
cóc nhái trước cơn dông ấy. Chúng khiến người ta không còn nghe thấy gì được
nữa.
- Cóc nhái hay không thì tôi cũng không
phải là chủ nhiệm báo và cũng không có ý định bào chữa cho họ. Tôi muốn nói đến
sự thống nhất ý kiến trong giới trí thức, - Xergei Ivanovich quay lại nói với
em trai. Levin định đáp lại nhưng lão quận công đã cướp lời.
- Về sự thống nhất đó thì còn nhiều
cái phải bàn lắm, - lão quận công nói. - Ông biết con rể tôi là Stepan Ackađich
đấy. Anh ta vừa mới nhận chức uỷ viên của một cái uỷ ban gì đó tôi không biết.
Thực sự, anh ta không phải làm gì cả (Đôly ạ, cái đó chẳng phải là điều bí mật
gì đâu)mà vẫn được lĩnh tám nghìn rúp tiền lương. Ông cứ thử xem, ông cứ đi hỏi
xem hoạt động của anh ta có lợi ích gì không, anh ta sẽ chứng minh cho ông thấy
hoạt động đó vô cùng ích lợi. Mà anh ta vốn là người lương thiện, nhưng làm sao
mà lại không tin ở sự ích lợi của tám nghìn rúp kia chứ?
- Phải, anh ấy có nhờ tôi nhắn Đarya
Alecxandrovna là đã nhận chức vụ đó rồi, - Xergei Ivanovich nói, giọng bất
bình, ông thấy câu lí sự lan man của lão quận công thật lạc đề.
- Sự nhất trí của báo chí cũng vậy
thôi. Tôi đã được giải thích về điều đó: mỗi khi có chiến tranh, lợi nhuận của
họ đều tăng gấp đôi. Làm sao lại không đề cao vận mệnh nhân dân, tình huynh đệ
Xlav và… trăm thứ bà rằn khác nữa?
- Có rất nhiều tờ báo tôi không ưa,
nhưng nói vậy là bất công, Xergei Ivanovich nói.
- Chỉ cần đưa ra một điều kiện duy
nhất thôi, - lão quận công tiếp tục nói. Hồi chiến tranh với Phổ, Anfôngxơ Kar
đã nói rất chí lí: "Các ngài cho chiến tranh là không thể tránh được à?
Tốt lắm. Vậy tất cả những ai ủng hộ chiến tranh hãy họp lại thành một binh đoàn
đặc biệt ở tiền duyên và hãy dẫn đầu xung phong lên xem".
- Thế thì các nhà báo sẽ đẹp mặt
nhỉ! - Katavaxov nói và phá lên cười ầm ĩ. Ông hình dung một vài biên tập viên
ông quen biết, trong cái binh đoàn ưu tú đó.
- Thế thì họ sẽ tháo chạy và làm
vướng chân người khác, - Đôly nói.
- Nếu tháo chạy thì đằng sau đã có
sẵn súng liên thanh hoặc lính cô dắc cầm roi để dẫn họ trở về vị trí, - lão
quận công nói.
- Xin lỗi quận công, câu nói đùa đó
thật không hay ho gì, - Xergei Ivanovich nói.
- Đó không phải là nói đùa… - Levin
định nói, nhưng ông anh đã ngắt lời.
- Mỗi thành viên của xã hội đều có
bổn phận riêng phải làm tròn, - ông nói. - Những người làm việc trí óc hoàn
thành nhiệm vụ bằng cách biểu đạt dư luận quần chúng. Sự phản ánh toàn vẹn và
nhất trí dư luận quần chúng là hiện tượng đáng mừng và phải thừa nhận đó là
công lao của giới báo chí. Giá trước đây hai mươi năm, hẳn chúng ta phải im
lặng đấy, còn bây giờ thì khác, người ta nghe thấy tiếng nói nhân dân Nga sẵn
sàng vùng lên muôn người như một và sẵn sàng hi sinh cho những người anh em bị
áp bức; đó là một bước tiến lớn và một sự biểu dương lực lượng.
- Xin lỗi, nhưng đây không phải chỉ
là vấn đề hi sinh, là là việc giết những người Thổ, Levin rụt rè nói. Nhân dân
tự quên mình và vui lòng hi sinh cho những người anh em bị áp bức; đó là một
bước tiến lớn và một sự biểu dương lực lượng.
- Xin lỗi, nhưng đây không phải chỉ
là vấn đề hi sinh, mà là việc giết những người Thổ, - Levin rụt rè nói. Nhân
dân tự quên mình và vui lòng hi sinh mọi thứ khi linh hồn mình bị đe doạ nhưng
không phải nhằm mục đích sát nhân, - chàng nói thêm, bất giác gắn cuộc nói
chuyện với những tư tưởng đang làm chàng bận tâm.
- Cho linh hồn à? Anh cũng biết đó
thực là một danh từ khó hiểu đối với một nhà khoa học tự nhiên. Linh hồn là cái
gì kia chứ? - Katavaxov mỉm cười nói.
- Cứ làm như anh không biết ấy!
- Xin thề là tôi không hề có ý niệm
gì về cái đó! - Katavaxov nói và cười vang.
- "Ta đến đây không phải để đem
lại hoà bình, mà là mang gươm tới!", Chúa Jesu nói vậy, - đến lượt Xergei
Ivanovich đối đáp, dẫn đúng đoạn kinh Phúc âm xưa nay thường làm Levin bối rối
hơn mọi đoạn khác, mà lại coi như dẫn ra câu dễ hiểu nhất đời.
- Đúng thế, - ông lão gác vườn ong
đứng bên cạnh nhắc lại, để trả lời một cái nhìn tình cờ hướng vào lão.
- Thế là anh thua rồi, bố trẻ ạ, đại
bại rồi nhé, - Katavaxov vui vẻ kêu lên.
Levin đỏ mặt tức tối, không phải vì
thua mà vì đã để bị lôi cuốn vào cuộc tranh luận.
"Mình tranh cãi với họ làm gì
cho mất thì giờ, chàng thầm nghĩ: họ có bộ áo giáp không sao đâm thủng được,
còn mình thì lại ở trần".
Chàng thấy không tài nào thuyết phục
nổi ông anh và Katavaxov, chàng không thể nào cùng chung quan điểm với họ được.
Điều họ chủ trương lại chính là sự kiêu ngạo trí tuệ đã suýt làm hỏng chàng.
Chàng không thừa nhận một dúm người, trong số đó có ông anh chàng, chỉ dựa vào
những lời của vài trăm tình nguyện quân ba hoa đã tới thủ đô, xưng xưng tự cho
mình có quyền cùng với báo chí nhận là đại biểu cho ý chí và tư tưởng của nhân
dân, mà họ khẳng định là phải biểu lộ bằng sự phục thù và sát nhân. Chàng không
thể thừa nhận điều đó, vì chưa bao giờ chàng thấy những tư tưởng đó bộc lộ
trong nhân dân là lớp người chàng đang chung sống, cũng như trong bản thân
chàng (mà chàng thì không thể không tự coi mình là bộ phận khăng khít của nhân
dân Nga) và nhất là vì, chẳng khác gì nhân dân, chàng không hiểu và không thể
hiểu lợi ích công cộng là cái gì; trái lại, chàng đinh ninh rằng người ta chỉ
có thể đạt tới lợi ích công cộng đó bằng cách nghiêm chỉnh tuân theo quy luật
điều thiện đã bày ra trước mắt mọi người; cho nên chàng không có tâm địa nào
mong muốn hoặc tuyên truyền chiến tranh dù mục đích của nó có tính chất đại
diện đến đâu chăng nữa. Chàng hoà chung tiếng nói với ông lão Mikhailich và
nhân dân, biểu đạt tư tưởng mình trong câu chuyện truyền thuyết về việc những
bộ lạc Xlav kêu gọi người Varegơ 1: "Các người hãy là quốc vương của chúng
tôi và cai trị chúng tôi. Chúng tôi vui sướng hứa sẽ hoàn toàn tuân theo các
người. Mọi công việc, mọi nhục nhằn, mọi hi sinh, chúng tôi xin gánh hết: nhưng
chúng tôi sẽ không phải là người phán xét và quyết định". Và bây giờ, theo
Xergei Ivanovich, nhân dân lại chịu từ bỏ một quyền lợi đã đánh đổi bằng cái
giá đắt như vậy hay sao?
Chàng còn muốn nói thêm rằng nếu dư
luận quần chúng là vị quan toà không thể sai lầm thì Cách mạng và Công xã cũng
sẽ hợp pháp như phong trào ủng hộ người Xlav. Nhưng đó chỉ là loại ý kiến không
giải quyết được gì cả. Điểm duy nhất chàng biết chắc chắn là lúc này cuộc tranh
luận đang làm Xergei Ivanovich bực tức: vậy tốt hơn hết là không tranh luận
nữa. Cho nên Levin thấy im đi là hơn: chàng nhắc các vị khách đề phòng đám mây
đang kéo lại và khuyên họ nên trở về trước cơn mưa.
--------------------------------
1 Varèguer: một bộ lạc ở vùng biển
Xcăngđinavơ Bắc Âu đã cai trị các bộ lạc Xlavơ ở Nga và kiến lập trật tự từ
trước thời kì dựng nước Nga.
Chương
17
Lão quận công và Xergei Ivanovich
trèo lên xe về trước; những người khác rảo bước đi bộ trở về.
Những đám mây từ màu đen biến sang
trắng bay tới rất mau nên họ càng phải rảo bước để về kịp nhà trước cơn dông.
Những đám mây thấp và đen kịt như bồ hóng bay vun vút trên bầu trời. Nhà chỉ
còn cách độ hai trăm bước, nhưng gió đã nổi lên và cơn mưa rào có thể đổ xuống
bất cứ lúc nào.
Lũ trẻ chạy trước và reo vang vừa
thích vừa sợ. Đarya Alecxandrovna, vất vả đánh vật với chiếc váy cứ quấn chặt
vào chân, bà không đi mà cứ chạy, mắt không rời lũ trẻ. Tốp đàn ông bước từng
bước dài, vừa đi vừa giữ mũ. Họ về tới thềm nhà thì một giọt nước mưa to tướng
rơi bộp xuống rìa ống máng. Lũ trẻ, theo sau là người lớn, chuyện trò ríu rít
chạy ùa vào chỗ trú mưa.
- Ecaterina Alecxandrovna đâu rồi! -
Levin đứng trong tiền sảnh hỏi Agafia Mikhailovna đang bê một chồng khăn chùm
và vải choàng đến cho họ.
- Bọn tôi tưởng mợ cùng đi với cậu,
- bà ta nói.
- Thế còn Mitia đâu?
- Chắc ở trong rừng Kôlốc. Chị vú
cùng đi với mợ và em.
Levin cầm lấy một tấm vải choàng và
chạy về phía khu rừng. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, mặt trời đã khuất
sau đám mây và bầu trời tối sầm lại như có nhật thực. Gió thổi lồng lộn như
muốn giành phần thắng cuối cùng, một mực cản bước Levin, bứt lá, hoa bồ đề và
vặt trụi những cành bạch dương trắng bạc nom đến lạ mắt: dạ hợp, hoa, bụi rậm,
cỏ và ngọn cây cao, tất cả đều uốn rạp về một phía. Những cô gái đang làm ngoài
vườn kêu the thé chạy vào trú dưới mái nhà phụ. Màn mưa rào trắng xoá đã che
phủ khu rừng rậm đằng xa cùng nửa cánh đồng và tiến rất nhanh lại khóm rừng nhỏ
Kôlốc. Cơn mưa nhỏ hạt làm bầu không khí đượm ẩm ướt.
Đầu chúi về đằng trước và vật lộn
với cơn dông tố đang muốn dứt tấm vải choàng khỏi người, Levin tới ven rừng và
vừa thoáng thấy một chấm trắng sau một cây sồi thì bất thần một luồng sáng chói
loà cháy bùng khắp mặt đất; đồng thời, chàng có cảm gác vòm trời đổ sụp trên đầu.
Loá mắt vì ánh chớp, lát sau chàng mới mở mắt ra được và kinh hãi thấy, qua màn
mưa dày đặc ngăn cách chàng với khu rừng, ngọn cây sồi xanh tươi thân thuộc đã
thay đổi thế một cách kì lạ. "Chắc sét đánh trúng rồi!", Levin tự
nhủ; cùng lúc đó ngọn cây biến mất giữa vòm lá và rơi ầm xuống đất.
Ánh chớp, tiếng sét và cái giá rét
xâm chiếm cơ thể hoà lại thành một cảm giác hãi hùng duy nhất đối với Levin.
- Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa đừng để nó
đổ xuống hai mẹ con! - chàng thì thầm.
Và, mặc dù lập tức thấy lời cầu
nguyện thật vô lí vì cây đã đổ rồi, chàng vẫn nhắc lại, cảm thấy mình không thể
làm cách nào hơn.
Chàng chạy tới chỗ Kitty thường hay
đến nhưng không thấy nàng. Nàng đang ở đầu khu rừng đằng kia, trú dưới một gốc
cây bồ đề già và đang gọi chàng. Hai bóng người, mặc quần áo sẫm (trước khi đi,
họ đều mặc áo dài màu tươi) đang cúi xuống với dáng điệu che chở. Đó là Kitty
và chị vú nuôi. Khi Levin tới chỗ họ thì trời tạnh mưa và mặt trời lại lấp
lánh. Gấu váy chị vú hãy còn khô nhưng áo Kitty thì ướt sạch, dán chặt vào
người. Mặc dầu đã tạnh mưa, họ vẫn đứng nguyên trong tư thế khi cơn dông nổi
lên: cả hai đều cúi xuống cái xe nôi nhỏ có che dù xanh.
- Còn sống cả chứ? Nguyên lành chứ?
Đội ơn Chúa! - Levin nói, lội bì bõm trong dòng nước đang tiếp tục chảy nốt.
Đôi giày cao cổ của chàng sũng nước.
Khuôn mặt đỏ bừng và ướt đầm đìa của
Kitty quay lại phía chàng và rụt rè mỉm cười dưới chiếc mũ dúm dó.
- Em thật không biết xấu hổ! Làm sao
mà lại dại dột đến thế được! - chàng giận dữ nói.
- Em thề với mình rằng không phải
lỗi tại em. Đúng lúc em định đi về thì chú ta lại bĩnh ra. Thế là phải thay tã,
và chúng em vừa định…- Kitty bắt đầu thanh minh.
Mitia đang ngủ: nó không bị giọt mưa
nào rơi vào người.
- Đội ơn Chúa! Anh cũng chẳng hiểu
mình nói gì nữa! Họ cuốn tã lót thành một gói: chị vú nuôi ẵm đứa trẻ về.
Levin bước đi cạnh vợ: ngượng vì
trót phát cáu, chàng len lén nắm tay vợ không để chị vú nuôi trông thấy.
Chương
18
Cả ngày hôm đó, trong các cuộc trò
chuyện về mọi vấn đề khác nhau mà có thể nói, chàng chỉ tham gia bằng bề mặt
của trí tuệ, Levin luôn luôn có một cảm giác viên mãn về tâm hồn khiến chàng
vui sướng, mặc dầu chàng đang thất vọng vì cuộc sống bên trong chưa đổi mới.
Sau trận mưa, trời ướt át quá không
đi dạo chơi được: hơn nữa, những đám mây dông chưa biến khỏi chân trời, vẫn lởn
vởn đây đó, vừa ầm ì nổi sấm, vừa kéo đen kịt góc trời. Mọi người đều ở nhà
suốt thời gian còn lại trong ngày.
Họ không tranh luận nữa: sau bữa
trưa, ai nấy đều vui vẻ.
Katavaxov làm vui các bà bằng những
chuyện dí dỏm độc đáo bao giờ cũng khiến người nghe mê thích khi gặp ông lần
đầu; sau đó, được Xergei Ivanovich khêu gợi, ông kể cho mọi người nghe những
nhận xét lí thú về sự khác nhau về tính cách và cả diện mạo giữa ruồi đực và
ruồi cái. Xergei Ivanovich cũng rất vui vẻ và trong khi uống trà, theo lời khẩn
khoản của em trai, ông trình bày quan điểm riêng đối với triển vọng của vấn đề
Đông phương một cách rất thông minh và giản dị khiến ai nấy đều lắng tai chăm
chú nghe.
Chỉ có mình Kitty không nghe được
đến cuối; họ gọi nàng đi tắm cho Mitia.
Kitty đi được vài phút thì có người
đến mời Levin sang buồng trẻ. Chàng đặt chén trà xuống, bực mình vì phải bỏ dở
câu chuyện lí thú nhưng đồng thời, đâm lo vì thường chàng chỉ được triệu đến
trong trường hợp nghiêm trọng.
Nhưng mặc dầu rất quan tâm đến cái
kế hoạch tân kì của Xergei Ivanovich chủ trương rằng, cùng với nước Nga, việc
giải phóng bốn mươi triệu người Xlav sẽ mở ra một kỉ nguyên lịch sử mới, coi đó
là một cái gì hoàn toàn mới mẻ đối với mình, mặc dầu băn khoăn, lo lắng không
hiểu tại sao lại phải gọi chàng, sau khi rời phòng khách và còn có một mình,
chàng lại lập tức nhớ tới những tư tưởng hồi sáng. Và tất cả những nhận định
kia về tầm quan trọng của yếu tố Xlav trong lịch sử thế giới đem so sánh với
cái đang diễn biến trong tâm hồn chàng bỗng trở nên vô nghĩa đến nỗi chàng lập
tức quên phắt hết và lại đắm mình trong tâm trạng cũ.
Chàng không cố gắng ôn lại quá trình
diễn biến tư tưởng như trước nữa (cái đó không cần thiết). Ngay từ đầu, chàng
đi thẳng vào giữa cái tình cảm đang dẫn dắt chàng, gắn liền với tư tưởng, và
bắt gặp nó ở đáy tâm hồn, lúc này càng mãnh liệt và xác thực hơn trước. Ngày
xưa, mỗi lần chớm thấy tâm hồn có chiều hướng nguôi dịu là chàng lại phải đi
ngược lại tất cả quá trình tư tưởng để đạt tới tình cảm đó. Bây giờ thì khác
hẳn. Ngược lại với trước kia, chính tình cảm vui sướng và thanh thản lại mạnh
hơn: tư tưởng về sau mới đến.
Chàng vừa đi qua sân thượng, vừa
nhìn hai ngôi sao mới mọc trên bầu trời sẩm tối và đột nhiên nhớ lại:
"Phải, khi nhìnlên trời, mình đã nghĩ cái vòm mình trông thấy không phải
là ảo giác; nhưng bên cạnh đó, có một cái gì mình chưa nghĩ cho đến cùng, có
một cái gì mình còn tự che giấu, chàng nhủ thầm. Dù sao, đó cũng không thể là
một phản bác. Chỉ cần suy nghĩ kĩ là mọi cái sẽ sáng tỏ!".
Mãi đến khi bước chân vào phòng trẻ,
chàng mới sực nhớ ra cái điều chàng vẫn tự giấu mình. Điều đó tóm lại là thế
này: nếu bằng chứng chủ yếu về sự tồn tại của Chúa là ở chỗ Người đã phát hiện
cho ai nấy đều thấy sự tồn tại của điều thiện thì tại sao phát hiện đó lại chỉ
giới hạn trong phạm vi Giáo hội Cơ đốc? Các tín đồ Phật giáo và Hồi giáo cũng
truyền bá và làm điều thiện, vậy tín ngưỡng của họ liên quan thế nào với phát
hiện đó?
Chàng thấy hình như mình đã có cách
giải đáp cho vấn đề đó; nhưng chàng chưa kịp diễn đạt thì đã bước vào phòng
trẻ. Kitty xắn tay áo đứng cạnh bồn tắm, cúi xuống đứa bé đang vầy nước trong
bồn. Nghe thấy tiếng chân chồng, nàng quay lại và mỉm cười ra hiệu cho chàng
đến cạnh. Một tay nàng đỡ lấy đầu đứa bé bụ bẫm nằm ngửa lềnh bềnh trên mặt
nước, hai cẳng chân giạng ra, còn tay kia cầm cái bọt bể lớn kì lên người nó
với một động tác đều đặn.
- Anh xem này, anh xem này, - nàng
nói, khi chàng tới bên cạnh, - Agafia Mikhailovna nói đúng đấy: nó nhận ra
chúng mình rồi.
Sự kiện là như vậy đấy. Mitia nhận
ra tất cả những người thân và lần này thì rành rành không nghi ngờ gì được.
Khi Levin đến gần bồn tắm, họ bèn
thí nghiệm cho chàng xem và rất thành công. Chị nấu bếp, được gọi đến cốt để
thử, cúi xuống đứa bé: nó liền cau mày và lắc đầu không nhận. Nhưng khi Kitty
ghé mặt mình sát mặt nó, nó liền mỉm cười, đôi bàn tay xinh xinh níu chặt lấy
cái bọt bể và chụm môi phát ra một thứ tiếng rất ngộ ra chiều hài lòng, đến nỗi
không những Kitty và chị vú nuôi mà cả Levin cũng thích mê đi.
Đứa bé được nhấc bổng lên bằng một
tay, được dội nước, quấn khăn, lau khô và sau đó, khi nó la, được trao cho mẹ.
- Em rất mừng thấy anh bắt đầu yêu
con, - Kitty nói khi đã ôm con vào lòng, ngồi yên ổn vào chỗ thường ngày.
- Em rất mừng. Dạo nọ, em đã bắt đầu
buồn phiền vì thấy anh bảo không có chút tình cảm nào với nó.
- Không, anh có nói thế đâu nhỉ? Anh
chỉ nói là anh thất vọng.
- Thế nào, con làm anh thất vọng à?
- Không phải nó làm anh thất vọng mà
là anh chờ đợi nhiều hơn thế. Anh tưởng trong lòng sẽ đột nhiên nở bừng một
tình cảm mới mẻ và êm dịu. Nhưng đáng lẽ thế thì anh chỉ cảm thấy thương hại và
ghê ghê.
Nàng vừa chăm chú nghe, vừa nhìn
chàng qua phía trên đứa bé và đeo lại những chiếc nhẫn tháo ra lúc nãy để tắm
cho Mittya.
- Và nhất là, anh thấy sợ hãi và
thương hại nhiều hơn vui thích. Hôm nay, sau mẻ sợ lúc nổi dông, anh mới hiểu
anh yêu con vô cùng.
Kitty mỉm cười rạng rỡ.
- Lúc đó anh sợ lắm phải không? -
nàng nói.
- Em cũng thế, nhưng bây giờ việc
qua rồi, em lại càng sợ hơn. Em sẽ đi coi lại cấy sồi. Và anh đối với anh
Xergei Ivanovich niềm nở biết mấy, những lúc anh muốn thế… Anh ra tiếp họ đi.
Tắm cho con xong, ở đây ngột ngạt lắm…
19
Vừa ra khỏi phòng, Levin liền nhớ
lại cái ý nghĩ chàng chưa kịp đào sâu triệt để.
Đáng lẽ sang phòng khách đang văng
vẳng tiếng trò chuyện, chàng lại dừng lại ngoài sân thượng và tựa khuỷu tay vào
lan can, ngắm nhìn trời.
Lúc này, trời đã tối hẳn: phía nam,
bầu trời quang đãng, mây tụ lại phía đối diện. Từ đó, loé lên những tia chớp
lẫn tiếng sấm.
Levin lắng nghe nước mưa từ vòm lá
bồ đề rỏ giọt đều đặn và ngắm nhìn ba ngôi sao họp thành hình tam giác quen
thuộc cùng dòng Ngân hà vắt ngang ở giữa. Mỗi lần chớp, dòng Ngân hà và những
ngôi sao sáng nhất biến mất, nhưng khi tắt ánh chớp, chúng lại xuất hiện nguyên
chỗ cũ, như do một bàn tay khéo léo tung ra.
"Sao, cái gì đã làm lòng mình
bối rối?", Levin nghĩ thầm, cảm thấy trước là câu giải đáp mối hoài nghi
đã sẵn có trong tâm hồn, mặc dầu chưa biết cụ thể nó ra sao.
"Phải, sự biểu thị hiển nhiên
và chắc chắn duy nhất của ý Chúa là quy luật điều thiện, đã phơi bày cho mọi
người thấy và ta cũng cảm thấy nó trong ta. Dù muốn hay không, ta đã liên kết
với tất cả những người thừa nhận nó, họp thành đoàn thể tín đồ gọi là Giáo hội.
Nhưng còn người Do Thái, người Hồi giáo, Khổng giáo, Phật giáo, họ là ai? Chàng
tự hỏi, trở lại vấn đề gây cấn đối với mình. Có thể nào hàng trăm triệu người
lại bị tước đoạt mất cái hạnh phúc tối cao mà thiếu nó thì cuộc đời sẽ không có
ý nghĩa gì?" Chàng triền miên trong mộng tưởng nhưng rồi lập tức bừng
tỉnh.
"Nhưng mình thắc mắc về cái gì
đây nhỉ? Chàng thầm nghĩ. Về quan hệ giữa mọi tín ngưỡng của nhân loại với ý
Chúa! Mình muốn hiểu thấu điều Chúa vạch ra cho toàn vũ trụ cùng tất cả những
đám tinh vân. Mình làm gì vậy? Một nhận thức không thể nào lĩnh hội bằng lí
trí, thế mà mình cứ khăng khăng tìm cách diễn đạt nó bằng danh từ và lí
trí".
"Mình thừa biết những ngôi sao
không chuyển động, chàng vừa tiếp tục suy nghĩ, vừa nhìn một hành tinh sáng
chói lúc này đã di chuyển vị trí phía trên cành cao nhất của một cây bạch
dương. Tuy nhiên, khi nhìn sự vận động của các ngôi sao, mình vẫn không hình
dung nổi trái đất xoay tròn và vẫn có lí khi bảo là các ngôi sao đang chuyển
động.
"Những nhà thiên văn học liệu
có thể hiểu nổi hoặc tính toán ra bất cứ cái gì không, nếu họ tính đến cả những
vận động đa dạng và phức tạp của trái đất? Tất cả những kết luận kì diệu của họ
về những khoảng cách, trọng lượng, về những sự vận động và chu chuyển của các
thiên thể đều chỉ căn cứ trên sự vận động bề ngoài của các tinh tú xoay quanh
một quả địa cầu bất động, trước sau vẫn chỉ là sự vận động giờ đây đang bày ra
trước mặt hàng triệu người trải qua các thế kỉ, cái sự vận động bao giờ cũng có
thể kiểm tra được ấy. Và cũng như những kết luận của các nhà thiên văn học sẽ
trở nên hão huyền và lung lay nếu không dựa trên sự quan sát một bầu trời có
thể trông thấy được từ một kinh tuyến duy nhất và một đường chân trời duy nhất,
những kết luận của ta cũng sẽ hão huyền và lung lay như vậy nếu không dựa trên
nhận thức về điều thiện trước sau như một đối với mọi người, cái nhận thức do
đạo Cơ đốc vạch ra cho ta mà bao giờ cũng có thể kiểm tra ở trong tâm hồn ta
được. Còn vấn đề những tín ngưỡng khác và mối liên hệ của chúng với ý Chúa, ta
không có quyền và không có khả năng giải quyết".
- Mình vẫn còn đứng đây à? - tiếng
Kitty đột nhiên vang lên, nàng đi về phòng khách. - Không có chuyện gì làm mình
buồn đấy chứ? nàng nói và chăm chú ngắm khuôn mặt chàng dưới ánh sao.
Nhưng hẳn nàng sẽ không thể nhận
thấy sắc diện chàng nếu không có một tia chớp loé lên. Nàng liền trông rõ cả
khuôn mặt chàng và thấy chồng bình tĩnh và vui sướng, nàng liền mỉm cười.
"Nàng hiểu đấy, chàng thầm
nghĩ, nàng biết mình đang nghĩ gì. Có nên nói với nàng không nhỉ? ừ, mình nói
cho nàng biết đây". Nhưng chàng vừa toan mở miệng thì nàng đã lên tiếng.
- Này, Koxtia! Mình giúp em một việc
nhé, - nàng nói. - Mình lại buồng đằng góc và xem họ thu xếp chỗ nghỉ của
Xergei Ivanovich thế nào. Em làm việc đó không tiện. Không biết họ đã đưa bồn
rửa mặt vào phòng anh ấy chưa?
- Được, anh đi đây, - Levin nói,
đứng thẳng người lên và hôn nàng.
"Không, tốt hơn là không nên
nói gì, chàng thầm nghĩ khi nàng đi rồi. Đây là một điều bí mật, nó chỉ cần
thiết và quan trọng đối với riêng mình, và không thể diễn đạt bằng lời được.
"Tình cảm mới mẻ này cũng không
làm mình thay đổi, không làm mình sung sướng hơn, cũng không đột nhiên chiếu
sáng lòng mình, như mình hằng hi vọng. Cũng như tình cảm của mình đối với con
vậy. Cả trong việc đó, cũng không có gì là đột ngột cả. Nhưng lòng tín ngưỡng,
hay có khi cũng chẳng phải là lòng tín ngưỡng cũng nên, mình cũng chẳng biết đó
là gì, có điều là tình cảm đó thông qua đau khổ đã len vào tâm hồn mình lúc nào
không biết và sẽ bắt rễ vững chắc trong đó.
"Mình sẽ tiếp tục cáu kỉnh với
gã xà ích Ivan, tiếp tục tranh luận, phát biểu ý kiến không đúng lúc; giữa chốn
thánh thất thâm nghiêm nhất của tâm hồn mình và tâm hồn kẻ khác, ngay cả của vợ
mình nữa, bao giờ cũng có một bức tường ngăn cách; mình sẽ tiếp tục đổ tại nàng
khiến mình lo sợ, rồi lại hối hận về việc đó, tiếp tục cầu nguyện mà không hiểu
được bằng lí trí vì sao mình cầu nguyện. Nhưng bất luận mọi điều có thể xảy
đến, đời mình, cả cuộc đời mình, từng giây, từng phút, từ nay không còn trống
rỗng vô nghĩa nữa, mình đã thấy được một ý nghĩa hiển nhiên và có thể đưa vào
làm cho cuộc sống trọn vẹn: ý nghĩa của điều thiện".
HẾT
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét