Nguồn
: Internet
.
Tác giả : Charlotte Bronte
Tác giả : Charlotte Bronte
Chương
1 . Ở Gateshead Hall
Gió lạnh mùa đông mang theo những
áng mây đen và mưa tầm tã, đến nỗi chẳng ai nghĩ đến chuyện đi ra ngoài. Tôi
chẳng bao giờ đi đâu xa, nên cảm thấy thích thú vào những buổi chiều se lạnh
như thế này. Thật ngao ngán khi trở về nhà trong bầu không khí âm u buồn tẻ như
thế, với các ngón chân tay lạnh cóng, với lòng chán nản vì phải bị chị vú
Bessie la mắng. Ngoài ra,tôi lại thường có mặc cảm thua sút đối với John Reed
và mấy đứa em gái của nó là Eliza và Georgiana.
Con cái nhà Reed bây giờ đang quây
quần quanh mẹ trong phòng khách. Bà ấy nằm trên chiếc trường kỷ cạnh lò sưởi,
vẻ sung sướng lộ ra mặt khi có bầy con cưng đang ở bên mình. Họ không muốn tôi
cùng ở với họ. Bà bảo rằng, cho đến khi nào bà nghe chị Bessie nói tôi đã chịu
khó để trở thành đứa bé ngoan, bà mới nghĩ đến chuyện thương yêu tôi.
Tôi bèn hỏi bà:
-Thế chị Bessie đã nói cháu như thế
nào?
Bà Reed liền đáp:
- Này Jane, mợ không thích ai cật
vấn mợ như thế. Một đứa bé không được nói năng với một người lớn như thế. Hãy
kiếm chỗ mà ngồi yên, cho đến khi nào cháu biết cách nói năng lễ độ.
Bên cạnh phòng khách là phòng ăn
điểm tâm nhỏ. Tôi lánh ngay vào đó. Tôi lấy quyển sách trên giá sách, sau khi
đã biết chắc nó là một cuốn truyện tranh, và trèo lên ngồi trên bệ cửa sổ. Tại
đây, tôi ngồi tréo chân, kéo tấm màn che cửa sổ và thu mình trong một thế giới
riêng tư. Nếp gấp của tấm màn màu tím đã che khuất tôi khỏi bị ai ở phòng phía
bên phải trông thấy, còn phía bên trái tôi thì các khung kính đã ngăn cách tôi
với không khí ảm đạm của bầu trời tháng mười một bên ngoài. Tôi lật sách xem,
thỉnh thoảng dừng lại, đưa mắt nhìn ra trời chiều mùa đông. Xa xa, tôi chỉ thấy
sương mù và mây đen. Gần hơn là bãi cỏ ẩm ướt, những bụi cây bị bão thổi rạp
xuống, và cơn mưa dai dẳng với ngọng gió mùa đông đang ào ào thổi tới.
Tôi quay về với cuốn sách. Đó là
cuốn "Chuyện các loài chim ở nước Anh" của Bewick. Có nhiều trang
miêu tả cảnh băng giá và các mỏm đá cheo leo ở miền Bắc, nơi các loài chim biển
đến làm tổ. Nghĩ đến những vùng xa xôi đầy băng tuyết ấy, tôi lại chạnh nghĩ
đến thân phận mình: mờ mịt. Cái ý tưởng mơ hồ ấy cứ chập chờn trong đầu óc tôi.
Mỗi bức hình trong sách đã kể một câu chuyện, tôi thấy thật kỳ bí và hấp dẫn.
Chuyện hấp dẫn chẳng khác gì chuyện của Chị Bessie thỉnh thoảng đã kể cho tôi
nghe trong những tối mùa đông, khi chị cao hứng.
Cho nên, có cuốn sách của Bewick
trong tay, tôi thật sung sướng, sung sướng vì hoàn cảnh của tôi. Tôi cứ nơm nớp
sợ có ai quấy rầy mình, thế mà chuyện lại có thật. Cửa phòng bỗng bật mở.
Tôi nghe tiếng nói của John Reed. Khi
thấy căn phòng không có người, nó đứng yên. Rồi nó gọi mấy con em của nó lại,
bảo chúng:
-Nó đâu nào? Lizzi! Georgy! Jane
không có ở đây mà!
Tôi mừng vì có cái màn cửa che, tôi
cầu mong nó đừng thấy tôi. Nhưng Eliza lại nhanh hơn John, nó nói liền:
-Chắc là nó ngồi nơi cửa sổ.
Tôi phải bước ra giữa phòng và nói
với John Reed:
-Nào anh muốn cái gì?
Nó đáp:
-Mày hãy nói: Thưa ông Reed, ông
muốn gì? Tao muốn mày đến đây.
Nó ngồi vào 1 chiếc ghế bọc nệm và
ra dấu cho tôi đến trước mặt nó.
Thường quen vâng lời John, tôi đến
trước mặt nó. Nó là một thằng học sinh 14 tuổi, lớn hơn tôi 4 tuổi, vì tôi mới
lên 10. Nó to, bự so với tuổi của nó. Mặt to, tay chân thô ráp. da dẻ bệnh
hoạn.
John Reed ít thương mẹ và em nó. Nó
lại rất ghét tôi. Nó thường xuyên bắt nạt, trừng phạt tôi. Tôi rất sợ nó và mỗi
lần nó đến gần là tôi run lên. Có nhiều lúc tôi quá khiếp đảm,nhưng chẳng biết
nhờ ai giúp đỡ. Tôi tớ trong nhà chẳng ai muốn động đến ông chủ nhỏ của họ, còn
bà Reed thì lại không thèm hay biết gì về hành động của đứa con trai độc nhất
của mình cả.
Khi tôi đến gần ghế hắn ngồi, John
Reed bỏ mất mấy phút để thè lưỡi với tôi.Tôi biết hắn sắp đánh tôi, và trong
khi tôi đợi hắn đánh, tôi thấy cái mặt hắn xấu xí và ghê tởm làm sao.Như đọc
được ý nghĩ của tôi, thình lình hắn đánh tôi thật mạnh. Hắn hỏi:
- Mày làm cái gì sau bức màn?
Tôi đáp:
-Đọc sách.
-Đưa tao xem cuốn sách.
Tôi trở lại cưả sổ và lấy cuốn sách
đem đến cho hắn xem. John Reed nói tiếp:
- Mày không được đọc sách của tao.
Mẹ tao bảo mày là đứa ở nhờ. Cha mày không để lại một đồng. Đáng ra mày phải đi
ăn xin, chứ không được ở với con cái nhà quý tộc. Lẽ ra mày không được ăn mặc
như chúng tao. Đến đứng gần cửa lớn, tránh các cửa sổ và gương soi đi.
Tôi bước đi, không ngờ trước là hắn
sẽ làm gì. Thế rồi tôi thấy hắn đưa cuốn sách lên và ném vào tôi. Tôi tránh
không kịp. Cuốn sách đập vào tôi khiến tôi té nhào vào cánh cửa, đầu đập vào
đấy bị rách một đường. Vết rách chảy máu, tôi đau đớn vô cùng. Vừa giận vừa sợ,
không chịu nổi, tôi la lên:
- Mày là thằng độc ác, tàn bạo! Mày
như đồ sát nhân. Mày như bọn vua chúa La Mã bạo tàn!
Nó la lên:
- Sao! Mày nói với tao thế à? Eliza,
Georgiana, các em có nghe nó nói không? Anh sẽ nói cho mẹ biết. Nhưng trước
hết...
Nó nhào đến tôi, chụp lấy tóc và vai
tôi. Tôi quá tuyệt vọng, tôi xem nó như kẻ độc tài, sát nhân. Tôi không biết
tay tôi đã làm gì mà chỉ cảm thấy máu từ trên đầu chảy xuống, và tôi đã làm cho
nó la lên cầu cứu.
Các em gái nó chạy đi tìm bà Reed.
Bà ta chạy đến hiện trường, theo sau là Bessie và một tớ gái. Người ta can
chúng tôi ra. Rồi tôi nghe bà Reed nói: " Lôi cổ nó đến nhốt vào phòng
đỏ". Bốn bàn tay vội vàng lôi tôi lên lầu.
- Nắm chặt hai tay nó. Nó giống con
mèo điên đấy.
- Cô Eyre, thật quá quắt! Ai lại đi
đánh cậu Hai, con trai bà Reed! Bây giờ ngồi xuống đi và suy gẫm tội lỗi của
mình.Họ đem tôi đến phòng đỏ và để tôi ngồi trên một cái ghế đẩu. Tôi cố đứng
dậy liền bị ấn xuống, Bessie và người tớ gái đứng đây nghiêm khắc nhìn tôi.
Cuối cùng Bessie nói với tôi:
- Trước đây có bao giờ cô cư xử như
thế này đâu.
Người kia đáp:
- Nhưng cô ta đã có ý ấy rồi. Cô ta
là một cô bé thâm hiểm.
Họ ngừng một lát rồi Bessie gay gắt
nói với tôi:
- Thưa cô, cô phải biết rằng cô mang
ơn bà Reed nhiều lắm. Bà nuôi giữ cô. Nếu bà ấy bỏ cô, cô phải vào ở nhà tế bần
thôi.
Tôi không trả lời Mấy người này
không lạ gì với tôi.Chuyện trách cứ tôi ăn nhờ ở đậu là chuyện họ thường nhắc
lui nhắc tới, làm cho tôi đau đờn khốn khổ, nhưng chẳng nghĩa lý gì. Bessie nói
thêm nhẹ nhàng hơn:
- Tôi nói vậy là nhằn giúp cô. Cô
nên cố gắng biết điều và vui vẻ. Nếu cô cứ làm ồn và thô lỗ, cô sẽ bị đuổi đi
đấy, tôi chắc là như vậy.
Họ bỏ đi, đóng cửa rồi khóa lại, để
tôi một mình.
Phòng đỏ là một phòng lớn nhất, rộng
nhất trong nhà, nhưng lại ít khi được dùng đến.Ông Reed đã chết ở đấy được chín
năm nay rồi.Tôi biết ông chết ở trong phòng này, người ta để ông ở đây cho đến
khi đem ông đi chôn. Từ ngày ấy, một không khí ma quái trong phòng khiến chẳng
có ai dám bước vào. Căn phòng có mùi ẩm mốc và bị quên lãng.
Tôi ngồi gần lò sưởi, Cái giường màu
hồng trước mặt tôi; ở bên phải có cái tủ áo cao màu đen sẫm,bên trái là mấy cửa
sổ có treo màn. Một cái gương lớn phản chiếu cả cái phòng rộng lớn trống trải.
Tôi đứng dậy để xem thử họ đã thực
sự khóa cửa để nhốt tôi trong phòng không. Than ôi, họ đã khoá thật! Không có
nhà tù nào chắc chắn hơn. Quay trở lại, tôi nhìn mình trong gương, tôi nhìn một
chốc cái gương mặt nho nhỏ, xa lạ đang nhìn lại tôi. Cái mặt trắng và hai cánh
tay trông như một con ma buồn bã ở trong phòng. Tôi chậm rãi đi về phía cái ghế
đẩu.
Tâm trí tôi cứ nghĩ đến sự tàn ác
của John Reed, nghĩ đến sự thờ ơ lãnh đạm của hai đứa em gái của hắn, đến lòng
căm ghét của mẹ chúng đối với tôi, và đến lời lẽ rầy la của bọn tôi tớ trong
nhà.Tại sao tôi luôn phải đau khổ, luôn bị lên án và bị kết tội? Nếu tôi là một
đứa bé vui tươi, xinh đẹp, trong sáng thì bà Reed có thể sẽ tử tế với tôi, và
con bà sẽ thân thiện với tôi- đằng này, tôi chỉ là đứa bé nghèo nàn, không bè
bạn. Nhưng tôi là kẻ xa lạ với Gateshead Hall; tôi không hòa nhập được với mọi
người ở đây.
Tuy nhiên tôi đã cố làm tròn ngiệm
vụ của tôi và cố gắng để tốt hơn, thế mà tôi vẫn bị xem là đứa ngỗ ngược và
buồn rầu từ sáng sớm cho đến chiều tối. Eliza là đứa cố chấp ích kỷ, Georgiana
thì tính khí ác độc, ấy thế mà cả hai khi nào cũng được bỏ qua những tội lỗi
của chúng. John thích làm gì tuỳ ý mà chẳng bao giờ bị trừng phạt. Cho dù nó có
vặn cổ chim bồ câu, giết chết gà con, xua chó vào cắn cừu hay ngắt những nụ hoa
đẹp nhất để chơi - nó làm gì nó thích, thế mà Mẹ nó vẫn gọi nó là "cục
cưng của mẹ".
Đầu tôi vẫn chảy máu và đau đớn vì
bị ngã vào cửa, thế mà chẳng ai trách mắng John vì đã đánh tôi. Vì tôi đã chống
lại nó nên tôi phải bị nhốt ở đây trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi bề.
"Bất công! bất công!" Hai
tiếng ấy cứ lặp đi lặp lại trong đầu óc tôi, và tôi rất đau đớn tìm cách để
thoát ra, nếu không thì chắc là phải chịu cảnh đói khát đến chết mất.
Nếu ông Reed còn sống, tôi chắc là
ông sẽ đối xử với tôi tốt hơn.Tôi không còn nhớ ông, nhưng tôi biết ông là anh
của mẹ tôi, và ông đã đem tôi về nhà khi tôi trở thành đứa bé mồ côi. Tôi cũng
biết rằng, khi ông sắp chết, ông yêu cầu vợ hứa với ông là sẽ nuôi nấng tôi như
là con của bà.Bà Reed có lẽ tưởng giữ được lời hứa, nhưng làm sao bà có thể đối
xử như một bà mẹ thực sự đối với một đứa bé mà bà không thương mến-một đứa bé
không có liên hệ máu mủ với bà? Ông Reed sẽ nghĩ gì trước sự việc xảy ra ở dưới
lầu?
Tôi lại nhớ đến chuyện người ta kể
về những người chết, nếu họ không được thỏa mãn những ước mơ cuối cùng của họ,
thì họ sẽ mong trở lại dương thế. Tôi nghĩ đến hồn ma của ông Reed, buồn phiền
vì người ta đã đối xử không tốt với đứa con của em gái mình, hồn ma có thể hiện
lên trong cái phòng vắng vẻ này. Nếu thật vậy thì khủng khiếp biết bao. Tôi bắt
đầu lau khô nước mắt, ngồi yên và cố gắng can đảm lên. Bây giờ đã xế chiều, ánh
sáng nhợt nhạt, ảm đạm của mùa đông đang tràn ngập cả ngôi nhà yên tĩnh.Tôi
nghe tiếng mưa rơi đập vào kính các cửa sổ, và tiếng gió vẫn gào rít bên ngoài.
Tôi thấy lạnh cóng và lòng can đảm tiêu tan. Tôi ngẩng đầu lên và cố can đảm
nhìn quanh căn phòng tối tăm. Tôi chợt thấy một ánh sáng chiếu lên tường. A'nh
trăng à? Không phải đâu, trăng chưa mọc mà, vả lại ánh sáng lại di chuyển trên
trần nhà và chập chờn trên đầu tôi.
Tôi cứ nghĩ ánh sáng báo cho tôi
biết có một linh hồn từ bên kia thế giới đang hiện về. Thật ra thì chắc là ánh
sáng phát ra do một cây đèn dầu của ai đó đang xách đi ngoài vườn chiếu vào,
nhưng vì thần king tôi yếu nên tôi đã lo sợ như vậy. Tim tôi đập thình thịch,
đầu tôi nóng bừng, tai tôi ù như nghe tiếng chim đập cánh.Tôi không chịu nổi
nữa, Tôi hết kiên nhẫn, tôi chạy đến cửa lớn và đem hết sức mình lay mạnh cánh
cửa. Hết sức lo sợ, tôi gọi lớn và la hét ầm ĩ.
Tôi nghe tiếng chân chạy ngoài hành
lang rồi nghe tiếng của Bessie:
- Cô Eyre, cô bệnh à?
Tôi la lên:
- Hãy để cho tôi ra! Để tôi ra! Để
tôi đến phòng giữ trẻ thôi!
Bessie hỏi:
- Cái gì? Cô bị đau à? Có việc gì
không?
- Ôi tôi thấy có ánh sáng, chắc là
ma sắp hiện hồn.
Tôi nắm lấy tay Bessie nhưng chị ấy
lại hất tay tôi ra.Chị thấy tôi gào khóc và run rẩy đến nỗi không nói nên lời.
Abbot, người tớ gái khinh bỉ nói:
- Cô ta la hét để mình phải chạy đến
đây ấy mà! Nếu qủa thật cô ấy đau đớn lắm thì còn được, đằng này chỉ bày trò
mưu mô xảo quyệt mà thôi.
Tôi nghe một giọng khác hỏi:
- Cái gì đấy?
Rồi tôi nhận ra tiếng chân bà Reed
đi ngoài hành lang. Bà ta nói tiếp:
- Tao đã ra lệnh cho con Jane Eyre ở
trong phòng đó một mình cho đến khi tao tới mà.
Tôi níu lấy Bessie, khóc lóc. Bessie
van nài:
- Thưa bà, cô Jane la hét dữ quá.
Bà đáp:
- Để nó đấy. Này con kia, thả tay
Bessie ra. Mày đừng hòng mưu mô để thoát ra khỏi đây. Mày phải ở đây trên một
giờ. Tao chỉ cho mày ra khi nào mày chịu im lặng và ngồi yên.
Tôi khiếp đảm nói với bà:
- Ôi, thưa mợ, xin mợ thương cháu!
Xin mợ tha thứ cho cháu. Cháu không chịu được ở trong phòng này. Xin mợ phạt
cháu cách khác! Cháu chết mất...
- Im đi!
Bà Reed không muốn nghe thêm. Bà
không thèm để ý đến tôi đang nức nở kêu gào, bà đẩy mạnh tôi vào trong phòng đó
và khóa cửa nhốt tôi lại.
Trong bóng tối của căn phòng im
vắng, tôi nghe những bước chân đi xa dần. Tôi thấy mình đau đớn không chịu đựng
được; dường như bóng tối của căn phòng úp chụp lên tôi, nhận chìm tôi và tôi
không còn hay biết gì nữa.
Chương
2 . Người Bạn Lúc Cần
Điều tiếp theo tôi nhớ là tôi tỉnh
dậy như sau một giấc mơ khủng khiếp, và một cảm giác kinh hoàng lại tràn ngập
người tôi, khi tôi nghe có những giọng nói gần bên mình.
Tôi được nâng dậy và thấy mình đang
tựa người vào một chiếc gối hay một cánh tay nào đấy. Tôi cảm thấy yên ổn và dễ
chịu hơn trước. Rồi tôi nhận ra là đang ở trong phòng của mình, nên hết sợ.
Trời đã về đêm. Một cây đèn cầy đang
cháy trên bàn, Bessie đứng ở chân giường của tôi. Một ông ngồi trên ghế kê gần
gối tôi và nghiêng người nhìn tôi. Tôi cảm thấy thư thái lạ thường, và an toàn
vì tôi biết ông này là ai. Đó là ông Lloyd, thầy thuốc, thỉnh thoảng được bà
Reed mời đến mỗi khi tôi tớ có bệnh, còn bà và các con thì đã có một bác sĩ
khác rồi.
Ông ấy mỉm cười, hỏi tôi:
- Nào, biết ta là ai rồi chứ?
Tôi nói tên ông, rồi ông đặt tôi nằm
xuống, bảo rằng tôi sẽ khỏe sau một lát nghỉ ngơi. Ông bảo Bessie để tôi yên
suốt đêm, rồi ông bỏ đi. Tôi thấy lo vì cảm thấy mình chỉ được che chở và
thương mến khi có ông ở bên cạnh. Khi ông đóng cửa lại, cơn buồn lại đè nặng
lên tim tôi. Bessie dịu dàng hỏi tôi:
- Cô có ngủ được không?
Tôi không dám, trả lời vì sợ thái độ
dịu ngọt của chị ta không được lâu. Nhưng tôi cũng nói:
- Tôi sẽ cố ngủ.
- Cô có muốn ăn uống gì không?
- Không, xin cám ơn chị Bessie.
-Vậy thì tôi đi ngủ, đã qúa mười hai
giờ khuya rồi. Nhưng trong đêm nếu cô cần gì, cô cứ gọi tôi.
Thái độ quá tốt, tôi đánh bạo hỏi
chị ta:
-Này chị Bessie, tôi sao thế? Tôi
bệnh à?
- Tôi nghĩ là cô đã té nặng khi cô
kêu gào trong phòng đỏ. Rồi cô sẽ đỡ thôi.
Bessie đi ngủ, nhưng tôi đã trải qua
một đêm dài chập chờn khó chịu. Tôi qúa xúc động vì hậu qủa của những việc vừa
xảy ra trong ngày. Vâng, chính bà Reed đã làm cho tôi đau đớn về tinh thần. Tôi
có thể tha thứ cho bà vì bà không biết bà đã làm gì; nhưng tai tôi, mắt tôi,
tinh thần tôi cứ bị những nỗi sợ sệt khủng khiếp trong ngày làm căng thẳng, chỉ
có trẻ con mới cảm nhận được mà thôi.
Tuy nhiên tôi thấy mình được sung
sướng vì không có ai trong gia đình Reed có mặt ở đây. Chúng đã đi xe với mẹ
chúng rồi. Nhưng tôi không thể ăn được và cái hứng đọc sách cũng mất tiêu luôn.
Khi tôi nghe Bessie hát trong lúc chị lau chùi căn phòng, tôi nhận ra chị hát
rất buồn.
Khi ông Lloyd trở lại, ông hỏi:
- Nào, chị điều dưỡng, cô ấy ra sao
rồi?
Bessie trả lời là tôi đã khá rồi.
Ông bảo tôi:
- Trông đã vui vẻ rồi đấy. Đến đây
cô Eyre, cô đã la khóc, bây giờ còn đau đớn gì không?
- Dạ không, thưa ông.
Bessie bảo:
- Có lẽ cô ấy khóc vì không được đi
theo xe ấy mà.
Tôi đáp ngay:
- Tôi không bao giờ khóc vì chuyện
như thế đâu. Tôi ghét việc đi xe ra ngoài mà. Tôi khóc vì tôi khốn khổ.
Ông Llyod có vẻ bối rối. Ông nhìn
thẳng vào mặt tôi, hỏi:
- Hôm qua cái gì đã làm cho cháu
bệnh?
Bessie đáp:
- Cô ấy bị té.
Tôi dạn dĩ hơn, đáp lại:
- Tôi bị đánh ngã nhào.
Rồi tôi nói thêm:
- Nhưng cái đó không làm cho tôi
bệnh.
Ông Llyod hít một hơi thuốc thông
mũi. Khi ông bỏ cái hộp thuốc vào túi thì chuông reo báo giờ ăn của gia nhân.
Ông hiểu rõ việc ấy, ông bảo:
- Gọi cô đấy, cô điều dưỡng. Cô
xuống đi. Tôi sẽ giảng cho cô Jane nghe đến khi cô trở lại.
Bessie muốn ở lại lắm, nhưng giờ
giấc các bữa ăn ở Gateshead Hall là một quy định rất nghiêm khắc. Cô đành rời
khỏi phòng.
Ông Llyod lại quay qua tôi:
- Té ngã không làm cô bệnh, vậy cái
gì đã làm cho cô bệnh?
- Cháu bị nhốt trong phòng có ma cho
đến sau khi trời đã tối.
Ông Llyod như vừa mỉm cười vừa nhíu
mày:
- Có ma! Cô bé bỏng quá! Cô sợ ma ư?
- Cháu nghĩ là bóng ma của ông Reed.
Ông chết trong phòng ấy. Bessie và không một ai dám vào phòng ấy ban đêm. Thật
quá ác độc khi nhốt cháu vào đấy một mình không có một ngọn đèn, quá ác đến nỗi
cháu nghĩ sẽ không bao giờ tha thứ được.
Ông Llyod bảo
- Tầm bậy, thế ban ngày cháu có sợ
không?
- Dạ không. Nhưng chẳng bao lâu đêm
lại sẽ đến. Và ngoài ra, cháu rất khổ sở vì những chuyện khác nữa.
- Chuyện gì khác? Cháu kể cho tôi
nghe được không?
Tôi ước mơ được kể cho ai đó nghe
chuyện này biết bao! Trẻ con không dễ gì phân tích mạch lạc cảm xúc của mình,
nhưng chúng lại cảm thấy rất phong phú trong lòng.
Cuối cùng, sợ mất cái cơ hội hiếm
hoi để làm nhẹ bớt nỗi khổ của mình, tôi bắt đầu:
- Một điều đáng nói là cháu không có
cha mẹ, không anh em.
Ông Llyod bảo:
- Cháu có bà mợ tốt bụng và các anh
chị em họ đấy.
Tôi nghĩ một chốc, rồi quyết định
trút hết bầu tâm sự của mình:
- John Reed đã đánh cháu toác cả
đầu, còn mợ cháu thì lại nhốt cháu trong phòng đỏ ban đêm.
Ông Llyod lại lấy hộp thuốc ra rít
lần hai. Ông nói:
- Nhưng Gateshead hall là một ngôi
nhà đẹp đẽ như thế này, cháu không cảm ơn vì đã được sống ở một nơi xinh xắn
như thế này sao?
- Đây không phải là nhà của cháu, thưa
ông. Abbot lại còn bảo, cháu không hơn gì một gia nhân ở đây cả. Nếu có nơi nào
để đến, cháu sẽ vui sướng được rời bỏ nơi đây.Nhưng cháu không bao giờ rời khỏi
Gateshead Hall được, cho đến khi nào cháu đủ khôn lớn.
- Có lẽ cháu có thể rời khỏi đây
được đấy. Ai biết? Thế ngoài bà Reed ra, cháu không còn có bà con nào khác ư?
- Cháu chắc là không. Có một lần
cháu hỏi mợ Redd, mợ bảo cháu cũng có một ít bà con nghèo họ Eyre, tuy nhiên mợ
không biết rõ về họ. Cháu bảo" cháu không thích có bà con nghèo".
Cái nghèo thật khắc nghiệt đối với
trẻ con. Chúng cứ nghĩ đến cái nghèo chỉ qua hình ảnh rách rưới, thiếu thốn
thức ăn, mặc không đủ ấm, cộc cằn - nó đồng nghĩa với xấu hổ. Chúng không hiểu
gì hết về những người nghèo chăm chỉ lao động đáng kính.
Ông Llyod hỏi:
- Nếu họ tốt với cháu, cháu cũng
không thích à?
Tôi lắc đầu. Tôi không thể tưởng
tượng ra được người nghèo lại có phương tiện để tốt được.
- Mợ Reed bảo rằng, nếu cháu có bà
con chăng nữa, thì chắc họ cũng là một lũ ăn mày. Chắc là cháu không thích đi
ăn xin đâu.
- Thế cháu có muốn đi học không?
Một lần nữa tôi ngẫm nghĩ lung lắm.
Tôi từng nghe Bessie nói rằng, trường học là nơi các cô tiểu thư đến học để trở
thành đoan trang, mẫu mực. Nhưng cô ấy cũng nói cho tơi biết rằng họ lại còn
biết vẽ và hát, biết dịch sách tiếng Pháp, đến nỗi tôi phải ghen tỵ với họ.
Ngoài ra, nhà trường là nơi hoàn toàn khác hẳn. Nó ám chỉ đến một sự khác biệt
hẳn với Gateshead Hall - đi học là bước vào một đời sống mới.
Tôi hít một hơi thật dài và nói hết
suy nghĩ của mình cho ông ấy biết:
- Qủa thật là cháu thích được học,
ông ạ!
Ông Llyod đáp:
- Tốt, ai biết chuyện tương lai,
phải không cháu?
Ông đứng dậy, nói thêm như nói với
chính mình:
- Đứa bé phải thay đổi không khí và
khung cảnh. Thần kinh nó không được ổn.
Bessie đã quay trở lại, và ngay lúc
ấy có tiếng xe trở về. Ông Llyod hỏi:
- Cô điều dưỡng này, bà chủ của cô
về, phải không? Tôi muốn nói chuyện với bà ấy trước khi về.
Từ hôm ấy về sau tôi cứ đinh ninh
ông Llyod đang tìm cách thuyết phục để tôi được đi học.Và cũng từ hôm ấy, một
đêm nọ, tôi nghe Abbot nói với Bessie khi họ tưởng tôi đã ngủ, rằng: "Các
cô chủ rất hài lòng thoát khỏi một đứa trẻ đáng chán như vậy".
Cũng trong cái dịp này, lần đầu tiên
tôi biết được rằng cha tôi là một mục sư nghèo; mẹ tôi lấy ông không có sự ưng
ý của gia đình, vì vậy ông ngoại tôi, ông Reed, không cho mẹ tôi một đồng xu
nhỏ. Abbot cũng nói rằng, sau khi hai ông bà cưới nhau một năm và tôi đang còn
là một hài nhi, thì cha tôi đã mắc bệnh đậu lào trong một dịp đi thăm một bệnh
nhân nghèo. Mẹ tôi cũng lây bệnh và hai người đã chết cách nhau một tháng, thật
là một cặp vợ chồng trẻ đáng thương.
Bessie nghe xong câu chuyện thương
tâm ấy, chị thở dài rồi bảo:
- Này Abbot, nên thương xót cô Jane
tội nghiệp ấy, nghe!
Nói xong, hai người đi ngủ.
Chương
3 . Tôi Từ Gĩa Gateshead
Sau buổi nói chuyện với ông Llyod,
tôi vững tâm trở lại và tình trạng sức khỏe của tôi dần dà phục hồi. Một sự đổi
thay đang đến gần, tôi háo hức đợi chờ trong yên lặng. Nhưng chuyện có vẻ chậm
chạp; hàng ngày hàng tuần trôi qua, bà Reed làm cho tôi cảm thấy cô độc hơn bao
giờ hết.
Bà ta tách tôi khỏi mấy đứa con của
bà, cho tôi ăn riêng, ngủ riêng, và tôi phải ở trong phòng giữ trẻ khi mấy đứa
anh chị em họ của tôi ở trong phòng khách. Eliza và Georgiana nói chuyện với tôi
rất ít, còn John thì mỗi lần gặp tôi, hắn lại thè lưỡi ra với tôi. Có một lần
hắn định đánh tôi, nhưng tôi đã nhanh nhẹn đấm mạnh vào mũi hắn, khiến hắn phải
chạy đi tìm mẹ, mách: "Cái con Jane Eyre bẩn thỉu đã đánh con như một con
mèo điên".
Mẹ hắn bảo:
- Con đừng tới gần nó, John à. Nó
không đáng cho mình quan tâm tới. Mẹ không muốn các con tiếp xúc với nó.
Đứng tựa trên đầu thang lầu, thình
lình tôi nói to lên:
- Bọn chúng không xứng đáng để tôi
tiếp xúc đâu
Bà Reed người mập lùn, khi nghe tôi
nói như vậy, đã chạy vụt lên cầu thang, đẩy tôi vào phòng giữ trẻ, xô tôi xuống
mép giường rồi doạ dẫm:
- Mày không được rời khỏi cái giường
này và nói một tiếng nào cho đến hết ngày hôm nay.
Không tự kiềm chế được mình, tôi hỏi
bà:
- Nếu cậu Reed còn sống, cậu nghĩ
sao về mợ đây?
Bà Reed ngẹn ngào hỏi tôi:
- Mày nói sao?
Hai mắt bà ánh lên vẻ sợ sệt, bà
nhìn chằm chằm vào tôi như tôi là đồ qủy sứ. Tôi nói tiếp:
- Cậu Reed của cháu đang ở trên
trời; cậu thấy hết việc mợ làm và biết mợ nghĩ gì, và ba mẹ cháu cũng vậy. Tất
cả đều biết mợ nhốt cháu suốt ngày và muốn cho cháu chết đi.
Nhưng bà Reed đã tỉnh táo lại. Bà
day tôi thật mạnh, bạt tai tôi rồi không nói một lời, bà bỏ đi.
Tháng mười một, tháng mười hai rồi
nửa tháng giêng trôi qua. Dĩ nhiên là tôi bị đuổi khỏi các cuộc vui giáng sinh
và năm mới. Niềm vui của tôi là đứng nhìn chị em Eliza xuống tham dự ở phòng
khách, nhìn chúng mặc áo quần đẹp, choàng khăn cổ màu tím, cuộn tóc cao. Tôi
chỉ còn lắng nghe tiếng nhạc, tiếng ly tách va chạm nhau, tiếng người rì rầm mỗi
khi cửa mở ra đóng lại.
Tôi đành rút vào phòng giữ trẻ yên
lặng và đơn độc, chơi với con búp bê trên chân. Khi lửa trong lò sưởi tắt hết,
tôi vội cởi áo quần rồi chui vào giường để khỏi lạnh và khỏi thấy bóng tối.
Tôi luôn ôm con búp bê vào giường.
Người ta sống ở đời phải thương yêu một cái gì, tôi thì tìm thấy niềm vui bằng
cách nâng niu cái khuôn mặt nhỏ nhắn bạc màu này, cho dù nó xấu xí. Tôi bỗng
ngạc nhiên khi nhớ ra rằng tôi đã thương yêu cái đồ chơi nhỏ xíu này một cách
chân thành đến độ phi lý, lại tưởng tượng rằng nó sống thật. Tôi chỉ ngủ được
khi ôm chặt nó vào lòng, và khi nó nằm đấy yên ổn, ấm áp, tôi mới được hạnh
phúc và tưởng rằng nó cũng được hạnh phúc.
Thỉnh thoảng Bessie có đem đến cho
tôi một miếng bánh vào bữa ăn, chị ngồi trên giường trong lúc tôi ăn. Lần thứ
hai chị hôn tôi rồi nói:" Chúc cô ngủ ngon". Những lần chị ấy dịu
dàng với tôi như thế, chị tỏ cho tôi thấy chị là người tốt nhất, đẹp nhất trần
gian.Tôi cứ ước mơ chị mãi mãi tốt với tôi như thế, chứ đừng xô đẩy tôi, la
mắng tôi! Chị còn trẻ, mảnh mai, tóc và mắt đen, nét người rất xinh xắn. Mặc dù
tính khí chị ta có phần nóng nảy, tôi vẫn thích chị hơn bất cứ ai ở Gateshead
Hall.
Hôm ấy là ngày mười lăm tháng giêng,
vào quãng chín giờ sáng, Bessie đến bảo tôi tới phòng ăn điểm tâm có việc. Đã
gần ba tháng nay chưa bao giờ bà Reed cho gọi tôi đến. Tôi tần ngần đứng lại
một hồi lâu trong phòng khách vắng người, rồi quyết định đưa cả hai bàn tay
quay nắm cửa, bước vào.
Khi đã vào trong phòng, tôi ngước
nhìn một người cao lớn có khuôn mặt đen đủi đang đứng trước lò sưởi.Bà Reed
đang ngồi bên lò sưởi ra dấu cho tôi đến gần hơn. Bà giới thiệu tôi với người
cao lớn ấy.
- Đây là con bé mà tôi đã nói cho
ông biết.
Người đàn ông cúi người xem xét tôi.
- Nó còn nhỏ qúa nhỉ. Nó mấy tuổi
rồi?
- Mười rồi đấy.
Ông ta nghi ngại đáp:
- Nhiều thế à? Này, cháu tên gì?
- Thưa ngài, cháu tên là Jane Eyre.
- Tốt, này Jane Eyre, cháu có ngoan
không?
Thật khó trả lời dứt khoát, vì mọi
người trong nhà đều chống đối tôi. Tôi đành im lặng.
Bà Reed trả lời thay cho tôi:
- Có lẽ đề cập đến vấn đề này càng
ít càng tốt, ông Brocklehurst ạ!
- Tôi rất buồn khi nghe bà nói vậy.
Cô ấy và tôi phải trao đổi một ít.
Ông ta ngồi xuống và nói với tôi:
- Cháu hãy đến đây.
Tôi đi ngang qua tấm thảm. Ông biểu
tôi ngồi ngay trước mặt ông. Cái mặt ông rộng làm sao! Lại cái mũi bự nữa! Cái
miệng nữa nè! Răng thì to và hô! Ông ta lại bắt đầu nói:
- Không có cảnh nào xấu bằng một đứa
bé ngỗ ngược, cháu à! Cháu có biết những người ác độc sau khi chết đi đâu
không?
Tôi trả lời theo kinh điển:
- Dạ, họ phải xuống địa ngục.
- Địa ngục là gì? Cháu nói cho ta
biết, được không?
- Một hầm đầy lửa.
- Và cháu có muốn rơi vào hầm ấy rồi
bị cháy mất tiêu không?
- Dạ thưa ngài không.
- Vậy cháu có biết phải làm gì để
tránh điều ấy không?
Tôi nghĩ một lát rồi đáp:
- Cháu phải giữ gìn sức khỏe để khỏi
chết.
Đó không phải là một câu trả lời
đúng. Ông Brocklehurst bảo rằng ông sợ nếu tôi chết đi, linh hồn tôi sẽ không
được lên thiên đàng.
Tôi đưa mắt nhìn hai bàn chân to
tướng của ông trên thảm, tôi thở dài, muốn bỏ đi chỗ khác.
Ông Brocklehurst nói:
- Tôi mong tiếng thở dài ấy là do
lòng ân hận của cháu mà ra.
Bây giờ thì bà Reed tham gia câu
chuyện. Bà bảo rằng, nếu tôi được nhận vào trường Lowood, bà mong tất cả các
giáo viên phải nghiêm khắc với tôi. Nhất là họ phải coi chừng tật xấu nhất của
tôi, là tính nói láo. Lời tố cáo này với một người xa lạ, qủa là một cái tát
độc địa cho tôi. Trước mắt ông Brocklehurst, tôi là một con bé nói láo ghê tởm,
tôi có thể làm gì được để thanh minh cho mình? Qủa thật không có cách nào cả,
tôi chỉ biết cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra mà thôi. Tương lai của tôi ở
Lowood thật mờ mịt.
Ông Brocklehurst bảo:
- Nói láo là một tật xấu đáng buồn,
nó giống như sự xảo trá. Tất cả những kẻ nói láo đều phải bị đầy xuống hầm lửa
và lưu huỳnh. Thưa bà Reed, cô ta sẽ được canh chừng. Tôi sẽ báo trước cho cô
Temple và các giáo viên khác biết trước.
Bà Reed nói:
- Tôi muốn nó được dạy dỗ thích hợp
với hoàn cảnh của nó, để nó được hữu ích, biết khiêm tốn. Tôi cũng muốn nó ở lại
Lowood trong những dịp nghỉ.
Ông Brocklehurst đáp:
- Thưa bà, quyết định của bà hoàn
toàn hợp lý. Sự khiêm tốn được đặc biệt dạy dỗ cho các học sinh ở Lowood, bởi
vì tôi đã nghiên cứu phương pháp để giáo dục các em có thình cảm tự hào.
Ông ta và bà Reed tiếp tục thu xếp
để tôi vào Lowood, rồi ông Brocklehurst kiếu từ ra về.
Khi đi, ông còn quay lại nói với
tôi:
- Này cháu, đây là cuốn The Child's
Guide (hướng dẫn thiếu nhi). Đọc đi và cầu nguyện, nhất là về cái chết của
Martha, một đứa bé hư hỏng vì gian xảo và láo khoét.
Ông ta đặt cuốn sách vào tay tôi.
Bà Reed và tôi ngồi yên lặng trong
mấy phút. Tôi nhìn bà may vá. Những điều bà nói với ông Brocklehurst cứ ám ảnh
mãi trong đầu óc tôi. Mỗi lời bà nói đều làm cho tôi đau đớn vô cùng, và một
cảm giác căm ghét trỗi dậy trong đầu tôi. Bà Reed nghỉ tay và nhìn tôi. Tôi
nhìn bà khiến bà nhột nhạt, bà nói một cách giận dữ:
- Bước ra khỏi phòng đi. Về lại
phòng giữ trẻ.
Tôi đứng dậy bước ra cửa. Rồi tôi
trở vào và đến sát bên bà. Tôi phải nói, phải làm sáng tỏ vấn đề. Tôi thu hết
can đảm và nói:
- Cháu không nói láo. Nếu phải nói
láo, thì chắc cháu đã nói cháu yêu mợ. Nhưng cháu ghét mợ hơn bất cứ ai trên
đời này kể cả John Reed. Cuốn sách này nói về một kẻ nói láo, mợ hãy tặng cho
Georgiana, con gái của mợ, vì chính cô ấy mới nói láo, chú không phải là cháu.
Hai bàn tay bà Reed vẫn còn để trên
đồ may. Hai mắt lạnh lùng của bà nhìn tôi chằm chằm:
- Mày còn nói gì nữa không?
Giọng nói của bà, đôi mắt lạnh lùng
thù hận của bà đã khơi dậy mối ác cảm trong tôi. Tôi run rẩy toàn thân, và thấy
mình bạo dạn ra, tôi nói tiếp:
- Tôi lấy làm hài lòng vì bà không
phải bà con gì với tôi cả.Tôi sẽ không bao giờ đến thăm bà khi tôi đã khôn lớn.
Nếu có ai hỏi tôi bà đã đối xử với tôi ra sao, thì tôi sẽ nói cho họ biết bà đã
đối xử với tôi qúa tàn bạo, khốn nạn ngày này qua ngày khác.
- Jane Eyre, mày dám nói với tao như
vậy sao?
- Thua bà Reed, tôi dám à? Nó thực
sự mà! Bà cho là tôi sống được với không một tí yêu thương nào cả. Bà không có
tình thương.Trong chuỗi ngày tê tái của tôi, tôi cứ nhớ mãi bà đã đẩy tôi vào
trong cái phòng đỏ gớm ghiếc ấy, nhốt tôi một mình trong ấy. Mặc cho tôi kêu
gào van xin, bà đã khóa cửa nhốt tôi vào đấy, bất kể tôi đã khiếp sợ đến dương
nào! Rồi bà còn hành hạ tôi đủ điều vì thằng con độc ác của bà đã vô cớ đánh
tôi nhào đầu.Tôi sẽ nói cho mọi người biết khi họ hỏi tôi về sự thực chuyện
này. Bà độc ác. Người ta có thể tưởng bà tốt, nhưng thực ra bà xấu, ác tâm.
Chính bà mới là kẻ nói láo.
Trước khi tôi nói xong, tôi cảm thấy
mình tự do và chiến thắng một cách lạ kỳ. Tuồng như có một bước nhảy vô hình
khiến tôi thấy mình tự do.
Bà Reed trông có vẻ kinh ngạc vô
cùng. Đồ may của bà tuột khỏi đầu gối, bà giơ hai tay lên và đung đưa người, bà
nói:
- Jane, cháu sai lầm rồi đấy. Cháu
có vấn đề gì đấy? Tại sao cháu run rẩy như vậy? Cháu muốn uống nước không? Này
Jane, mợ cam đoan với cháu, mợ muốn làm bạn của cháu đấy.
- Không đâu bà ạ! Bà đã nói với ông
Brocklehurst là tôi không có tư cách và nói láo. Tôi sẽ nói cho mọi người ở
Lowood biết, bà như thế nào và bà đã làm gì.
Bà ta bảo:
- Này Jane, cháu không hiểu hết vấn
đề. Trẻ con phải sửa chữa những lỗi lầm của mình.
Tôi la lên:
- Nhưng tội nói láo không phải là
tội của tôi.
- Nhưng cháu nóng nảy qúa đấy Jane
à.Thôi, hãy về phòng giữ trẻ và nghỉ một chút đi.
- Tôi không nằm nghỉ. Bà Reed à, bà
hãy cho tôi đến trường ngay đi. Tôi ghét sống thêm ở đây lắm rồi.
Giọng của tôi oang oang rõ ràng.
Bà Reed vừa lượm đồ may lên, vừa rời
khỏi phòng vừa lẩm bẩm một mình: "Rồi tao sẽ cho maỳ đến trường
ngay".
Tôi ở lại một mình - như kẻ chiến
thắng. Đấy là cuộc chiến đấu gian khổ nhất và là chiến thắng đầu tiên của tôi.
Tôi đứng một lát trên tấm thảm, chỗ ông Brocklehurst đã đứng, vui sướng vì một
mình chiến thắng.
Chương
4 . Ở Lowood
Tôi thức dậy trước năm giờ sáng ngày
mười chín tháng giêng, và khi Bessie mang vào phòng tôi một cây đèn, chị đã
thấy tôi áo quần chỉnh tề. Tôi sẽ rời Gateshead bằng chuyến xe ngựa chạy qua
cổng nhà vào lúc sáu giờ sáng.
Bessie cố chuẩn bị cho tôi ăn trước
khi đi, nhưng tôi lại qúa nôn nóng ra đi. Cho nên chị gói cho tôi một ít bánh
trong tờ giấy báo, và nhét vào túi xách của tôi. Khi chúng tôi đi qua phòng ngủ
của bà Reed, Bessie bảo tôi:
- Cô có vào phòng chào bà không?
- Không, chị Bessie à! Đêm qua khi
chị đi ăn thì bà có đến giường tôi, bảo tôi khỏi cần quấy rầy bà vào buổi sáng,
và cũng khỏi chào các anh chị em họ của tôi. Bà lại còn nhắc tôi nhớ rằng, bà
luôn luôn là bạn tốt của tôi, và tôi phải biết ơn bà.
Bessie hỏi:
- Thế cô nói sao?
- Không nói gì hết. Tôi lấy vải trải
giường che lấy mặt và quay lưng lại với bà.
- Cô Jane à, thế là sai rồi.
- Không, hoàn toàn đúng đấy, chị
Bessie. Bà Reed không phải là bạn của tôi mà là kẻ thù của tôi.
- Ôi, cô Jane, cô đừng nói thế.
Khi chúng tôi đi qua phòng khách, ra
khỏi cửa, tôi la lên:
- Vĩnh biệt Gateshead!
Hôm ấy là một buổi sáng mùa đông rất
lạnh, hai hàm răng tôi đánh vào nhau lập cập. Chúng tôi đi vội đến nhà bác giữ
cổng. Khi chúng tôi tới đó, vừa đúng sáu giờ, vợ bác giữ cổng đang nhóm lửa.
Cái rương của tôi đã được mang tới đây đêm qua, và bây giờ tôi thấy nó ở gần
cửa.
Tôi bước ra khỏi căn nhà lá và nghe
thấy tiếng chân ngựa và tiếng bánh xe lăn khi xe đến gần.
Vợ bác giữ cổng hỏi sau lưng tôi:
- Cô ấy đi một mình thôi à?
- Vâng.
- Xa lắm không?
- Mười lăm dặm.
- Như thế thì xa qúa cho một cô bé.
Tôi ngạc nhiên tại sao bà Reed lại để cô đi một mình xa đến thế.
Chiếc xe dừng lại. Nó ở nơi cổng đây
rồi, bốn con ngựa và nhiều hành khách. Người ta đưa cái rương của tôi lên xe.
Bessie đưa hai cánh tay đỡ tôi lên, tôi ôm chị lần cuối.
Khi người phụ xế đỡ tôi lên xe, chị
Bessie nói lớn với anh ta:
- Coi chừng giúp cô ấy nghe!
Có tiếng đáp lớn:
- Đưọc rồi.
Chiếc xe lăn bánh.
Tôi nhớ ít về chuyến đi, nhưng ngày
ấy đã qúa dài, và chiếc xe như đã đi hàng trăm dặm.
Sau một buổi chiều ẩm ướt mù sương,
có một người như là gia nhân chặn xe lại. Anh ta đến đón tôi, anh đứng giữa mưa
và bóng tối khi chiếc xe chạy đi.
Tôi bị tê cứng vì ngồi lâu và mỏi
mệt vì bị xe nhồi, cho nên tôi qúa đỗi vui mừng khi thấy mình được dẫn đến một
tòa nhà rộng rãi.Người gia nhân để tôi đứng một mình trong căn phòng, tôi hơ
những ngón tay tê cứng trên lò lửa, nhưng chẳng bao lâu sau một cô giáo trẻ tên
là Miller đến dẫn tôi đi qua những lối đi lạnh lẽo.
Chúng tôi đi từ phòng này qua phòng
khác cho đến khi chúng tôi nghe tiếng ồn của một đám đông, rồi chúng tôi đến
một nơi đông đúc con gái đủ lứa tuổi. Qua ánh sáng của những ngọn đèn cầy, họ
ngồi đầy cả phòng học dài và rộng, đông không đếm xuể, nhưng chắc cũng phải đến
tám mươi người. Đang giờ học, còn tiếng ồn tôi nghe được là những tiếng thì
thào họ nhắc cho nhau về bài học ngày mai.
Cô Miller ra dấu cho tôi ngồi vào
chiếc ghế dài cạnh cửa, rồi cô nói lớn ở đầu lớp:
- Lớp trưởng, thu sách lại và cho
nghỉ.
Bốn cô gái cao đứng dậy ở các bàn
khác nhau và làm theo lời cô.
Cô Miller lại ra lệnh:
- Lớp trưởng, đi lấy các khay thức
ăn.
Bốn cô gái cao ấy lại bước ra rồi
trở vào, mỗi cô mang một cái khay trên có một bình nước, một cái cốc lớn và vài
miếng bánh lúa mạch mỏng đặt trên một cái đĩa. Khi thực phẩm được chia quanh
cho mọi người, thì ai cần nước cứ uống chung một cốc. Đến phiên tôi, tôi chỉ
uống vì quá khát và không thể ăn được vì qúa mệt trong chuyến đi.
Bữa ăn xong, cô Miller đọc kinh rồi
tất cả đi theo hàng hai lên lầu. Mệt mỏi, tôi không để ý mình được sắp xếp ngủ
ở đâu, chỉ biết phòng ngủ dài, kê hai dãy giường, mỗi cái hai người. Đêm nay
tôi ngủ chung giường với cô Miller, và nằm xuống là tôi ngủ liền. Gian phòng
tối thui và yên lặng.
Tôi bừng mắt dậy khi chuông đang reo
vang, và tất cả đám con gái đã chỗi dậy, đang mặc áo quần, mặc dù trời chưa
sáng hẳn.Trời rất lạnh. Tôi miễn cưỡng ngồi dậy, mặc áo quần vừa run rẩy rửa
mặt trong một cái chậu trống, kê ở giữa phòng. Một cái chậu dùng chung cho sáu
người, thật không phải dễ.
Chuông lại reo, tất cả lại xếp hàng
hai và đi xuống thang lầu, vào một phòng học lờ mờ và lạnh lẽo.
Có lệnh sắp xếp học sinh vào bốn
lớp. Tôi được xếp vào lớp học sinh nhỏ nhất, ngồi ở cuối phòng học, do cô
Miller phụ trách. Một hồi chuông khác xa hơn, ba giáo viên khác bước vào nhóm
khác đang đợi.
Công việc bắt đầu. Đọc kinh và tập
đọc trong sách kinh suốt một giờ liền. Khi vừa xong thì trời đã sáng hẳn.
Chuông lại reo lần thứ tư và các lớp lại xếp hàng đi vào một phòng khác để ăn
điểm tâm. Tôi vui sướng làm sao khi nghĩ đến ăn một cái gì! Hầu như tôi đói lả
người vì hôm trước ăn rất ít.
Phòng ăn rộng, thấp, thê lương. Mấy
cái thau đựng thức ăn nóng hổi đặt trên hai bàn dài. Nhưng vừa bước vào, tôi
ngửi thấy mùi khó chịu, tôi thấy ớn người. Từ hàng đầu có tiếng xì xầm:
- Tởm qúa! Cháo lại cháy nữa.
Một giọng nói la lớn ở một bàn khác:
- Im lặng đi!
Học sinh đọc lời tạ ơn dài, rồi hát.
Rồi một gia nhân mang trà đến cho giáo viên và bữa ăn bắt đầu.
Bây giờ thì tôi xỉu vì đói; bất kể
mùi vị ra sao, tôi ăn liền mấy muỗng phần ăn của mình. Rồi tôi thấy những cái
muỗng quanh tôi hoạt động như tôi, và mọi người rồi cũng cố gắng ăn cái thứ
thực phẩm thừa mứa ghê tởm ấy. Bữa điểm tâm đã xong và ai cũng phải ăn hết. Rồi
lại đọc lời cảm tạ những cái chúng tôi không nhận được, lại hát. Rồi chúng tôi
trở lại phòng học.
Mười lăm phút trước khi giờ học bắt
đầu, phòng học ồn ào náo nhiệt vì chúng tôi được phép nói chuyện lớn và tự do
lúc này.
Đồng hồ điểm chín giờ. Cô Miller
đứng ở giữa phòng nói lớn:
- Tất cả im lặng. Vào chỗ ngồi.
Trật tự được lập lại.
Những giáo viên khác đến đúng giờ,
họ ngồi vào chỗ, nhưng vẫn còn như đợi một cái gì. Tám chục nữ sinh ngồi trên
những dãy ghế dài kê dọc theo hai bên phòng học, lưng thẳng, yên lặng, tóc chải
thẳng ra sau, không một ai cuộn tóc lên. Tất cả đều mặc áo màu nâu, cổ cao cài
kín, mang bít tất len và giày thô ráp. Khoảng hai chục học sinh lớn nhất, gần
trưởng thành, mặc áo quần màu xám nhạt, trông buồn tẻ, xấu xí mặc dù có cô rất
xinh.
Tôi đang nhìn quanh thì bỗng cả lớp
đứng dậy như có một phản xạ quen thuộc từ lâu. Cái gì vậy? Tôi không nghe có
lệnh gì hết, nhưng tất cả đều đổ dồn mắt đến một người cao đang đứng ở cuối căn
phòng dài. Đó chính là bà đêm qua tôi đã thấy một lần. Cô Miller đến hỏi bà,
rồi hình như nhận lệnh, cô quay về chỗ cũ và nói to lên:
- Lớp trưởng lớp nhất, đi lấy địa
cầu!
Cô hiệu trưởng Lowood (vì chính bà
ấy) ngồi vào chỗ trước hai qủa địa cầu để trên một cái bàn và bắt đầu giảng một
bài địa lý cho các học sinh lớn học. Bây giờ trong ánh sáng ban ngày,trông cô
cao và trang nghiêm.Cô mặc áo màu tím và tôi để ý thấy một chiếc đồng hồ vàng
đeo nơi thắt lưng của cô (loại đồng hồ này bây giờ không còn phổ biến nữa). Đôi
mắt màu nâu long lanh trên khuôn mặt tai tái, tóc cuốn lên bao quanh chân mày
theo kiểu lúc bấy giờ. Độc giả chắc sẽ thêm vào hình ảnh cô Temple dáng dấp
nghiêm nghị và thái độ trầm tĩnh. Sau này khi đi nhà thờ với cô, cô để tôi mang
cuốn sách kinh cho cô, tôi mới thấy tên cô trên cuốn sách là Maria Temple.
Các lớp dưới do các giáo viên khác
dạy lịch sử và các môn học khác trong một giờ, rồi tiếp theo là học viết, học
toán. Cô Temple dạy nhạc cho các học sinh lớn, cho đến lúc đồng hồ đánh mười
hai giờ, cô hiệu trưởng đứng dậy.
Cô bảo:
- Các em, Cô có đôi lời nói với các
em. Sáng nay người ta dọn điểm tâm cho các em, các em không ăn được. Chắc là
các em đói. Cô đã ra lệnh dọn bánh mì và phó - mát cho các em.
Các cô giáo khác có vẻ ngạc nhiên.
Cô Temple nói tiếp:
- Tôi chịu trách nhiệm về việc này.
Nói xong cô rời phòng học.
Bánh mì và pho mát tức thì được mang
vào và phân phát cho học sinh, cả trường đều hân hoan. Rồi có lệnh "ra
vườn". Mỗi cô, kể cả tôi, khoác một chiếc áo choàng màu xám, đội một cái
nón rơm, rồi tất cả nhộn nhịp bước ra ngoài trời.
Khu vườn rộng rãi có tường cao bao
quanh, ở ngoài không nhìn thấy. Một hành lang kín đáo chạy dọc mỗi bên khu
vườn, và các lối đi rộng rãi chạy quanh khu trung tâm, khu này được chia thành
nhiều luống hoa, mỗi cô có một luống. Khi mùa hoa nở, chắc là chúng rất đẹp
mắt, nhưng bây giờ thì đang cuối tháng giêng, chỉ toàn thấy cảnh tàn úa xám xịt
của mùa đông mà thôi.
Tôi rùng mình khi nhìn quanh, một
lớp sương mù vàng vọt khắp nơi và mặt đất nhão nhẹt dưới chân. Mấy cô mạnh khỏe
thì chạy nhảy nô đùa, còn mấy cô ốm yếu thì tụ tập dưới hành lang để tránh lạnh
và được ấm áp. Trong hơi sương ẩm ướt, tôi nghe nhiều cô khúc khắc ho.
Tôi không nói chuyện với ai, và cũng
không ai chú ý đến tôi, nhưng tôi đã quen cảnh cô đơn rồi, cho nên tôi không
thấy có gì đáng ngại.Tôi đứng tựa vào một chiếc cột ở hành lang, kéo chặt chiếc
áo choàng và cố quên đói quên lạnh, tôi đứng nhìn và suy nghĩ. Gateshead và đời
sống cũ đã xa rồi, hiện tại thì mơ hồ và xa lạ, còn tương lai thì tôi không dám
nghĩ đến.
Tôi nhìn ra khu vườn lạnh lẽo rồi
nhìn lên ngôi nhà - một tòa nhà rộng, một nửa có màu xám, cổ; nửa kia thì mới.
Phần còn mới bao gồm phòng học chính và dãy phòng ngủ, qua những cánh cửa sổ
mắt cáo, người ta thấy phòng ngủ sáng sủa ra. Nhìn qua, nó giống như một nhà
thờ. Một tấm đá gắn vào cửa có khắc hàng chữ:
"Viện Lowood. Phần này do Naomi
Brocklehurst ở Brocklehurst Hall của quận này xây cất". " Hãy để cho
ánh sáng tỏa ra trước mọi người cho họ thấy công đức của ngươi và hãy vinh danh
Cha ở trên Trời. Thánh Matt. Tập 16".
Tôi đọc lui đọc tới những chữ này mà
vẫn thấy khó hiểu. Tôi tự hỏi ý nghiã của từ " Viện" và câu Thánh
vịnh theo sau nó, thì bỗng nghe có tiếng ho ở đằng sau, nên quay đầu lại.
Tôi thấy một cô gái ngồi trên chiếc
ghế đá, đầu cúi xuống trên một cuốn sách. Từ chỗ tôi đứng, tôi có thể nhìn thấy
nhan đề cuốn sách, " Rasselas", một cái tên xa lạ và hấp dẫn với tôi.
Nhân lật một trang sách, chợt cô gái nhìn lên và tôi nói với cô:
- Cuốn sách hay không?
Tôi đã cố gắng dạn dĩ hỏi mượn cô
trong vài ngày. Cô nghỉ đọc, nhìn tôi chằm chằm rồi đáp:
- Tôi thích đọc nó.
Tôi hỏi tiếp:
- Viết về cái gì thế?
Tôi không hiểu sao mình lại dám gợi
chuyện với một người lạ như thế này, nhưng tôi cũng thích đọc, mặc dù tôi đang
còn bé hơn cô ta.
Cô gái đưa cuốn sách cho tôi,rồi
đáp:
- Bạn có thể xem nó đi.
Xem lướt qua, tôi thấy nội dung cuốn
sách có vẻ buồn hơn cái nhan đề.Tôi không thấy nói gì về các vị tiên, không có
tranh ảnh nào trong các trang đầy chữ in. Tôi trả cuốn sách lại cho cô ta, cô
định tiếp tục đọc thì lại bị tôi quấy rầy:
- Bạn có thể giải thích cho mình ý
nghĩa của hàng chữ trên không? tại sao gọi là Viện? Nó có khác những trường học
khác không?
- Nó là một phần của trường từ
thiện. Bạn và tôi, và tất cả chúng ta ở đây là trẻ từ thiện. Mình chắc bạn cũng
mồ côi, không cha mẹ chứ?
- Cả hai đều chết khi mình chưa
biết.
- Đấy, tất cả con gái ở đây đều mất
một hay cả cha lẫn mẹ, cho nên người ta gọi đây là Viện Giáo Dục Trẻ Mồ Côi.
- Chúng ta khỏi trả tiền ư?
- Chúng ta trả chứ, hoặc bạn bè
chúng ta trả cho chúng ta, mười lăm bảng một năm.
- Thế tại sao họ gọi mình là trẻ từ
thiện - Họ có nuôi chúng ta đâu?
- Vì mười lăm bảng chỉ đủ tiền ở và
tiền học. Sự thiếu hụt đều do tiền quyên góp đóng bù vào.
- Ai góp vào cho?
- Nhiều thành phần trong quận này và
ở Luân đôn
- Naomi Brocklehurst là ai thế?
- Là bà xây toà nhà mới và con trai
bà bây giờ là thủ qũy và quản lý.
- Vây thì trường không phải của bà
đã cho bảo chúng ta phải có bánh mì và phó- mát.
- Của cô Temple ấy à? Không phải -
mình ước gì là của cô ấy. Cô ấy phải trả lời cho ông Brocklehurst tất cả công
việc cô làm. Ông ấy mua thực phẩm và áo quần cho chúng ta. Ông ở trong một ngôi
nhà lớn cách đây hai dặm.
- Ông có tốt không?
- Ông ấy là một mục sư, và người ta
bảo ông ấy làm rất nhiều việc.
- Bồ biết hết tên các giáo viên chứ?
- Cô phụ trách hôm nay là cô Miller.
Có cô Smith, cô dạy may vì tất cả chúng ta phải may lấy áo quần và các thứ. Cô
nhỏ con có tóc đen là cô Scatcherd, cô dạy lịch sử và văn phạm. Người trùm khăn
là bà Pierrot, bà ta ở Pháp và dạy tiếng Pháp.
- Bạn có thích các cô giáo không?
Bạn có thích cái cô nhỏ tóc đen không?
- Cô Scatcherd nóng nảy, bạn nhớ
đừng xúc phạm đến cô ấy. Bà Pierrot không phải là người xấu.
Tôi hỏi:
- Cô Temple tốt nhất, phải không?
- Cô Temple rất tốt và rất khéo léo.
Cô hơn hết thảy vì cô biết rộng hơn tất cả.
- Bạn ở đây lâu chưa?
- Hai năm.
- Bạn mồ côi hả?
- Mình mất mẹ.
- Bạn có được hạnh phúc ở đây không?
Hellen Burns đáp:
- Bạn hỏi nhiều qúa đấy nhé! Mình đã
trả lời cho bạn đầy đủ rồi đấy. Thôi bây giờ mình cần đọc sách nghe.
Nhưng khi cô ta vừa giới thiệu tên
của cô thì chuông reo báo giờ ăn và tất cả chúng tôi đi vào nhà.
Thực phẩm dọn ra bây giờ cũng không
hơn gì bữa điểm tâm. Hai cái thùng thiếc lớn hơi bốc lên tỏa mùi thịt mỡ ôi,
chúng tôi nhận khẩu phần trong thùng gồm khoai tây và mấy miếng thịt xỉn màu kỳ
lạ nấu chung với nhau. Tôi ăn cái gì có thể ăn được và tự hỏi không biết rồi
ngày nào cũng vậy sao.
Sau bữa ăn chúng tôi trở lại phòng
học, tiếp tục học cho đến năm giờ.
Trong buổi chiều có chuyện đặc biệt
duy nhất xảy ra là tôi thấy cô Scatcherd đuổi Hellen Burns ra khỏi lớp học sử.
Cô ấy bị ra đứng một mình ở giữa phòng học rộng. Lối phạt xem ra thật khó chịu
đối với một cô gái lớn như vậy, cô ta khoảng mười bốn tuổi, nhưng tôi ngạc
nhiên khi cô không tỏ ra buồn phiền hay xấu hổ gì hết, khi đứng giữa phòng
trước mặt mọi người.
Tôi tự hỏi:" Tại sao cô ta chịu
phạt một cách bình tĩnh và yên lặng như thế? Tôi thì ước chi nền nhà có thể nứt
ra để mình có thể chui xuống dưới. Còn cô ấy thì có vẻ như đang suy nghĩ đến
điều gì ngoài hình phạt của cô."Đôi mắt cô dán thật chặt xuống nền nhà,
nhưng tôi chắc cô không thấy nó, đôi mắt hình như chạy tọt vào trong và nhìn
xuống con tim mình. Tôi tin rằng cô đang nhìn thấy cái gì đó mà cô đang nhớ
lại. Tôi tự hỏi cô ta là loại con gái như thế nào, ngoan hay là nghịch.
Không lâu sau năm giờ, chúng tôi lại
có bữa ăn gồm một ly cà phê nhỏ và nửa lát bánh mì nâu. Tôi ăn phần ăn của mình
với sự thích thú, ước gì tôi cứ có thêm mãi bởi vì tôi vẫn còn đói lắm.
Nghỉ nửa giờ rồi học lại, rồi lại
một bình nước và miếng bánh bột kiều mạch, rồi cầu nguyện và đi ngủ.
Ngày đầu tiên của tôi ở Lowood là
như vậy.
Chương
5 . Một Bài Học Hóc Búa
Học kỳ một của tôi ở Lowood trôi qua
như dài một thế hệ.Tôi hết sức khó khăn trong việc làm quen với những luật lệ
mới và những bài học, nhưng nỗi lo sợ thất bại triền miên của tôi cứ làm tôi lo
lắng nhiều hơn cả công việc nhọc nhằn hằng ngày.
Suốt tháng giêng, tháng hai và một
phần tháng ba, lớp tuyết dày đã giữ chúng tôi ở trong khuôn viên nhà trường,
trừ khi chúng tôi đi nhà thờ.Nhưng hằng ngày, chúng tôi phải trải qua một giờ ở
ngoài trời và áo quần chúng tôi không đủ ấm để chống chọi với cái rét ghê hồn.
Tuyết lọt vào trong giày của chúng tôi, tan ra, cả bàn chân, bàn tay đầy những
chỗ sưng nhức nhối.
Tôi nhớ qúa rõ nỗi đau đớn và giận
dữ tôi đã chịu đựng mỗi tối khi hai bàn chân mình bị sưng tấy lên và sự khốn
khổ phải chuồi mấy ngón chân sưng nhức vào giày mỗi buổi sáng. Rồi thì sự thiếu
ăn là một nỗi khổ triền miên, và việc này lại phát sinh ra cái tệ nạn bọn con
gái lớn dụ dỗ, dọa dẫm bọn nhỏ sớt bớt phần ăn cho chúng, mặc dù khẩu phần của
chúng đã ít ỏi. Nhiều lần tôi đã chứng kiến mẩu bánh mì qúy giá của tôi được
chia cho hai đứa lớn, một nửa bình cà phê đứa thứ ba uống, tôi chỉ ăn chút ít
còn lại, và chỉ biết khóc thầm mà thôi.
Chủ nhật là những ngày buồn thảm vào
mùa đông. Chúng tôi phải đi bộ hai dặm đường để đến nhà thờ Brocklebridge, ở
đây người bảo trợ chúng tôi là một mục sư.Chúng tôi bước ra là thấy lạnh, đến
nhà thờ càng lạnh hơn sau khi đã đi bộ trên tuyết, và hầu như bị tê cóng vì
lạnh suốt thời gian dài làm lễ.
Đường đi qúa xa nên không thể về
đúng giữa trưa để ăn, cho nên chúng tôi phải ăn thịt và bánh mì nguội đợi đến
bữa ăn chiều.
Xế chiều, chúng tôi phải đi bộ về
trường trên con đường đồi lạnh lẽo. Tôi cứ nhớ cô Temple, áo choàng bị gió lạnh
đánh phần phật, đi nhanh nhẹn giữa đoàn nữ sinh đang lom khom bước, cô cố động
viên chúng tôi giữ vững tinh thần. Các giáo viên khác, thật khốn khổ, lại đi
sát vào nhau để vui chân.
Chúng tôi mơ ước biết bao ánh sáng
và hơi ấm của lò lửa bập bùng khi trở về! Nhưng điều này thật khó cho học sinh
nhỏ, vì mỗi lò sưởi đều có các cô lớn ngồi quanh hai hàng rồi.
Một buổi chiều khi tôi đã ở Lowood
được ba tuần, tôi đang ngồi với cái bảng đen trên tay, đang bối rối trước một
bài toán chia dài thì tôi chợt thấy một bóng người đi ngang ngoài cửa sổ. Đó là
ông Brocklehurst. Phút chốc, ông đã vào trong phòng học, đứng bên cạnh cô
Temple, cũng cái dáng người cao ấy đã nghiêng người lên tôi ở Gateshead.
Tôi có lý do riêng để sợ chuyến đến
viếng thăm này. Tôi sợ bất kỳ một phát hiện nào về qúa khứ của tôi trong trường
hợp ông tố cáo tôi là một đứa trẻ xấu. Hình như tôi nghe được chuyện ông đang
nói với cô Temple( cô đang ngồi ở gần cửa lớn), cho nên thoạt tiên tôi thấy yên
ổn phần nào.
Ông Brocklehurst nói:
- Cô Temple à, khi tôi đến đây vừa
rồi, tôi đã ra vườn sau và xem xét áo quần đang phơi trên dây. Nhiều đôi bít
tất đen ở trong tình trạng tồi tệ khó chữa, do các lỗ thủng khá lớn, tôi e rằng
chúng không cách gì vá mạng lại được.
Ông dừng lại. Cô Temple trả lời:
- Thưa ngài, chúng sẽ được điều chỉnh
lại.
Ông Brocklehurst tiếp:
- Có điều khác nữa khiến tôi ngạc
nhiên là khi coi lại sổ sách kế toán của quản gia, tôi thấy có một bữa ăn bánh
mì và phó mát đã được dọn thêm lần thứ hai cho các cháu cách đây hai tuần. Ai
cho phép làm việc này và ai ra lệnh vậy?
Cô Temple đáp:
- Thưa ngài, tôi xin chịu trách
nhiệm việc này. Cháo nấu qúa cháy, các em không thể ăn được.
- Xin cô nghe cho. Cô biết là kế
hoạch của tôi là làm cho những đứa nhỏ này biết kham khổ và biết kiên nhẫn, tự
chế - không khuyến khích chúng sống xa hoa và tự mãn. Một sự nản chí nhỏ nhặt
nào, như là làm hỏng một bữa ăn, đều là cơ hội để chúng ta giáo dục tinh thần
cho chúng, dạy chúng có nghị lực để chống chọi với gian khổ. Ôi, thưa cô, khi
cô cho chúng ăn bánh mì và pho- mát thay cho cháo cháy, thì cô đã nuôi nấng cái
cơ thể khốn khổ của chúng, nhưng cô ít nghĩ đến việc cô đã bỏ đói linh hồn bất
diệt của chúng cho đến chết!
Ông Brocklehurst lại ngưng nói, có
lẽ vì ông qúa xúc động. Cô Temple nhìn thẳng trước mặt, môi cô mím chặt, mắt nghiêm
nghị
Bỗng ông Brocklehurst tiếp tục, lần
này ông nói nhanh:
- Này cô Temple, sao, sao cháu kia
lại được phép uốn tóc? Cô tóc đỏ ấy, tóc uốn lên phải không? - ông hỏi.
Tay ông run rẩy khi chỉ cô gái.
Rất bình tĩnh, cô Temple đáp:
- Cháu ấy là Julia Severn.
- Julia Severn à? Tại sao ở trong
nhà từ thiện này cháu ấy lại được phép để tóc quăn như vậy?
Cô Temple đáp:
- Tóc của cháu ấy quăn tự nhiên đấy
ạ.
- Tự nhiên à? ở đây chúng ta không
nên khuyến khích tự nhiên! Tôi thích tóc giản dị bình thường. Tóc như thế phải
cắt bỏ hết! Ngày mai tôi sẽ cho một người thợ hớt tóc đến đây. Tôi còn thấy có
nhiều cô để tóc dài qúa. Cô hãy cho các em lớn đứng dậy và quay mặt vào tường
đi.
Cô Temple lấy khăn đưa lên môi.
Nhưng rồi cô cũng ra lệnh, và lớp một tuân theo cô.Tất cả nghe một giọng nói
quyết định:
- Tất cả những cái nơ và bím tóc
phải cắt hết.
Cô Temple quay lại phản đối, ông
Brocklehurst lại nói tiếp:
- Thưa cô, bổn phận của tôi là phải
dạy cho các cô gái này biết quên mình, biết ăn mặc thô sơ giản dị. Những cái
bím tóc này đã mất công bện hết sức cầu kỳ! Cô hãy nghĩ đến việc phí thì giờ.
Đến đây thì có ba phụ nữ bước vào
cắt ngang câu nói của ông. Họ mặc áo quần hết sức lộng lẫy bằng nhung, lụa và
lông thú. Hai cô gái còn trẻ khoảng mười sáu hay mười bảy tuổi, tóc họ xõa gợn
sóng xinh đẹp dưới chiếc nón màu xám hợp thời trang, được uốn cong lên, chải
chuốt kỹ càng. Bà lớn tuổi mặc áo nhung có may xen kẽ lông chồn, tóc cũng uốn
cong xõa ngang trán. Cô Temple chào họ vì nhiệm vụ. Đó là bà Brocklehurst và
hai cô con gái của bà ta.
Cho đến lúc ấy tôi mải nghe câu
chuyện với cái bảng đen che trước mặt, như là tôi đang bận làm toán. Có thể tôi
vẫn không bị chú ý đến, nhưng tấm bảng bỗng trượt khỏi tay tôi và rơi xuống nền
nhà vỡ vụn, gây nên tiếng ồn khiến mọi người quay lại nhìn tôi.
Tôi biết thế là hết, tôi cúi xuống
nhặt những mảnh vụn, và chờ đón điều tệ hại nhất xảy đến. Nó đến thật.
Ông Brocklehurst mắng:
- Đồ bất cẩn! học sinh mới phải
không?
Không thoát được. Ông ta nói tiếp:
- Tôi nhớ ra rồi, tôi đã nói chuyện với
cô bé này. Cho đứa bé làm bể cái bảng ra đứng phía trước đi.
Tôi điếng người. Tôi không nhúc
nhích, nhưng hai học sinh lớn đã đẩy tôi tới trước mặt vị quan tòa đáng sợ ấy,
và cô Temple nhẹ nhàng giúp tôi bước tới vừa nói nhỏ với tôi:
- Đừng sợ Jane. Cô thấy đây chỉ là
việc rủi ro, em sẽ không bị phạt đâu.Tôi nghĩ:" Cô sẽ khinh mình khi cô
nghe mình là một con nói láo độc địa". Thế rồi tôi bỗng qúa căm thù gia
đình Brocklehurst và Reed.
Ông Brocklehurst chỉ một cái ghế rất
cao, bảo:
- Lấy cái ghế ấy và cho nó đứng lên
trên.Không biết ai đã để tôi đứng lên trên ấy. Tôi chỉ biết bây giờ mình cao
ngang mũi ông Brocklehurst, và ông chỉ cách tôi một tấc. Ông quay qua phía vợ
con ông và nói:
- Các bà, cô Temple, các cô và các
em, tất cả qúy vị trông thấy cô bé này chứ?
Dĩ nhiên là họ thấy. Tôi cảm thấy họ
đang đổ dồn mắt hau háu nhìn tôi như bóc trần tôi ra, và tôi đứng đó, cao hơn
họ.
- Qúy vị thấy cô ta còn nhỏ. Nhưng
thật là buồn vì nhiệm vụ mà tôi báo cho qúy vị biết, cô gái này không đứng
trong hàng ngũ của Chúa, mà chỉ là một kẻ xa lạ trong đám con chiên của Ngài.
Qúy vị phải coi chừng nó, không chơi, không chuyện trò với nó.Thưa các cô, các
cô phải canh chừng nó. Phải để ý đến mọi hành động của nó và sẵn sàng trừng
phạt thể xác nó để cứu rỗi linh hồn nó. Bởi vì cô gái này - đứa bé xuất thân từ
một nơi qúy tộc - là...một kẻ nói láo!
Ông ngừng nói một lúc khá lâu, tôi
nghe cô Brocklehurst nhỏ thì thào:"Ghê qúa!".
Ong Brocklehurst lại nói tiếp:
- Tôi biết được chuyện này là do một
bà rất tốt đã nhận đứa bé mồ côi này và nuôi nấng nó cùng với các con ruột của
mình - lòng từ tâm của bà đã được trả bằng sự vô ơn hèn hạ, một sự vô ơn hết
sức hèn hạ, đến nỗi bà buộc phải tách nó ra khỏi các con mình để các hành vi bỉ
ổi của nó khỏi gây ảnh hưởng xấu đến sự trong trắng của chúng. Bây giờ nó được
gởi đến đây để sửa chữa lỗi lầm như người Do Thái xưa kia đã gửi bệnh nhân đến
hồ Bethesda để chữa bệnh. Thưa qúy cô, tôi xin qúy cô xem đứa bé này cần được
chữa bệnh bằng nước sạch của trường này.
Ông Brocklehurst cúi chào cô temple,
gài nút áo rồi quay ra cửa, theo sau là vợ và con ông. Ông nói:
- Để nó đứng đấy trên nửa giờ, và
đừng ai nói chuyện với nó trong suốt ngày hôm nay.
Thế là tôi đứng đấy cho mọi người
thấy trong căn phòng lớn. Không có lời lẽ nào để miêu tả hết được tình cảm của
tôi.Thế rồi khi tất cả đứng dậy, có một cô bé đi ngang gần tôi, cô ngước mắt
nhìn tôi. cái nhìn lạ lùng làm sao! Nhìn mắt cô, một nghị lực mới trỗi dậy
trong lòng tôi. Tôi giữ nước mắt khỏi chảy, ngẩng cao đầu, và đứng thẳng trên
chiếc ghế cao. Helen Burns hỏi cô Smith cái gì đấy về công việc, khi quay về
chỗ ngồi, đi ngang qua tôi, cô mỉm cười với tôi.
Nụ cười qúy hóa làm sao! Bây giờ tôi
vẫn còn nhớ đến nụ cười ấy, vì đó là dấu hiệu của lòng can đảm thực sự và một
tư cách tuyệt đẹp. Nụ cười làm sáng khuôn mặt thanh tú vá đôi mắt sâu của cô,
ánh sáng thật hiếm trong cõi đời này. Thế mà tôi lại được biết cô Scatcherd đã
phạt cô ngày hôm sau chỉ được ăn bánh mì với nước lã, bởi vì cô đã làm dơ một
bài tập.
Chương
. 6 Cô Temple
Khi đồng hồ đánh báo năm giờ, cả
trường đều nghỉ và tất cả các cô gái đều đi uống trà. Tôi đánh liều bước xuống
khỏi ghế. Trời đã tối, tôi đi đến một góc xa và ngồi xuống trên nền nhà. Sau
cùng thì nghị lực của tôi cũng suy giảm, tôi nằm xuống đó vô cùng buồn rầu.
Helen Burns không có ở đó, không ai
giúp đỡ, tôi mặc cho nước mắt tuôn trào. Tôi đã cố học hành tốt, làm việc tốt ở
Lowood, kết bạn nhiều, được nể vì, được thương yêu. Mới sáng nay thôi, tôi đã
đứng đầu lớp và cô Miller đã khen tôi. Có cả cô Temple đứng đấy mỉm cười xác
nhận, cô lại còn hứa dạy tôi học vẽ và còn hứa sau này sẽ cho tôi học tiếng
Pháp nữa. Bây giờ tôi đang nằm đây, đau đớn và thất bại - làm sao tôi có thể
đứng lên được nữa? Tôi nghĩ: "Không bao giờ", và trong lúc thất vọng,
tôi ao ước mình chết đi cho khỏe.
Thế rồi tôi vùng dậy, bởi vì Helen
Burns đang ở bên tôi. Qua ánh sáng lờ mờ nhờ lửa trong lò sưởi của lớp học, tôi
thấy cô mang cà phê và bánh mì đến cho tôi. Cô bảo:
- Này, ăn đi.
Nhưng tôi đẩy đi và khóc to hơn.
Helen ngồi xuống nền nhà cạnh tôi, hai tay ôm lấy đầu gối, ngồi yên lặng, tựa
đầu lên hai cánh tay
Tôi lên tiếng trước:
- Helen, sao bạn lại chịu ngồi gần
một đứa mà mọi người tin là nói dối?
- Mọi người à, Jane? Bạn lầm rồi.
Mình chắc là phần nhiều đều lấy làm buồn cho bạn đấy.
- Tại sao lại lấy làm buồn cho mình,
sau khi nghe ông Brocklehurst nói như thế?
- Ông Brocklehurst không phải là
Chúa Trời, ở đây chẳng ai ưa ông ta hết. Nếu ông ấy đối xử với bồ đặc biệt ưu
ái, thì bồ sẽ có nhiều kẻ thù đấy.Không, các cô gái caó thể thờ ơ với bồ trong
một chốc lát, nhưng họ đều có cảm tình với bồ. Nếu bồ biết kiên nhẫn và hành
động đúng đắn, tất cả sẽ bị lãng quên ngay. Vả lại, Jane à, cô ngừng lại.
Tôi hỏi:
- Sao, Helen?
Tôi đặt mấy ngón tay lên áo cô ta.
Cô thoa nhẹ bàn tay tôi cho ấm. Helen bảo:
- Cho dù mọi người có ghét bạn và
tin bạn là kẻ ác độc, mà nếu lương tâm bạn chân thật, không tội lỗi thì bạn vẫn
luôn có bạn.
Tôi đồng ý:
- Đúng thế, nhưng chưa đủ, Helen ạ.
Mình không chịu được cô đơn và bị ghét bỏ. Nếu kẻ khác không thương yêu mình,
mình thà chết còn hơn.
- Này Jane! bạn nghĩ nhiếu qúa về
tình thương của loài người. Bạn qúa phật ý về điều đó. Chúa đã tạo nên cơ thể
yếu đuối của chúng ta, rồi cho sự sống vào đấy, Ngài cho chúng ta nghị lực khi
cần. Ngoài trái đất và nhân loại ra, còn có một thế giới vô hình của thần linh
bất tử. Mình biết bạn vô tội trong việc ông Brocklehurst đặt điều cho bạn, bởi
vì mình thấy được thực chất trong đơi mắt chân thật của bạn. Hãy nhớ là Chúa
biết hết sự thực và Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta khi hết đời.
Tôi ngồi yên. Helen dỗ dành tôi,
nhưng có một nỗi buồn kỳ lạ đằng sau mỗi lời nói của cô. Khi cô nói xong, cô
thở nhanh và ho, đến nỗi tôi quên hết nỗi buồn của mình và lo lắng cho bạn. Khi
Helen kéo tôi lại gần cô, tôi dựa đầu mình vào vai cô, quàng tay quanh hông cô.
Và chúng tôi ngồi yên bên nhau.
Chúng tôi ngồi yên như vậy một hồi,
rồi có tiếng chân người vào phòng. Đó là cô Temple, cô nói:
- Cô có ý tìm em đây, Jane Eyre à!
Cô muốn em đến phòng cô, và nhân tiện có Helen Burns đây, em có thể đến luôn.
Chúng tôi đi theo cô hiệu trưởng qua
nhiều hành lang, rồi lên một thang lầu và đến phòng của cô. Một lò lửa đang
cháy, chiếu sáng những đồ đạc chung quanh, trông vô cùng tươi tắn. Cô Temple
bảo Helen ngồi trên một chiếc ghế bành gần lò sưởi, cô ngồi vào một chiếc ghế
khác và kéo tôi đến gần cô. Cô nhìn mặt tôi rồi hỏi:
- Em khóc cho nhẹ bớt nỗi sầu, phải
không?
Tôi đáp:
- Em sợ không bao giờ được như vậy.
- Tại sao?
- Bởi vì em đã bị oan, và cô và mọi
người chắc chắn sẽ cho em là đồ ác độc.
- Tất cả sẽ đánh giá em qua hành
động của em.Em cứ tiếp tục làm điều tốt.
Cô quàng tay ôm lấy tôi:
- Bây giờ em cho cô biết về cái bà
đã nuôi nấng em.
- Đó là bàReed, mợ của em. Cậu em
mất và giao em cho bà ấy chăm sóc.
- Thế bà không bằng lòng nhận nuôi
em à?
- Dạ không, bà bực mình vì phải làm
điều đó. Nhưng em thường nghe gia nhân nói rằng, cậu em trước khi mất đã yêu
cầu bà hứa nuôi em, bà hứa bà sẽ nuôi nấng em mãi mãi.
- Này Jane, khi ông ta buộc tội ai,
ông đã đề phòng khi nói. Em bị buộc là kẻ nói dối. Em cũng phải đề phòng. Cho
nên em hãy nói cái gì có thật mà em nhớ. Đừng thêm thắt, đừng phóng đại cái gì
hết.
Tôi trình bày vô tư chính xác. Tôi
kể cho cô nghe tất cả chuyện thời thơ ấu của tôi, cứ để ý lời dặn của Helen
đừng nóng giận, và khi tôi tiếp tục kể, tôi cảm thấy cô Temple hoàn toàn tin
tôi. Trong câu chuyện tôi kể cho cô nghe, tôi có nhắc đến lần thăm viếng của
ông Lloyd, bởi vì tôi không bao giờ quên được cái ngày kinh khủng ấy trong
phòng đỏ, cũng không bao giờ quên được trận ốm sau đó.
Khi tôi kể xong, cô Temple yên lặng
nhìn tôi ít phút.Rồi cô nói:
- Cô biết ông Lloyd. Cô sẽ viết thư
cho ông ấy, và nếu ông trả lời như em kể, em sẽ được sáng tỏ trước mọi người.
Còn đối với cô thì, Jane à, chuyện em đã sáng tỏ rồi
Cô hôn tôi, và trong lúc vẫn giữ tôi
bên mình, cô nói với Helen:
- Helen, đêm nay em có khá không?
Hôm nay em ho nhiều, phải không?
- Theo em thì không nhiều lắm, thưa
cô.
- Ngực em đau ra sao?
- Có đỡ chút đỉnh, cám ơn cô.
Cô Temple đứng dậy, nắm tay Helen và
bắt mạch cho nó. Rồi cô trở lại chỗ ngồi và tôi nghe cô khẽ thở dài khi ngồi
xuống. Bỗng cô vụt đứng dậy, rồi vui vẻ nói:
- Đêm nay hai em là khách của cô và
cô phải đối xử với hai em như khách vậy.
Cô rung chuông, một gia nhân bước
vào, cô bảo:
- Barbara, tôi chưa uống trà, chị
mang khay đến cho tôi và thêm tách cho hai cô đây nhé.
Chị gia nhân mang đến ngay một khay
trà. Đồ sứ trông xinh xắn làm sao!Tất cả xếp trên một bàn tròn cạnh lò sưởi.Trà
thơm ngát, mùi bánh mì nướng ngon lành biết bao! Nhưng tôi thấy lo vì bánh ít
qúa(vì tôi rất đói). Cô Temple cũng thấy vậy. Cho nên cô lại bảo:
- Này chị Babara, chị mang thêm bánh
mì và bơ nữa chứ, chừng này không đủ cho ba người đâu.
Người tớ gái bước ra, nhưng chị lại
quày qủa trở lại. Chị nói:
- Dạ thưa cô, bà Harden bảo đã đưa
đủ số bánh như thường lệ đấy ạ.
bà Harden là quản gia, người đắc ý
của ông Brocklehurst. Bà ta được lệnh phải cứng rắn mọi mặt.
Cô temple đáp:
- ồ, tốt lắm, chúng ta phải lo lấy
thôi.
Khi người tớ gái đã đi khỏi, cô mỉm
cười nói thêm:
- Mau thay là lần này cô có thể bù
vào chỗ thiếu
Cô mời helen và tôi đến một cái bàn,
đặt trước mặt tôi mỗi người một tách trà và một miếng bánh mì nướng ngon lành.
Rồi cô đứng lên, mở tủ chè, lấy ra một gói giấy. Chúng tôi thấy, đó là một cái
bánh lớn. Cô bảo:
- Cô định cho các em cái này đem về
phòng mà ăn, nhưng vì bánh mì nướng qúa ít, cho nên các em phải dùng nó bây
giờ.
Cô cắt bánh thành từng lát, bàn tay
dịu dàng, chúng tôi thì ngồi ở bàn.
Đêm đó, chúng tôi dự một bữa tiệc
thịnh soạn, khi chiếc khay dọn đi, chúng tôi ngồi bên lò sưởi, và tôi cảm thấy
hoàn toàn hạnh phúc.
Rồi câu chuyện giữa cô Temple và
Helen đã làm tôi hết sức ngạc nhiên và kính nể. Helen hình như đã biến đổi hẳn.
Bữa ăn ngon lành, ngọn lửa sáng ấm, lòng tốt của cô giáo thân yêu- có cái gì đó
độc đáo trong người cô- đã khơi dậy sức mạnh vô biên nơi Helen Burns. Khuôn mặt
của cô ta sáng ngời đẹp đẽ mà trước đây tôi chưa từng thấy bao giờ.
Một cô gái mười bốn tuổi như Helen
mà đã có đủ kiến thức để nói năng trôi chảy và trong sáng như thế ư?Đối với
tôi, vào cái đêm đáng nhớ ấy, Helen đã sống đời sống tinh thần trong một giờ,
bằng nhiều người trong một kiếp.
Họ nói về nhiều chuyện mà tôi chưa
hề được nghe như về nhiều quốc gia, về nhiều nơi xa xôi, về bí mật của thiên
nhiên về nhiều sách. Học đọc nhiều biết bao! Họ hiểu rộng và biết nhiều qúa! Họ
quen thuộc nhiều tác phẩm và tác gỉa nước Pháp. Và tôi đã kinh ngạc vô cùng khi
cô Temple hỏi Helen còn nhớ tiếng Latinh mà ba cô đã dạy cho không - rồi Helen
lấy một cuốn sách của Virgil ở trên kệ sách. Cô đọc và dịch một trang cho chúng
tôi nghe. Cô còn đọc tiếp thì bỗng chuông reo báo giờ đi ngủ, và chúng tôi đành
phải giã từ cô.
Cô Temple ôm hôn chúng tôi. Cô bảo:
- Các em thân mến, cầu Chúa ban ơn
cho các em.
Cô ôm hôn Helen lâu hơn tôi. Cô có
vẻ miễn cưỡng để cho Helen đi và nhìn theo cô ta đến cửa. Cũng vì Helen mà cô
đã thở dài sau lưng chúng tôi.
Về đến phòng ngủ, chúng tôi nghe
giọng cô Scatcherd trong phòng. Cô ta đang khám tủ và kệ sách của chúng tôi.
Vừa đi vào, Helen đã bị quở trách về tội thiếu ngăn nắp. Sáng hôm sau, cô
scacherd buộc một miếng giấy dày quanh đầu Helen, có ghi hàng chữ lớn" Đồ
ăn mặc cẩu thả". tôi thấy Helen rất nhẫn nại. Cô không giận, xem đó như là
một hình phạt xứng đáng.
Đúng lúc cô scatcherd hết giờ dạy
buổi chiều, tôi chạy đến Helen, xé nát tờ giấy và ném vào lửa.Thấy bạn âm thầm
chịu đựng, cơn giận nung nấu trong lòng tôi suốt ngày hôm ấy, bởi vì cái cảnh
bạn cam chịu buồn phiền đã làm tôi đau đớn không chịu được.
Khoảng một tuần sau, cô Temple nhận
được thư trả lời của ông lloyd. Ông xác nhận rõ ràng câu chuyện của tôi. Vào
một buổi họp toàn trường, cô tuyên bố cô đã điều tra về lời buộc tội Jane Eyre.
cô nói rằng cô sung sướng đã làm sáng tỏ vấn đề là tôi vô tội. Việc này đã cất
đi cả một gánh nặng trong tâm trí tôi, và tôi định tâm để học hành trở lại,
quyết làm tốt công việc hằng ngày.
Công sức của tôi đã có hiệu qủa. Trí
nhớ của tôi khá lên, trí thông minh phát triển, cho nên chỉ trong mấy tuần, tôi
lên được lớp cao hơn.Chưa đầy hai tháng tôi được phép bắt đầu học tiếng Pháp và
học vẽ
Cái hôm mà tôi vẽ căn nhà lá đầu
tiên của mình, tối đó đi ngủ tôi đã tưởng tượng tranh của tôi được đón nhận huy
hoàng trong tương lai. Tôi không còn mơ đến khoai tây chiên nóng và thực phẩm
ngon lành khác, như tôi từng mơ ước trước đây, mà thưởng thức những họa phẩm
hoàn hảo qua tưởng tượng trong đêm tối: nhà cửa, cây cối, núi đá và các cảnh
tàn phá; những bức tranh bướm vờn hoa; chim chóc líu lo giữa những trái anh đào
chín muồi, tổ của chúng với những qủa trứng đẹp như ngọc trai, chúng luồn lách
nhảy nhót trong đám lá trường sinh, cho đến khi tôi đi vào giấc ngủ êm ái dịu
dàng.
Salomon đã nói một cách khôn ngoan
rằng:" Thà ăn rau mà thương yêu nhau còn hơn ăn thịt mà thù ghét
nhau".
Bây giờ thì tôi không muốn đánh đổi
Lowood với nhiều khó khăn gian khổ, để lấy Gateshead hall với cuộc sống xa hoa
khắc nghiệt hằng ngày.
Chương
. 7 Helen
Nhưng Lowood đã thay đổi theo mùa.
Cuối cùng rồi mùa xuân cũng đến, muôn hoa đua nở vào thángTư. Nào là huệ rừng,
hoa tai mèo màu tím, hoa tử la-lan hình mắt màu vàng. Vào những chiều thứ năm
(nghỉ nửa ngày), chúng tôi còn tìm ra những hoa màu nhã hơn ở hai bên đường và
dưới các bụi cây.
Tháng Tư nhường chỗ cho tháng năm
trong lành, bầu trời trong xanh, ánh mặt trời ấm áp an bình. Thiên nhiên xanh
tươi đầy hoa, những cây du, cây trần bì và cây sồi trổi dậy uy nghi sau một mùa
đông im lìm. ánh mặt trời đã tăng sức cho những cây hoa ngọc trâm đâm chồi nảy
lộc trên mặt đất.
Nhưng Lowood lại được xây dựng trên
một vùng rừng đầm lầy ẩm thấp: một cái nôi của sương mù, ẩm ướt và bệnh tật.
Khi mùa xuân làm cho cuộc sống muôn loài phát triển nhanh thì mầm mống bệnh đậu
lào cũng thế, nó lan tràn gây cảnh chết chóc cho lớp học và khu nội trú đông
đúc, khiến cho Lowood có vẻ giống như một bệnh viện hơn là lớp học.
Ăn uống thiếu thốn, lạnh lẽo chẳng
ai quan tâm, đã làm học sinh xuống sức rất nhiều. Bệnh sốt lan tràn và trong
một lúc có bốn mươi lăm trong số tám mươi học sinh bị mắc bệnh đậu lào. Lớp học
tạm nghỉ, kỷ luật lỏng lẻo, nhiều em phải cho về nhà để tránh lây lan. Nhiều em
chết ngay tại trường và không khí buồn bã lo âu tỏa khắp các phòng, các lối đi
hoà lẫn mùi bệnh hoạn ở khắp nơi.
Nhưng ánh mặt trời tháng năm vẫn dễ
chịu, và số không mắc bệnh chúng tôi lại vui thích hết sức cảnh mùa xuân và mùa
hè ấy. Chúng tôi được sục xạo vui chơi trong rừng, làm cái gì chúng tôi thích
và đi đâu chúng tôi muốn. Chúng tôi cũng sống thoải mái hơn vì ông Brocklehurst
và gia đình ông bây giờ không bao giờ đến gần trường, và bà quản gia khó tính,
bà hardens, đã được một người khác thay. Bà này phóng khoáng hơn. Ngoài ra, đã
bớt miệng ăn và bệnh nhân ăn lại ít.
Nhưng Helen vẫn bệnh. Cô đã được cho
nằm riêng ở trên lầu mấy tuần nay, và người ta cho chúng tôi biết Helen bị bệnh
lao. Vì ít hiểu biết, tôi cứ tưởng đó chỉ là một thứ bệnh gì nhẹ mà với thời
gian và nếu được chăm sóc, bệnh tình Helen sẽ khỏi. Tôi cũng luôn luôn dành cho
Helen một tình thương dịu dàng sâu sắc, mặc dù tôi không lo lắng gì về bệnh
tình của bạn.
Một buổi tối tháng sáu, tôi đi chơi
xa trong rừng với một cô bạn là Mary Ann, mãi đến lúc trăng mọc chúng tôi mới
trở về. Khi về đến trường thì chúng tôi nghe nói có bác sĩ đến, vì có ai đó
bệnh nặng.
Tôi ở ngoài vườn để trồng mấy cây
tôi đã đào lấy trong rừng, tôi sợ để đến mai thì nó chết mất.Làm xong, tôi còn
nán lại một chút ngoài vườn, hoa toả mùi hương trong sương của đêm tháng sáu
thật dịu dàng. Phương tây lóe sáng báo hiệu ngày đẹp trời khác vào hôm sau,
thật là một buổi tối đẹp đẽ, thanh khiết và ấm áp. Thật là đáng tiếc khi phải
rời không khhí ngoài vườn để vào trong nhà.
Tôi đang nghĩ ngợi lung tung thì một
ý nghĩ chợt đến trong đầu tôi mà trước đây chưa bao giờ tôi nghĩ tới:"
Manh bệnh nằm một chỗ thật buồn biết bao, và lại sắp chết nữa! Thế giới này thú
vị lắm chứ, rời nó để đi đến một nơi mình chưa biết gì hết, thì qủa thật là
buồn biết bao!". Rồi tôi cố gắng hết mình để hiểu sự sống và sự chết, chỉ
ngỡ ngàng khi trở lại đối diện với thực tại, mọi vật quanh mình.
Tôi thấy ông bác sĩ ở trong nhà đi
ra và chị điều dưỡng đứng trên cửa nhìn ông đi. tôi vội chạy đến bên chị:
- Có phải ông bác sĩ đến thăm cho
helen Burns không?
- ừ, đúng thế.
- Ông ta nói sao?
- Ông bảo cô ấy sẽ không còn ở đây
lâu nữa.
Hôm qua mà nói như vậy có nghĩa là
Helen sẽ về nhà. Hôm nay tôi chợt hiểu cô ta sẽ chết. Tôi cảm thấy khiếp sợ và
hết sức lo lắng. Tôi phải lên thăm Helen ngay.
Tôi hỏi Helen nằm phòng nào
chị điều dưỡng đáp:
- Cô ấy nằm ở phòng cô Temple.
- Em xin phép nói chuyện với cô âý
một chút nhé?
- ồ không được đâu em. Không thể
được. Vào nhanh đi, em sẽ bị sốt đấy, nếu cứ ở ngoài trời khi sương xuống.
E cũng phải hai giờ sau, khoảng mười
một giờ, khi tất cả đã đi ngủ và khu nội trú đều yên lặng, tội mới nhẹ nhàng
trỗi dậy, mặc áo choàng ngoài áo ngủ, và lặng lẽ đi chân trần đến phòng của cô
Temple. Đêm mùa hè không gợn mây, ánh trăng lác đác chiếu qua cửa sổ các hành
lang giúp tôi tìm ra lối đi.
Tôi đi nhanh qua các cửa phòng bệnh
nhân sốt, sợ chị điều dưỡng canh suốt đêm ở đó nghe thấy. Tôi sợ nếu bị phát
hiện, tôi sẽ bị đuổi về, bởi vì tôi cảm thấy mình phải gặp Helen bằng mọi giá.
Tôi phải hôn giã biệt cô ấy, phải trao đổi đôi lời cùng cô ấy lần cuối.
ánh sáng trong phòng cô Temple lờ
mờ, và cửa thì hé mở. Chị điều dưỡng khi nãy đang ở ngoài vườn,chị ngồi ngủ
trong một ghế bành. Sát bên giường cô Temple, có một chiếc giường khác nhỏ hơn,
một nửa khuất sau màn trắng. Cô Temple không có ở đấy. Sau này tôi mới biết
người ta mời cô đến phòng sốt và cô ở đấy.
Tôi đi nhẹ nhàng đến giường Helen,
tay vén màn, tôi thì thào gọi bạn:
- Helen, bạn thức đấy không?
Helen động đậy, rồi đưa tay ra. Tôi
thấy mặt cô ta xanh xao nhưng bình tĩnh. Trông cô ít thay đổi nên tôi cũng bớt
sợ. Giọng Helen nhẹ nhàng:
- Bạn đấy ư, Jane?
Ôi, bạn không chết đâu, tôi nghĩ như
vậy. Họ lầm rồi. Nếu sắp chết, thì bạn không thể nói năng bình tĩnh như thế
này.
Tôi hôn bạn, Helen lạnh và trông yếu
quá, lại gầy nữa, nhưng nụ cười vẫn như cũ. Cô nói:
- Sao lại đến giờ này, Jane?Đã qúa
mười một giờ khuya rồi!
- Mình phải đến thăm bạn, Helen à!
Mình nghe bạn bệnh nặng lắm, mình không thể ngủ được nếu chưa nói chuyện được
với bạn.
- Bạn đến để từ biệt đấy. Có lẽ bạn
đến đúng giờ.
- Bạn sẽ đi đâu, Helen? Bạn về nhà
sao?
- Vâng, về nhà, nhà vĩnh cửu.
- Không, không đâu, Helen!
Tôi ngăn cô lại không cho nói, lòng
rối bời, cố gắng đừng khóc.
Chợt Helen ho lên, nhưng không đánh
thức chị điều dưỡng. Khi ho xong, cô nằm xuống lại, mệt nhoài. Rồi Helen thì
thào:
-Jane, bạn đi chân trần. Nằm đây và
lấy chăn của mình đắp lên kẻo lạnh.
Tôi làm theo.Helen ôm quàng lấy tôi
và tôi nằm sát vào bạn. Sau một hồi lâu, cô lại nói, vẫn bằng giọng thì thào:
- Jane, mình rất hạnh phúc.Khi được
tin mình chết, bạn đừng buồn. Không có gì để buồn vì việc này hết. Tất cả chúng
ta đều chết vào một ngày nào đó, và bệnh của mình lại không đau đớn. Nó chỉ
phát triển nhẹ nhàng và từ từ, tâm trí của mình thì yên ổn. Mình không có ai
còn lại để thương nhớ mình. Mình chỉ còn cha mà ông lại vừa tục huyền. Chết
trẻ, mình sẽ tránh được nhiều đau khổ. Mình không có chút tài năng nào để có
thể thi thố với đời. Mình chắc rồi cũng phải mắc sai lầm mà thôi.
- Nhưng rồi bạn sẽ đi đâu, Helen?
Bạn biết không?
- Mình biết chứ. Mình có niềm tin.
Mình sẽ đến với Chúa.
- Nhưng Chúa ở đâu? Chúa là gì?
- Đấng đã tạo ra mình, ra bạn, và
không bao giờ hủy hoại linh hồn mà Ngài đã tạo nên. Mình tin tưởng vào quyền
năng của Ngài và tin tưởng lòng nhân ái của Ngài.
- Helen, bạn tin chắc có một chỗ như
thế ở trên trời hay sao?
Helen đáp:
- Mình chắc Chúa nhân từ. Mình phó
thác mình cho Chúa chăm sóc mà không sợ gì hết. Chúa là cha và là bạn của mình.
- Thế khi mình chết, mình có gặp lại
bạn không?
- Đấng Cha chung sẽ nhận tất cả
chúng ta đến với nhau, chúng ta chưa hiểu ra đấy thôi, Jane à. Mình không sợ.
Tôi thầm hỏi trong đầu:" Chỗ ấy
ở đâu? Có thực không?"
Tôi ôm chặt Helen hơn. Helen tỏ ra
thân ái với tôi hơn bao giờ hết và tôi cảm thấy không bao giờ chịu để cho cô ta
đi.Tôi nằm úp mặt vào cổ Helen.
Bỗng Helen nói bằng một giọng ngọt
ngào nhất:
- Mình bằng an qúa! Mình thấy như
mình đang buồn ngủ. Đừng bỏ mình nghe Jane. Mình thích có bạn ở gần mình.
- Helen thân mến! Mình sẽ ở với bạn.
Không ai xua đuổi mình được.
- Bạn ấm không cưng?
- ấm rồi.
- Chúc ngủ ngon, Jane.
- Chúc ngủ ngon, Helen.
Chúng tôi hôn nhau và phút chốc
chúng tôi đều ngủ say.
Khi tôi thức dậy thì trời đã sáng
tỏ. Một cử động lạ lùng đã đánh thức tôi dậy. Tôi thấy chị điều dưỡng ẵm lấy
tôi và mang tôi đi qua những hành lang để về lại khu nội trú.
Tôi không bị quở trách vì đã bỏ
giường ngủ để đi và không có lời giải thích nào cho các câu hỏi của tôi hết.
Chỉ biết sau này người ta nói cho tôi biết là cô Temple trở về phòng cô lúc
rạng đông. Cô thấy tôi nằm trong giường với Helen, ôm lấy cô ấy. Tôi thì ngủ mà
Helen thì chết.
Chương
8 . Một Chương Mới Của Đời Tôi
Mãi cho đến bây giờ, tôi mới kể lại
chi tiết thời thơ ấu của tôi. Nhưng đây không phải là một tiểu sử đầy đủ. Vì
vậy, bây giờ tôi sẽ điểm qua tám năm tiếp theo với vài dòng để thấy được sự đổi
thay đã xảy ra.
Khi cơn sốt bệnh đậu lào đến cái mức
tệ hại nhất, thì mọi người mới nhận ra thực tế là Lowood đã được xây dựng vào
một nơi thiếu vệ sinh, tất cả đã được đưa ra ánh sáng, và hậu qủa là không may
cho ông Brocklehurst nhưng lại rất có lợi cho chúng tôi.
Không lâu sau đó, nhiều người giàu
có trong vùng đã đóng góp để xây một tóa nhà rộng hơn trên một nơi có vệ sinh
hơn. Rồi thực phẩm, áo quần, lề lối làm việc được cải tiến, và quyền quản lý do
một hội đồng điều khiển. Nhà trường đã trở thành một nơi thực sự hữu ích và
quan trọng để giáo dục những kẻ không nhà, không nơi nương tựa. Trong suốt tám
năm tiếp theo, tôi ở đấy, góp công vào lợi ích của trường trong việc giáo dục-
học sáu năm và dạy hai năm.
Nhưng kể từ ngày cô Temple đi lấy
chồng, cảm giác của tôi đối với Lowood có thay đổi. Nó không còn là một tổ ấm
cho tôi nữa. Cô Temple là một bà mẹ, một cô giáo và một bạn đồng hành trong một
thời gian dài, cho đến nỗi khi cô bỏ đi thì tình cảm có trong tôi bấy lâu đều
tiêu tan hết.
Để mừng đám cưới của cô Temple,
chúng tôi được phép nghỉ thêm nửa buổi. Khi tôi thấy cô ra đi với chồng, tôi
chạy lên phòng, mở cửa sổ và nhìn ra mọi vật chung quanh. Những tòa nhà của
trường, vườn tược, nhà cửa trong làng, và xa hơn là những ngọn đồi chạy đến tận
chân trời. Tôi mơ ước được leo lên những ngọn đồi ấy.
Thế giới trong nhiều năm qua của tôi
bị giới hạn ở trường Lowood, những kinh nghiệm của tôi cũng bị hạn chế ở luật
lệ và hệ thống. Bây giờ thì tôi biết rằng thế giới rộng lớn lắm, rằng hạnh phúc
và lo sợ cũng đổi thay. Cảm xúc và sở thích đang chờ đón những kẻ nào đủ can
đảm để xông vào cuộc đời bao la, sẵn sàng để tìm kiếm khôn ngoan và kiến thức
trong vô số hiểm nguy của cuộc sống.
Tôi muốn tự do. Vào một buổi chiều,
chán nản với lề thói tám năm ở đây, tôi thấy mình cần thay đổi cuộc sống, cần
phải sống sinh động hơn. Nếu phải kiếm sống, ít ra tôi cũng phải tìm kiếm ở
những vùng mới mẻ hơn quanh đây. Đêm đó tâm trí tôi cứ bận bịu với vấn đề ấy,
và trước khi đi ngủ, tôi đã quyết định- Tôi sẽ gởi thơ đăng báo địa phương để
tìm việc làm.
Hôm sau tôi dậy thật sớm. Tôi viết
quảng cáo và đã sẵn sàng để gởi báo thì chuông reo báo giờ học. Bài tôi viết
như sau:
"Một thiếu nữ quen nghề dạy học
(tôi đã dạy hai năm chứ sao) tìm chỗ dạy ở tư gia có trẻ dưới 14 tuổi (vì tôi
18, tôi nghĩ là chúng phải đừng gần bằng tuổi tôi qúa). Có khả năng dạy những
môn phổ thông của một nền giáo dục Anh tốt, cũng có khả năng dạy tiếng Pháp,
dạy Vẽ và dạy Âm nhạc. Địc chỉ: J.E. C/o Bưu điện, Lowton."
Sau khi gửi đến báo địa phương, tuần
lễ trôi qua rất lâu. Tôi định chờ một tuần rồi sẽ đến bưu điện. Lowton để hỏi
có thư trả lời cho mục quảng cáo của tôi không. Cuối cùng tôi đi bộ hai dặm
đường vào một buổi chiều nghỉ dạy, để hỏi văn phòng bưu điện thử có thư nào gửi
cho J.E không.
Có, một cái. Tôi nhét vào túi và vội
vã quay về trường.Luật lệ buộc tôi phải quay về trường đúng giờ cũng như những
nhiệm vụ khác đang đợi tôi. Hôm ấy đến phiên tôi: ngồi với học sinh suốt giờ
học, đọc kinh và cho học sinh ngủ trước khi ăn tối với đồng nghiệp. Có rất ít
thì giờ để làm việc riệng trong ngày trực lắm.
Nhưng cuối cùng, khi giờ ngủ của mình
đến, tôi mở thư ra đọc. Nội dung vắn tắt như sau:
"Nếu cô J.E đủ điều kiện về tư
cách và năng lực thì có việc dành cho cô là dạy một cháu gái dưới mười
tuổi.Llương là 30 bảng một năm, khỏi trả tiền ăn ở. Yêu cầu cô J.E gởi lý lịch
tên, địa chỉ và đầy đủ chi tiết đến bà Fairfax, Thornfield Hall, gần
Millcote."
Tôi đọc lui đọc tới cái thư nhiều
lần thật kỹ. Thư viết tay, nét chữ xưa, cứng cáp, ra vẻ do một người lớn tuổi
viết. Bà Fairfax! Tôi tưởng tượng ra một góa phụ đội nón, mặc áo dài đen, có lẽ
vụng về một chút, nhưng không quê kệch -một mẫu người Anh đáng kính! E cũng
phải gần Luân Đôn hơn chỗ tôi đang ở đến 70 dặm. Tôi biết đây là một thành phố
kỹ nghệ trên bờ một dòng sông, rõ ràng đây là một nơi nhộn nhịp, và đây là một
dịp để thay đổi cuộc sống. Thornfield có lẽ ở ngoại ô thành phố.
Ngày hôm sau, tôi vạch ngay kế
hoạch. Tôi phải gửi đơn lên Hội đồng quản trị để xin nghỉ việc, và yêu cầu họ
cấp giấy xác nhận công tác. Khi cô Hiệu Trưởng mới nghe tôi nói tôi có khả năng
có lương gấp đôi lương hiện tại, thì cô bằng lòng giúp đỡ tôi mọi cách, theo
khả năng của cô hiện có. Có giấy phép thay đổi nhiệm sở cũng cần có ý kiến của
Bà Reed, vì bà vẫn còn là người bảo trợ tôi cho đến lúc tôi được 21 tuổi. Bà
trả lời ngắn gọn. Bà viết như sau:"... tôi cứ làm theo sở thích. Đã từ lâu
bà không muốn xen vào công việc của tôi nữa".
Cuối cùng, sau gần một tháng, Hội
đồng quản trị nhà trường cấp giấy phép hợp pháp để tôi đi.Tôi gửi cho bà
Fairfax một bảng nhận xét công tác(bảng nhận xét đánh giá cao công tác của tôi
cả hai mặt giáo viên và học sinh), và không lâu sau, tôi nhận được phúc đáp của
bà Fairfax báo rằng, bà rất hài lòng thấy tôi thích hợp với công việc bà mong
muốn. Bà hẹn cho tôi hai tuần để tôi bắt đầu công việc của một nữ gia sư tại
nhà bà.
Hai tuần trôi qua rất nhanh, và cái
ngày cuối cùng tôi ở Lowood đã đến chóng vánh. Tôi gói ghém đồ đạc của tôi vào
chính cái rương mà tôi đã mang đến tám năm về trước. Tôi phải đáp chuyến xe ở
Lowton từ sáng sớm. Aó quần đã sẵn sàng, tôi cởi nón trùm đầu, cởi găng đeo
tay, tôi nhìn vào các ngăn tủ để xem có quên gì không. Rồi tôi ngồi lại và cố
nghỉ ngơi đôi chút.
Nhưng tôi vẫn nôn nao qúa. Một
chương của cuộc đời đã đóng lại đêm nay, ngày mai, một chương mới sẽ mở ra. Tôi
thơ thẩn trong hành lang như một bóng ma bất định, rồi có tiếng một gia nhân
gọi:
- Cô Eyre! Có người ở dưới muốn gặp
cô.
Vừa chạy xuống cầu thang tôi vừa
nghĩ:"Chắc là người đến mang rương cho mình".Trong phòng giáo viên,
tôi thấy một người đàn bà dễ coi, tóc và mắt đều đen. Chị vội đứng dậy và hỏi
tôi:
- Chào cô Jane, cô chưa quên tôi
chứ?
Thoáng cái, tôi nhận ra, tôi ôm chầm
lấy chị và nói lớn:
- Chị Beesie! Ôi, Chị Bessie!
Cả hai chúng tôi bước đến bên lò
sưởi của phòng khách, ở đây có một đứa bé khoảng 3 tuổi đang đứng. Chị Bessie
hãnh diện nói:
- Cháu Bobby của tôi đấy. Tôi lấy
anh lái xe ở Gateshead. Anh là Robert Leaven, tôi cũng có một cháu gái nữa. Tôi
đặt tên cho cháu là Jane.
Khi chúng tôi ngồi xuống, có rất
nhiều chuyện để nói và để nghe về gia đình Reed.
- Cô nhỏ con qúa, cô Jane à! Cô
Eliza cao hơn cô, còn cô Giorgiana thì gần gấp hai cô. Hai cô đều đẹp nhưng lại
thường hay gây gổ nhau. John Reed là một thanh niên vô tích sự. Các ông cậu của
cậu ta muốn cậu ta học luật, nhưng chẳng có gì hết!
- Còn Bà Reed?
- Bà ấy cũng khỏe mạnh, nhưng tôi
cho là bà lo lắng lắm.Tư cách của John khiến bà lo ghê gớm- cậu ta phung phí
tiền bạc.
- Bà ấy cho chị đến tìm tôi à, chị
Bessie?
- Không đâu. Từ lâu tôi đã muốn đến
thăm cô. Rồi khi nghe cô có gửi thư và biết cô sắp đi chỗ khác, tôi quyết định
phải đến thăm cô trước khi cô đi.
- Tôi e chị thất vọng về tôi, chị
Bessie à.
- Không đúng đâu, cô Jane ạ! Cô
trưởng thành rồi, nhưng tôi chắc trường này không cho cô ăn uống đầy đủ. Tôi
nhớ ra, hồi còn bé, cô cũng không được đẹp lắm!
Tôi mỉm cười không đáp. Tôi biết đó
là lòng chân thật, nhưng ở tuổi mười tám, người ta thường muốn được vuốt ve,
cho nên tôi cảm thấy hơi thất vọng.
Bessie nói:
- Tuy nhiên, tôi tin chắc cô rất
khéo léo, cô chơi dương cầm được chứ?
Có một chiếc ở trong phòng. Bessie
bước tới mở nắp ra, yêu cầu tôi ngồi chơi một bản.Tôi đàn cho chị nghe một hay
hai bản valse gì đấy. Chị vui sướng lắm. Chị bảo:
- Các cô Reed không đàn được như vậy
đâu, thật đấy! Tôi luôn nói rằng cô sẽ giỏi nhất mà. Cô vẽ được chứ?
Tôi đáp:
Bức trên tường là tranh của tôi vẽ
đấy.Đó là một bức phong cảnh vẽ bằng màu nước, tôi đã tặng cho cô Hiệu trưởng.
- Sao, đẹp qúa cô Jane à! Bức tranh
đẹp như những bức do các nhà danh họa đã vẽ treo ở nhà bà Reed vậy. Thế cô có
học tiếng Pháp không?
- Có, chị Beesie ạ! Tôi đọc được,
nói được.
- Cô cũng thêu may được chứ?
- Được.
- Thế là cô đảm đang lắm rồi.Cô Jane
à! tôi đã nghĩ cô sẽ thế mà. Cô sẽ giỏi cho dù bà con có quan tâm đến cô hay
không.Có việc này tôi muốn hỏi cô. Có khi nào cô nghe nói đến gia đình của ba
cô không?giòng họ Eyre ấy mà?
- Không, chẳng bao giờ.
- Vậy tôi phải nói cho cô biết. Cô
còn nhớ bà Reed thường nói bà con cô nghèo và bị khinh khi không? Có thể là họ
nghèo đấy, nhưng tôi tin là họ đã sinh sống hẳn hòi như những người trong họ
Reed vậy.Một hôm cách đây bảy năm, có một ông tên Eyre đến Gateshead và muốn
gặp cô.
- Một ông tên Eyre đến tìm tôi à,
chị Bessie? Ông ấy ra sao?
- Rõ ràng ông ta là một người qúy
phái. Tôi tin chắc ông ta là chú ruột của cô. Bà Reed bảo cô đi trọ học xa mười
lăm dặm, và ông ta tỏ ra thất vọng. Ông sợ trễ tàu, vì tàu sẽ nhổ neo trong một
hai ngày tới.
- Ông ấy đi đâu, chị biết không?
- Đến một hải đảo xa hàng nghìn dặm,
ông làm rượu nho ở đấy, tôi nghe...
Tôi gợi ý:
- Madeira phải không?
- Vâng, đúng đấy, đúng cái tên ấy
đấy.
- Rồi ông ấy đi mất?
- Vâng, ông ấy không ở lại lâu trong
nhà. Bà Reed rất ngạo mạn với ông. Sao này bà gọi ông là " đồ thương gia
trộm cướp". Tôi chắc ông là người buôn rượu nho.
Tôi đáp:
- Đúng đấy, hoặc có thể ông là nhân
viên đại diện cho một thương gia.
Beesie và tôi nhắc lại chuyện cũ cho
đến khi chị ấy phải về. Sáng hôm sau, tôi gặp lại chị mấy phút, khi chúng tôi
chia tay nhau. Mỗi người đi một ngả. Chị đi về Gateshead, tôi đáp xe đi
Thornfield để nhận nhiệm vụ mới.
Chương
9 . Ở Thornfield Hall
Thật khó mà tưởng tượng được sự thể
xảy ra có dễ chịu cho một nữ gia sư khi đến nhận việc không. Khi tôi đến
Thornfield Hall sau một cuộc hành trình dài thì trời đã tối. Ngôi nhà thấp, dài
chìm trong bóng tối, trên một khu đất rộng yên tĩnh, chỉ có một ánh đèn chiếu
ra từ một cửa sổ có che màn. Tôi được dẫn vào trong một căn phòng có bà Fairfax
đang ngồi đan cạnh một lò sưởi lung linh ánh lửa hồng, một con mèo lớn đang
ngồi nghiêm trang dưới chân bà.
Bà có dáng dấp qúy phái, đứng tuổi,
nhỏ nhắn, rất sạch sẽ đúng như tôi đã tưởng tượng ra. Bà đội chiếc nón góa phụ
và mặc áo dài đen. Bà tiến lên chào tôi thân ái, rồi mời tôi ngồi vào chỗ bà.
Bà gọi một tớ gái, đưa cho chị ta chùm chìa khóa của phòng chứa đồ, bảo chị ta
mang trà nóng đến cho tôi, và cắt cho tôi mấy miếng bánh sandwich. Bà nói
nhanh:
- Chắc là cô lạnh lắm, phải không
cô? Ngồi gần lò lửa đi. Cô có mang theo hành lý, phải không?Tôi thây nó đã được
mang lên phòng cô rồi.
Tôi nghĩ:" Bà ta xem mình như
khách. Mình chưa khi nào nghe ai đối xử với nữ gia sư như vậy! Mình cứ tưởng
người ta sẽ lạnh lùng khó khăn chứ!"
Bà Fairfax thân hành rót trà mới
tôi, nói chuyện rất thân ái và tôi cảm thấy bối rối khi bà lưu tâm đến tôi qúa
nhiều, ngoài sức mong đợi của tôi.Tôi hỏi:
- Thưa Bà, tối nay tôi gặp cô
Fairfax chứ?
- Cô Fairfax à? ồ cô muốn nói cô
Varens chứ gì? Tên học trò của cô đấy.
- ồ thế em không phải là con gái của
bà à?
- Không, tôi không có gia đình. Tôi
rất vui mừng có cô đến đây. Thornfield là một ngôi nhà cổ, đẹp, đã bị bỏ quên
từ lâu, mặc dù Leah và các gia nhân khác đều dễ thương, mình cũng không thể nói
chuyện bình đẳng được, cho nên rất cô đơn ở đây vào mùa đông.Tuy nhiên, cháu
Adele Varens đã đến vào đầu mùa thu với cô giữ trẻ, và cháu nhỏ đã làm cho ngôi
nhà sinh động lên liền. Nhưng đã mười hai giờ rồi, chắc cô đi đường xa mệt. Tôi
chỉ phòng cho cô, nó ở cạnh phòng tôi. Phòng nhỏ, nhưng tôi chắc cô sẽ thích
hơn các phòng lớn ở đằng trước. Những phòng này có đồ dùng đẹp hơn, nhưng trông
buồn và cô quạnh lắm.
Tôi cám ơn lòng tốt của bà và theo
bà lên lầu. Bậc thang và tay vịn toàn bằng gỗ sồi. Cửa sổ ở thang lầu cao và có
gắn kính. Nhiều cửa trong các phòng ngủ mở ra phía một hành lang dài, trông có
vẻ như một nhà thờ cao rộng hơn là nhà ở, và khi đi dọc theo hành lang, kích
thước dài rộng của nó đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh.
Tôi hài lòng được ở trong một phòng
nhỏ và thoải mái. Màn cửa sổ màu xanh và nền nhà trải thảm, thật khác xa sàn gỗ
để trần của Lowood, đến nỗi lòng tôi tràn ngập hạnh phúc và lòng biết ơn. Tôi
cảm thấy cuối cùng thì một chương đời mới tốt đẹp hơn đang mở rộng trước mắt tôi,
tôi đi ngủ lòng biết ơn vô cùng.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy, mặc áo
quần cẩn thận. Mặc dù áo quần mới của tôi đơn giản bình thường, nhưng bản chất
của tôi luôn luôn muốn sạch sẽ. Thỉnh thoảng tôi ước mình cao lên và nghiêm
nghị, đôi má hồng đào, có đôi môi hình trái anh đào thay vì nhỏ con, xanh xao
va xấu xí! Tôi không lưu tâm qúa đến bề ngoài. Tuy nhiên, sáng nay, khi tôi
chải mướt mái tóc của mình, mặc áo dài màu đen có cổ trắng nhỏ, tôi nghĩ rằng
mình trông đáng kính để làm hài lòng bà Fairfax, và để cô học trò mới của tôi
khỏi phải sợ sệt.
Khi tôi xuống lầu, mọi thứ trông có
vẻ trang nghiêm và to lớn, nhưng tôi lại ít quen thuộc với những gì to lớn. Hôm
ấy là sáng tháng mười đẹp đẽ, tôi bước ra khỏi cánh cửa mở một nửa để ra ngoài
bãi cỏ, ngước mắt nhìn lên chỗ ở mới của tôi. Ngôi nhà cao ba tầng: phần chính
xây bằng đá, bao lơn màu xám chạy quanh tầng trên, trông rất lộng lẫy. Có bầy
qụa khoang trong đám cây ở sau nhà, chúng bay trên bãi cỏ, trên sân đất để rồi
đáp xuống ở trên đồng cỏ mênh mông. ở đây tôi có thể thấy những cây gai cao to
lớn như những cây sồi, do đó vùng này mới có tên gọi là "Đồng gai".
xa hơn nữa, là những dãy đồi không cao như quanh vùng Lowood, một làng nhỏ men
theo các sườn đồi, nhà cửa nép mình dưới những hàng cây. Người ta có thể thấy
một tháp chuông nhà thờ gần cái cổng ngăn các lãnh điạ Thronfield với đường
cái.
Tôi đang ngẫm nghĩ một ngôi nhà to
lớn như vậy mà chỉ có một bà già như bà Fairfax sống, thì bà liền xuất hiện
trên ngưỡng cửa chào tôi:
- Chào cô Eyre, qủa cô là người thức
dậy qúa sớm. Cô có thấy thích Thornfield không?
Tôi nói với bà là tôi thích lắm. Bà
bảo:
- Vâng, đây là một nơi xinh đẹp,
nhưng tôi sợ nó sẽ lộn xộn mất, trừ khi ông Rochester quyết định sống luôn ở
đây. Những ngôi nhà rộng rãi, những đất đai, cần phải có mặt của chủ nhân.
Tôi thốt lên:
- Ông Rochester! Ông ta là ai vậy?
Bà đáp:
- Chủ nhân của Thornfield. Thế cô
không biết tên ông ta à?
Dĩ nhiên là tôi không biết. Tôi chưa
bao giờ nghe tên ông ta, nhưng bà già cứ ngỡ là ai cũng biết đến ông ta. Tôi
nói:
- Tôi cứ nghĩ Thornfield là của bà
đấy.
- Của tôi à? Mong Ơn trên gia hộ cho
tôi, ý nghĩ hay qúa! Tôi chỉ là quản gia mà thôi. Thực ra thì tôi có bà con với
nhà Rochester bên mẹ tôi, nhưng tôi chỉ xem mình như một người quản gia bình
thường mà thôi.
Thế còn cô bé học trò của tôi?
- Ông Rochester là người giám hộ của
cô ta. Ông ta yêu cầu tôi tìm cho cô ấy một nữ gia sư. Kìa cô bé đây rồi, có cả
chị giữ trẻ nữa đấy.
Một cô gái nhỏ khoảng tám tuổi chạy
băng qua bãi cỏ, tóc bé uốn quăn xõa xuống lưng. Bà Fairfax nói:
- Chào cô Adela. Đến chào cô giáo
dạy cháu đi, cô ấy sẽ giúp cháu một ngày nào đó trở thành người thông minh lanh
lợi.
Tôi nghe cô bé nói tiếng Pháp với
chị giữ trẻ. Khi họ đi về phía chúng tôi, tôi hỏi:
- Cả hai đầu là người ngoại quốc à?
- Cô giữ trẻ là người Pháp và Adela
sinh ra ở lục địa, chỉ bỏ đấy về đây mới có sáu tháng.Khi lần đầu cô ấy đến
đây, cô không nói được một chữ tiếng Anh nào. Tôi không hiểu lắm vì cô ấy
thường pha tiếng Pháp vào. Tôi chắc là cô rồi cũng thế thôi.
May thay tôi hiểu Adela không khó
khăn lắm, và khi chúng tôi ăn điểm tâm, cô bé bắt đầu nói tiếng Pháp, kể cho
tôi nghe chuyện vượt eo biển Anh quốc vào mùa thu
Cô bé bảo:
- Cháu bệnh, Sophie và cả ông
Rochester cũng vậy. Giường cháu như cái kệ và cháu gần văng ra khỏi giường.
Bằng thứ tiếng Pháp lưu loát, cô bé
kể cho tôi nghe về tuần lễ tuyệt diệu họ sống ở Luân Đôn sau đó.
Bà Fairfax hỏi tôi:
- Cô bé nói nhanh như vậy cô có hiểu
không? Cô hỏi bé về gia cảnh của bé ra sao.
Cô bé trả lời:
- Cháu ở với má lâu rồi. Má thường
dạy cháu khiêu vũ, hát và ngâm thơ. Rất nhiều các ông các bà htường đến thăm má
và cháu nhảy với họ, ngồi trên đầu gối họ. Bây giờ cô muốn nghe cháu hát không?
Bé đã ăn xong điểm tâm, cho nên tôi
để bé xuống ghế. Nó đến đứng bên tôi, nắm hai bàn tay bé bỏng lại với nhau,
ngước mắt nhìn trần nhà khi bắt đầu hát một bài trong các vở nhạc kịch. Bài hát
kể một câu chuyện về một thiếu nữ bị tình phụ- tập cho một em bé còn nhỏ hát
một bài như vậy thì thật qúa kỳ lạ. Rồi bé ngâm một bài thơ tiếng Pháp.Vào tuổi
của bé mà có nhiều tài như thế qủa cũng hiếm. điều này chứng tỏ bé được luyện
tập khá kỹ càng. Tôi bèn hỏi bé:
- Có phải má em đã dạy cho em không?
- Dạ phải, rồi em đến ở với ông bà
Federic. Nhà bà ấy không đẹp bằng nhà má, và em ở đó không lâu.Ông Rochester
hỏi em có muốn đến ở với ông ở nước Anh không. Em nói muốn. Em biết ông trước
cả bà Federic, ông thường cho em áo quần đẹp và đồ chơi. Nhưng ông lại bỏ đi
mất tiêu, và em chưa bao giờ gặp lại ông ấy cả.
Sau buổi điểm tâm, Adela và tôi đến
thư viện, nơi đây đã trở thành phòng học. Tất cả những cái gì ở đây chúng tôi
cũng có thể dùng cho bài học hết, và cũng có một chiếc đàn dương cầm và một cái
giá để vẽ. Tôi quyết định buổi sáng đầu tiên chúng tôi phải được thoải mái, cho
nên tôi cho Adela về nghỉ với chị giữ trẻ vào khoảng mười hai giờ trưa.
Khi tôi đi lên lầu để lấy giá vẽ và
bút chì, thì bà Fairfax đang đứng trong phòng gần thư viện gọi tôi. Tôi bước
vào.
- Phòng đẹp qúa! - Tôi thốt lên
Tôi chưa bao giờ thấy một cái phòng
đẹp như thế. Nó rất rộng, rất bề thế, ghế dựa và màn đều màu tím, một tấm thảm
Thổ Nhĩ Kỳ, các bức tường đều trang hoàng hình trái hồ đào, một cửa sổ lớn bằng
kính màu sặc sỡ, trần nhà cao, thiết kế thật qúy phái.
Bà Fairfax đứng bên chiếc bàn dài
đẹp đẽ ở giữ phòng.Bà nói với tôi:
- Đây là phòng ăn. Tôi vừa đến để mở
cửa cho không khí và ánh sáng lùa vào một chút, kẻo cái phòng lâu ngày không
dùng tới, đồ đạc ẩm mốc hết. Cái phòng khách bên cạnh y như cái nhà kho, tôi
cũng phải đến để mở cửa sổ ra cho thoáng.
Bà đưa tay chỉ một của tò vò rộng.
Chúng tôi bước tới gần hai bậc cấp rộng để bước qua cửa. Tôi thấy bên kia cửa
là một căn phòng qúa đẹp, những tấm thảm màu trắng có thêu những chùm hoa,
giường ghế trong phòng màu đỏ sẫm, những đồ trang hoàng bằng kính xứ Bohemian
màu đỏ hồng. Giữa nhiều cửa sổ trong phòng là những tấm kính rộng phản chiếu vẻ
huy hoàng của căn phòng toàn màu trắng và màu đỏ.
Tôi nói với bà:
- Thưa bà Fairfax, bà đã giữ gìn
những căn phòng này đẹp đẽ qúa!
Bà giải thích cho tôi nghe:
- Tôi luôn luôn chuẩn bị những căn
phòng này sẵn sàng như thế, bởi vì khách hay đến thăm ông Rochester rất đột
xuất, rất bất ngờ. Ông yêu cầu phòng ốc thật đẹp và phải sẵn sàng như vậy.
- Thế bà có mến ông ấy không? Mọi
người có mến ông ấy không? - Dĩ nhiên là ai cũng mến ông ấy, nhưng xem ra thì
ông ấy cũng hơi đạc biệt. thường thường mình không chắc được ông ta đang đùa
hay thật, không chắc ông vừa ý hay hài lòng, nhưng nói chung thì ông ấy là một
ông chủ nhà rất tốt.
Dó là tất cả những gì tôi biết về
ông chủ của bà Fairfax và của tôi. thế rồi tôi không nghĩ đến nữa
Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng ăn,
Bà ấy đi lên lầu, tôi đi theo bà, thầm phục ngôi nhà qúa đẹp và qúa ngăn nắp.
Tôi nhận ra những phòng ngủ ở phía trước ngôi nhà thật qúa lớn, một số phòng ở
tầng ba lại rất hấp dẫn, vì chúng trông có vẻ cổ kính. Có phòng kê những chiếc
giường xưa đến hàng trăm năm, và có những chiếc tủ chạm trổ lâu đời bằng gỗ sồi
và gỗ hồ đào. Có những chiếc ghế dữa và ghế đậu bọc nệm, lót vải thêi trên chỗ
ngồi đã lâu năm, nét thêu rất tinh vi và vẫn còn rõ nét. Tất cả những đồ cổ này
tạo cho tầng ba của Thornfield hall không khí của một viện bảo tàng.
Tôi hỏi bà quản gia:
- Gia nhân đều ngủ theo dọc hành
lang này ư?
Bà Fairfax đáp:
- Không, họ ngủ trong mấy cái phòng
nhỏ hơn ở đằng sau. Ai lại đi ngủ ở đây.Người ta cứ đồn đại rằng có ma ở
Thornfield Hall. Chắc những cái phòng này đã ám ảnh họ đấy.
Tôi đồng ý với bà:
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Làm gì có
ma. Mà...thực không có chuyện ma qủy chứ, thưa bà?
- Tôi thì không tin, mặc dù họ cứ
bảo nhau dòng học Rochester một thời từng ác liệt lắm. Cô có muốn lên sân
thượng để ngắm cảnh không?
Tôi đi theo bà lên một cầu thang hẹp
đến gác lửng, rồi leo một cái thang, chui qua một cánh cửa sập, bước ra ngoài
một sân htượng là mái bằng suốt toàn bộ ngôi nhà
Chúng tôi ở cao ngang tầm giang sơn
của loài qụa. Tôi có thể nhìn thấy tổ của chúng trong những cây du. Tực người
trên bao lơn bằng đá, tôi nhìn xuống, thấy vườn tược, ruộng nương trải dài bất
tận trước mắt tôi như một bản đồ.
Bãi cỏ non chạy đến tận các bức
tường màu xám của ngôi nhà, đồng ruộng lác đác những cây cổ thụ, một lối đi
chia cánh rừng làm hai đầy rêu xanh. Nhà thờ màu xám ở ngay cổng nhà, con đường
uốn khúc, bên kia là những ngọn đồi yên tĩnh- tất cả tạo thành một bức tranh
nhiều màu sắc thanh bình dưới ánh mặt trời mùa thu, bức tranh chạy mãi đến tận
chân trời xanh ngắt tuyệt đẹp.
Quen với ánh sáng ngoài trời, khi
tôi quay lại thì lối đi xuống bỗng trở nên tối thui. Tôi phải đứng đợi bà
Fairfax trong hành lang dài, tối của tầng ba. trong khi bà buộc lại cánh cửa ở
gác lửng.
Trong lúc tôi bước đi nhẹ nhàng theo
dọc hành lang của những phòng bỏ trống, tôi bỗng nghe có tiếng cười cười: tiếng
cười khô khan, gay gắt.Tôi dừng lại, tiếng cười lại nổi lên lớn hơn, tạo thành
tiếng vang trong các phòng khác ở hai bên hành lang tối tăm, nhưng tôi đoán
chắc tiếng cười chỉ xuất phát ở trong một phòng mà thôi
Tôi gọi bà quản gia vì tôi nghe
tiếng chân bà sau lưng tôi.:
- Bà Fairfax ơi! Bà có nghe tiếng
cười đó không? Ai vậy thưa bà?
Bà đáp:
- Tuồng như một gia nhân nào đấy. Có
lẽ là chị Grace Poole. Chị ấy may vá trong một phòng nào đấy. Thỉng thoảng Leah
hay đến chơi với chị và họ làm ồn lên thế đấy.
Tiếng cười cứ lập đi lập lại và hình
như sau tiếng cười ấy có tiếng càm ràm nho nhỏ.
Bà Fairfax kêu lên:
- Chị Grace!
Tôi chẳng thấy ai trả lời, bởi vì
tiếng cười nghe rất bất thường. Tiếng cười chỉ xảy ra giữa ban đêm chứ không
phải ban ngày, cho nên tôi cảm thấy cứ rờn rợn trong người. Thế rồi một cánh
cửa gần chỗ chúng tôi bật mở, khiến tôi rất ngạc nhiên. Một gia nhân xuất hiện.
Chị ta khoảng bốn mươi: người chị vuông vắn, chắc nịch, mặt mày xấu xí, rắn
rỏi. Thật khó tưởng tượng lại có người xấu hơn ma như vậy!
Bà Fairfax bảo:
- Này chị Grace, ồn lắm đấy nhé. Hãy
nhớ lệnh mà làm chứ!
Chị ta vâng lời, quày qủa bước vào
phòng.
Bà Fairfax nhìn tôi nói tiếp:
- Chúng tôi mướn chị ấy may vá và
giúp Leah làm việc nhà. Nhân tiện xin hỏi cô, sáng nay cô đã tìm hiểu học trò
mới sao rồi?
Khi chúng tôi đến những phòng bên
dưới, tôi mới thấy mình yên ổn và vui sướng, và Adela vội chạy đến đón chúng
tôi. Bữa ăn tối đã dọn sẵn chờ chúng tôi.
Chương
10 . Người Cưỡi Ngựa Không Quen Biết
Thornfield Hall cứ gợi mãi cho tôi
những ấn tượng ban đầu. Bà Fairfax vẫn là một người đàn bà tốt bụng, trầm tĩnh
như tôi đã gặp hôm đầu tiên. Cô học trò của tôi là một cô bé sinh động, vì được
nuông chiều nên hư, nhưng chẳng bao lâu bé đã bỏ được những tật xấu và trở nên
biết vâng lời, dễ dạy, có tiến bộ.
Tháng Mười, tháng Mười một rồi tháng
Chạp trôi qua êm ả, tôi rất hài lòng ở đây. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ một
mình hay lên sân thượng ngắm cảnh vật bao la. Tóm lại tôi được mọi người quan
tâm đến và được an toàn ở Thornfield Hall.
Tuy nhiên, ngoài giờ dạy, tôi thường
sống một mình, tôi phải cố gắng hết sức để quen với cuộc sống đều đặn ở đây.
Những người khác trong nhà thì cũng dễ thương đấy, nhưng tôi ít chú ý đến. Bác
John, người đánh xe cùng vợ là đầu bếp, chị Leah, coi sóc việc nhà, chị Sophie
cô giữ trẻ người Pháp: tất cả đều bận bịu với công việc của họ. Thỉnh thoảng
tôi lại nghe tiếng cười của chị Grace Poole, rồi tôi lại nghe tiếng càm ràm của
chị ta sau cánh cửa. Thỉng thoảng chị ta ra khỏi phòng, tay bê cái khay có cái
tô lớn hay cái đĩa, nhưng dáng dấp của chị làm cho ta phải nản, khiến tôi rất
chú ý đến chị. Chị lại là người ít nói. Chỉ còn lại bà Fairfax và Adele là
những người bạn tâm đắc nhất của tôi mà thôi.
Một buổi chiều tháng giêng giá lạnh,
bà Fairfax định gửi một bức thư vừa viết xong, tôi liền nhận đi gửi dùm cho bà
ở Hay, một cái làng ở trên đồi. Đi bộ hai dặm đường vào mùa đông qủa là một
buổi chiều thú vị đối với tôi.
Mặt đất rắn lại vì băng giá, rải rác
vài nơi trên mặt đường đã có nước đá. Khi tôi đi ngang dưới tháp chuông nhà
thờ, đồng hồ điểm ba tiếng. Trên đỉnh đồi, ánh mặt trời chiếu lấp lánh và từng
đám khói xanh từ các ngôi nhà trong làng đang lờ lững bay trong không gian giá
lạnh.
Tôi bước đi thật nhanh cho ấm, rồi
đến một cái hàng rào gỗ gần đỉnh đồi, tôi ngồi nghỉ trên một thanh ngang. Tôi
đang ở trên một con đường nhỏ dẫn tới Hay, nơi đây vào mùa hè thì đầy hoa hồng
dại, mùa thu lại lắm hạt dẻ và dâu tây, nhưng bây giờ thì cây cối hai bên đường
trắng xóa ví tuyết. Những cánh đồng hai bên hàng rào lặng yên, vắng bóng trâu
bò gặm cỏ trong cảnh mùa đông gía lạnh này.
Bỗng có tiếng động đâu đây phá tan
bầu không khí tĩnh mịch, tôi lắng nghe và nhận ra đó là tiếng võ ngựa đang gõ
đều trên lối đi đều đặn. Tôi nhìn đoạn đường rẽ để chờ xem con ngực xuất hiện,
thì một con chó thật bự, lông đen trắng đang lặng lẽ chạy ngang qua tôi gần
hàng rào. Rồi con ngựa xuất hiện, một con ngựa cao, có người đang cưỡi nó.Chỉ
là một khách nhàn du đến Millcote chơi, chứ đâu phải một bóng ma cưỡi ngựa như
trí tưởng tượng đã làm cho tôi lo sợ.
Bỗng tôi nghe có tiếng trượt chân
bên dưới, khi tôi vừa quay lại định đi lên đồi, thì tôi nghe tiếng đổ ầm. Tôi
thấy cả người lẫn ngực ngã nhào xuống đất, ngựa đã trượt chân trên băng của lối
đi.
Con chó liền quay lại, chạy quanh
người và ngựa sủa vang lên rồi chạy đến bên tôi. Tôi vội bước đến người cưỡi
ngựa, ông ta đang gượng đứng dậy. Tôi hỏi ông ta:
- Thưa ông, ông có bị thương không?
ông cần tôi giúp gì không?
Ông ta đáp:
- Cô làm ơn tránh sang một bên
Trước hết ông dùng đấu gối để ngồi
dậy, rồi từ từ đứng lên, ông khuyến khích con ngựa đứng dậy, có tiếng kêu lẻng
kẻng, rồi chú ngựa từ từ cố gắng đứng lên. Con chó vẫn sủa vang, ông ta nạt:
- Thôi im đi, pilot!
Đoạn ông cúi xuống sờ mó xem bàn
chân, ống chân mình. ông khập khiễng đi đến xà ngang của hàng rào và ngồi xuống
nghỉ
Tôi muốn làm cái gì đó để giúp ông,
tôi bảo:
- Nếu ông bị thương và cần giúp đỡ,
tôi chạy lên Hay tìm người giúp ông nhé!
- Xin cám ơn cô, tôi không bị gãy
xương, chỉ sái khớp xương thôi
Ông ta lại đứng lên và bước thử,
nhưng ông lại nhăn nhó kêu đau.
Tôi nhìn ông qua ánh trăng vừa mọc.
Ông ta mặc áo quần cưỡi ngựa. Mặt ông nghiêm nghị, có vẻ đàng hoàng, và luôn
luôn tôi thấy ông chau mày. Dáng người trung bình, ông ta cỡ ba mươi lăm tuổi.
Nếu ông ấy còn trẻ và đẹp, thì chắc là tôi đã không dám đề nghị giúp đỡ ông.
Nét chau mày của ông, vẻ người cục mịch của ông khiến tôi an tâm.
Tôi nói:
- Thưa ông, trường hợp như thế này,
tôi không thể để ông một mình cho đến khi ông đã ngồi yên trên lưng ngựa được.
Nghe tôi nói vậy, ông ấy nhìn tôi,
ông bảo:
- Tôi cứ ngỡ là giờ này cô đã ở nhà
rồi chứ. Vậy cô ở đâu?
- Tôi ở ngay dưới đây thôi. Tôi
không sợ phải về trễ vì trời có trăng. Tôi muốn lên Hay chơi- thật ra tôi đi
gửi một cái thư
- Cô ở ngay dưới đây à? Cái nhà ấy
phải không?
Ông đưa tay chỉ về phía Thornfield,
ngôi nhà bây giờ chỉ còn thấy thấp thoáng trong lùm cây.Tôi đáp:
- Dạ vâng, đúng tôi ở đấy đấy.
- Cô có biết ngôi nhà đó của ai
không?
- Dạ thưa của ông Rochester
- Thế cô có biết ông Rochester
không?
- Dạ không. Tôi chưa bao giờ gặp ông
ấy.
- Chắc cô không phải là gia nhân
chứ. Cô là...
Ông dừng lại, có vẻ phân vân không
biềt tôi làm gì ở đấy.
- Thưa, tôi là nữ gia sư ở đấy.
- A, nữ gia sư!
Ông lặp lại, rồi nhìn tôi và nói
tiếp:
- Tôi quên mất, cô nữ gia sư ạ!
Sau đó, ông đứng dậy, vẻ đau đớn ra
mặt khi ông cố thử di động. Ông lại nói:
- Tôi không nhờ cô tìm ai giúp hết,
nếu cô tốt, xin cô giúp tôi một chút. Cô có cái ô cho tôi mượn để làm cái gậy
không?
- Tôi không có, thưa ông.
- Vậy thì cô hãy nắm dây cương con
ngựa và dẫn nó đến đây giúp tôi. Cô có sợ nó không?
Nếu một mình thì chắc là tôi sợ nó
lắm, nhưng khi nghe ông ta nói vậy, tự nhiên tôi vâng lời ngay. Tôi tháo bít
tất ra để trên xà ngang hàng rào, rồi bước đến con ngựa cao lớn. Nhưng nó là
một con vật thông minh, cho nên nó không chịu để tôi đến gần nó. Tôi cố thử
nhiều lần đều vô ích, đồng thời tôi lại cảm thấy qúa lo, vì hai chân trước của
nó cứ chồm lên chồm xuống.
Cuối cùng ông khách bật cười, ông
vẫn còn đứng cạnh thanh ngang hàng rào. ông nói:
- Thôi, xin cô vui lòng đến đây.
Thật cần qúa tôi mới nhờ cô giúp đấy nghe!
Ông đặt một bàn tay lên vai tôi, tựa
người thật nặng lên tôi, ông khập khiễng đi đến con ngựa. Khi đã nắm được dây
cương rồi, ông điều khiển con ngựa đứng thẳng, rồi phóng người lên yên, mặt ông
nhăn lại vì gắng sức, vì cái bàn chân bong gân đã làm ông đau đớn.
Ông bảo tôi:
- Thôi, bây giờ cô lấy giúp cây roi
ngựa cho tôi. Nó ở dưới hàng rào.
Tôi đi tìm cây roi, rồi đưa cho ông.
Ông lại nói:
- Cám ơn cô. Bây giờ cô đi gửi thư
nhanh lên,cố mà về nhà cho sớm.
Ông lấy gót chân thúc ngựa, nó phi
nhanh tới trước, con chó phóng theo sau và cả ba mất hút sau con đường nhỏ.
Tôi nhặt lấy tất tay và đi lên làng.
Sự việc xảy ra làm cho cuộc sống đơn điệu của tôi trở nên sinh động đôi phần,
và tôi rất thích thú khi được giúp đỡ ai điều gì. cái khuôn mặt cũng hay hay.Đi
đến Hay và gửi cái thư, tôi cứ thấy mãi khuôn mặt chờn vờn trước mắt tôi, và
tôi vẫn còn thấy nó khi tôi đi nhanh xuống đồi về nhà. Khi tôi đến cái thanh
ngang chắn hàng rào, tôi bèn dừng lại một lát, mong tìm lại dấu chân ngựa trên
mặt đường và bóng dáng con chó to lớn giống Newfoundland đang lướt nhanh xuống
đồi.
Tôi trở lại Thornfield và miễn cưỡng
về phòng. Chuyến đi ngắn ngủi vẫn còn gây trong tôi nỗi hồi hộp lâng lâng. Tôi
chạnh nghĩ đến sự buồn tẻ chán chường khi trải qua một tối mùa đông dài với bà
Fairfax.
Khi tôi về nhà thì trong phòng khác
người ta đã nhóm lò sưởi, ngọn lửa vui tươi, qua hai lần cửa của phòng ăn, tôi
cũng thấy được ngọn lửa cháy sáng trong lò, chiếu ánh sáng lên các vật dụng
sáng bóng trong phòng. Tôi thoáng thấy nhiều người ngồi gần lò sưởi, tôi nghe
thấy tiếng nói cười vui vẻ của họ trước khi các cửa đóng lại.
Tôi vội đi đến phòng bà Fairfax. ở
đây cũng đã đốt lò sưởi, nhưng không có ánh sáng và cũng không có bà Fairfax.
Thay vì như mọi khi bà ngồi đơn độc, thẳng băng trên tấm thảm, trang nghiêm
nhìn ngọn lửa, thì bây giờ tôi chỉ thấy con chó lông trắng đen mà tôi đã gặp
trên con đường đồi khi nãy.
Tôi tiến lên và nói với
nó:"Pilot ư!" tức thì nó tiến lại tôi, phe phẩy cái đuôi thật lớn. Nó
là con vật kỳ lạ đáng cho mình bầu bạn với nó. Tôi muốn có một cây đèn cầy để
lên lầu, tôi rung chuông. Chị Leah liền đến. Tôi hỏi chị:
- Con chó của ai vậy chị?
- Nó đến với chủ nó đấy mà
- Với ai?
- Với chủ- ông Rochester ấy- Ông ấy
vừa đến đấy.
- Vậy ư? Chắc bà Fairfax đã đến gặp
ông ấy.
- Vâng, và cả cô Adela nữa. Họ ở trong
phòng ăn. John đã đi mời bác sĩ. Ông chủ gặp tai nạn, ngựa ông trượt chân té,
khiến ông bị bong gân ở mắt cá chân.
- Ôi thôi! Tôi xin chị cho tôi cây
đèn cầy đi, chị Leah!
Chị Leah mang đèn cầy đến vừa lúc bà
Fairfax bước vào, nhắc lại những tin tôi vừa nghe, rồi bà nói thêm rằng bác sĩ
đang khám cho ông Rochester. rồi bà vội vã ra đi để ra lệnh pha trà. Tôi từ từ
lên lầu thay quần áo.
Chương
11 . Ông Rochester
Theo lệnh của bác sĩ, tối hôm đó ông
chủ phải đi ngủ sớm, và sáng hôm sau, ông dậy trưa. Khi ông xuống nhà dưới, ông
có khối việc phải làm. Người quản lý bất động sản cho ông đến gặp ông. Những
người thuê đất của ông cũng đến chờ gặp ông
Adela và tôi phải đổi phòng học vì
thư viện bây giờ dùng làm nơi làm việc cho ông chủ với các người được mời đến.
Người ta nhóm cho tôi một lò sưởi ở trongphòng ở trên lầu. Tôi ôm hết sách vở
lên đấy, bày biện ngăn nắp để chuẩn bị buổi học.
Không khí ở Thornfield Hall đã đổi
hẳn. Nó không còn lặng yên như một nhà thờ nữa mà thỉnh thoảng lại vang lên
tiếng gõ cửa, tiếng chuông reo, tiếng cười nói ồn ào, tiếng chân đi nhộn nhịp
khắp nhà. Ngôi nhà đã có chủ. Về phần tôi, tôi rất thích không khí sinh động
vui tươi này
Hôm ấy tôi rất khó dạy Adela. Bé cứ
chạy ra cửa của phòng học mới, nhìn qua bao lơn của cầu thang để xem thử có
thấy ông Rochester hay không. Rồi bé lại kiếm cớ chạy xuống thư viện mà tôi
biết rằng chẳng ai muốn gặp bé. Rồi khi tôi tỏ ý phật lòng và buộc bé ngồi yên
một chỗ thì bé lại luôn mồm nhắc đến "Ông Edward Fairfax de
Rochester", cái tên mà bé thường gọi ông chủ, rồi bé lại bắt đầu phân vân
không hiểu ông chủ đã mang về cho bé qùa gì.
Đối với chúng tôi, ngày nào cũng như
ngày nào. Chiếu hôm ấy trời có tuyết rơi, trông thật buồn, và khi tôi đến, tôi
cho phép Adela nghỉ học, bé liền chạy xuống nhà. Tôi ngồi lại một mình, kéo màn
để che ánh sáng nhàn nhạt của mùa đông bên ngoài, tôi ngồi bên lò sưởi cho đến
khi bà Fairfax bước vào. Bà bảo tôi:
- Ông Rochester rất mong được uống
trà cùng cô với Adela ở phòng khách. Cô nên thay quần áo đi.
Tôi hỏi bà có phải bắt buộc như vậy
không thì bà nói:
- Phải. Tôi thường phải thay áo quần
đẹp vào buổi tối mỗi khi có ông Rochester ở đây.
Tôi vào phòng, thay cái áo dài bằng
nỉ đen bằng cái áo lụa màu đen- cái áo đẹp nhất và cũng là cái duy nhất của
tôi- chỉ dành để mặc vào những dịp quan trọng nhất, không kể tôi còn cái áo
khoác màu xám nhạt nhưng nó qúa rộng, mặc vào thật khó coi. Tôi không có đồ
trang sức bằng vàng bạc đá qúy, ngoại trừ chiếc trâm bằng ngọc trai mà cô
Temple đã biếu tôi khi chia tay ở Lowood.
Tôi đi theo bà Fairfax qua phòng ăn
rồi bước qua cửa bán nguyệt để vào gian phòng lộng lẫy ở bên kia. Tôi cảm thấy
hơi căng thẳng trong người một chút, vì lấy làm lạ vì sao mình lại bỗng nhiên
vào thăm phòng khách.
Không khí ấm cúng dễ chịu bao quanh
chúng tôi. Những ngọn đèn cầy chiếu sáng những chiếc bàn và cái bệ bao quanh lò
sưởi. Con chó Pilot đang nằm thưởng thức ánh sáng và hơi ấm của lò sưởi, Adela
đang qùy bên cạnh nó. Ông Rochester đang nằm nghỉ trên trường kỷ, bàn chân đau
của ông gác trên một chiếc gối. Ông đang nhìn Adela và con chó. Hẳn là ông thừa
biết chúng tôi đi vào, nhưng ông không chú ý đến bà Fairfax và tôi. Tôi liền
nhận ra người khách nghiêm trang, với vầng trán rộng, với cái miệng nghiêm nghị
và chiếc cằm ấy- đúng vậy, ông thật nghiêm nghị, chứ không có chút gì đáng chê
trách hết.
Bà Fairfax hết sức bình tĩnh nói:
- Thưa ông, đây là cô Eyre
Ông vẫn không rời mắt khỏi em bé và
con chó đang ngồi trong vùng ánh sáng của lò sưởi. Ông khẽ cúi chào xã giao rồi
ông lơ đễnh nói:
- Mời cô Eyre ngồi.
Ông lại nhìn vào lò sưởi
Tôi ngồi xuống, lòng bối rối vô
cùng. Ông qúa lịch sự khiến tôi đâm ra luống cuống, vì tôi ít duyên dáng, ít
lịch lãm để ứng phó với tình huống này. Bà Fairfax bắt đầu nói về việc ông bận
rộn suốt ngày, nói về việc ông bong gân khiến ông đau đớn, và việc ông hết sức
kiên nhẫn để chịu những cơn đau ấy. Rồi bà chỉ nhận được độc nhất một câu trả
lời của ông:
- Thưa bà, tôi muốn uống trà.
Bà vội vã rung chuông. Người ta liền
bưng khay đến, bà sắp đặt ly tách để dùng trà, nhanh nhẹn và cẩn thận. Adela,
tôi cùng bà ngồi vào bàn, nhưng ông Rochester vẫn không rời khỏi chiếc ghế
trường kỷ bên lò sưởi. Bà Fairfax nói với tôi:
- Cô vui lòng bưng tách trà cho ông
Rochester được không? Sợ Adela làm đổ mất
Khi ông nhận tách trà nơi tay tôi,
Adela bỗng nói lớn bằng tiếng Pháp:
- Bác có qùa cho cô Eyre ở trong
rương, phải không?
Ông hỏi lại bằng giọng khàn khàn:
- Ai bảo cháu có qùa? Cô Eyre, cô có
mong có qùa không? Cô thích qùa không?
Ông ngước mắt nhìn tôi, đôi mắt đen
châm chọc.
- Thưa ông, tôi cũng không biết nữa,
tôi ít khi nhận được qùa.
- Cô Eyre này, cô thật khác xa
Adela. Hễ mỗi lần gặp tôi là cháu lại đòi qùa, cô nên răn đe cháu đi.
- Dạ thưa ông, cháu đòi hỏi là vì
ông quen cho cháu rồi. Còn tôi là một người xa lạ, tôi đâu dám đòi hỏi cái đặc
ân ấy.
- Ôi, cô đừng qúa khiêm tốn như vậy.
Tôi đã quan sát Adela rất kỹ, tôi thấy cô đã nhọc công dạy dỗ cháu rất nhiều.
Trong một thời gian ngắn thôi, cháu đã tiến bộ rất nhiếu.
- Thưa ông, thế là ông đã tặng tôi
món qùa qúy giá rồi đấy. Khen ngợi học sinh tiến bộ là đã dành cho thầy giáo
phần thưởng xứng đáng nhất rồi!
Ông Rochester chỉ "hừ" một
tiếng rồi tiếp tục ăn bánh uống trà. ông giữ im lặng cho đến khi ăn xong.
Khi khay thức uống đã mang đi, bà
Fairfax ngồi vào một góc, chăm chú đan, tôi và Adela đến ngồi gần lò sưởi.
Adela muốn ngồi lên chân tôi nhưng ông chủ bảo cháu chơi với con chó Pilot, rồi
ông quay sang nói với tôi:
- Cô đã ở trong nhà tôi được ba
tháng rồi nhỉ.
- Thưa vâng!
- Cô ở..?
- Dạ ở trường Lowood.
- A, một cơ quan từ thiện, cô ở đấy
bao lâu?
- Dạ thưa tám năm.
- Tám năm! Cô qủa là một con người
kiên định. tôi cứ nghĩ là chỉ phân nửa thời gian đó cũng đủ làm nhiều người
tiêu ma rồi.Thảo nào cô giống như người từ thế giới nào ấy. Thật khó mà tả
khuôn mặt của cô. Đêm qua khi cô đến bên tôi, tôi cứ ngỡ như là một nàng tiên
đã mê hoặc con ngựa của tôi- mà biết đâu đấy! Cha mẹ cô là ai vậy
- Tôi không có cha mẹ
- Có lẽ phải có chứ. Cô không nhớ ra
sao?
- Dạ không
- Thế sao! Có phải vì tôi đã bất
kính với tiên khiến cô bực mình, phải cô đã lát băng trên đường tôi đi không?
Tôi lắc đầu đáp:
- Chuyện thần tiên đã hết trên đất
Anh từ một trăm năm nay rồi. Ông sẽ không tìm ra vết tích nào của các câu
chuyện ấy vào mùa hè hay mùa gặt nữa- sẽ không bao giờ còn cảnh tiên nữ múa hát
vui chơi dưới ánh trăng mùa đông nữa đâu, thưa ông.
- Mà nếu cô không còn cha mẹ thì thế
nào cô cũng còn một ít bà con chứ? Chú bác hay anh chị em?
- Tôi không có tuốt
Thế ai giới thiệu cô đến đây?
- Tôi đăng báo, rồi bà Fairfax trả
lời cho tôi
Bà Fairfax nói chen vào:
- Dạ đúng thế, tôi thật mừng vì đã
làm được công việc này.
Bây giờ thì bà nắm được câu chuyện
chúng tôi đang nói:
- Cô Eyre qủa là người cộng tác qúy
giá của tôi, một cô giáo cần mẫn giỏi giang của Adela.
Ông Rochester trả lời:
- Xin bà đừng bận tâm đánh giá cô
ấy. Tự tôi, tôi làm được mà.Cô ấy đã làm cho ngựa tôi ngã mà! Này cô Eyre, cô
có tiếp xúc rộng rãi với mọi người không?
Tôi đáp:
- Tôi không quen ai hết, ngoài các
bạn học sinh và giáo viên ở trường lowood, và bây giờ với những người đang ở
đây.
- Cô đọc sách nhiều không?
- Dạ chỉ đọc những cuốn tôi có được.
- Cô đã sống như một kẻ tu hành. Khi
cô đến Lowood lần đầu, cô được bao nhiêu tuổi?
- Dạ khoảng mười tuổi.
- Cô đã ở đấy tám năm, vậy bây giờ
cô mười tám?
Tôi gật đầu, ông lại nói tiếp:
- Cô thấy không? toán học rất cần.
Nếu không nhờ nó, tôi khó mà đoán nổi tuổi cô. Cô biết chơi dương cầm chứ?
- Dạ một ít
- Trả lời thật khiêm tốn. Bây giờ
xin cô vào thư viện- nếu cô bằng lòng nhé- cô tha lỗi cho cái giọng ra lệnh của
tôi, vì tôi chưa bỏ được thói quen này. Xin cô vào thư viện. Cứ để cửa mở như
thế, và ngồi đàn cho tôi nghe một bản đi
Tôi vâng lời ông ta, vào thư viện
đánh đàn. It' phút sau ông nói lớn:
- Thôi, đủ rồi! Cô chơi đàn như bao
nữ sinh nước Anh, có lẽ hay hơn một số đấy, nhưng chưa hay lắm.
Tôi đóng nắp đàn và trở lại phòng
khách. Ông Rochester lại nói tiếp
- Sáng nay, Adela có đưa cho tôi xem
mấy bức phác hoạ, nó bảo là của cô. Có lẽ là một giaó sư hội họa nào đó đã
hướng dẫn cho cô phải không?
Tôi nói lớn:
- Dạ, hoàn toàn không có
Ông bảo tôi:
- A, vậy thì cô phải tự hào rồi.
- Thôi, đi lấy tập tranh cho chúng
tôi xem đi.
Khi tôi đem đến, bà Fairfax và Adela
cũng đến xem
Ông Rochester nói:
- Đừng chen lấn, để tôi xem xong rồi
hai người lấy mà xem
Rồi ông lại quay qua nói chuyện với
tôi:
- Công việc hội họa đòi hỏi khá
nhiều thời giờ và suy tư. Cô lấy đề tài ở đâu?
- Tôi nghĩ ra
Ông lại hỏi tôi
Cô tự suy nghĩ ra nhiều đề tài thế
cơ à?
Tôi đáp:
Dạ, chịu khó suy nghĩ thì phải có
chứ. Tôi hy vọng... sẽ tìm được nhiếu đề tài hay hơn.
Ông Rochester lại ngắm ba bức ông để
riêng ra, và thưa độc giả, trong lúc ông ấy đang say sưa ngắm nghía, tôi xin tả
một bức cho qúy vị xem.
Đề tài của bức tranh này đã hình
thành trong óc tôi rất rõ, nhưng bàn tay vụng về của tôi đã không thể hiện hết
được những suy tư của mình. tôi dùng màu nước để vẽ: những đám mây đen xuống
thấp phủ lấy mặt biển đang bị cơn bão hoành hành. Xa xa là bầu trời mờ mịt tối
tăm, gần hơn là những cơn sóng cũng chìm trong bóng tối, chỉ có một tia sáng
rọi lên nửa cột buồm của một con tàu. Chính cái tia sáng này đã làm cho bức
tranh có một sinh khí, một ý nghĩa, vì trên cột buồm có một con cò biển lớn
lông đen đang đậu trên đó, hai cánh bị bọt sóng văng lên làm ướt mèm. Mỏ của
con chim đang ngậm một chiếc vòng đeo tay bằng vàng có gắn đá qúy. Tôi đã dụng
công rất nhiều để vẽ nên phần này, nhằm làm nổi bật chủ đề của bức tranh. Bên
dưới cột ồm với con chum, bập bềnh một thây ma trong nước biển xanh lơ, một
cánh tay xinh đẹp nổi rõ trên mặt nước, cánh tay đeo chiếc vòng đã bị sóng biển
cuốn đi.
Xem xong, ông Rochester lại hỏi tôi:
- Khi vẽ những bức tranh này, cô có
thấy sung sướng không?
- Tôi đã vẽ say sưa, tất là tôi phải
sung sướng chứ. Vẽ đã đem lại cho tôi niềm khoái lạc thanh cao nhất trong mọi
thứ.
- Tranh cô không nói lên đấy đủ điểi
đó. Tôi thấy cô không được mấy hạnh phúc, thoải mái như cô nói. Tranh cô vẽ
thật khác xa với một nữ sinh còn nhỏ. Cô có những tư tưởng thoát tục.Và ai dạy
cho cô vẽ được gió? Một trận cuồng phong trong bầu trời kia. Đấy, cô hãy để những
bức tranh ra xa.
Rồi bỗng ông nhìn đồng hồ:
- Chín giờ rồi. Này cô Eyre, nhớ
đừng để Adela thức khuya nhé! Thôi cô cho cháu đi ngủ đi.
Adela đến hôn ông để đi ngủ. Ông
vuốt ve âu yếm nó, nhưng ông tỏ ra ít thích thú hơn đối với Pilot, ít hơn
nhiều. Ông bảo:
- Bác chúc cháu ngủ ngon.
Ông đưa tay về phía cửa để chào tiễn
bé.Bà Fairfax thu dọn đồ đan, tôi thì xếp lại các bức tranh vào cặp, và chúng
tôi bước ra khỏi phòng.
Mấy ngày sau, gặp lại bà Fairfax
trong phòng bà, tôi nhận xét với bà:
- Bà bảo rằng ông Rochester hơi đặc
biệt, nhưng tôi thì cho rằng ông ấy tính tình bất định và thiếu tế nhị.
Bà cũng đồng ý với tôi, rồi bà nói:
- Với người lạ, ông ấy thường như
vậy. Tôi thì đã quen với tính khí của ông ấy cho nên tôi không lưu tâm đến. Mà
thôi, nếu tính khí ông ta có bất thường thì mình cũng nên bỏ qua đi thôi.
Tôi hỏi:
- Tại sao thế?
- Một phần vì bản tính của ông ấy
thế, một phần vì ông ấy rất khổ tâm, ta không nên quấy rầy ông làm gì.
-Ông khổ tâm về việc gì?
- Lủng củng trong gia đình, một việc
ấy thôi.
Tôi lại nói:
- Nhưng ông ấy không có gia đình cơ
mà?
- Hiện thời thì không, nhưng trước
đây thì ông ấy đã có chứ- mà ít ra, thì cũng có bà con chứ. Ông anh cả ông ấy
đã mất.
- Anh cả ông ta à?
- Vâng. Khi ông anh mất, ông ấy đã
thừa hưởng gia tài, mới có chín năm nay thôi.
- Chín năm là lâu rồi. Chắc ôn
gthương anh lắm cho nên ông mới khó nguôi như thế?
- Có lẽ không phải thế đâu. Tôi tin
là có sự hiểu lầm nhau.ông bố muốn Edward cũng giàu có như anh là Rowland, vì
vậy khi ông đến tuổi trưởng thành, ông bị đưa vào một tình huống khó xử để chia
các gia tài. Chuyện gì xảy ra thì tôi không bao giờ biết chính xác, nhưng tôi
chỉ biết là ông ta đau đaớn vì chuyện này vô cùng. Ông không bao giờ tha thứ
cho việc đã xảy ra và ông đã xích mích với gia đình, khiến ông sống bất ổn
trong nhiều năm rồi. Không bao giờ ông ở lâu tại Thornfield kể từ ngày ông anh
mất. Vả lại, ông không mấy thích sống ở đây.
Tôi lại hỏi:
- Mà tại sao ông ta lại không thích
sống ở đây nhỉ?
- Có lẽ ông cho là ở đây buồn.
Câu trả lời có vẻ cho qua chuyện,
như muốn che giấu một cái gì mà bà Fairfax không thể, hay không muốn nói ra cho
tôi biết, nhất là về nỗi khổ tâm của ông Rochester. Bà ấy bảo có chuyện bí mật
trong đời của ông chủ, và chuyện bà biết thì mọi người cũng biết rồi. Rõ ràng là
bà muốn tôi bỏ qua chuyện ấy, và tôi đành phải vậy chứ biết sao.
Chương
12 . Cá Tính Con Người
Nhiều khi tôi ít gặp ông Rochester.
Buổi sáng, ông thường bận, buổi chiều, nhiều ông khác mời đi và thường thì họ
đến ở lại dùng cơm với ông. Khi bàn chân của ông đã khá hơn, ông lại cưỡi ngựa
thật nhiều và thường về nhà khi trời đã tối đen.
Một buổi tối ẩm ướt có mấy người bạn
đến dùng cơm với ông, ông cho gọi tôi mang tập tranh vẽ của tôi đến cho ông, để
ông cho họ xem. Khi họ cáo từ về sớm để dự một cuộc họp mặt ở Millcote, thì ông
Rochester không đi với họ. Có tin báo ông muốn gặp Adela và tôi.
Tôi chải tóc cho Adela thật gọn ghẽ
- còn phần tôi thì bao giờ cũng bện tóc để khỏi lòa xoà xuống - rồi chúng tôi
xuống lầu.
Adela được cho qùa liền, mặc dù đã
trễ mấy hôm. Bé lập tức ngồi xuống mở cái hộp lớn ra, tấm tắc khen. Bà Fairfax
cũng được mời đến để chia vui, qùa đủ thứ, nào là tơ lụa, nào là ngà voi và các
vật dụng ở trong hộp.
Ông Rochester quay sang tôi:
- Cô Eyre này, cô vừa làm cho khách
khứa của tôi rất hài lòng qua những bức tranh của cô. Bây giờ thì đến lượt tôi,
tôi cũng phải được thỏa mãn chứ. Xin cô xích ghế lại gần chút nữa, ở đây tôi
không thấy cô rõ.
Ông Rochester trông có vẻ khang
khác-không nghiêm trang mà cũng không phiền muộn. Chắc ông sảng khóai vì mới ăn
xong. Tôi làm theo ý của ông mặc dù tôi thích ngồi trong bóng tối hơn. Ông
Rochester đã có cái lối ra lệnh như thế, và tốt hơn là nên tuân lời ông ngay.
Ông vẫn đưa mắt nhìn lò sưởi hồi
lâu, ánh sáng trong lò làm nổi bật các đường nét rắn rỏi của ông- đôi mắt dịu
hiền. Bỗng ông đột ngột quay lại và thấy tôi đang nhìn ông
- Cô Eyre, tôi trông không đẹp trai
phải không?
Có lẽ tôi nên nói lấy lòng ông ta
thì hơn, đằng này, không hiểu sao tôi lại nói:
- Dạ!
- Tốt, cô trả lời không suy nghĩ thế
là tốt. Cô ngồi đấy yên lặng, trang nghiêm, giản dị, hai bàn tay vòng lại ở
trước, và khi tôi hỏi, cô trả lời nhanh như cắt! Cô muốn nói gì thế?
- Thưa ông, tôi thật tình mà thôi.
Tôi xin lỗi ông. Đáng lý ra tôi phải nói khác với cảm nghĩ của tôi, haylà tôi
phải nói sắc đẹp không quan trọng, hay là cái gì đại loại như thế
-Thật vậy, sắc đẹp không quan trọng.
Nhưng cần quái gì, tôi như một qủa bóng cao su thô ráp xù xì. Vào tuổi cô, tôi
cũng có những tình cảm tế nhị hơn, nhưng công danh sự nghiệp đã làm cho tôi cằn
cỗi. Có lẽ cũng còn một nơi nhạy cảm đấy, đâu đó ở trong tim tôi, nhưng không
dễ gì tìm thấy.
Ông đứng dậy, bước đến đứng trước lò
sưởi, tựa cánh tay lên bệ đá thạch anh, dáng thư thái. Ông nói:
- Đêm nay tôi cảm thấy muốn nói
chuyện, vì vậy tôi cho mời cô đến để nói cho vui. Ngọn lửa trong lò và con chó
Pilot chỉ là bạn bình thường. Bà Fairfax và Adela có khá hơn đôi chút. Tôi muốn
biết hơn về cô, hãy chọn đề tài để nói đi.
Tôi ngồi yên và không nói lời nào.
Tôi nghĩ:"Nếu ông ta chọn mình để tâm sự, nếu ông mong đợi mình nói năng
hay ho, thì chắc là ông đã chọn nhầm người rồi".
Ông ta nghiêng đầu về phía tôi và
nhìn thẳng vào mặt tôi, ông nói:
- Cô câm à, Cô Eyre? Cô cứng đầu ư?
Đúng đấy, lại còn lo âu nữa. Cô Eyre, tôi xin lỗi nhé. Đúng ra là tôi không
muốn cư xử với cô như kẻ bề dưới của mình. Giữa cô và tôi có khoảng cách 20 năm
tuổi tác và vô số kinh nghiệm của cuộc đời, thế nhưng tôi lại tha thiết yêu cầu
cô bỏ chút thời giờ để chuyện trò với tôi, để tôi có thể xua đuổi đi những tư
tưởng phiền muộn đang dày vò tôi.
Ông đứng thẳng người, rồi lại nói
tiếp:
- Cô Eyre à, vào tuổi cô, tôi cũng
giống cô lắm. Bản chất của tôi là tốt, nhưng hoàn cảnh ngoài đời đã biến tôi
thành kẻ tội lỗi.
Thế rồi chúng tôi nói chuyện với
nhau theo cách mà trước đây chưa bao giờ hiểu nổi, ông ta thì khó hiểu, cứ cố
kể cho tôi nghe qúa khứ đã làm cho ông khốn đốn, mặc dù tôi chẳng thấy có dấu
hiệu nào cụ thể cả. Còn tôi, thì tôi lại lấy cái đạo lý giản dị hơn của nếp
sống bình lặng của tôi để khuyên giải ông, hầu làm ông nhẹ bớt nỗi sầu
Cuối cùng thì ông bảo tôi:
- Cô Eyre này, số phận đã xử tệ với
tôi, tôi không đủ khôn ngoan để giữ mình bình tĩnh. Tôi trở nên thất vọng, tôi
buông xuôi, sa đọa. Tôi cầu Chúa cho tôi đủ sức mạnh. Ăn năn là thuốc độc của
đời người, cô Eyre à. Khi đã có ý đồ phạm tội thì ăn năn xũng chẳng có ích gì
Tôi nói:
- Nhưng ăn năn hối cải cũng được xem
là phương cách để sửa chữa tội lỗi mà, thưa ông!
- Không được đâu, cô Eyre à. Chỉ có
sửa đổi cuộc sống mới cứu vãn được. Tôi đủ nghị lực để làm việc đó, nhưng nghĩ
ra thì nào có ích gì, tôi đang bị nguyền rủa và cả một gánh nặng đang đè lên
người tôi. Vả lại, vì tôi không được hạnh phúc, cho nên tôi có quyền vui chơi
chứ, cho dù tôi phải trả gía thật đắt.
Tôi chỉ trả lời:
- Như vậy thì ông sẽ bị sa đọa thêm
nữa
Mặc dù câu chuyện đã làm tôi bực bội
cả người, tôi cũng không tài nào không nói thêm với ông rằng:
- Ông đã bảo vì hoàn cảnh cho nên
ông không trở thành người tốt được, ông lại luyến tiếc ân hận cho những sai sót
của mình, việc này thì ai ai cũng gặp hết. Tôi thì chắc rằng, nếu ông cố gắng
hết mình tương lai sẽ tươi sáng thôi, và ông sẽ có những tư tưởng, nhữnghành
động đẹp đẽ hơn và ông sẽ hạnh phúc hơn
- Cô nói đúng qúa, cô Eyre à. Ngay
bây giờ tôi đang vạch ra những quyết định đúng đắn đây, và tôi tin những quyết
định này sẽ trường tồn. Cô đi đâu đấy?
- Tôi cho Adela đi ngủ, đã qúa giờ
rồi.
- Cô sợ tôi vì tôi nói toàn chuyện
bí ẩn cả, phải không?
- Lời lẽ ông khó hiểu qúa, thưa ông,
nó gây cho tôi nhiều bối rối, nhưng qủa thật tôi không sợ. Tôi chỉ mong ông
đừng nói chuyện vô nghĩa nữa thôi.
Ông ta nói:
- Nếu cô đã mong muốn như vậy thì
thôi, tôi sẽ trang nghiêm, im lặng để khỏi lầm lẫn, để khỏi nói lên những câu
vô nghiã nữa. Mà tuồnh như chưa bao giờ cô cười cả, phải không cô Eyre? Luật lệ
khắc khe của Lowood vẫn còn đeo đẳng theo cô. tôi hy vọng kể từ nay cô phải học
cách sống tự nhiên với tôi, đừng nghi thức kiểu cách như tôi. thỉnh thoảng tôi
lại có cảm tưởng như cô như một con chim trong ng, và nếu được thả ra nó sẽ
tung cánh bay cao đến tận mấy tầng mây. Cô đi chưa?
- Thưa ông, đã chín giờ rồi
Không cần, cô hãy đợi một chút nữa.
Adela đi tìm Sophie để thử cái áo choàng mới màu hồng rồi. Thế nào cháu cũng
trở lại đây trong chốc lát thôi.Thế nào rồi tôi cũng thấy lại hình ảnh của
Celine Varens như khi nàng xuất hiện trên sân khấu. Tôi lại bị xúc động rồi. Cô
hãy nán lại đợi Adela về.
Tiếng chân của Adela vang lên, bé
nhảy nhót qua phòng khách. Rồi cháu vào phòng, người thay đổi hẳn, như ông đã
đoán trước.
Chiếc áo khiêu vũ nhỏ bằng lụa hồng,
rất đẹp và rất ngắn, đã thay cho chiếc áo màu nâu cháu mặc trước đó. Một vòng
nụ hoa hồng trên đầu, chân thì mang tất lụa dài, giày sa tanh nho nhỏ. Xòa áo
ra, cháu đang nhẹ nhàng nhảy qua phòng, tiến đến chỗ ông Rochester đang đứng,
rồi cháu quay vòng trên đầu nhón chân trước mặt ông và qùy một chân ngồi thụp xuống.
Cháu nói rất ngọt ngào và ngây thơ:
- Thưa bác, cháu xin cám ơn lòng tốt
của bác ngàn lần.
Cháu đứng dậy, hỏi ông:
- Thưa bác, như vậy có giống má
thường làm không?
Ông Rochester trả lời:
- Giống, giống lắm. Và cũng giống
khi mẹ cháu biết cách moi vàng trong túi một người Anh
Rồi trong khi Adela nhảy nhót về
phòng ngủ thì ông lại quay sang tôi:
- Trong qúa khứ, tôi cũng đơn giản
lắm, cô Eyre ạ! Giống như cô, tuổi trẻ của tôi trong trắng vô cùng. Nhưng rồi
đứa bé người Pháp đã đến với tôi, mặc dù tôi có muốn hay không. Tôi giữ nuôi nó
như là một hành vi chuộc tội, như là một việc thiện. Hôm nào tôi sẽ giải thích
cho cô rõ. Bây giờ thì xin chúc cô ngủ ngon.
Ông Rochester đã giải thích cho tôi
rõ thật. Nhưng mãi cho đến mấy ngày sau, khi tình cờ ông gặp tôi và Adela ngoài
sân đất. Trong lúc Adela đang chơi với con chó Pilot và qủa bóng thì ông mời
tôi đi dạo một vòng dưới hàng cây trong sân.
Ông bắt đầu kể cho tôi nghe rằng
Adela là con gái của một vũ nữ người Pháp, tên là Céline Varens, người ông yêu
mến. Ông cũng tưởng là cô ta yêu ông, cô ta đã tiếp nhận các qùa tặng của ông
hết sức ưu ái và tỏ ra mến phục ông, mặc dù ông xấu trai.
Ông nói tiếp với tôi:
- Cô Eyre à, tôi tưởng mình được
yêu, tôi bèn cho cô ả nào kim cương, áo quần, tôi tớ và cả một chiếc xe- thực
ra tôi bắt đầu phá sản như đa số những người khác trước đó- và cũng như họ, tôi
gánh lấy số phận của một kẻ cuồng si. Một buổi tối tôi đến khách sạn nàng ở thì
Céline đã đi khỏi. Thời giờ trôi qua, tôi bước ra bao lơn, đốt điếu thuốc xì
gà, y như bây giờ đây.
Ông ngừng lại một lát, phà một ngụm
khói thuốc vào không khí mát lạnh. Ông nói tiếp:
- Khi tôi đứng đấy, tôi chợt nghe
tiếng vó ngựa, tôi nhìn ra, tôi thấy chiếc xe mà tôi cho nàng đang dừng lại.
Tôi thấy bàn chân nhỏ nhắn của Céline bước ra khỏi xe, đằng sau nàng một người
khác bước ra rồi cả hai đi vào khách sạn.
Ông im lặng đi một lát rồi nói tiếp:
- Cô thì không bao giờ thấy ghen,
phải không cô Eyre? Dĩ nhiên là không vì có bao giờ cô yêu đâu. Nhưng tôi báo
cho cô biết rằng, một ngày nào đó cô cũng phải xông xáo vào đời, nếm đủ mùi
đời. Hoặc là cô gặp phải cảnh gian nan khổ cực, hoặc là cô được che chở, may
mắn, được hưởng một cuộc sống thanh bình - như tôi bây giờ đây.
Tôi hỏi ông:
- Thế ông vẫn đứng ở bao lơn khi họ
vào phòng ư?
Ông Rochester đáp:
- Thoạt tiên thì tôi định trốn đâu
đó để nghe họ nói gì. Thật là lạ lùng, làm sao tôi lại có thể kể những việc này
cho cộ nghe và cũng thật lạ là tại sao côlại nghe một cách bình tĩnh như vậy,
như là một chuyện bình thường nhất trần đời. Đúng thế, họ vào phòng. Cô nàng
thì quần áo sa tanh bóng loáng, nữ trang lộng lẫy - dĩ nhiên là qùa tôi tặng -
còn anh chàng thì đóng bộ đồng phục sĩ quan. Tôi biết hắn rất rõ, và vì tôi qúa
khinh bỉ hắn cho nên tôi không thèm ghen. Tình yêu của tôi đối với Céline chấm
dứt ngay từ lúc ấy - nàng không xứng đáng với tình yêi của tôi nữa. Tôi bước
vào phòng giáp mặt họ, vạch cho họ thấy tính chất bỉ ổi của họ, rồi thách đấu
với hắn. Sáng hôm sau, tôi làm cho hắn bị thương khi giao đấu - tôi nghĩ mình
làm thế vì danh dự mà thôi.
Ông im lặng một lát rồi nói tiếp:
- Mấy năm sau, Céline bỏ con, chạy
sang ý với một người khác, một ca sĩ. Cô ta bảo tôi là cha của Adela, nhưng sự
thật không phải thế. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận đứa bé xấu số và đem về nhà nuôi,
hy vọng rằng đóa hoa Pháp bé nhỏ có thể đơm hoa thơm trong vườn nước Anh.Bà
Fairfax đã tìm thấy cô để dạy cháu - nhưng bây giờ thì cô đã rõ Adela là con
ngoại hôn của một vũ nữ nhạc kịch, thì chắc cô thấy nhiệm vụ của mình có khác?
Tôi đáp:
- Dạ không đâu, chắc chắn là không.
Bây giờ biết cháu không có cha mẹ- mẹ bỏ đi, ông thì không phải là cha cháu -
tôi lại càng gắn bó với cháu hơn. Cháu không đáng trách vì lỗi lầm của mẹ cháu,
hay của ông. Tôi sẽ xem cháu như một kẻ mồ côi cô độc, và tiếp tục là một người
bạn của cháu.
Sau khi ông Rochester đã vào nhà,
tôi ở lại ngoài vườn lâu hơn với Adela và với Pilot, sung sướng khi nghe tiếng
cười ngây thơ của bé trong lúc bé chơi ván cuối cùng trước khi vào nhà dùng
trà.
Chương
13 . Những Chuyện Kỳ Lạ
Thưa qúy vị độc giả, nhiều tuần đã
trôi qua, có nhiều việc xảy ra thật kỳ lạ và thật hãi hùng, khiến tôi phải căng
thẳng cả người, phải lo âu cho nên tôi chỉ xin kể ra vài việc cụ thể mà thôi,
phần còn lại, xin qúy vị tùy nghi tưởng tượng ra hay phỏng đoán lấy.
Tối hôm ấy, sau khi nghe xong câu
chuyện về mẹ của Adela, tôi đi ngủ với lòng sung sướng vô cùng, vì ông ấy đã
hết lòng tin tưởng tôi. Càng ngày ông càng bớt buồn phiền, và ông thường mỉm
cười khi gặp tôi. Càng ngày ông càng nói năng với tôi thoải mái, và thái độ của
ông đối với tôi đã lôi tôi đến gần ông như một người thân thuộc, hơn là người
làm với ông chủ. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì cuộc đời đã có phần ưu ái đối với
tôi, sức khỏa tôi khá lên, tôi thấy mình khỏe ra và tự tin hơn.
Nhưng rồi một đêm, một việc không
ngờ đã xảy ra khiến tôi hốt hoảng. Tôi đang nằm trên giường, bỗng một tiếng
động kỳ lạ đánh thức tôi dậy. Hình như có ai đang đưa tay nắm núm cửa phòng
tôi, rồi lại sục sạo mò mẫm ngoài hành lang. Tôi gọi to lên:"Ai
đấy?", nhưng không có ai trả lời. Tôi sợ run lên.
Rồi tôi nhớ ra đấy có thể là do con
chó Pilot, nhiều lần vì cửa bếp để mở, nên nó chạy ra và lên nằm ở tấm đệm chùi
chân trước cửa phòng ông Rochester. Có nhiều buổi sáng, tôi thấy nó nằm ở đấy.
Nghĩ vậy, tôi yên tâm nằm ngủ lại.
Gần ngủ thì bỗng lại có tiếng động, làm tôi thức dậy. Có tiếng cười khẽ dữ dằn
ngay trước cửa phòng: tiếng cười kỳ lạ, điên loạn, như trong cổ họng. Tôi lại
nghe có tiếng chân ngườ đang bướ`c lên tầng ba. Tôi nghe có tiếng cửa mở ra,
đóng lại rồi tất cả đều yên lặng.
Tôi nghĩ bụng:" Chắc là chị
Grace Poole? Chắc chị ta bị ma ám?"Tôi mặc nhanh áo quần vào và định chạy
đi tìm bà Fairfax, tôi run rẩy khi mở cửa phòng.
Tôi thấy một cây đèn cầy đang cháy ở
trên nền hành lang ngoài phòng của tôi. Thật lạ lùng lắm rồi, nhưng thật lạ hơn
nữa là tôi thấy không khí trong hành lang tối lại, như là có đầy khói.Tôi nhìn
quanh và chợt nhận ra có mùi khét, chắc là đang có cháy lớn ở đâu đây.
Tôi nghĩ ngay đến bà Fairfax và chị
Grace Poole, tôi lại thấy có khói xuất phát từ phòng ông Rochester, lập tức tôi
chạy vào phòng ông, vì qúa khẩn cấp tôi bất chấp tất cả. Những tấm màn quanh
giường ông đang bốc cháy. Tôi la lên:
- Dậy đi, dậy!
Tôi lay ông, nhưng ông chỉ trở mình
rồi ú ớ trong miệng mà thôi.
Không để mất thì giờ, tôi chạy đến
bồn nước rửa của ông - may thay nó đã đầy nước - tôi bưng lên và xối cả vào
giường. Tôi lại chạy vội về phòng mình, xách cái vò nước của tôi qua, xối hết
lên ngọn lửa.
Cuối cùng ông Rochester mới tỉnh
dậy. Mặc dù trời tối, tôi cũng biết chắc là ông đã tỉnh rồi, bởi vì tôi nghe
ông nguyền rủa khi thấy mình ướt nhem
Ông la lên:
- Lụt hay sao đây?
Tôi đáp
- Không phải lụt, mà là hỏa hoạn.
Mời ông dậy cho, tôi đi lấy cho ông cây đèn.
Khi tôi trở lại thì ông đã mặc chiếc
áo ngủ. Tôi kể vắn tắt cho ông nghe sự thể đã xẩy ra, và tôi hỏi ông có nên
đánh thức gia nhân dậy hay không.
- Không, xin cô hãy bình tĩnh cho.
Cô hãy ngồi vào ghế kia đi.Mặc cái áo choàng này vào cho ấm. Tôi đi lên lầu một
lát, tôi mang theo cây đèn. Cô cứ ngồi yên đấy, và chớ gọi ai cả.
Tôi ngồi nhìn ánh đèn xa dần, rồi
tôi nghe bước chân trên hành lang lầu ba. Ông đi khá lâu, tôi thấy người mệt
mỏi và lạnh. Một hồi lâu ông cầm đèn trở về phòng. Ông đặt cây đèn lên giá để
rửa mặt, rồi ngồi xuống nói:
- Tôi đã tìm ra nguyên do rồi. Đúng
như tôi đã dự kiến
- Thưa ông sao ạ?
Ông đứng khoanh tay trước ngực, nhìn
nền nhà.Ông nói:
- Không biết cô đã nói với tôi cô
thấy gì khi cô mở cửa phòng cô chưa nhỉ?
- Tôi chỉ thấy cây đèn cầy trên nền
nhà
- Nhưng cô có nghe tiếng cười. Trước
đó cô đã nghe rồi chứ?
- Vâng, cái bà thêu may đấy - chị
Grace Poole ấy - chị ta cười như vậy đó. Trông chị ta thật lạ kỳ
- Vâng. Cô thấy vậy thôi. Mà chị ấy
cũng kỳ thật. Grace Poole - tôi phải nghĩ cách để đối phó, sáng mai tôi sẽ tính
việc này.
Ông chỉ cái giường rồi nói tiếp:
-Bây giờ cô về ngủ đi. Tôi sẽ qua
đêm ở chiếc trường kỷ trong thư viện.
- Thế thì xin chúc ông ngủ ngon.
Ông chặn tôi lại rồi nói:
- Trước khi cô đi ra, tôi phải cám
ơn cô cái đã. Cô đã cứu mạng sống của tôi! Lẽ nào cô đi qua mặt tôi như một kẻ
xa lạ vậy. Nào - ít ra chúng ta cũng bắt tay chứ.
Ông chìa tay ra. Tôi đưa tay cho
ông, ông nắm lấy bằng cả hai bàn tay của ông:
- Jane, cô đã cứu mạng sống của tôi.
Tôi vui mừng được mắc nợ cô,món nợ lớn lao như vậy
Ông ngưng lời, nhìn tôi chằm chằm.
Tôi nói:
- Một lần nữa chúc ông ngủ ngon,
thưa ông.Không có nợ nần, bổn phận gì giữa chúng ta cả.
Nhưng ông lại cứ nói:
- Tôi biết cô sẽ làm điều tốt cho
tôi. Lần đầu tiên gặp cô, tôi đã đọc được điều này trong mắt cô.Dƒng dấp ấy, nụ
cười ấy- ông nghĩ một lát- đã đem lại cho tôi niềm vui. Người ta thường nói đến
những tình cảm tự nhiên, người ta lại thường kể chuyện các vị tiên nhân hậu đến
giúp kẻ mắc nạn, trong các chuyện ngụ ngôn dân gian đều có sự thực chứ. Thôi
xin chúc cô ngủ ngon, người bảo vệ tuyệt vời của tôi.
Tôi thấy có một ánh lửa kỳ lạ trong
mắt ông, một nghị lực mới tiềm ẩn trong giọng nói của ông. Tôi đáp:
- Tôi thật hài lòng vì tình cờ thức
dậy.
Tôi quay người dợm bước nhưng ông
vẫn nắm chặt lấy tay tôi khiến tôi không tài nào đi được. Chúng tôi lắng nghe,
rồi như có điềm báo trước, tôi bảo:
- Hình như có tiếng của bà Fairfax
- Đúng đấy. Thôi cô về phòng đi...
Tôi trở về giường cố ngủ nhưng không
tài nào ngủ được. Mãi cho đến sáng, tôi cứ thấy mình như đang bồng bềnh trên
sóng nước, tâm trí rối bời giằng co giữa hy vọng và lo âu, niềm vui và nghi
ngại
Không cách nào ngủ được, tôi bèn
trỗi dậy lúc trời chưa sáng.Khi đi xuống lầu, tôi vừa muốn gặp ông Rochester,
lại vừa sợ. Tôi muốn nghe ông nói, mà lại sợ bắt gặp đôi mắt của ông. Nhưng
buổi sáng đã trôi qua như thường lệ, tôi vẫn dạy Adela học bình thường.
Hôm sau, có lần tôi đi qua phòng ông
Rochester, cửa đang mở và tôi nhìn vào thì thấy chị Grace Poole đang ngồi may
bên cửa sổ. Chị nhìn lên và thấy tôi.
Tôi nghĩ bụng:" để trắc nghiệm
chị ta coi sao". Tôi nói:
- Chào chị Grace. Có gì xảy ra ở đây
à? Sao các màn giường tháo xuống hết cả thế
- Đêm kia ông chủ ngủ quên khi đọc
sách trên giường. Mấy tấm màn bắt lửa cây đèn cầy. Tí nữa thì ông bị chết cháy
trên giường rồi đấy
Tôi nhìn chị nói:
- Chuyện kỳ thật: không ai nghe ông
kêu cứu sao? Ông không đánh thức mọi người dậy à?
Hình như chị chọn lời lẽ rất kỹ
trước khi trả lời:
- Thưa cô, cô biết là gia nhân ngủ
khá xa chỗ ông chủ, còn bà Fairfax thì bảo là bà không nghe gì hết. Người già
thường ngủ say. Chị dừng lại một chút rồi đổi giọng hỏi tôi:
- Nhưng có lẽ cô có nghe chứ? Thưa
cô?
- Tôi có nghe, thoạt tiên tôi cứ ngỡ
là Pilot, nhưng chó làm sao biết cười, tôi qủa quyết với chị là tôi nghe tiếng
cười, một tiếng cười rất kỳ lạ
Chị Grace Poole vẫn bình thản đưa
đều mũi kim, chị nói:
- Chắc không phải là ông chủ cười
rồi, thưa cô, vì ông đang gặp tai nạn mà. Chắc là cô nằm mơ đấy.
Chúng tôi nói chuyện thêm chút nữa,
nhưng tôi không thu được những lời giải thích thỏa đáng cho sự việc xảy ra vào
đêm hôm ấy. Hoặc là chị Grace không biết gì hết, hoặc là chị đã cố tình che
giấu sự thực mà tôi không nghĩ ra được. Tôi thích thú khi đi xuống lấu để dùng
trà, bởi vì tôi sẽ có cơ hội gần gũi với ông Rochester hơn.
Bà Fairfax đã thắp đèn ở trong
phòng, bà kéo màn cửa sổ lại khiến căn phòng trở nên ấm cúng. Bà nhìn ra khu
vườn đang tối lại, bà nói:
- Hôm nay đẹp trời, ông Rochester đi
chơi suốt ngày
Tôi nói với bà, cố giữ cho giọng nói
của mình bình thản
- Đi chơi à? ông Rochester đi đâu?
Tôi không biết ông ấy đi khi nào đấy
- Ông đi ngay sau khi ăn điểm tâm
xong. Ông đến chơi với ông Eshton ở trại Leas xa hơn Millcote mười dặm. Chắc là
có buổi tiệc gia đình ở đó: gồm ông Lord Ingram, ngài George Lynn, đại tá Dent
và nhiều người khác nữa.
Tôi hỏi:
- Bà đoán khi nào ông về?
-ít ra là sau một tuần. Khi qúy ông
ấy đã gặp nhau thì họ không vội gì chấm dứt cuộc vui sớm. Ông Rochester cũng
được các bà ưu ái, tôi chắc là vì ông giàu
- Có nhiều bà ở trại Leas không?
- Có bà Eshton với ba cô con gái -
họ là những thiếu nữ rất lịch sự. Rồi có các cô Honourable Blanchevà Mary
Ingram, hai chị em rất đẹp. Tôi nhớ cách đây sáu năm, ông Rochester có tổ chức
một buổi dạ vũ và có mời cô Blanche, lúc ấy cô 18 tuổi.Cô không tưởng tượng
được phòng khách hôm ấy trang hoàng rất lộng lẫy và đèn đuốc sáng trưng.Tôi e
phải có tới 50 ông bà tham dự, tất cả họ đều xuất thân từ các gia đình danh giá
nhất trong vùng. Cô Blanche Ingram là hoa hậu của buổi dạ vũ ấy
Nghe bà ta ca tụng cô Ingram nào sắc
đẹp này, nào thành tích này, cuộc sống xa hoa vui vẻ này, tôi lại quay về với
tôi, về với sự ngớ ngẩn của tôi.
Tôi nghĩ bụng:" Mày! Mày nghĩa
lý gì với ông Rochester? Mày lấy lòng ông ấy ư? Mày lại dám hy vọng một việc
như vậy ư- con khùng mù quáng tội nghiệp! Rồi trong tương lai mày mơ tưởng ông
ấy chú ý đến mày à? Hãy nhớ là ông ta sẽ chinh phục được tình yêu của một người
vừa xinh đẹp lại vừa giàu có như cô Ingram. Mày tưởng ông ta phí thời giờ để
nghĩ đến mày à?Đồ ngốc!Đồ khùng! Che mặt lại đi kẻo xấu hổ".
Rồi một tuần trôi qua, vẫn không có
tin tức gì về ông Rochester cả. Mười ngày, vẫn không thấy ông về. Bà Fairfax
bảo rằng,bà chắc là ông đã từ trại Leasđi thẳng đến Luân Đôn và qua lục địa,
rồi có thể ở đấy cả năm trời. Trước đây đã nhiều lần xảy ra như vậy rồi.
Khi tôi nghe thế, lòng tôi thắt lại,
tôi đâm ra chán chường đau đớn. Nhưng rồi tôi cố gắng trấn tĩnh lại, nhớ lại
cái vị trí của mình ở ThornfieldHall. Tôi lại tự nhủ:" Mày không có nghĩa
lý gì với ông chủ Thornfield Halll đâu. Ôhg với mày đâu cùng giai cqấp, đâu có
liên her65 trang trọng nào giữa mày và ông ấy. Hãy nhớ tầng lớp của mày trong
xã hội, hãy có lòng tự trọng. Thương yêu không đúng chỗ chỉ chuốc lấy sự khinh
bỉ của người đời mà thôi"
Ông Rochester vắnbg nhà như vậy được
hai tuấn thì bưu điện đem đến cho bà Fairfax một phong thư. Vừa xé phong bì bà vừa
bảo:
- Thư của ông chủ đây
Chúng tôi đang dùng điểm tâm. Tôi
đang uống cà phê. Cà phê rất nóng cho nên sắc mặt tôi thay đổi hay vì một lý do
gì khác? Tôi chỉ biết tay tôi run run đến nỗi tôi đã làm đổ cà phê ra đĩa mà
cũng chẳng hay biết gì
Tôi nghe bà Faifax nói:
- Rồi, chúng ta có lắm việc rồi đây.
Ông Rochester báo sẽ trở về vào thứ năm tới, mà không phải một mình đâu. Tôi
không biết có bao nhiêu người khả ái ở trại Leas sẽ đến, nhưng chúng ta cứ
chuẩn bị những phòng ngủ đẹp nhất để đón họ. Các phòng ở tầng trệt cũng phải
lau chùi dọn sạch sẽ hết. Tôi phải huy động thêm các đầu bếp ở Millcote hay ở
đâu đó đến để phụ giúp. các cô các bà sẽ mang theo tôi tớ, các ông mang theo
người hầu, thế là cả một nhà chật ních người!
Bà Fairfax vội vã ăn điểm tâm, rồi
bà hấp tấp đi chuẩn bị công việc.
Chương
14 . Ông Manson
Thornfield Hall mở tiệc tưng bừng
trong nhiều ngày, bao nhiêu ngày có tiệc là bấy nhiêu ngày bận rộn. Thật khác
xa làm sao với ba tháng đầu tiên tôi sống dưới mái nhà này, nó yên tịnh và cô
liêu! Bây giờ thì đâu đâu cũng có người, náo nhiệt suốt ngày, cả trên lầu lẫn
dưới tầng trệt.
Nhà bếp, phòng gia nhân, phòng đợi,
đâu đâu cũng sinh động và nhộn nhịp. Các phòng khác, thư viện cho đến phòng ăn,
chỉ vắng người vào lúc tối trời. Gặp khi trời mưa, người ta lại tổ chức vui
chơi trong nhà, các trò chơi thay đổi luôn. Nào là trò đố chữ vui, mặc áo quần
hóa trang, khiêu vũ, bi da và các trò chơi khác.
Tôi đã bắt đầu yêu ông Rochester,
chỉ khổ nỗi là ông ta không chú ý đến tôi nữa. Tôi nhận ra ông ấy đang lưu tâm
đến cô Blanche Ingram, cho nên ông không để ý đến tôi là phải.
Cô Ingram có địa vị, học thức như
ông Rochester. Còn tôi thì không. Không có gì lay chuyển được tình yêu của tôi,
nhưng tôi cảm thấy nhiều vô vọng, bởi vì xem qua thì thấy ông chủ và cô vợ
tương lai của ông là linh hồn của buổi tiệc.
Cho nên những ngày tiệc trôi qua,
tôi chỉ biết nhìn sự việc xảy ra trước mắt và chỉ đóng vai trò chủa một nữ gia
sư trong nhà của một người qúy tộc mà thôi- chứ không hề mong mỏi tham gia với
họ.
Một buổi tối, một chiếc xe đến đỗ
trước mặt nhà, một ông khác mới bước ra. Ông từ nước ngoài đến, tên là Manson.
Ông tỏ ra quen biết rất thân với ông Rochester.Người ta bảo hai người đã gặp
nhau rất lâu ở tận bên quần đảo Tây ấn, vì ông đã nhắc đến việc bạn mình không
thích cái nóng và sự ẩm ướt của quần đảo.Tôi đã biết ông Rochester đi du lịch ở
Châu Âu rất nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe ông đã đi thăm một chỗ xa
xôi như thế này
Đêm đó ông Manson và ông Rochester
ngồi nói chuyện khá lâu trong thư viện. Tôi đi nằm khá lâu mới nghe ông
Rochester vui vẻ nói:" Ngã này, Manson. Phòng cậu đây", tôi nghe
tiếng chân của họ đi lên phòng ngủ dọc hành lang. Giọng nói của ông làm cho tôi
thư thái trong người, và tôi thiếp đi khi nào không biết.
Tôi quên kéo màn khi đi ngủ, cho nên
nửa khuya ánh trăng lọt vào, chiếu lên giường đã đánh thức tôi dậy.Tôi đang mơ
màng, đưa tay kéo màn lại thì bỗng có một tiếng thét lớn làm cho tim tôi muốn
ngừng đập
Tiếng thét ở đâu trên lầu ba- ngay
trên đầu tôi- vâng, trong phòng ngay trên phòng tôi- tôi nghe có tiếng vật lộn
rồi một giọng la lên:"Cứu tôi với, cứu tôi với", giọng la kêu cứu
nhiều lần:"Không có ai hết sao?Ông Rochester đâu? Rochester đến giúp tôi
với, trời ơi".
Có tiếng nhân người chạy dọc theo
hành lang, rồi chạy lên lầu.Tiếng chân chạy rầm rập trên tầng trên, tiếng người
té nhào, rồi lại im lặng. Tôi qúa khiếp hãi và lo âu, tôi mặc quần áo vào rồi
bước ra ngoài hành lang. Tất cả mọi người trong nhà đều dậy khi nghe tiếng kêu
cứu, và bây giờ họ đang tụm lại với nhau, hỏi han cái gì đã xảy ra.
Cánh cửa cuối hành lang bật mở, ông
Rochester tay cầm đèn bước ra. Ông nói với mọi người:
- Một gia nhân bị cơn ác mộng, thế
thôi. Chị ấy bị kích thích, gặp khi thần kinh rối loạn, chị ấy mắc phải thôi.
Xin về phòng hết đi, khi nào trong nhà đã ổn định và yên tĩnh trở lại, thì chị
ấy sẽ khỏi thôi
Ông la mắng người này, sai khiến
người kia để buộc tất cả phải trở về phòng mình.
Tôi trở về phòng và thay áo quần.
Tôi đã nghe tiếng la hét rất rõ, cho nên tôi chắc ông Rochester đã biạ chuyện
giải thích với mọi người, để che giấu một cái gì đó.Tôi đã nghĩ đúng vì không
lâu sau đó, tôi nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Tôi mở cửa thì thấy ông ta đang
đứng ở bên ngoài.
Ông bảo tôi:
- Tôi muốn cô giúp một tay. Đi lối
này. Đừng làm ồn
Tôi nhẹ nhàng đi theo ông không một
tiếng động, đi lên cái hành lang tối tăm của tầng ba đang xảy ra sự việc vừa
rồi
Ông thì thào nói với tôi:
- Cô có miếng xốp để lau chùi dưới
phòng không?
- Dạ có
- Có thuốc hít cho tỉnh người không?
- Dạ có
- Vậy cô xuống mang cả hai thứ lên
đây
Tôi nhanh nhẹn mang các thứ ấy trở
lại, đứng bên ông. Ông đút một chiếc chìa khóa vào ổ một cánh cửa nhỏ màu đen,
rồi ông ngừng lại hỏi tôi:
- Thấy máu cô có ngất xỉu không?
- Chắc là không, tôi chưa khi nào
ngất hết
- Cô đưa tay đây, bây giờ chúng ta
phải hết sức tỉnh táo
Ông nắm tay tôi rồi mở cửa căn
phòng.
Căn phòng này tôi đã thấy rồi, khi
bà Fairfax dẫn tôi đi xem toàn bộ ngôi nhà. Những bức tường đều trang hoàng
bằng vải bông cổ, nhưng lại tránh đi một bức, chứng tỏ rằng có một cánh cửa đã
được che giấu trước đây. Bây giờ thì cánh cửa này đã được mở ra, ánh sáng từ
trong phòng chiếu ra. Tôi nghe bên trong có tiếng gầm gừ kỳ lạ như tiếng chó
cắn nhau. Ông Rochester để ngọn nến xuống, ông bảo tôi:
- Cô đợi đây một chút
Rồi ông đi vào trong. Một tràng cười
chào đón, ban đầu thì ồn ào, nhưng sau dịu dần và khi nghe chị Grace Poole càu
nhàu gì đó, tiếng cười mới ngưng hẳn.Đúng rồi, chị ta ở đấy!Sau khi tôi nghe họ
nói chuyện với nhau nho nhỏ một hồi, ông Rochester lại bước ra và đóng cửa lại.
Ông bảo tôi:
- ở đây Jane
Tôi đi theo ông quanh chiếc giường
lớn kê ở giữa phòng có trang trí vải hoa. Bên cạnh chiếc giường có một người
đàn ông đang ngồi trong một cái ghế bọc nệm, đầu ông dựa ngửa ra đằng sau, mắt
nhắm nghiền lại. Nhờ ánh sáng ngọn đèn cầy, tôi nhận ra người khác lạ, chính là
ông Manson. Ông đã cởi áo ngoài, máu vấy đầy một bên áo sơmi và cánh tay của
ông.
Ông rochester bảo tôi:
- Mang cây đèn cầy đến gần đây
Tôi cầm cây đèn cầy đến, còn ông thì
tới bưng cái thau nước trên gía. Ông lại bảo:
- Cô bưng cái này
Tôi vâng lời. Ông lấy miếng xốp lau
chùi cái khuôn mặt bất động rồi đưa ống thuốc hít vào hai lỗ mũi để ông ấy hít
thuốc. Ông Manson từ từ mở mắt và rên rỉ
Ông Rochester cởi áo sơmi của ông
Manson ra, cánh tay và vai ông ta đã được băng lại, nhưng máu vẫn còn tươm ra.
ông Rochester lấy miếng xốp lau chùi những vết máu đi. Ông Manson hỏi, giọng
yếu ớt:
- Tôi có bị thương nặng kkhông?
Ông Rochester đáp:
-Không - chỉ trầy da mà thôi. Đừng
lo qúa, bạn!Cố gắng đi, tôi đi mời bác sĩ cho anh.Này, cô Jane!
- Dạ thưa ông có tôi.
- Tôi nhờ cô canh chừng ông này
trong vòng một hay hai giờ. Nếu máu còn chảy, cô chùi sạch đi. Nếu ông ấy yếu
qúa, cô cho ông ấy hít thuốc khỏe của cô đấy. Cô không được nói chuyện với ông
ấy- Richard này, nếu anh nói chuyện với cô ta, tính mạng củas anh sẽ rất nguy
hirểm đấy. Nếu anh động đậy mạnh qúa, tôi sẽ không chịu trách nhiệm về những
hậu qủa do anh gây nên đấy.
Ông Manson lại rên lên. ông tỉ ra
không dám động đậy tay chân. Chắc là ông sợ chrết.- hay có gì nữa không?-để làm
ông bất động. Tôi nắm lấy miếng xốp lau. Ông Rochester nhìn tôi một lát rồi
bảo:
-Cô nhớ đấy nhé. Tuyệt đối không
được nói chuyện
Rồi ông ra khỏi phòng
Tôi có một cảm giác kỳ lạ khi nghe
tiếng khóa mở cửa. Tôi đang ở trong căn phòng bí hiểm của lầu ba, màn đêm bao
phủ quanh tôi, tôi lại chăm sóc một bệnh nhân xanh xao vì mất máu, đang cách
một nữ sát nhân chỉ qua một cánh cửa. Thỉnh thỏang có bước chân kêu cót két,
tiếng gầm gừ lại nổi lên hay một tiếng rên dài, khiến cho da thịt tôi nổi gai
ốc.
Tôi suy nghĩ mông lung, lòng lo âu
vô cùng. Tội lỗi gì đây? Có gì bí mật không? Dưới khuôn mặt đàn bà ấy, vóc dáng
ấy đã che giấu một loại người gì?Người đàn ông này là ai? Cái gì đã lôi ông ta
tới đây? Tại sao ông ta lại ngoan ngoãn vâng lời ông Rochester đến thế? Và nói
chung thì tại sao ông ta lại đến đây?
Ông ta lại tiếp tục rên rỉ và có vẻ
qúa yếu, qúa bệnh, đến nỗi tôi sợ ông ta chết mất. Tuy vậy, tôi không được phép
nói chuyện với ông ta! Ngọn đèn cầy đã tắt, tôi thấy ánh bình minh đang lấp ló
ngoài cửa sổ. Chợt tôi nghe tiếng sủa của con Pilot ở xa, và ít phút sau ông
Rochester bước vào, dẫn theo ông bác sĩ. Ông nói với vị bác sĩ:
- Xin bác sĩ bắt tay ngay đi, tôi
mong bác sĩ làm sao trong vòng nửa giờ,bệnh nhân phải ăn mặc sạch sẽ và xuống
lầu bình an
Rồi ông quay lại hỏi ông Manson:
- Thế nào ông bạn, có đỡ không?
Ông ta trả lời yếu ớt:
- Tôi sợ qúa, cô ta đã định giết
tôi.
- Đừng nói bậy. Anh đã mất ít máu
nhưng trong vòng vài tuần, anh sẽ bình phục trở lại ngay. Bác sĩ à, xin bác sĩ nói
cho ông ta biết không có gì nguy hiểm cả
Ông bác sĩ thá băng ra, ông nói:
- Đúng vậy, không có gì nguy hiểm
đến tính mạng đâu, nhưng tôi phải cầm máu cho ông ta cái đã. Cái gì thế này?
Thịt trên vai bị rách toạc như dao cắt thế này? ồ, có cả dấu răng ở đây!
Ông Manson nói:
- Cô ấy cắn tôi. Cô ấy cắn tôi như
một con hổ cái, khi ông Rochester tước cái dao nơi tay cô ấy đi. Ôi, quá kinh
khủng!
Ông nhún vai rồi nói tiếp:
- Bởi vì tôi qúa chủ quan, tôi tưởng
cô ta không tấn công, ban đầu thấy cô ta bình tĩnh lắm kia mà!
Ông Rochester lại nói:
- Tôi đã báo trước với anh rồi mà.
Thật là điên kkhi đi thăm cô ta đêm nay- lại đi một mình nữa chứ. Đáng lý tôi
phải đi theo anh mới phải
Ông Manson nói:
- Tôi cứ tưởng nói chuyện với cô ta,
để cô đỡ hơn
Ông Rochester kiên nhẫn nói:
- Anh tưởng! Mà thôi, anh đau đớn
qúa rồi, tôi không nói đến nữa đâu. Thưa bác sĩ, mau lên đi. Mặt trời sắp mọc
rồi, phải đưa ông ta về ngủ chứ
-Sắp xong đây, thưa ông.Vai đã băng
bó kỹ rồi đấy. Nhưng còn vết thương khác ở cánh tay nữa.
Ông Manson lại nói trong cơn khiếp
hãi:
- Cô ấy hút máu tôi! Cô ấy bảo là cô
ấy sẽ hút hết máu trong tim tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên cảnh hãi hùng đêm
nay.
- Này Richard, đừng nhắc mãi đến lời
nói điên khùng của cô ta nữa. Anh sẽ quên hết việc này, khi anh đã trở lại
Jamaica bình an. Cứ coi như cô ta đã chết và đã được chôn cất hẳn hoi, con
người tội nghiệp ấy!
Rochester quay lại phiá tôi, đây là
lần đầu tiên từ khi ông ấy trở lại phòng này, ông bảo:
- Cô Jane, cô lấy chìa khóa này
xuống phòng tôi, cô mở ngăn tủ trên cùng, lấy cho tôi một cái áo sơmi sạch và
một cái khăn. Cô mang nhanh lên đây.
Ông bác sĩ và ông Rochester, mỗi
người một bên, giúp ông Manson mặc áo, khoác ngoài một cái áo choàng ấm, họ
lặng lẽ dìu ông xuống lầu.Một chiếc xe đỗ ngoài sân, một bác tài đang đợi bên
mấy con ngựa.
Tôi giữ cửa cho họ giúp bệnh nhân
bước vào xe, rồi ông bác sĩ vào ngồi bên cạnh. Ông Rochester đóng cửa lại:
- Xin bác sĩ trông chừng ông ấy
giúp, tôi sẽ cưỡi ngựa đến nhà ông một hay hai ngày sắp tới, để xem ông ta ra
sao. Thôi, xin chào Richard!
Manson chìa bàn tay lành ra bắt tay
ông:
- Rochester, cho người săn sóc kỹ cô
ấy. Đối xử với cô ấy cho tử tế nghe
Nước mắt chảy trên má ông ta
Ông Rochester đáp:
- Tôi làm hết sức mình. Trong qúa
khứ, tôi đã làm hết khả năng mình, và tôi sẽ tiếp tục làm như vậy trong những
ngày tới
Rochester quay lại khi chiếc xe vừa
chạy.Ông đóng mấy cánh cửa lớn của chuồng ngựa, cài thanh ngang lại, rồi ông
lẩm bẩm một mình:
- Lạy Chúa, xin cho con chấm dứt
được việc này.
Chương
15 . Lời Đề Nghị
Giữa mùa hè năm đó, trời đẹp lộng
lẫy khắp nước Anh. Bầu trời trong xanh, mặt trời chiếu sáng, thật hiếm khi thấy
được trên đất nước chúng ta.Thật giống như thời tiết mùa hè bên ý, bầu trời
trong xanh ấm áp, chim chóc di chuyển từ miền Nam đến định cư một thời gian ở
miền quê nước Anh.
Vào dịp lễ trung hạ, Adela đi ngủ
sớm sau khi đã đi nhặt dâu tây dại ngòai vườn. Tôi ngồi ngắm bé ngủ sau một
ngày mệt nhọc nhưng hạnh phúc của bé, rồi tôi ra vườn. Bây giờ là lúc dễ chịu
nhất, sương rơi mát lạnh trên mặt đất khô ráo dưới ánh nắng mặt trời suốt ngày.
Từ ngày ông Manson bị tấn công, đã
có lắm việc đổi thay. Eliza Reed đột ngột nhắn tôi về Gateshead, tôi ở lại đấy
hơn một tháng để giúp nuôi mẹ cô ấy. John Reed- tên hung thần thời thơ ấu của
tôi- đã chết ở luân đôn. Nghe người ta đồn thì hắn đã tự vẫn. Mẹ hắn đã bị xúc
động mạnh, đau đớn vì đứa con trai yêu qúy đã chết, lại khổ tâm vì nó nợ nần
như chúa chổm mà phải kết liễu đời mình.Trong lúc bà Reed nằm tê liệt trên
giường, thì tôi giúp việc nhà trong nhiều ngày, may thay là tử thần đã đến để
làm nhẹ bớt đau khổ của Bà.
Trước khi chết, bà Reed đã có lúc
tỉnh táo. Bà nói với tôi có hai lần bà xử sự sai với tôi, mà bây giờ bà rất hối
tiếc: một lần bà đã thất hứa với chồng khi hứa sẽ nuôi nấng tôi như con ruột
của bà, một lần khác đã giấu tôi một việc.Bà nói:
- Cháu đến cái hộp ấy, tìm cho mợ
cái thư ở trong đó.
Tôi làm theo lệnh của bà. Bà lại
bảo:
- Cháu đọc thư đi
Tôi đọc:
" Thưa bà
Xin bà vui lòng gửi cho tôi biết địa
chỉ của cháu gái tôi là Jane Eyre, và cho tôi biết bây giờ nó ra sao. Tôi có ý
định viết thư cho nó, yêu cầu nó đến ở với tôi ở Madeira. Nhờ ơn trên, tôi làm
ăn phát đạt và tôi vẫn còn độc thân, nên tôi muốn nhận nó làm connuôi của tôi,
và khi chết đi, tôi sẽ để lại cho nó toàn bộ gia tài của tôi
Kính chào bà,
John Eyre
Madeira"
Tôi nhận ra bức thư đã viết cách đây
ba năm! Tôi bèn hỏi bà Reed:
- Tại sao mợ kkhông cho cháu biết?
- Vì mợ không bao giờ quên được cách
cháu đối xử với mợ, cháu hung hăng, cháu thù ghét mợ. Mợ lại đâm ra ghét cháu
vô cùng.
Tôi rót cho bà cốc nước uống, rồi
nói:
- Mợ à, thôi đừng nghĩ đến qúa khứ
nữa. Lúc ấy cháu còn bé mà, chuyện đã lâu lắm rồi.
- Nhưng mợ lại không quên được cháu
Jane à. Mợ đã trả thù. Mợ không chịu được khi để chú cháu nuôi nấng cháu tươm
tất, hẳn hoi. Thế là mợ viết thư cho ông Eyre. Mợ bảo rằng cháu đã chết vì bệnh
sốt đậu lào ở Lowood. Bây giờ gần chết, lương tâm mợ cắn rứt vì mợ xử sự qúa
ác, qúa sai lầm với cháu.
- Mợ à, cháu tha thứ hết cho mợ. Bây
giờ mợ chỉ còn cầu nguyện Chúa tha tội cho mợ mà thôi. Mợ hãy yên tâm đi
Chị điều dưỡng bước vào phòng. Chúng
tôi ở với nhau một thời gian nữa, và mấy ngày sau thì bà mất.
Tôi trở lại Thornfield Hall để tiếp
tục công việc của mình
Tôi nghe bà Fairfax cho biết khách
khứa đã về hết rồi và bây giờ, sau hai tuần vắng khách, không khí tĩnh mịch như
trước đã trở lại quanh tôi và Adela, trong phòng học, khắp nhà và ngoài sân.
Có một việc làm tôi ngạc nhiên nhất,
là ông Rochester không đi chơi đâu hết, cũng không lui tới thăm viếng nhà
Ingram. Tôi mong lời đồn miệng ấy không đúng, và cứ lo đám cưới của ông và cô
Ingram không còn bao xa nữa. tôi biết rằng, gia đình cô ta rất xứng đáng với
ông, nhưng tôi lại cảm thấy ông không hề yêu cô ta.
Tôi tha thẩn trong vườn cây ăn trái,
vừa nghĩ đến những việc đã xảy ra vào buổi tố áp lễ trung hạ ấy. Vườn được che
kín bằng một bức tường cao ở một bên, bên kia là một hàng dẻ gai ngăn cách vườn
với bãi cỏ và ở cuối khu vườn có một cây dẻ gai cổ thụ, bên dưới, một chiếc ghế
đá hình bán nguyệt bao quanh lá6y gốc cây. ở đây, tôi có thể thơ thẩn giữa đám
hoa trái mà không sợ ai nhìn thấy
Hoa gai, hoa nhài, hoa hồng toả hương
thơm ngào ngạt trong sương đêm. Rồi bỗng tôi ngửi thây một mùi lạ, tôi nhận ra
mùi này- đó là mùi thuốc xì gà của ông Rochester
Tôi muốn tránh mặt ông nên tôi im
lặng nép mình dưới đám cây rậm. Ông thủng thỉnh đi qua, khi thì nâng những cành
dâu để nhìn trái, khi thì ngắt một trái chín trên cành. Thế rồi ông đứng lại,
nghiêng mình nhìn một con bọ lớn đang đậu trên một đóa hoa ở cạnh ông. Bỗng ông
nói:
- Này Jane, đến xem chú bọ này
Tôi giật mình, tôi có gây nên tiếng
động đâu, ông ta có mắt ở sau gáy sao? Tôi bước đến
Ông TRochester bảo:
- Cô hãy nhìn đôi cánh xinh đẹp
này.Nó nhắc tôi nhớ đến một loại côn trùng ở quần đảo Tây Â'n, khó mà tìm ra
một con lớn mà đẹp như thế này ở nước Anh! Rồi, nó bay rồi...
Con bọ đã bay đi, và tội cũng dợm
bước bỏ đi, nhưng ông Rochester đã đi theo tôi. Ông bảo:
- Nán lại đây với tôi, cô jane. Một
đêm đẹp như thế này mà ngồi trong nhà thì thật là phí. Ai lại đi ngủ vào giờ
giao tiếp giữa mặt trời lặn và mặt trăng lên!
Bây giờ mặt trời đang lặn ở phương
Tây, trông như một viên hồng ngọc đặt trên một tấm màn mỏng màu phớt tím lộng
lẫy huy hoàng. Tiếp theo là những đám màu hồng, màu hồng nhạt, màu hồng san hô
trải rộng,lóng lánh lên tận nửa bầu trời Tây. Phương Đông là một màu xanh đậm
tươi mát, như một vì sao hôm đơn độc lấp lánh trên nền trời như viên ngọc qúy.
Rồi mặt trăng nhú lên ở chân trời như để cùng với vì sao tạo nên một bức tranh
tuyệt đẹp
Ông Rochester và tôi trò chuyện đủ
thứ, vừa chậm rãi đi về hướng gốc cây dẻ gai, thế rồi bỗng nhiên chúng tôi đem
hết những tâm sự ẩn ức trong người bấy lâu nói cho nhau nghe
Ông Rochester bảo:
- Này Jane, mùa hè ở Thornfield thú
vị lắm phải không? Từ bỏ nó thì thật đáng buồn. Cô có buồn khi bỏ chúng tôi
không?
Tôi đáp:
- Tất nhiên là tôi buồn lắm. Nhưng
tôi phải từ bỏ Thornfield à? Tôi sẽ rất buồn khi xa nó... và xa ông, ông
Rochester ạ
Niềm xúc cảm và nỗi thất vọng đang
hành hạ tôi, tôi không kềm hãm được, bèn thốt nên lời:
- Mãi mãi xa ông thì thà chết còn
hơn!
Nước mắt bỗng đầm đìa hai má tôi.
Tôi lại nói:
- Tuy nhiên, chắc là tôi phải đi
Đột nhiên ông hỏi
- Có cần thiết không?
Tôi đáp:
- Cần chứ, vì cô Ingram, vợ sắp cưới
của ông.
Ông nói một cách bực bội:
- Vợ sắp cưới của tôi, vợ nào? Tôi
không có vợ sắp cưới nào hết.
- Nhưng rồi ông sẽ có
Ông rít lên:
- Vâng, tôi sẽ có, sẽ có!
- Thế thì tôi đương nhiên phải
đi.Chính ông đã nói rồi đấy
- Không cô phải ở lại! Tôi xin thề
như vậy. Tôi xin giữ lời thề với cô.
Bấy giờ thì tôi khóc to lên vì thất
vọng:
- Tôi báo cho ông biết tôi phải đi.
Ông tưởng tôi là một cái máy không có tình cảm chắc? Làm sao tôi chịu cảnh nhục
nhã được?Bởi vì tôi nghèo, tôi xấu, tôi nhỏ con mà. Ông đừng cho tôi không có
tâm hồn! Nếu tôi mà đẹp, tôi giàu thì ông có chịu để tôi rời bỏ ông mà đi như
bây giờ không!
- Kìa Jane, Jane!
Bỗng ông Rochester kéo tôi vào lòng
ông, áp môi ông vào môi tôi
- Thả tôi ra! Anh đã có vợ mà, đính
hôn cũng coi như đã có vợ. Thả tôi ra
- Nà Jane, hãy bình tĩnh lại! Đừng
vùng vằng như con chim mắc bẫy thế
Tôi không phải là chim, không có
lưới nào giăng bẫy được tôi đâu. Tôi có sở thích của tôi và tôi muốn rờ khỏi
ông ngay
Tôi gắng sức vùng ra khỏi tay ông ta
và đứng th8ảng trước mặt ông. Ông ấy lại nói:
- Rồi, sở thích của em sẽ định đoạt
đời em đấy. Nghe đây, anh xin cầu hôn em đấy. Anh sẽ hiến dâng trái tim anh cho
em, anh chia sớt của cải của anh cho em. Anh xin em cùng anh chung sống, xin e
làm người bạn đời tốt nhất và trung thực nhất của anh
Tôi lại khóc to lên:
- Anh đã lựa chọn bạn đời cho anh
rồi, anh phải đợi chờ thôi
- Jane, bình tĩnh một chút đi nào.
Em đã qúa xúc động rồi đấy. Chúng ta ngồi xuống đây đi em
Chúng tôi ngồi trên ghế dước cây dẻ
gai, nghe gió xà xạc lá cây. Tiếng hót của loài chim đêm thánh thót trong
rừng.Ông Rochester ngồi yên, trìu mến nhìn tôi. Ông kéo tôi lại gần rồi nói:
- Jane, chính em là người anh muốn
cưới, em không hiểu sao? Vợ sắp cưới của anh là đây, Jane, em muốn lấy anh làm
chồng không?
Nhưng lạ một lần nữa, tôi hất tay
anh ra, vì tôi vẫn chưa tin
- Jane, em không tin hả?
- Vâng
Anh ta nôn nóng hỏi lại tôi:
- Em cho anh là kẻ nói láo ư? Jane,
em phải tin anh. Anh yêu cô Ingram à? Không đâu. Anh rêu rao tài sản anh qúa
ít, thế là cô ta và mẹ cô ta lạnh nhạt với anh. Anh không thể nào cưới cô
Ingram được.
-Nhưng với em, anh hết lòng yêu em.
Jane, chấp nhận lời cầu hôn của anh đi. Nói bằng lòng đi, mau đi!
- Rochester, để e nhình thẳng vào
mắt anh xem nào. Quay mặt về phía ánh trăng!
Anh ta quay mặt về mặt trăng, tôi
thấy mặt anh ửng hồng, mắt anh sáng long lanh như mọi khi. Anh thốt lên:
- Ôi Jane, em hành hạ anh đấy nghe.
Nhìn anh như thế là hành hạ anh đấy nghe
- Thế nào? Nếu anh chân thật, nếu
anh cầu hôn nghiêm túc, thì em chỉ biết chung thủy với anh và biết ơn anh
Anh lại thốt lên:
- Biết ơn!
Rồi anh dịu dàng nói thêm:
- Jane, nhận lời anh mau đi. Em hãy
nói:" Anh Edward"- gọi tên anh- "Anh Edward, em sẽ lấy anh làm
chồng"
- Anh hấp tấp vậy sao? Có thật anh
yêu em không? Có thật anh muốn em làm vợ anh không?
- Anh mong lắm, nếu em thấy cần
thiết phải thề để em yên lòng, thì anh xin thề đấy
Cuối cùng thì tôi cũng thốt lên:
- Được rồi, anh Edward, em sẽ lấy
anh làm chồng
Giọng anh trở nên thật ấm:
- Ôi, đến đây với anh- nào, ngồi sát
vào anh đi.
Má anh áp vào mà tôi:
- Hãy cho anh hạnh phúc, và anh sẽ
đem hạnh phúc đến cho em. Anh ôm chặt tôi vào lòng
Anh nói:
- Xin Chúa ban phước lành cho tôi. Không
ai có thể can thiệp và đời tôi. Giờ thì tôi đã có nàng, tôi cương quyết giữ lấy
nàng
Tôi nhắc nhở anh:
- Không có ai can thiệp được đâu. Em
không có gia đình để xen vào chuyện của chúng ta
Nếu tôi có yêu anh ít đi thì tôi vẫn
thấy anh hết sức hân hoan, cho nên tôi cảm thấy vui sướng khi ngồi bên anh. Anh
cứ nhắc lui nhắc tới:
- Tốt quá rồi. Jane, em có hạnh phúc
không?
Và tôi cũng lặp đi lặp lại:
- Vâng, hạnh phúc. Vâng, em có hạnh
phúc
Một lát sau, tôi nghe anh lẩm bẩm:
- Sẽ chuộc hết lỗi lầm, sẽ chuộc hết
lỗi lầm của qúa khứ. Mình thấy nàng đơn côi và cô độc, mình sẽ làm cho nàng
vui, mình sẽ bảo vệ nàng. Ta có tin tưởng, bền gan không? Ta biết Chúa sẽ ban
ơn cho ta. Còn dư luận của người đời ư? Ta chẳng thiết
Anh lại hôn tôi
Mặt anh ra sao ư? Tôi không thấy rõ
mặt của anh, dù anh kề bên tôi. Cây dẻ gai rùng mình run rẩy khi có luồng gío
thổi qua. Rochester bảo tôi:
- Mình phải vào thôi- trời trở gió
rồi đấy. Jane, anh có thể ngồi với e ở đây suốt đêm
Tôi nghĩ"Em cũng thế. Em cũng
có thể ngồi với anh suốt đêm"
Bỗng một tia chớp lóe lên, có tiếng
sấm ầm ì, tôi cúi che mắt trên vai anh, rồi cơn mưa trút xuống. Chúng tôi vội
vã chạy qua khu vườn, băng qua bãi cỏ, vào nhà.
Anh lau khô nước mưa trênmái tóc lòa
xòa của tôi, chải lại tóc cho tôi, vừa khi bà Fairfax ở trong phòng bước ra.
Thoạt tiên, tôi không thấy bà, Rochester cũng không thấy. Đồng hồ trong đại
sảnh điểm mười hai tiếng
Anh bảo:
- Đi thay đồ ướt mau ra mau đi. Mà
khoan đã, chúc em ngủ ngon, cưng của anh
Anh hôn tôi một hồi lâu. Khi anh
buông tôi ra, tôi thấy bà Fairfax đứng đấy, ngạc nhiên, xanh xao và trang
trọng. Tôi mỉm cười chà bà, rồi vội vã lênlầu. Tôi nghĩ trong bụng:"Sẽ
giải thích sau,lo gì"
Đêm hôm ấy, tôi vui qúa, quên hết
mọi lo lắng, tôi sung sướng qúa, bỏ hết mọi nghi ngờ. Gió thổi ào ào, sấm sét
đì đùng, chớp lòe liên hồi qua màn mưa, tôi chẳng sợ gì hết.Suốt đêm, Rochester
đến gõ cửa phòng tôi ba lần, hỏi thăm tôi có bình yên không. Thật qúa bình yên,
qúa khỏe mạnh
Sáng hôm sau, bé Adela chạy đến báo
cho tôi biết cây dẻ gai cổ thụ đã bị sét đánh gẫy làm hai vào buổi tối qua.
Chương
16 . Mơ Mộng Và Lo Âu
Bốn tuần lễ trước ngày đám cưới của
chúng tôi trôi qua rất mau. Nhưng cuối cùng thì mọi việc cũng đã được chuẩn bị
xong, và tôi không còn gì để làm nữa.Rochester đã đưa tôi đến Millcote để mua
sắm đủ thứ ngoài mơ ước của tôi.Anh muốn sắm cho tôi thật nhiều vàng bạc châu
báu, anh bảo:
- Anh sẽ cho Jane yêu qúy của anh
mặc toàn satanh, đeo toàn vòng vàng, và sẽ để cho nàng trùm chiếc khăn voan vô
giá nhất vào hôm cưới.
Tôi phải cản anh:
- Đừng anh, đừng.Ngọc ngà châu báu,
lụa là đối với Jane Eyre nghe ra xa lạ, không cần thiết đâu. Em chỉ là nữ gia
sư giản dị bình thường của anh thôi mà
Nhưng anh không chịu nghe, anh có kế
hoạch vĩ đại của riêng anh- chúng tôi sẽ đi du lịch sau khi đã vui chơi ở Luân
Đôn.Anh nói:
- Anh sẽ đưa người yêu của anh đi
thăm các vườn nho ở nước Pháp, thăm đồng bằng nước ý, và nàng sẽ thấy những nơi
mà thơ văn ca ngợi để nàng học hỏi đánh giá mình so với kẻ khác
Tôi đã viết thư gửi đi Mandeira để
báo cho ông chú độc nhất của tôi biết đám cưới sắp đến của tôi, để mong có một
người thân chúc mừng tôi, cho dù có xa đến mấy. Nhưng tôi không nhận được hồi
âm
Hành trang của tôi đã cho hết vào
các rương hòm, đã được khóa lại, chúng được xếp một dãy dài sát tường trong
phòng nhỏ của tôi ở Thornfield.Ngày mai, vào giờ này, người ta sẽ chuyển tất cả
về Luân Đôn, theo địa chỉ:" Bà Rochester" ở khách sạn chúng tôi sẽ
đến ở.Tôi chưa dám dán vào. Bà Rochester! Đã có tên này đâu? Phải đợi đến ngày
mai mới có, ít ra cũng phải đến tám giờ sáng.Trong tủ áo của tôi, treo một
chiếc áo dài màu ngọc trai, và một chiếc lưới trùm đầu che mặt mầu xám nhạt rất
giản dị. Tất cả đang sẵn sàng đợi đấy, đợi tôi mặc và để làm lễ cưới. Tôi nhìn
chiếc áo,muốn nói với nó đôi lời:"áo ơi, ráng ở một mình đấy nhé! Ta bồn
chồn qúa, ta phải ra vườn hóng gió một chút đã nghe!"
Viêc chuẩn bị đám cưới tạo nên không
khí náo nhiệt trong nhà bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy mình run sợ bấy
nhiêu, vì có một cái gì đó khó hiểu đang xảy ra. Cho nên tôi đã thao thức không
tài nào ngủ được vào cái hôm trước ngày cưới. Chẳng ai hiểu được việc gì sẽ xảy
ra. Trước đó một đêm, Rochester lại vắng nhà. Anh cưỡi ngựa đến một trang trại
của nhà cách Thornfield đến 30 dặm. Xem ra cuộc thăm viếng này rất cần cho
chuyến đi xa của chúng tôi sau ngày cưới. Tôi đợi anh về, lòng lo âu vô cùng,
chỉ mong sao tâm hồn được nhẹ nhõm
Đầu hôm, gió nam thổi mạnh. Tháng
bảy mà gió như thế qủa là việc bất thường, tôi phải nấp dưới vườn cây ăn qủa.Cuối
vườn, thân cây dẻ gai bị sét đánh còn nằm đó, nửa thân cây bị tét làm hai.
Những cành cây đã khô héo, nhưng gốc và rễ vẫn còn sống.
Tôi nhìn những cành cây gẫy nằm trên
mặt đất, tôi nói với chúng:" Chắc các ngươi vẫn còn sinh lực, cho nên các
ngươi phải đoàn kết nhau. Cho dù các ngươi không còn lá xanh như xưa nữa, nhưng
các ngươi vẫn còn tình bạn với những chiếc lá mục nát kiạ"
Tôi sục sạo khắp vườn, nhặt những
trái táo rơi rụng hôm gió lớn, tôi mang tất cả vào nhà, cho hết vào phòng chứa
đồ. Rồi tôi đốt lò sưởi trong thư viện, vì Rochester thích nhìn ánh lửa reo vui
trong lò khi anh đi đâu về. Khi tôi đặt chiếc ghế dựa vào chỗ anh ưng ý, và kéo
cái bàn đến đấy, thì đồng hồ trên bệ lò sưởi đánh mười tiếng.
Không còn yên tâm nữa, không thể
ngồi chờ được nữa, tôi chạy trên đường đầy ánh trăng để đón anh về. Gió thổi
xào xạc trong lá cây gần cổng, nhưng con đường vẫn trải dài trước mắt, yên
tĩnh. Tôi nói to lên với mình:
- Ta mong anh về qúa! ôi ta mong anh
về qúa!
Tôi đợi anh từ trước giờ uống trà,
bây giờ trời đã tối, đã trễ qúa rồi. Anh bị tai nạn chăng?
Những việc xảy ra hôm trước lại hiện
đến trong đầu óc tôi.Tôi nghĩ:" mình không thể trở vào nhạ Mình phải đi
đón anh". Tôi bắt đầu đi nhanh theo con đường đầy ánh trăng
Tôi đi chừng một phần tư dặm đường
thì bỗng nghe tiếng vó ngựa. Rồi một người cưỡi ngựa hiện ra, một con chó chạy
cạnh bên. Đúng là anh! Anh đây rồi, con chó Pilot chạy theo anh. Mặt trăng vừa
ra khỏi đám mây, anh thấy tôi. Anh lấy cái nón vẫy quanh đầu. Tôi chạy đến đón
anh. Anh ngiêng người trên yên ngựa và chìa tay ra cho tôi. Anh nói:
- Rõ ràng là em không thiếu được
anh! Đứng trên bốt anh và đưa tay đây- lên!
Tôi vâng lời. Nỗi vui mừng làm cho
tôi nhanh nhẹn, tôi phóng mình lên ngồi trước mặt anh. Tôi hôn anh, rồi anh cho
ngựa phóng đi
- Có gì không, Janẻ mà em phải đi
đón anh vào giờ này?
- Không có gì hết. Nhưng em cứ lo
anh không về nữa. Em không chịu nổi khi đợi anh ở nhà, nhất là bên ngoài gió cứ
thổi rì rào
- Jane, em bị sốt rồi đấy, má và tay
em âm ấm rồi. Có sao không em?
- Không sao đâu. Em không sợ mà cũng
không khổ. Không thì anh sẽ cười em mất!
- Sau ngày mai thì anh sẽ cười em
đấy. giờ thì anh chưa dám vì anh chưa chắc. Có phải thật em đang ở bên anh
không? Mấy tuần qua, em như con lươn trơn trợt, anh không tài nào nắm được,
nhưng bây giờ thì anh đã ôm chặt vào lòng con chiên ngoan rồi. Em là con chiên
đi tìm người chăn chiên, phải không Janẻ
- Em yêu anh, nhưng đừng tự phụ đấy
nhé. Chúng ta đến nhà rồi. Thôi, để em xuống
John đến dắt ngựa vào chuồng, và
chúng tôi đi vào phòng khách, rồi vào thư viện. Cơm đã dọn sẵn chờ anh ở đây
Anh bảo:
- Ngồi ăn với anh đi Janẹ Lạy Chúa,
sau bữa ăn này, chúng mình sẽ vắng nhà lâu đấy. Chúng mình cùng ăn đi
Tôi ngồi xuống, nhưng bảo anh tôi
không thể ăn ưống gì được.
- Jane, phải chăng nghĩ đến chuyện
ngày mai đi Luân Đôn mà em không muốn ăn?
Tôi đáp:
- Em cũng không biết nữa. Mọi việc
trên đời bỗng trở nên hư ảo. Ngay đến anh, em cũng thấy như một giấc mơ
Anh đưa cánh tay khỏe mạnh ra trước
mặt tôi, vừa cười, vừa hỏi tôi:
- Cái này cũng là giấc mơ ư?
- Vâng, cho dù em sờ mó được, thì nó
cũng vẫn là một giấc mợ Anh ăn xong chưa?
- Rồi Jane ạ. Nhưng em nhớ là em đã
hứa ngồi chơi với anh vào đêm trước ngày cưới chứ?
Tôi rung chuông và cho người bưng
mâm đi. Khi còn lại hai chúng tôi, tôi khơi lửa trong lò, ngồi trên chiếc ghế
đẩu bên chân anh. Rồi tôi nói:
- Em không muốn đi ngủ, em giữ lới
hứa ngồi với anh ít nhất một hay hai giờ
Anh hỏi tôi:
- Em đã chuẩn bị đầy đủ cho ngày mai
rồi chứ
- Đầy đủ tất cả
- Còn anh, anh cũng chuẩn bị đầy đủ
rồi.Chúng ta sẽ rời Thornfield nửa giờ sau khi ở nhà thờ về. Jane, em vẫn còn
đỏ mặt, em bị kích thích qúa phải không, em sợ cái gì?Em sợ anh không phải là
ngươì chồng tốt hay sao? Nói cho anh nghe nào. Cái gì thế, em?
Tôi ngồi im lặng. Tôi đợi cho tiếng
chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng im bặt, tôi mới nói:
- Suốt ngày hôm qua, em bận rộn và
rất sung sướng. Em không hề sợ sệt chút nào hết về cuộc sống mới của chúng tạ
Chắc anh cũng đã nghĩ như thế. Em cảm thấy cuộc sống huy hoàng khi được sống
với anh, vì em yêu anh. Đừng ngăn lới em, để cho em nói cho anh nghe hết đã. Em
cừ nghĩ đến đời sống của chúng ta trước mắt, và đối với em, nó như một đóa hồng
đang nở. Em đã sắp xếp xong đồ đạc vào valị Thế rồi đến gần chiều tối, Sophie
gọi em đến xem áo cưới vừa được gửi tới. Mở thùng ra, em thấy dưới chiếc áo
cưới là món qùa đáng yêu anh mua cho em, đó là tấm khăn che mặt vào lễ cưới mà
anh đã đặt mua tận Luân đôn. Em được món qùa đắt giá biết bao! Em vừa mở ra xem
vừa mỉm cười, định trêu anh đã sắm sửa y phục cho người vợ tầm thường của anh
như một bà hoàng. Em định sẽ tự làm lấy một chiếc lưới mạng bình thường giản
dị, và hỏi anh xem như thế có xứng với một phụ nữ không tiền tài, không sắc đẹp
như em không
Rochester có vẻ hài lòng, nói với
tôi:
- Em hiểu được lòng anh rồi đấy, em
yêu ạ! Nhưng tấm khăn trùm ra sao mà trông em buồn bã thế?
- Em thấy cả tấm lòng cao qúy của
Edward Fairfax Rochester, và bây giờ thì em quen rồi.Thế nhưng cứ mỗi lần em đi
ngủ, em lại không ngủ được, em lo âu, cứ nằm thao thức lắng nghe tiếng gió thì
thào ngoài vườn, tiếng gió như lời than van báo trước điềm chẳng lành cho em.
Rồi khi ngủ được, em lại bị những giấc mơ dằn vặt. Em thấy mình đang bơ vơ trên
một con đường xa lạ. Anh đi trước em, rất xa em, còn em thì bị lạc lối. Em ẵm
trong tay một đứa bé còn rất nhỏ và rất yếu, nó run rẩy trong tay em vì lạnh,
và khóc bên tay em. Mỗi lúc anh càng bỏ xa em và em đơn độc trong cơn gió rít
quanh mình
- Jane! Khi có anh bên em, đừng nghĩ
đến giấc mộng như thế. Em thấy, có anh đâymà!Jane, em có yêu anh không? Trả lời
đi, có yêu anh không?
- Em yêu anh chứ, yêu hết cả cõi
lòng em. Nhưng anh hãy nghe cho hết đã
- Hả! Còn nữa ư? Anh tưởng em kể hết
rồi chứ
Tôi kể tiếp?
- Em lại mơ giấc mơ khác. Em đến
Thornfield Hall, và nơi đây đã thành nơi hoang tàn, chỉ còn tổ ấm cho loài dơi
và qụa.Chỉ còn lại bức tường trơ trọi, cỏ dại mọc đầy. Em trùm chiếc khăn và
vẫn còn ẵm đứa bé ấy trong taỵ Mặc dù tay em mỏi rã rời, nhưng em vẫn không thể
đặt nó nằm xuống đấy được. Rồi em nghe tiếng vó ngựa ở đằng xạEm biết chắc là
anh. Anh bỏ em đi xa đã nhiều năm.Em leo lên bức tường đổ nát, cố nhìn bóng
dáng anh, nhưng bỗng bức tường sụp đổ. Em lảo đảo, đứa bé văng ra khỏi tay em.
Em mất thăng bằng, té xuống.Thế rồi em tỉnh dậy.
- Thôi, Janẹ Hết rồi đấy! Chỉ là
giấc mơ mà thôi!
Tôi khăng khăng:
- Không đâu. Câu chuyện không xảy ra
đến đấy thôi. Khi tỉnh d6ạy, có ánh sáng làm chói mắt em. Em tưởng là ánh sáng
ban ngày, nhưng không phải, em lầm. Đó là ánh sáng của một ngọn đèn cầy. Em ngỡ
là Sophie đến để làm việc gì đấy. Một cây đèn cầy để trên bàn trang điểm, tủ áo
của em mở toang, em thấy áo cưới, khăn trùm cưới còn treo ở đấy. Em nghe tiếng
sột soạt, em la lên:" Chị Sophie phải không?", nhưng không ai trả
lời. Em ngồi bật dậy trên giường, nghiêng người tới trước để xem thử ai. Em hết
sức ngạc nhiên và hết sức cuống cuồng, tim em như muốn ngừng đập. Này anh
Rochester, không phải Sophie, không phải Leah, không phải bà Fairfax, mà cũng
không phải chị Grace Poolẹ Em qủa quyết như vậy
Tôi ngừng lại, suy nghĩ lung lắm về
câu chuyện tôi đang kể cho anh nghe. Rồi tôi kể tiếp:
- Không, em lấy danh dự ra cam đaon
với anh không phải chị Grace poole mà là một người đàn bà cao lớn, mái tóc đen
dày xõa xuống lưng. Chị ta mặc chiếc áo dài màu trắng
- Em có thấy mặt chị ta không?
- Thoạt tiên thì không. Khi em nhìn
thấy chị ta,chị quay lưng lại để lấy chiếc khăn che mặt trong tủ, chị ngắm
nghiá nó một lát, rồi trùm lên đầu và quay người soi vào gương. Nhờ vậy mà em
thấy hình chị trong gương.ôi, thật chưa bao giờ em thấy một khuôn mặt như thế.
Một khuôn mặt dữ dằn, man rợ, thiếu sinh khí!
Rochester nói:
- Mặt ma qủy thường tái như vậy Jane
à!
- Cái mặt này tím ngoét! Mội thì
thâm dày, mắt dữ tợn, cặp lông mày đen nhíu lại
Tôi lại rùng mình khi nhớ lại chuyện
đó:
- Chị ta lấy cái khăn trên đầu ra,
xé làm hai.ném xuống nền nhà, giơ chân chà đạp lên trên. ôi, tấm khăn che mặt
đáng yêu làm sao!
- Rồi cái gì xảy ra tiếp theo?
- Chị ta nhìn ra cửa sổ, rồi nắm lấy
cây đèn và cầm theo đến giường. Em khiếp qúa, nằm bất động. Chị ta đưa ngọn đèn
trước mặt em. Em bất tỉnh, không còn hay biết gì nữa.
- Khi tỉnh dậy, có ai trong phòng em
không?
- Không có ai hết. Nhưng trời đã
sáng rõ rồi. Em chỗi dậy và cố gắng hoạt động bình thường, quyết định chỉ nói
cho anh nghe thôi. Bây giờ thì anh hãy nói cho em nghe người đàn bà ấy là ai,
và bà ta làm cái gì thế? Em phải biết...
- Jane này, do đầu óc em rối loạn mà
thấy vậy thôi. Em yêu, anh phải canh chừng em, săn sóc emchu đáo, thần kinh em
không được ổn đấy
Tôi nhất quyết với anh:
- Không, không có chuyện đó đâu.
Thần kinh em bình thường mà. Em kể chuyện có thật đấy.
- Thế còn giấc mộng thì sao?Nó thật
à? Thornfield Hall sụp đổ à? Anh bỏ em đi bơ vơ trên đường sao?
- Này Jane, Chỉ là do rối loạn thần
kinh mà ra thôi, tất cả phải chấm dứt và phải làm cho sáng tỏ ngay bây giờ
- Em mong mỏi như vậy, nhưng buổi
sáng khi tỉnh dậy, em đã cố trấn an mình khi nhìn căn phòng quen thuộc, bỗng em
lại thấy cái khăn qúy giá của em bị xé làm hai mảnh nằm trên tấm thảm lót nền
nhà
Tôi cảm thấy anh giựt mình. Anh nhún
vai rồi quàng tay ôm lấy tôi. Anh reo lên:
- Ơn trên gia hộ rồi đấy! Đêm qua
không có gì xảy ra cho em hết là ổn rồi. Chung quy chỉ có cái khăn che mặt là
chịu trận thôi
Anh ôm chặt tôi vào lòng. Chúng tôi
ôm nhau, ngồi yên một hồi lâu, rồi anh vui vẻ nói:
- Này nhé Jane, anh sẽ giải thích
cho em rõ chuyện bí mật này. Câu chuyện nữa thực nửa mơ mà. Chắc là chị Grace
Poole đã vào phòng em. Chị ta lạ lùng lắm, em còn nhớ chị ấy đã tấn công ông
Manson chứ. Trong tình trạng mê sảng, em đã thấy chị khác đi. Nửa tỉnh nửa mê,
em thấy mặt chị qua trí tưởng tượng của em. Việc xé chiếc khăn của em một cách
thô bạo như vậy là chuyện có thực đấy, vì chị đã từng làm nhiều việc như thế. Khi
chúng ta đã làmlễ cưới xong, không chóng thì chấy anh sẽ nói cho em biết lý do
tại sao anh lại để một người đàn bà như vậy trong nhà. Bây giờ thì được chưa
em? Em có chấp nhận cách giải quyết của anh không?
Để làm vừa lòng anh, tôi đành phải
chấp nhận như vậy, vả lại thật ra thì đây là lối giải thích khả dĩ hợp lý nhất
mà thôi. Đã qúa một giờ khuya, tôi đứng dậy để về phòng.Anh bảo tôi:
- Em hãy đánh thức Sophie dậy và bảo
chị ấy để em ngủ ở phòng giữ trẻ. Giường của Adela rộng lắm, đủ cho hai người
nằm. Đêm nay anh không muốn em ngủ một mình
Tôi vui vẻ nhận lời, bèn đi ngủ ở
phòng giữ trẻ, mặc dù tôi không tài nào nhắm mắt được.Nhìn bé Adela ngủ bình an
thơ ngây trong vòng tay tôi, tôi lại thèm giấc ngủ của tuổi ấu thơ
Tôi trông cho trời mau sáng, cho đến
ngày cưới của tôi.Tôi thấy bé là hình ảnh đời tôi trong qúa khứ. Khi mặt trời
bắt đầu mọc, tôi chỗi dậy. Tôi nhớ làm sao bé đã ôm chặt lấy tôi trong giấc
ngủ!
Chương
17 . Ngày Cưới
Chị Sophie đến giúp tôi mặc quần áo
lúc bảy giờ. Chị cài khăn che mặt lên tóc tôi, tôi đành phải dùng chiếc khăn
đơn giản mà tôi đã làm. Rồi có người hỏi tôi sao lâu thế, tôi phải vội vã hất
tay chị Sophie ra để đi xuống nhà. Bỗng chị la lên bằng tiếng Pháp:
- Khoan đã, nhìn vào gương đi.
Tôi đã đến cửa bèn quay lại nhìn vào
gương, một bóng người mặc áo cưới, trùm khăn lưới che mặt không giống gì tôi
hết, mà như hình ảnh một kẻ xa lạ nào. Tôi đứng ngây người một lúc
Rồi lại có tiếng gọi và tôi xuống
lầu. Anh đợi tôi dưới chân cầu thang. Anh nói:
- Em nhẩn nha lâu qúa. Anh nôn nóng
qúa trời.
Chúng tôi vào phòng ăn, anh nói:
- Em xinh như một đóa huệ
Anh bảo tôi chỉ có mười phút để ăn
điểm tâm, nhưng tôi nào có ăn được!
Anh lại rung chuông, rồi hỏi John:
- Đã chuẩn bị xe chưa?
John trả lời rồi. Anh ấy lên lầu
mang hành lý của tôi xuống. Tôi thấy ngựa đã được đóng vào xe. Anh nói với chị
hầu gái:
- Chúng tôi không muốn đi xe đến nhà
thờ, nhưng chị phải cho chuẩn bị sẵn sàng đợi lúc chúng tôi trở về
Anh lại quay qua hỏi tôi:
- Đã xong chưa em?
Tôi đứng dậy. Không có phụ dâu, không
có bà con thân thuộc tham dự, chỉ độc nhất hai chúng tôi. Khi chúng tôi đi qua
phòng khách, bà Fairfax đứng đấy.Tôi muốn dừng lại nói ít lời với bà, nhưng anh
đã nắm chặt tay tôi, tôi phải vội vã bước theo anh. Tôi phân vân không biết có
chàng rể nào như anh ấy không: quyết đoán, vội vàng
Khi chúng tôi đến cổng nhà thờ,
chúng tôi bước đi thật nhanh đến nỗi muốn hụt hơi. Anh dừng lại trướckhi mở
cổng rồi hỏi tôi:
- Anh có thô bạo không? Tựa vào vai
anh một chút đi em!
Chúng tôi nghỉ ngơi một chút rồi
bước vào ngôi nhà thờ vắng vẻ.Vị mục sư mặc chiếc áo xếp trắng đang đứng đợi
chúng tôi, thầy trợ tế đứng bên cạnh ông. Tất cả đều yên lặng, trừ tiếng động
của hai người khách lạ đã đi vào trước chúng tôi. Khi chúng tôi cùng nhau tiến
đến bàn thờ thì tôi nhận thấy họ đang di động ở phía sau nhà thờ.
Thủ tục bắt đầu. Vị mục sư bước lên,
hơi nghiêng người về phía chúng tôi, nói những lời mở đầu như ông đã từng nói
khi làm lễ cưới:
- Tôi có bổn phận chịu trách nhiệm
về việc hai người lấy nhau... Nếu có bằng cớ nào về mặt pháp luật ngăn cản hai
người lấy nhau, thì xin qúy vị cứ thú thực ra...
ông ngừng nói, theo luật của lễ
cưới.
Có khi nào người ta trả lời trong
lúc ông ngừng nói không. Có lẽ chưa có lầnnào trong hằng trăm nămnaỵ ông mục sư
không rời mắt khỏi cuốn sách, ông sắp hỏi tiếp Rochester câu:"ông chấp
nhận người đàn bà này làm vợ phải không?" Thì bỗng nhiên có tiếng nói vang
lên:
- Đám cưới không thể tiến hành được.
Tôi tuyên bố có bằng nchứng cản trở đám cưới đây.
ông mục sư rời cuốn sách nhìn lên,
ông đứng lặng người.Thầy trợ tế cũng vậy.Rochester nhúc nhích hai bàn chân,
đứng thẳngngười lên, nói:
- Xin qúy ngài tiếp tục đi, tiếp tục
đi chọ
Tất cả im lặng. ông mục sư nói:
- Tôi không thể tiếp tục được, chừng
nào tôi xét ra bằng cớ đúng sai cái đã.
Rochester đứng yên,vẻ ương ngạch,
nghiêm khắc, chỉ còn biết nắm chặt lấy tay tôi mà thôi.Anh nắm tay tôi chặt làm
sao!Mặt anh như tạc bằng đá cẩm thạch!Đôi mắt anh long lanh, nhìn họ chằm chằm,
man dại
ông Wood, vị mục sư cũng tỏ ra qúa
sững sờ. ông hỏi:
- Tính chất của bằng chứng ra sao?Có
lẽ phải giải thích cho rõ ràng đấy.
Có tiếng trả lời:
- Tôi có đây
Người vừa nói tiến ra trước mặt mọi
người. ông ta nói một cách rõ ràng, bình tĩnh, chắc nịch:
- Đây là bằng cớ về việc hôn nhân
trước đây. ông Rochester đã có một người vợ hiện còn đang sống.
Nghe xong, tôi bủn rủn cả chântay,
nhưng tôi cố làm ra vẻ bình tĩnh.Tôi nhìn Rochester,khiến anh nhìn lại tôi. Mặt
anh đanh lại như đá, anh không nói một tiếng. Hình như anh xem thường tất cả.
Không nói năng, không mỉm cười với tôi, cũng không tỏ ra lưu ý đến tôi, anh chỉ
nắm lấy thắt lưng tôi và ôm chặt tôi vào người anh. Thế rồi anh hỏi người lạ
mặt:
- ông là ai?
- Tôi là Briggs, luật sư biện hộ, ở
LuânĐôn tới.
- ông gán cho tôi một người vợ à?
- Tôi xin nhắc ông nhớ vợ ông còn
sống và luật pháp công nhận, mặc dù ông không công nhậnđiều đó
- Xin ông đưa ra bằng cớ, ông cho
biết têntuổi, gốc gác và địa chỉ của người ấy
- Tất nhiên
ông Briggs nói xong, từ từ lôi trong
túi áo ra một tờ giấy, ông đọc rõ ràng:
"Tôi ký tên dưới đây, xác nhận
vào ngày 20 tháng 10 năm 18.. ( cách đây 15 năm), Edward Fairfax Rochester ở
tại Thornfield Hall và Ferndean Manor, đã cưới chị tôi tênlà Bertha Manson, con
gái của Jonas Mason ở Spanish Town và hiện tại tôi đang giữ một bản sao.
Ký tên: Richard Mason"
Rochester lại nói:
- Nếu đó là một tài liệu cho rằng
trước đây tôi đ0ã kết hôn thì có gì chứng tỏ rằng người đàn bà ấy còn sống đâu?
Người luật sư liền đáp:
- Cách đây ba tháng, người ấy còn
sống
- Tại sao ông biết?
- Tôi có nhân chứng đây. ông Mason
đâu, xin mời ông bước ra đây
Một bóng người thứ hai trongnhà thờ
bước ra, đến gần chúng tôi. Đúng là ôngMason. Rochester nhìn thẳng vào mặt anh
ta, đưa tay lên định đánh hắn, nhưng hắn đã tránh khỏi. Rochester bèn hỏi hắn:
- Mày nói cái gì đây, hả?
- Hai môi nhợt nhạt của Masonnói lí
nhí cái gì đóchẳng ai nghe cả. Rochester lại hét lên:
- Tao hỏi lại, mày nói cái quái gì
đây?
ông mục sư bèn can thiệp vào:
- Thưa qúy ông, qúy ông đừng quên
đây là chốn thiêng liêng
Rồi quay qua Mason, ông hỏi:
- Thưa ông, ông biết chắc người đàn
bà vợ ông ta còn sống à?
Người luật sư bảo y:
- Can đảm lên, nói đi
Mason nói to hơn:
- Bà ấy còn sống ở Thornfield Hall.
Tôi đã gặp bà vào tháng tư vừa rồi. Tôi là em trai của bà ấy
ông Wood la lên:
- ở Thornfield Hall ư? Khó tin qúa!
Thưa ông, tôi là một cư dân lâu năm ở đây, có bao giờ tôi nghe có một bà
Rochester ở Thornfield Hall đâu Tôi thấy Rochester mỉm cười khinh khỉnh, anh
lẩm bẩm:" Không, ta đã cẩn thận để không ai biết chuyện này - hoặc biết bà
ta dưới cái tên ấy."Anh nghĩ một lát, rồi dường như quyết định dứt khoát:
-Thôi, đủ rồi. ông Wood, xếp sách
lại đi, cởi áo lễ ra. Này John Green( anh quay qua thầy trợ tế), về đi. Hôm nay
không cưới xin gì hết
Rồi anh tiếp tục nói một mạch, giọng
đanh lại:
- Tội hai vợ là một tội lớn, và tôi
là kẻ hai vợ. Tôi không hơn gì qủy sứ. Nhưng số phận đã chơi khăm tôi, hay Trời
đã thử thách tôi không biết, nhưng tôi hy vọng đây là lần cuối. Thưa qúy ông,
nhưng điều ông luật sư và thân chủ của ông nói đều đúng sự thật. Qúy vị không
bao giờ nghe có một bà Rochester ở trong nhà tôi hết, nhưng có lẽ qúy vị có
nghe đồn về một kẻ điên bí mật, bị nhốt trong phòng khóa kín. Bây giờ thì tôi
xin báo cho qúy vị biết kẻ điên đó chính là vợ tôi, tôi đã cướ`i bà ấy cách đây
mười lăm năm, tên là Bertha Mason, chị ruột của cái tên mặt trắng đang run rẩy
này. Nào, Richard, vui lên! Tao không thèm đánh một đứa giống đàn bà như mày
đâu! Đừng sợ!
Rochester lại nói tiếp cho mọi người
nghe:
- Bertha Mason bị điên, cô ấy sinh
trưởng trong một gia đình điên loạn. Mẹ cô, một người ở Creole, vừa điên vừa
nghiện rượu, tôi phát hiện ra việc này sau khi tôi đã cưới con gái bà. Trước đó
họ đã giữ kín chuyện bí mật gia đình, còn Bertha thì biết nghe lời cha mẹ. ôi
qủa thật tôi đã có một người vợ dễ thương: trong trắng, giản dị, không ngoan.
Qúy vị cứ tưởng tượng tôi là một người hạnh phúc. Tôi đã trải qua những cảnh
tượng sống động như thế.Xin mời qúy vị đến nhà tôi thăm cô ấy, để xem con người
mà tôi cưới, xét thử tôi có quyền xé bỏ hôn thú không, và tôi có quyền tìm kiếm
người bạn đời ít ra cũng phải là người chứ!
Anh quay qua tôi và nói:
- ông Wood à, cô gái này cũng không
biết gì về chuyện thương tâm này của tôi, cũng như ông vậy. Cô ấy cứ ngỡ tất cả
đều hợp pháp.Cô ấy đâu có ngờ mình đang bị cả một nhóm khốn nạn đánh bẫy, đã
gắn bó với một kẻ vũ phu, điên khùng xấu xạ Nào, xin qúy vị theo tôi để xem tận
mắt cho rõ tận tường.
Vẫn nắm chặt tay tôi, anh bước ra
khỏi nhà thờ. Các ông Wood, Briggs và Mason bước theo.
Về đến trước nhà, chúng tôi thấy
chiếc xe đang chờ sẵn. Rochester lạnh lùng bảo John:
- Đem hết vào chuồng ngựa đi John!
Hôm nay không dùng xe đâu
Thấy chúng tôi về tới, gia nhân bước
ra chào mừng chúng tôi. Anh lại la lên:
- Thôi, dẹp hết cái trò chúc mừng
đi! Mười lăm năm rồi, trễ qúa rồi!
Năm người chúng tôi ở nhà thờ về
liền đi lên lầu, bước dọc theo hành lang rồi lên tầng bạ
Chiếc cửa đen thấp được mở ra, chúng
tôi bước vào phòng trang hoàng bằng vải hoa. Chiếc giường lớn vẫn nằm ở giữa
phòng, chiếc cửa ở tường vẫn còn đấy.
Rochester nói:
- Mason, chú biết phòng này rồi chứ,
bà ấy cắn chú, đâm chú ở đây mà
Anh mở cửa trong và chúng tôi bước
vào phòng không có cửa sổ. Một ngọn đèn treo trên trần nhà bằng một sợi xích.
Grace poole cúi mình trên lò sưởi, chiếc lò được một tấm chắn bằng sắt lớn che
kín. Chị ta đang quậy cái gì trong bình trên lò sưởi
Trong bóng tối ở cuốn phòng, một
sinh vật đang chạy lui chạy tới, bởi vì thoạt tiên chúng tôi không biết nó là
vật hay là người, chỉ biết hình như nó đi trên bốn chân. Mặc dù nó mặc áo quần,
nó vẫn gầm lên như một con thú hoang kỳ lạ. Tóc đen, rối bời như cái bờm một
con thú, che kín đầu và mặt nó.
Rochester nói:
- Xin chào chị Poole, hôm nay cô ta
khỏe chứ?
Chị Grace đáp:
- Hôm nay chúng tôi khỏe thưa
ông.Xin cám ơn ông. Bà ấy bẳn gắt nhưng không hung dữ.
Một tiếng hét lớn trả lời cho nhận
xét của chị. Con vật đứng dậy và bây giờ nó đứng trên hai chân sau.
Chị Grace Poole báo động:
- A, thưa ông, bà thấy ông rồi đấy.
ông hãy coi chừng
Rochester nói:
- Chỉ một lát thôi, chị Grace ạ
Người điên kêu rống lên, rẽ tóc sang
hai bên, nhìn chằm chằm mấy người khác. Qúa xúc động, tôi nhận ra khuôn mặt tím
ngắt man rợ ấy, dáng dấp gớm ghiếc ấy.
Chị Poole tiến tới phía chúng tôi:
- ông không biết được bà ấy có vũ
khí gì đâu, thưa ông. Bà ấy thủ đoạn lắm.
Rochester nói:
- Tôi chắc bà không có dao. Tôi đã
đề phòng rồi
Mason nói, giọng lo sợ:
- Chúng ta nên đi khỏi đây thôi.
Bỗng Grace la lên:
- Coi chừng!
Ba ngừời đàn ông tháo lui, Rochester
đẩy tôi ra sau lưng anh. Đúng lúc ấy người điên chồm lên anh, hai tay siết cổ
anh, lấy răng cắn má anh.Hai ngưới vật lộn, bà ta to lớn và rất mạnh. Dù anh
khỏe mạnh, bà ta cũng khoến anh gần ngộp thở. Anh có thể tát cho bà ta thả anh
ra, nhưng anh không muốn đánh bà, chỉ vặn tay để bà buông cổ anh ra mà thôi.
Cuối cùng, anh nắm chặt hai cánh tay
người điên. Grace đem đến sợi dây, và hai người buộc bà ta vào chiếc ghế. Ba ta
la hét vùng vẫy, tiếng ồn làm cho khách đang đứng xem khiếp đảm.
Rochester quay lại nói với chúng
tôi:
- Đấy, vợ tôi đấy! Đó là vòng tay âu
yếm dành cho tôi, tình thương dịu ngọt dành cho những lúc nhàn nhã của tôi! Còn
đây là người tôi ao ước lấy làm vợ(anh đặt bàn tay lên vai tôi), người con gái
đang đứng nghiêm trang, yên lặng trước cửa địa ngục này, đang nhìn những cử chỉ
hung bạo của một con qủy. Thưa các ông Wood, Briggs, qúy vị hãy nhìn sự khác
nhau giữa họ. Hãy so sánh đôi mắt trong sáng này với đôi mắt điên dại đằng kia,
so sánh khuôn mặt này với khuôn mặt qủy sứ kia! Hãy xét cho tôi, ông mục sư của
nhà thờ và ông luật sư của luật pháp! Bây giờ xin qúy vị hãy đi đi. Tôi phải
nhốt cái vật qúy giá của tôi lại.
Chúng tôi đi ra khỏi cái phòng đáng
sợ ấy. Rochester ở nán lại để dặn dò chị Grace thêm.
Khi đi xuống cầu thang, ông luật sư
nói với tôi:
- Thưa cô, cô không đáng trách. ông
chú của cô chắc sẽ hài lòng khi nghe tin này, nếu ông vẫn còn sống khi ông
mason trở lại Madeira
Nghe thế, tôi đứng yên giữa hành
lang rộng, hết sức ngạc nhiên, tôi bèn hỏi:
- Chú tôi ư? Chú ra sao? ông biết
chú ấy à?
- ông Mason biết. ông ấy buôn bán
với ông Eyre nhiếu năm naỵ Khi chú cô nhận được thư cô báo tin cô sắp làm đám
cưới với ông Rochester, thì ông Mason tình cờ có mặt ở Madeira, trên đường đi
Jamaicạ Chắc cô cũng nghĩ ra rằng ông Mason đương nhiên phải tiết lộ cho chú cô
nghe việc ông Rochester đã cưới chị ông ấy trước đây.
Tôi lắng nghe. Số phận thật độc ác
và lạ kỳ đã xui tôi gửi thư cho chú để ông đóng một vai trò quan trọng trong
việc tiết lộ câu chuyệnhôm naỵ Nhưng ông Briggs lại nói tiếp:
- Thưa cô Eyre, tôi rất buồn khi báo
cho cô biết, chú cô hiện bệnh rất nặng, ông đang ở trong tình trạng nguy kịch.
ông ấy yêu cầu ông Mason phải tranh thủ thời giờ để đến đây ngăn cản cuộc hôn
nhân sai trái này. Việc xảy ra thật đáng tiếc cho cô, và chắc đã làm cho cô xúc
động, nhưng tôi lại vui thích và ông ta đã đến đúng giờ. ông ấy đến nhờ tôi
giúp đỡ và tôi đã bằng lòng tham gia giải quyết công việc này. Tôi muốn khuyên
cô nên theo ông mason đi Madeira, nhưng tôi lại sợ chú cô không bình pghục
được. tốt hơn là nên đợi đếnkhi nhận được tin tức mới.
ông Mason vào phòng khách với chúng
tôi. ông Briggs quay qua hỏi:
Còn ở lại làm gì nữa không?
Mason lộ vẻ lo âu:
- Không, không. Chúng mình đi thôi.
Không đợi chào Rochester, cả hai bỏ
đi. ông mục sư nán lại một chút rồi cũng bỏ đi.
Tôi lên phòng, đóng kín cửa lại. Không
khóc vì tôi vẫn bình tĩnh, nhưng tôi cởi hết áo cưới, cới khăn che, và thay lại
áo quần cũ tôi mặchôm quạ Tôi suy nghĩ đến việc phải làm.
Tôi ngồi xuống ghế, để hai tay lên
bàn, tửa đầu vào lòng hai bàn taỵ Bây giờ tôi phải thực sự đối diện với hoàn cảnh
trước mắt.
Jane Eyre hôm qua đâu rồi? Cuộc đời
và hy vọng của cô ta đâu rồi? Tương lai của cô ta ra sao?Cô đã là một người đàn
bà hạnh phúc, hăng hái, gần thành một cô dâu, bây giờ cô trở lại là một cô gái
đơn độc, lạnh lùng, thất vọng. Một cơn giá lạnh mùa đông đã xảy ra vào lúc ấm
áp của tiết trung hạ, những hy vọng đáng yêu đáng mến của tôi hôm qua đang đơm
hoa kết trái thì hôm nay héo úa lạnh lùng, hết sinh khí và bất động. Niềm tin
của tôi vào ông Rochester đã chết, đã bị hủy diệt. Tôi không có tương lai nữa.
Tôi không tả hết những giờ phút đắng
cay ấy được. Thật như linh hồn tôi đang chìm đắm trong bể nước, và lũ lụt đang
cuốn phăng tôi đi.
Chương
18 . Quyết Định
Suốt cả buổi chiều,đôi lúc tôi ngẩng
đầu, nhận ra mặt trời bắt đầu lặn ở phương Tây. Tôi ngẫm nghĩ:"Mình phải
làm gì đây?". Tôi lại tự trả lời:" Bỏ Thornfield ngay tức khắc".
Nhưng tôi thấy khó qúa! Cho dù tôi
không lấy được Edward Rochester đi nữa, cho dù tôi có bớt lo âu về cuộc hôn
nhân này đến mấy đi nữa, thì cái việc nghĩ đến phải xa anh, bỏ anh mà đi đã làm
cho tôi không tài nào chịu đựng nổi
Tôi đắn đo suy nghĩ, dằn vặt mình.
Tôi muốn lăn ra, ngã bệnh đi, để ở lại, để tránh khỏi những đau đớn hơn. Nhưng
lương tâm cứ nhắc nhở tôi phải ra đi tức khắc. Phải quết định sao đây? Đi đâu
bây giờ?
Tôi đứng dậy. Tôi thấy người yếu,
mệt mỏi vì suốt ngày tôi có ăn uống gì đâu. Mở cửa, tôi bước ra ngoài, bỗng tôi
vấp phải cái gì đó khiến tôi lảo đảo người. Tôi kiệt sức nên té nhào tới trước,
nhưng có một cánh tay đã đưa ra đón lấy tôi. Rochester đang ngồi trên một chiếc
ghế gần cửa. Anh nói:
- Cuối cùng thì em đã ra. Anh không
nghe một tiếng. Anh định đợi năm phút nữa mà vẫn không nghe động tĩnh, thì chắc
là anh phải cạy khoá như một tên trộm. Tại sao em lại khóa cửa, buồn phiền một
mình?Anh qúa mong em trút hết giận dữ lên đầu anh.Anh đợi thấy cảnh tượng ấy.
Anh chuẩn bị thấy em khóc và anh rất thèm thấy nước mắt em trào ra trên cánh
tay anh. Nhưng em đã không khóc tí nào hết!
Anh đặt tôi ngồi xuống chiếc ghế,
còn anh thì đứng khom mình nhìn tôi. Anh lại nói:
- Nào Jane, em không nói một lời trách
móc ửKhông một lời đay nghiến ư? Em chỉ ngồi đấy, yên lặng, buồn bã nhìn anh
thôi ư? Jane à, anh không hề muốn làm em tổn thương như thế này đâu! Nếu có kẻ
nào nuôi độc nhất một con cừu cái nhỏ nhắn, hắn yêu mến như yêu con ruột mính,
hắn cho ăn bánh mì của hắn, hắn nâng niu trong vòng tay của hqắn, rồi bỗng sơ
ý, hắn giết chết con vật thân yêu, anh chắc hắn cũng không ân hận bằng anh đâu.
Jane, em có tha thứ được cho anh không?
Thưa các bạn đọc, tôi đã tha thứ cho
anh liền.Giọng anh ngẹn ngào, mắt anh ănnăn, tình yêu bất biến trên khuôn mặt
anh, tôi làm sao không tha thứ cho anh được. Không lời nói, không hành động,
nhưng tôi tha thứ cho anh bằng chính trái tim tôi.
Anh có vẻ buồn bã, phân vân trước
thái độ im lặng triền miên của tôi.Anh bèn hỏi:
- Em cho anh là tên đểu cáng ư, Janẻ
- Đúng thế
- Nói toạc ra đi, em! Đừng thương
tiếc gì anh hết!
- Em không nói ra được. Em mệt qúa,
yếu quá. Cho em tí nước uống.
Anh cúi xuống ẵm lấy tôi, rồi anh đi
xuống cầu thang. Thoạt tiên, tôi không bết anh đưa tôi đi đâu, nhưng rồi tôi
cảm thấy hơi ấm của lò sưởi.Anh cho tôi nhấp tí rượu vang, anh cho tôi ăn chút
đỉnh, tôi từ từ tỉnh táo lại.
Tôi nhận ra mình đang ở trong thư
viện, ngồi trong chiếc ghế của anh, còn anh thì đứng ngay bên cạnh tôi.
Tôi thầm nghĩ:"Nếu tôi chết
ngay bây giờ, tôi không đau khổ gì hết, lại còn rất tốt cho tôi nữa! Không tài
nào tôi xa anh được. Tôi đã quyết bỏ đi, mà tôi không làm, kông làm được!"
Tôi nghe anh hỏi:
- Em khoẻ chưa, Janẻ
- Rồi, em sắp bình phục lại rồi.
Anh cho tôi uống thêm rượu vang, rồi
anh đi lui đi tới trong gian phòng một hồi lâu. Rồi anh dừng lại, cúi mình định
hôn tôi. Tôi tránh mặt không cho anh hôn
- Kià, em không hôn anh ửA! Em không
hôn thằng chồng của Berth Mason, phải không nào?
Tôi bảo anh:
- Bây giờ sự thể đã thay đổi rồi, em
cũng phải đổi thaỵ Anh phải tìm cho Adela một nữ gia sư khác
Anh nói cương quyết:
- Adela phải tới trường. Anh đã
quyết rồi. Chúng mình không ở đây được nữa đâu. Anh đã sai lầm khi để em ở
Thornfield Hall. Giấu Bertha ở đây cũng thật là ác đấy, nhưng anh không thể làm
gì khác hơn. Anh có một ngôi nhà xưa ở Ferndean, anh có thể che giấu chuyện bí
mật này rất kín đáo, nhưng ngôi nhà này khổ cái là tối tăm ẩm ướt. Anh không
đang tâm nhốt cô ta ở đấy. Tuy nhiên, khi mà cô ả thiêu người ta trên giường,
cố đâm người ta, cố cắn chết người ta, thì...
- Thưa ông, ông đã nói đến bà ta một
cách hận thù qúa rồi đấy. Thật là độc ác, bà ta điên mà!
- Jane, người yêu bé nhỏ của anh ơi,
em không hiểu đâu. không phải cô ta điên mà anh ghét bỏ đâu. Giả sử em điên, em
tưởng anh cũng ghét bỏ em sao?
- Em nghĩ anh cũng ghét em thôi.
- Thế là em chẳng hiểu gì anh hết,
em chẳng hiểu mối tình ấp ủ trong anh. Mỗi một phần cơ thể của em đối với anh,
nó thân thương như là chính cơ thể của anh, cái đau đớn khổ sở của em cũng đều
thân thương đối với anh, và nếu nó có hư hao thì nó vẫn là kho báu của anh.
Jane, em gắng chịu đựng dưới mái nhà này một đêm nữa thôi, thì rồi sẽ vĩnh viễn
giã từ cảnh khốn khổ, kinh hoàng ở đây!Anh có chỗ để chúng ta đến đó sống bình
anh, yên ổn, không ai quấy rầy nữa
Tôi nói:
- Anh hãy mang theo Adela với anh
đi, bé sẽ bầu bạn với anh.
- Jane, em muốn nói gì thế? anh đã
bảo em anh sẽ gửi nó đến trường mà.
- Thế thì cảnh đơn côi sẽ làm cho
anh buồn lắm đấy!
Anh giận dữ la lên:
- Đơn côi! Chính em sẽ cùng anh sống
an lành và chính em sẽ làm cho anh hết đơn côi mà. Em không hiểu sao?
Tôi lắc đầu và cố tỏ ra bình tĩnh.
Rochester lại đi lui đi tới trong phòng. Anh bắt đầu cho thấy vẻ chán chường
mệt mỏi, anh cất giọng nói:
- Tôi qúa khổ, không bàn tính được
nữa rồi!Quá rắc rối, quá gay go lắm rồi. Tôi đã biết tính tình em khó khăn lắm
mà
Anh dừng lại trước mặt tôi rồi cúi
xuống hét to lên:
- Jane, em có nghe anh nói không?
Nếu em không chịu nghe, anh sẽ hung bạo lắm đấy.
Tôi đã nhận ra anh mất bình tĩnh.
Tôi phải trấn tĩnh anh đã. Tôi nắm lấy hai bàn tay nắm chặt của anh, kéo mấy
ngón tay ra rồi bình tĩnh nói với anh:
- Anh ngồi xuống đây. Em sẽ nói
chuyện với anh, và em sẽ nghe anh nói
Anh ngồi xuống bên tôi. Nhưng tôi
không để anh kịp nói, tôi đã bật khóc nức nở. Tôi vừa thổn thức vưà bảo anh,
tôi chỉ nín khóc khi nào anh hết giận dữ như thế. Anh nói:
- Anh có giận đâu, Janẹ Anh chỉ qúa
yêu em mà thôi. Trông khuôn mặt xanh xao, lạnh lùng, qủa quyết của em, anh
không tài nào chịu được. Thôi bây giờ lau nước mắt đi em!
Anh bình tĩnh trở lại và tôi cũng
bắt đầu bình tĩnh hơn. Anh cố kéo đầu tôi dựa vào vai anh, nhưng tôikhông chịu.
Rồi anh kéo tôi sát vào anh, tôi bảo không. Anh hết sức buồn rầu, bảo tôi:
- Jane, Jane! Em không yêu anh nữa
sao? Em muốn anh trở về với vợ anh sao? Anh không xứng đáng làm chồng em hay
sao, em xua đuổi anh như một người ghê tởm hay sao?
Lời lẽ làm tôi đau đớn vô cùng. tôi
xác nhận với anh:
- Em yêu anh chứ, yêu hơn bao giờ
hết. Nhưng đây là lần cuối em nói thế
- Lần cuối à Janẻ Em muốn nói gì
thế?
- Em phải xa Adela và Thornfield. Em
phải bắt đầu cuộc sống mới với những người mới, với khung cảnh mới.
- Tất nhiên rồi! Anh đã bảo tất
nhiên là phải như vậy mà. Em vẫn là vợ anh, em sẽ mang tên bà Rochester. Anh sẽ
để em ở trong một biệt thự trắng ở trên bờ biển miền Nam nước Pháp, ở đó em sẽ
sống hạnh phhúc, sẽ cách biệt với thế giới độc ác này. Tại sao em lại lắc đầu?
Jane, em phải biết điều chứ, nếu không anh sẽ điên lên thật đấy.
- ông ơi, vợ ông còn sống đấy. Có ý
đồ khác là ác độc lắm
Rochester càng lúc càng dao động,
rồi anh cố trấn tĩnh, nói:
- Anh là một thằng điên! Anh không
chịu nói cho em biết sự thật về cuộc hôn nhân bất hạnh của anh. Không phải do
anh tạo nên, mà do sắp xếp của gia đình.Để anh kể sự thật cho em nghe. Em muốnnghe
không?
- Muốn. Anh kể bao lâu em cũng nghe
- Jane, chắc em đã biết anh có một
người anh trai chứ?
- Biết, em nhớ có lần bà Fairfax đã
kể cho em biết
- Đấy, cha anh đã quyết không chia
gia tài của ông. Tất cả gia tài, ông muốn dành cho Rowland. Còn anh thì được
hưởng phần bằng cách lấy vợ giàu. Cha anh đã tìmc ho anh một kẻ hợp tác làm ăn:
ông Mason, chủ đồn điền kiêm thương gia ở Tây ấn. Cha anh cũng cho tìm hiểu và
biết ông Masdon này có một cậu con trai và một cô con gái, cô này có một số của
hồi môn là 30 ngàn bảng Anh. Khi anh tốt nghiệp Đại học xong thì anh được gửi
ngay sang Jamaica để bắt tay vào công việc hợp tác làm ăn, và để gặp cô gái.
Cha anh không nói gì về vấn đề tiền nong, mà ông chỉ cho anh biết rằng cô Mason
rất đẹp, cô nổi tiếng có nhan sắc ở Spanish town. Thực sự là vậy. Anh thấy cô
ta xin xắn, cao ráo, rám nắng và oai nghiêm. Gia đình cô ta muốn bảo đảm anh,
vì anh xuất thân trong một gia đình khá giả, và cô cũng vậy. Anh gặp cô ta
trong những buổi tiệc, ăn mặc lộng lẫy, có nhiều người ve vãn. Anh ít khi gặp
cô ta một mình, anh lóa mắt, bị lôi cuốn, anh say mệ Anh tưởng anh yêu cô tạ
Những giao tiếp của cô ta làm anh hăng hái, những kẻ theo đuổi cô kích thích
anh. Cô ta lôi cuốn anh, và anh cưới cô ta lập tức trước khi nhận ra sự chân
thực.
Anh chưa hề thấy mặt mẹ vợ anh, anh
cứ ngỡ bà đã chết. Nhưng sau tuần trăng mật anh mới thấy mình sai lầm: bà ta bị
điên và đang bị nhốt trong nhà thương điên. Gia đình còn một đứa em út nữa, một
thằng khờ, điếc đặc! Cha anh và anh trai của anh biết trõ việc này, nhưng họ
chỉ nghĩ đến 30 ngàn bảng Anh mà thôi.
Jane, anh đã cố quên sự nhục nhã và
nỗi ghê tởm của anh. Và anh đã sống 4 năm trời trên lầu với cô ta trong lúc tư
cách của cô ta ngày càng sa sút, tật xấu tăng dần, rượu chè, sa đọa, y như một
con vật. Sau 4 năm, anh được tin cha anh mất, rồi anh cả của anh qua đời bên
Anh. Thế là anh trở nên giàu có, nhưng lại nghèo về mặt khác, anh không được
yên ổn, anh không có được người bạn đời như ý muốn mà đã do cuộc hôn nhân bẩn
thỉu đem lại. Anh không muốn quan tâm đến người bạn đời bệnh hoạn nữa vì vợ anh
lúc ấy đã điên loạn, không cứu chữa được nữa. Anh thất vọng
Anh đã 26 tuổi, lại sống với một mụ
điên già hơn anh. Chẳng lẽ mãn đời anh phải thấy và nghe bà ấy lản nhải suốt
ngày, phải chịu đựng hít thở bầu không khí ô uế bà ta gây nên cho anh. Một đêm,
ở Jamaica, qúa thất vọng, anh bèn mở rương ra lấy khẩu súng mà anh đã cất từ
lâu, anh định quyên sinh cho xong. Anh ra bến tàu, nhìn ra biển lần cuối để giã
biệt quê hương. Anh suy nghĩ mông lung, bỗng như có một tiếng nói từ trong lòng
anh thốt lên:" Hãy về sống một đời sống mới ở Châu âu. Anh có thể giữ
người vợ bất hạnh của anh sống ở Thornfield yên ổn. Cho người săn sóc canh giữ,
rồi anh cứ đi chu du đến những vùng đất mới và kết bạn mới, không ai thắc mắc
gì hết. Chấm dứt tiếp xúc với bà ta, cho bà ở yên ổn thoải mái ở Thornfield, để
bà đấy"
Anh bèn thuê Grace Poolẹ Chị ta vớ
bác sĩ Carter là những người anh rất tin tưởng. Họ giữ kín chuyện bí mật này,
không hở môi cho ai biết hết. Thôi bây giờ đừng sống với qúa khứ nữa. tương lai
có lẽ nhẹ nhàng hơn, Jane à. Anh đã tìm ra người anh yêu mến chân thành, anh đã
gặp em. Em là ý trung nhân của anh, là thiên thần hộ mệnh của anh.Anh đã qúa
yêu em, cả cuộc sống của anh đều đặt vào em. Jane, anh xin em nhận những lời
chân thật của anh, cùng anh sống đến trọn đời. Em hãy cho anh đời em. Jane, cho
anh xin đi!
Chúng tôi ngồi yên lặng một lát
- Sao em lặng thinh thế, Janẻ
Giây phút thật khủng khiếp cho tôi,
tôi bị dằn vặt, tôi thất vọng. Không một người đàn bà nào muốn yêu mà được yêu
như tôi lúc ấy, tôi biết anh tuyệt đối tôn thờ tôi. Tuy nhiên, tôi phải từ bỏ
cả tình yêu lẫn hạnh phúc, vì nhiệm vụ của tôi đã rõ ràng, tôi phải ra đi
Anh lại nói:
- Jane, em hãy hứa với anh đi. Em
hãy nói: Em là của anh", nói đi em!
- Anh Rochester, em không thể là của
anh. Anh phải đi con đường của anh, và em phải đi con đường của em.
- Nhưng mà Jane này, không thể được!
Như thế thì quá ác với anh. Không yêu anh là qúa ác với anh!
Tôi không nhượng bộ, tôi nói:
- Nhưng nghe theo anh thì cũng qúa
đau đớn cho em
Mặt anh trông đờ đẫn ra, anh bảo
tôi:
- Jane, có lúc, nếu em đi rồi, hãy
nghĩ đến anh. Tất cả hạnh phúc của anh sẽ đi theo em. Em đi rồi, thử hỏi anh
còn lại gì? Người điên ở trên lầu. Anh sẽ làm gì hở Janẻ Anh sẽ tìm người bạn
đời ở đâu, anh sẽ tìm hy vọng và bình anh ở đâu?
- Anh hãy làm như em, tin vào Chúa
và tin vào mình
- Thế là em không ở lại hở JanẻEm
đành buộc anh phải sống cô độc và đau đớn ửEm đành xô anh vào cõi vô vọng, vào
cảnh đau buồn ửHả, Jane, rồi ai săn sóc em? Em có bà con cật ruột để nương nhờ
đâu, sao không sống bên anh hả?
Thực vậy, trong tôi bắt đầu dao
động. Tôi cảm thấy mềm yếu." Hãy nghĩ đến nỗi thống khổ của anh ấy đi,
nghĩ đến nỗi cô đơn của anh ấy đi, nghĩ đến sự nguy hiểm cho anh ấy đi. Hãy
nghĩ đếnnỗi thất vọng của anh đi!Hãy cứu vớt anh, hãy yêu anh! Ai sẽ săn sóc
cho tả Ai sẽ đau đớn khi ta đã đi rồi?"
Nhưng trong tôi cũng có câu trả lời
rất cương quyết, rõ ràng, không khoan nhượng:" Ta săn sóc ta, ta phải biết
tự trọng, ta phải giữ đúng luật trời và luật người"
Rochester thấy vẻ cương quyết
trênmặt tôi. Anh đi qua đi lại trong phòng thêm một lượt nữa, rồi dừng lại, nắm
lấy cánh tay tôi, anh nhìn tôi với đôi mắt đắm đuối. Nhưng tôi nhìn lại anh, lì
lợm khiến tôi phải buông anh ra
Anh thốt lên
- Không ai lại vừa yếu đuối vừa mạnh
mẽ như em! Anh thích ý chí, nghị lực của em, cũng như đức hạnh và lòng trong
trắng của em! Nếu anh bắt buộc em thì cũng như không vì linh hồn em đã đi rồi.
ôi Jane, em không thiết gì đến tình yêu của anh, đến nỗi buồn phiền của anh.
Những nguyện cầu của anh đều vô ích cả sao?
Tôi chỉ nói:
- Em phải đi
- Em bỏ anh thật sao?
- Vâng, phải bỏ
Anh quay đi, đến nằm dài trên trường
kỷ, khóc sướt mướt, lấy tay che mặt, kêu than:
- ôi Jane, hy vọng của ta, tình yêu
của ta!
Tôi đã ra đến cửa, bèn quay lại. Tôi
qùy xuống bên anh, hôn lên má anh, vuốt tóc anh. Tôi nói:
- Xin Chúa ban phước lành cho anh,
xin Chúa che chở anh tránh khỏi tai họa và sai lầm. Xin Chúa dẫn dắt anh, an ủi
anh, thưởng công anh vì đã tốt với em trong những ngày quạ
Anh đáp:
- Tình yêu của em mới thưởng công
anh xứng đáng nhất. Nếu không, tim anh sẽ tan nát! ôi,Jane! Jane!Jane!
Anh vùng dậy, dang hai cánh tay ra.
Nhưng tôi đã tránh anh, chạy nhanh ra khỏi phòng.
Khi bỏ anh đi, tôi đã kêu lên trong
lòng:"Giã biệt!". âm thanh vọng lại càng làm tôi thất vọng thêm:Giã
biệt, giã biệt...
Chương
19 . Cuộc Sống Mới
Đêm ấy, tôi không còn nghĩ đến
chuyện ngủ nghê nữa, tôi quyết định phải ra đi ngay, tôi phải xa lánh ngay mọi
cám dỗ níu kéo tôi lại
Đêm tháng bảy ngắn, sau nửa đêm không
bao lâu sẽ thấy bình minh ló dạng. Tôi lấy một ít áo quần, một chiếc mề đay và
một chiếc nhẫn, gói một gói, rồi tôi cởi chiếc vòng cổ bằng ngọc trai ra, chiếc
vòng cổ mà Rochester đã tặng tôi cách đây mấy hôm, tặng cho cô dâu mà giờ đã
tan thành mây khói. Tôi lấy cái ví đựng tiền của tôi(chỉ vỏn vẹn 20 Siling),
chuẩn bị sẵn sàng, một tay xách đôi giày, tôi lặng lẽ rời khỏi phòng ngủ
Tôi rón rén đi qua phòng bà Fairfax,
tôi nói trong lòng:" Vĩnh biệt bà Fairfax tốt bụng", rồi khi đi qua
phòng giữ trẻ, tôi lại tự bảo:" Vĩnh biệt bé Adela"
Tim tôi muốn ngừng đập khi đi qua
phòng của Rochester. Anh không ngủ, vì tôi nghe tiếng bước chân anh trong
phòng. Tôi đưa tay về phía cửa rồi rút tay lại, rồi đi xuống cầu thang và ra
khỏi ngôi nhà yên tĩnh.
Cách một dặm đường, bên kia cánh
đồng là con đường chạy ngược chiều với hướng về Millcotẹ Tôi thường tự hỏi,
không biết con đường ấy d6ãn về đâu, nhưng bây giờ thì tôi phải biết. Trước hết
nó dẫn tôi đến chỗ có xe để đi khỏi Thornfield, với 20 siling, tôi đủ sức đi hết
đoạn đường.
Hôm sau, khi chiếc xe đỗ lại cho tôi
xuống thì tôi lạc lối, lạc lối trong tình cảnh đơn độc, không dồng xu dính túi.
Tôi đi lang thang, kiếm việc để làm, để co cái ăn, ngay cả việc đổi găng tay,
đổi túi xách, đổi cả khăn mù- xoa để lấy thức ăn
Nhưng người ta lại hay nghi ngại kẻ
ăn xin,mà kẻ ăn xin có tư cách lại càng bị nghi ngờ gấp hai lần. Tôi thấy hết
hy vọng. Sau hai ngày một đêm thì tôi xỉu trên bậc cửa một ngôi nhà vắng vẻ.
Ánh sáng lọt qua cửa sổ, chiếu ra màn mưa. Tôi không thể đi xa hơn được nữa,
tôi đói và yếu qúa. Tôi quyết định gõ cửa ngôi nhà
Trời vẫn còn thương xót tôi, tôi
được đem vào nhà. Nằm trên giường ở trên lầu suốt ba ngày đêm, tôi không biết
thời gian và nơi chốn
Sau đó tôi biết mình đang ở trong
nhà của hai chị em tên là Daina và Mary Rivers. Hai người cùng ở với anh trai
là St John, một mục sựTôi kể cho họ nghe hoàn cảnh bất hạnh của tôi, nhưng tôi
giấu tên thật, tôi lấy tên là Jane Ellicotẹ Khi sức khỏe đã phục hồi sau mấy
ngày nghỉ ngơi, tôi xin mấy người bạn mới giúp tôi tìm công việc làm, để tôi có
thể đền đáp công ơn mà họ đã dành cho tôi ở tại Moor House
Tôi nói:
- Nếu không có chỗ dạy thì tôi xin
làm thợ maỵ Tôi cũng có thể giúp việc nhà, làm gia nhân, làm vú em. Miễn là các
bạn giúp tôi kiếm việc làm là được.
Sau một thời gian, ông Rivers bảo
tôi có một trường làng đang cần một giáo viên. Làng Morton nằm trong ngiáo xứ
của ông. Đó chỉ là một trường hỏ, lương chỉ 30 bảng Anh một năm, nhưng có một
căn nhà lá, 4 cái ghế sơn, một cái bàn, một cái giường, một cái tủ cho cô giáo.
Tôi cần gì hơn nữa? Đối với tôi, có một tổ ấm là đủ rồi.
Hàng tuần, hàng tháng trôi quạ Nhân
khi ông anh đến ở tạm trong giáo xứ của ông, hai chị em Rivers thấy ngôi nhà
rộng qúa, không quán xuyến nổi, họ bèn dời đến ngôi nhà lá gần đó.
Tôi thấy hài lòng được đảm trách dạy
dỗ ở trường Morton với hai chục học sinh. Tôi kết bạn mới và thường thăm viếng
gia đình Rivers, nhưng tôi vẫn thấy đơn côi, đau đớn mỗi khi nghĩ đến qúa khứ.
Tôi không luyến tiếc vì đã bỏ Thornfield mà đi, nhưng lòng tôi vẫn luôn thương
nhớ Rochester
Tôi sống êm ả ở Morton mấy tháng cho
đến một hôm tháng mười một, tôi nhận được tin mà nó đã làm cho đời tôi thay đổi
hơn cả cuộc đổi đời trước đây của tôi vào tháng bảy
Một buổi tối ông Rivers đến gọi tôi
ở căn nhà lá. Điều ông nói với tôi đã khiến tôi muốn ngừng thở. Kể lại toàn bộ
câu chuyện này e rằng cũng mất mấy trang giấy, tôi chỉ xin nêu tóm tắt mà thôi
Trước hết là ông đã phát hiện ra tôi
là Jane Eyrẹ Tôi đã ngu ngốc thử cái bút bằng cách viết tên của tôi lên giấy.
Thế là tôi phải thú thật tên thật của mình
Đối với ông Riveers, việc này khởi
đầu cho những phát hiện khác, mà một phát hiện quan trọng nhất là ông luật sư
Briggs đã hỏi ông có biết gì về nơi ăn chốn ở của một cô tên là Jane Eyre hay
không
ông Rivers nói tiếp cho tôi:
- Tôi cho cô biết rằng tên của Mẹ
tôi là Eyrẹ Bà có hai người em trai: một người là mục sư cưới cô Jane Reed ở
Gateshead(chính mẹ cô đấy cô Jane Eyre à)và người kia là John Eyre ở Madeira
Tôi lắng nghe ông ấy nói tiếp:
- Tháng tám vừa qua, ông Briggs viết
thư báo cho anh em tôi biết cậu đã mất ở Madeira, và cậu đã để hết gia tài lại
cho người con gái mồ côicủa người anh ruột của mình. Vừa rồi, ông Briggs lại
viết thư bảo rằng, kẻ thừa hưởng gia tài không biết bây giờ ở đâu, và hỏi chúng
tôi có biết gì về cô ta không. Một cái tên tình cờ viết trên giấy đã giúp tôi
tìm ra cô ấy. Cô biết kết qủa rồi đấy, và tôi rất hài lòng đem tin lành đến cho
cộ Cô giàu rồi đấy!
Tôi nói:
- Nhưng ông Rivers này, nghe tôi nói
đây. Cho tôi một lát để bình tĩnh đã
Tôi nghĩ một lúc rồi nói tiếp:
- ông bảo mẹ ông là chị của cha tôi?
- Vâng, đúng thế
- Vậy bà là cô của tôi?
- Đúng thế
- Cậu John của ông là chú John của
tôi ở Madeirạ Thế ra cả ba người là anh chị em họ của tôi, các người là con của
bà chị và tôi là con của ông anh của chú John?
- Chúng ta là anh chị em họ, đúng
thế
Tôi nhìn anh. Thế là tôi tìm ra một
người anh và hai chị gái họ của tôi! Một kẻ cô độc như tôi bỗng tìm ra bà con,
sung sướng biết bao! Lại giàu có nữa.Thật là một ân sủng quá lớn lao, lớn hơn
bất kỳ ai có vàng bạc châu báu gì hết. Tôi vỗ tay reo mừng, và tim tôi đập
thình thịch vì quá sung sướng
Tôi reo lên:
- ôi, tôi vui qúa, tôi vui qúa! Tôi
côi cút, bỗng tôi có ba người thân thuộc, trưởng thành!
Tôi đi lui đi tới trong phòng, hai
bàn tay nắm chặt rồi thả ra, tôi hồi hộp, tôi ngây ngất. St John Rivers đứng
nhìn tôi mỉm cười.Rồi anh nói:
-Có lẽ bây giờ cô muốn biết mình có
bao nhiêu chứ?
- Tôi có bao nhiêu?
- ôi, ít lắm! Họ bảo chỉ có 20 ngàn
bảng Anh, nhỏ thôi phải không?
Anh noí vừa ghẹo tôi như thế. Tôi
lặp lại:
- Hai chục ngàn bảng?
Trong phút chốc tôi như muốn ngừng
thở
Rivers ít khi cười, nhưng bây giờ
anh đã cười lớn và thoải mái. Anh nói:
- Này, cô trông giống như một kẻ vừa
phạm tội và tôi vừa vạch tội cho cô thấy
Tôi bảo:
- Nhưng đó qủa là một món tiền qúa
lớn. Anh có cho là có sự lầm lẫn trong việc này không?
- Không lầm lẫn gì hết, người ta
viết bằng chữ hẳn hòi, không viết bằng số
Tôi thấy mình như kẻ dự đại tiệc một
mình, trên bàn bày biện cho hàng trăm thực khách
Tôi lại đi lui đi tới trong gian
phòng, suy nghĩ công việc trước mắt, công việc phải làm. Những người bạn thân
ái đã cứu với đời tôi bây giờ là những người bạn duy nhất của tôi, và sau cái
tin này, họ là anh chị em họ của tôi, những người trong huyết tộc của tôi. Hai
chục ngàn bảng đem chia đều ra, mỗi người có năm ngàn, có phải ai cũng được
hưởng hạnh phúc cả không?
Thế là sự giàu có không còn làm cho
tôi thấy nặng nề nữa, đây là của thừa kế mà, con cháu phải cùng hưởng cùng vui.
Tôi quay lại nhìn Rivers, tôi nói:
- Ngày mai anh vui lòng viết thư báo
Diana và Mary mời hai người đến đây ngaỵ Daina từng bảo, họ chỉ cần có được một
ngàn bảng là họ đã thấy giàu rồi, vậy thì năm ngàn chắc các cô ấy thấy hài lòng
lắm
John Rivers phản đối:
- Cô phải dành nhiều thì giờ để suy
nghĩ cho kỹ chuyện này đã. Cô quá xúc động khi được tin này đấy thôi!
Tôi bảo anh:
- Anh thấy việc chia đều hai chục
ngàn bảng của một ông chú để lại cho ba cháu gái và một cháu trai để mỗi người
có năm ngàn là hợp lý quá đi chứ! Nếu em hưởng hết hai chục ngàn thì lương tâm
em cắn rứt lắm và em thấy khổ sở lắm. Vả lại, với năm ngàn, em thấy hài lòng
lắm rồi. Đừng tranh cãi nữa, đừng chống đối nữa!
St John lại nói:
- Nhưng mà tài sản là quyền của cộ
Cô hãy nghĩ đến vị trí xã hội của cô sau này, tôi muốn nói tới tương lai của cộ
Cô không thể...
Tôi chặn anh lại:
- Anh không tưởng tượng ra được em
đã ao ước từ lâu có tình chị em ruột thịt như thế nào đâu. Em chưa bao giờ có
một tổ ấm gia đình, chưa bao giờ có được một người anh trai và chị gái. Em
phải- em ao ước- em phải có anh chị em ngay bây giờ! Chúng ta hãy cùng nhau
sống ở Moor House!
Tôi không muốn kể lại chi tiết cuộc
tranh cãi của chúng tôi để ổn định vấn đề tôi mong muốn làm gì, chỉ biết là
cuối cùng thì tôi đã thắng. Di chúc đã được thu xếp lại, và gần đến mùa giáng
sinh thì chúng tôi đã sống chung với nhau hạnh phúc ở Moor House
Suốt tuần lễ giáng sinh, chúng tôi
hưởng không khí vui vẻ, ấm cúng của gia đình. Nhờ không gian thoáng mát, gia
đình tự do, cộng thêm bất thần trở nên giàu có, ba chúng tôi như kẻ đang thưởng
thức nhụy hoa thơm ngát của cuộc đời. Chúng tôi vui vẻ, sung sướng từ sáng cho
đến trưa, từ trưa cho đến tối
St John ít khi ở nhà. Giáo xứ của
anh qúa rộng, cư dân lại rải rác khắp nơi. Anh bận bịu thăm viếngngười nghèo và
người bệnh suốt ngày. Anh làm việc đạo rất chăm chỉ, nghiêm túc.
Một cô giáo khác đến thay tôi, nhưng
đôi lúc tôi lại đến trường và tham gia dạy dỗ suốt tuần. ở nhà, chúng tôi có
cuộc sống đều đặn, trầm trầm, suốt những ngày dài của tiết xuân
Thưa các bạn đọc, chắc các bạn đã
cho rằng tôi đã quênRochester khi tôi đã có cuộc sống mới, có tiền tài. Không
đâu, không một phút giây nào tôi lại có thể quên anh. Tôi cứ nôn nóng muốn biết
anh ra sao trong suốt thơi gian tôi dạy ở Morton, và giờ đây, hằng đêm yên lành
ngủ trong phòng ngủ ở Moor House, tôi cứ nghĩ mãi đến anh
Nhân khi viết thư cho ông Briggs về
việc sửa lại di chúc để hưởng gia tài, tôi có hỏi ông có biết tin tức gì về ông
Rochester hay không thì ông bảo không biết gì hết. Tôi viết thư cho bà Fairfax,
không có hồi âm. Hai tháng nữa trôi qua, ngày này qua ngày khác, tôi chẳng nhận
thư từ gì cả. Tôi bỗng đâm ra lo lắng, rồi tôi viết thư thẳng đến Thornfield.
Nửa năm trôi qua trong đợi chờ vô
vọng, tôi hết hy vọng nhận được tin tức, và tôi cảm thấy lo lắng vô cùng.
Trong lúc đó, tôi nhận ra càng lúc
St John Rivers càng tỏ ra thân mật với tôi, rồi một hôm anh bảo tôi là anh ước
trở thành một vị thừa sai tôn giáo, để làm việc giúp người nghèo ở phương đông
Một hôm, tôi đi dạo với anh ở ngoài
vườn vào, tôi thấy Diana Rivers đang đứng nơi cửa sổ, có vẻ trầm tư. Đặt một
bàn tay lên vai tôi, cô bảo:
- Jane, em với St John nói chuyện gì
mà lắm thế? Anh ấy rất quan tâm đến em, có bao giờ anh ấy quan tâm đến ai như
vậy đâu. Anh ấy yêu em, phải không Janẻ
- Không chị ạ, anh ấy không yêu em,
anh ấy chỉ yêu cầu em làm vợ anh ấy thôi.
- Em có muốn lấy anh ấy không Janẻ
Nếu thế thì anh ấy sẽ ở lại nước Anh và không phải đi nước ngoài đấy
- Tôi đáp:
- Khó khăn lắm, Diana à! Anh ấy chỉ
muốn đề nghị em hợp tác với anh trong công việc truyền giáo của anh thôi
Chị ấy kêu lên:
- Thật quái gở, em không bằng lòng
chứ, Janẻ Sức khỏe em đâu chịu nổi khí hậu ở bên ấy!
- Em không nhận làm vợ anh ấy. Em sợ
anh ấy không bao giờ tha thứ cho em về việc này. Tuy nhiên em chấp nhận đi theo
anh ấy như một người em gái mà thôi
- Thật là điên, Jane à. Anh ấy là
một người anhyêu dấu, một người đàn ông tốt, nhưng anh lại quên mất tình cảm
của người khác. Không được đâu
Nhưng tôi thì lại vẫn giữ ý kiến ấy.
Điều bất khả đã nhanh chóng thành điều khả thi khi St John gợi cho tôi ý nghĩ
rằng anh cần tôi giúp đỡ công việc của anh biết bao! Tôi đã mơ ước làm điều
thiện từ lâu, và tôi cần nguyện sao có ngày tôi làm được việc đó.
Hôm đó vào một ngày cuối tháng năm,
ngôi nhà hoàn toàn im vắng, vì tôi đọc sách trêngiường đã khuya. Tôi có cảm
giác như ai đang chờ đợi tôi, cảm giác vướng vít trong không gian. Rồi bỗng
nhiên tôi lại thấy mình qúa xúc động, sự xúc động làm tim tôi thổn thức như có
một luồng điện nào đó chạy vào người tôi, khiến tôi thấy khó chịu trong người
Tôi nghe có tiếng gọi:" Jane!
Jane! Jane!"
Hết, không có gì nữa. Tôi làu bàu:
- ôi, Trời Đất! Cái gì thế không
biết
Tiếng gọi không phải ở trong phòng,
cũng không phải ở trong nhà, cũng không phải ở ngoài vườn. Qủa thật tôi đã nghe
tiếng gọi nhưngkhông biết được nó từ đâu tới. Bởi vì đó là tiếng gọi của Edward
Rochester, tiếng gọi đớn đau, buồn phiền, tiếng gọi cô liêu,khẩn thiết, tôi la
lên:
- Em đến đây! Hãy đợi em! Em đến
đây!
Tôi chạy ra khỏi phòng, chạy dọc
theo hành lang. Trời tối thui! Tôi chạy ra vườn, vườn vắng hoẹ Chỉ có gió rì
rào trong những cành thông, chỉ có bãi đất trống vắng vẻ, chỉ có sự tĩnh mịch
của đêm khuya
Tôi trở lại phòng và sửa soạn đi ngủ
lại
Tôi nằm xuống. Trước khi đi ngủ, tôi
đã quyết định.Tôi yên ổn trong lòng, nhưng ngày mài chắc là gay cấn rồi đấy.
Chương
20 . Vòng Tay Của Rochester
Đầu tháng Sáu mà mưa lại ào ạt trên
cửa sổ khi tôi thức dậy vào lúc trời sáng.
Tôi lại nhớ đến tiếng gọi mà tôi đã
nghe. Tôi lại tự hỏi không biết nó từ đâu đến. Mê sảng chăng? Dù gì đi nữa thì
nó cũng mở toang mọi ngóc ngách của linh hồn tôi như một trận động đất mở cửa
nhà tù vậy. Tôi thấy mình phải đi Thornfield
Lúc ăn điểm tâm, tôi báo cho hai chị
biết tôi sẽ đi một chuyến du hành và có thể tôi vắng khoảng năm hôm
Hai chị tôi hỏi:
- Đi một mình sao Janẻ
- Vâng, một mình
Tôi nói là tôi vừa nhận được tin một
người bạn mà tôi hằng mong từ bấy lâu nay
Diana lo lắng cho tôi có khỏe để đi
không vì chị ấy thấy tôi xanh xao quá. Nhưng khi nghe tôi trả lời là không có
gì đáng lo, thì chị mới yên tâm và vui vẻ để tôi ra đi
Vào lúc xế trưa, tôi đến một nơi gọi
là Whitcross. Tôi đứng đấy để đợi xe đi Thornfield. Rồi tôi nghe tiếng vó ngựa
từ xa vọng đến. Chính là chiếc xe ngực đã chở tôi một năm trước đây. Trời, nhớ
khi ấy tôi đơn côi, cô độc, vô vọng biết bao nhiêu!
Tôi bước lên thì xe liền lăn bámh.
Lần này thì tôi đủ tiền mua vé hẳn hoi, chứ không khốn đốn như lần ra đi. Tôi
cảm thấy như con bồ câu quay lại nhà sau một năm xa vắng ở ngoại quốc, khi
chiếc xe trên đường hướng về Thornfield.
Chuyến đi mất 36 giờ liền, tôi qúa
mệt mỏi khi chiếc xe dừng lại vào lúc sáng sớm trước một cái quán tên là "
Vòng tay Rochester". Tim tôi đập mạnh, tôi biết mình đã gần Thornfield.
Tôi nghĩ, thế là chuyến đi đã chấm dứt.
Tôi gọi cửa, chủ quán liền mở cửa,
tôi thu xếp gửi hành lý lại trong quán. Một ý nghĩ chợt hiện đến trong tâm trí
tôi, là nhỡ Rochester đi ngoại quốc rồi thì sao! Tôi tự bảo:" Hay là cứ
hỏi người trong quán thử xem, họ sẽ cho mình biết chứ gì".Nhưng tôi lại sợ
phải nghe câu trả lời không hay! Cuối cùng tôi quyết phải xem tận mắt ngôi nhà
cho biết
Tôi đi qua cánh đồng. Tôi cứ nhìn
tới trước, trông cho mau đến. Cây cối, đồng cỏ lấp lánh dưới ánh nắng ban mai
sau cơn mưa trông tươi mát vô cùng.Cuối cùng tôi đã đến gần cánh rừng, tôi đã nghe
được tiếng qụa kêu trong đám cây dụ Khi đã vượt qua cánh đồng cuối cùng, tôi
thấy vườn cây ăn trái hiện ra trước mắt tôi
Tôi định bụng:
- Trước hết là phải thấy toàn bộ mặt
trước ngôi nhà cái đã, sau đó mới thấy được cửa sổ phòng anh. Biết đâu anh đang
đứng ở cửa sổ nhìn ra, hay anh có thể đang dạo chơi trong vườn trước khi ăn
điểm tâm. Giá như nhìn thấy anh nhỉ, cho dù thấy một lát cũng được.
Dọc theo phía sau khu vườn, có một
bức tường, có cửa mở ra cánh đồng cỏ. Hai bên cổng là hai trụ đá lớn, bên trên
một dãy nhà đá tròn nằm ngang như một vương miện. Nép mình sau một trụ đá, tôi
định đứng lặnbg yên nhìn quanh một lượt để khỏi có ai nhìn thấy mình
Tôi nhìn, lòng bồi hồi xúc động. Tôi
cứ ngỡ mình sẽ thấy một ngôi nhà trang nghiêm thì tôi chỉ thấy một đống đổ nát
hoang tàn đen đủi
Không cần phải nấp sau cổng nữa,
không cần, thực vậy, không còn sợ ai thấy nữa. Ngôi nhà chỉ còn mấy bức tường
trơ trọi, tất cả đổ nát hoang tàn, các cửa sổ chỉ còn lại khoảng không. Không
sân thượng, không ống khói, tất cả đều trơ trọi
Một cảnh im lặng thê lương bao trùm
ở đây, cảnh thật quá bi thương. Thảo nào mà thư của tôi không có hồi âm. Những
đống đá đen thui, chắc là đã xảy ra hỏa hoạn. Nó xảy ra như thế nào? Chuyện gì
đã xảy ra tạo nên cảnh tượng thương tâm này? Người và của mất mát ra sao? Nếu
có thì do ai gây nên? Chủ nhân của đống đổ nát hoang tàn này đâu rồi?
Điều đáng buồn nhất là tôi biết hỏi
ai bây giờ. Tôi bèn quay về quán Vòng tay Rochester
Khi người chủ quán mang điểm tâm ra
cho tôi, tôi liền yêu cầu ông đóng cửa và ngồi lại cho tôi hỏi chuyện. Tôi hỏi:
- Chắc là ông biết rõ Thornfield?
- Dạ biết, thưa bà, tôi đã từng ở
đấy mà
- Thế à?
Tôi nghĩ chắc là ông ta không ở vào
thời gian tôi có mặt ở đó. Tôi không biết ông ta mà
-Tôi là quản gia sau cùng của ông Rochester
Tôi lẩm bẩm:
- Sau cùng à! ông ta chết rồi sao?
ông chủ quán giải thích thêm:
- Tôi muốn nói bố của ông Edward ấy
Tôi thở phào nhẹ nhõm rồi tôi hỏi để
biết thêm:
- Thế bây giờ ông Rochester còn ở
tại Thornfield chứ?
- ồ không thư bà. Chẳng có ai còn ở
đấy cả. Chắc bà không quen thuộc vùng này, nếu không thì bà đã nghe sự việc vào
mùa thu năm ngoái rồi. Thornfield chỉ còn một đống đổ nát. Nó đã bị thiêu rụi,
việc khiếp qúa! Vô số đồ đạc qúy giá bị hủy hoại, chỉ một số rất ít được cứu
khỏi. Hoa? hoạn lại xảy ra vào đêm khuya, ngôi nhà xưa đã bốc cháy toàn bộ
trước khi xe cứu hoa? từ Millcote tới nơi. Trông khiếp lắm.
Tôi lặp lại:
- Cháy vào đêm khuya? Người ta có
tìm ra nguyên nhân không?
- Họ đoán thôi, thưa bà, họ đóan
thôi!
ông ta kéo ghế lại gần tôi. ông nói
khẽ:
- Bà biết không, có một người đàn bà
điên bị nhốt trong nhà ấy. Bà có nghe chứ?
- Tôi có nghe chuyện ấy
- Người ấy bị giữ kín không cho ai
biết hết, bà ạ! Họ chỉ nghe đồn có một người như thế thôi. Họ bảo ông Edward
đem bà ta ở ngoại quốc về. chuyện lạ lùng như vậy đã xảy ra cách đây một năm
rồi. Một chuyện rất kỳ lạ.
Tôi sợ phải nghe về chuyện riêng của
tôi, tôi bèn dẫn ông về các điểm chủ yêú. Tôi hỏi:
- Và chính bà điên ấy sao?
- Bà ấy chính là vợ của ông
Rochester! Chuyện mới thật kỳ quái như vậy chứ. Có một thiếu nữ, một nữ gia sư
ở trong nhà, mà nghe đâu ông Rochester yêu...
Tôi chận ông ta lại:
- Thế còn vụ hỏa hoạn?
- Tôi sắp kể tiếp đây, thưa bà. ông
Edward yêu cô ấy. Gia nhân trong nhà bảo nhau rằng họ thật chưa bao giờ thấy có
ai yêu đắm đuối như ông ấy. Chỉ có ông ta cho cô ấy đẹp mà thôi. Cô ta nhỏ
nhắn, họ bảo trông cô như con nít vậy. Nhưng ông chỉ biết có cô trênc õi thế
gian này
Tôi hỏi:
- Có nghi ngờ gì về người điên đã
đốt nah2 không?
- Có chứ, thưa bà. Chắc chắn là bà ấy
đốt mà thôi.Có thuê một người đàn bà để canh giữ bà tạ Chị ấy tên poolẹ Nhưng
bà điênnày lại ranh mãnh, thủ đoạn như một mụ phù thủy. Bà ta lấy chìa khoá
trong túi chị Poole rồi lục lạo khắp nhà, làm những việc kỳ quái theo ý bà tạ
Vào cái đêm ấy, bà ta nổi lửa trong phòng của cô gia sư, nhưng may không có ai
ngủ ở đấy hết. Cô nữ gia sư đã bỏ đi hai tháng trước đó, và mặc dù ông
Rochester đã cho người đi tìm cô ta như tìm một báu vật ở trên đời, mà vẫn
không tìm ra. Sau khi cô ấy bỏ đi, ông tự hốt mình trong nhà như một ẩn sĩ
- Sao! ông ấy không đi khỏi nước Anh
à?
- Đi khỏi nước Anh? ồ không. ôn g
không muốn ra khỏi nhà, trừ ban đêm, ông cứ tha thẩn quanh vườn như một bóng mạ
ông không phải là kẻ ham rượu, ham bài bạc hay ham đua ngựa như bao kẻ khác.
ông cũng hông được xinh trai nhưng ông ông rất kiên cường và ý chí của ông rất
mạnh
Tôi lại hỏi:
- Thế thì ông Rochester có mặt khi
hỏa hoạn xảy ra chứ?
- Dạ thưa dĩ nhiên là có.Khi ngọn
lửa đã bao quanh ông, ông còn chạy lên gác lửng cứu các gia nhân ra khỏi
giường, rồi đưa tất cả bọn họ xuống dưới. Thế rồi ông còn chạy lên phòng vợ ông
để cứu ngưới vợ điên ấy nữa, nhưng mọi người đã gọi ông, báo cho ông biết là bà
ấy đang ở trên sân thượng. Chính mắt tôi trông thấy bà ấy đứng trên đó, vẫy tay
và la hét inh ỏi. Bà ấy to con, tóc đen dài. Chúng tôi thấy mái tóc bay vào
ngọn lửa khi bà ta đứng ở bao lơn. Chúng tôi thấy ông Rochester bước ra cánh
của mở ra sân thượng, rồi chúng tôi nghe ông gọi:"Bertha",ông tiến về
phía bà, và rồi bà không chịu nghe, bà nhảy từ trên lầu cao xuống. Lát sau, bà
nằm nát bét trên mặt đất
- Chết ư?
- Chết. Chết tươi trênmấy phiến đá
mà bà ta đã rơi xuống. Cảnh tượng thật hãi hùng
ông ta rùng mình khi nghĩ đến chuyện
đó.
Tôi lại hỏi ông ta:
- Rồi sau đó ra sao
- Sao ư, thưa bà. Sau đó ngôi nhà
cháy trụi hết, không còn một cá gì tồi tại hết
- Có ai chết nữa không?
- Không có, nhưng giá như có e tốt
hơn đấy bà ạ
Tôi run lên, bèn hỏi ông:
- Thế ông Rochester ở đâu? ông ấy
còn ở Anh chứ?
- Vâng, ông còn ở Anh, bây giờ thì
ông phải ở cố định một chỗ rồi.
Tôi rất nôn nóng trong người. Nhưng
ông ta lại muốn kéo dài câu chuyện. Cuối cùng ông ta nói:
- ông ấy bị mù. Đúng thế, ông Edward
đã mù hẳn.
Tôi cứ sợ điều tệ hơn, tôi sợ anh
điên
- Thưa bà chính là nhờ lòng can đảm
và tính thương người của ông ấy. ông ấy chỉ rời khỏi nhà khi tất cả đã thoát ra
hết trước ông. Khi ông chạ xuống cầu thang lớn, thì trần nhà sụp đổ và đè
lênông. ông được cứu sống nhưng đã bị thương nặng.Một con mắt hỏng nặng, một
cánh tay bị cưa cụt, con mắt kia thì về sau cũng xấu đi, và ông cũng không còn
nhìn thấy được nữa. Bây giờ ông hoàn toàn bị tàn phế, mù loà và chỉ có một taỵ
- ông ấy ở đâu? ông biết bây giờ ông
ấy ở đâu không?
- ở Ferndean Mnor, cách đây 30 dạm,
một chỗ rất vắng vẻ.
- Ai ở với ông ta ở đấy?
- ông già John, người đánh xe, và vợ
của ông ấy. ông Rochester không còn ai nữa hết. Người ta bảo ông hoàn toàn bị
phá sản.
- Không có xe nào cho tôi thuê để đi
đến đó ngay không?
- Có chứ, thưa bà, tôi có xe.
- Vậy ông vui lòng cho chuẩn bị đi.
Tôi muốn chạy ngay đến Ferndean trước khi trời tối.
Chương
21 . Ferndean Manor
Tài sản ở Ferndean là một ngôi nhà
cổ,trước đây thường được dùng làm nơi tạm trú để săn bắn, thường hàng tháng
trời không có ai ở hết. Cha của Rochester mua nhà này vì trong rừng có rất
nhiều thú để săn. Bây giờ thì cây cối không người chăm sóc đã mọc lấn ra cả lối
đi, cho nên tôi phải xuống xe và đi bộ từ cổng vào.
Vào một đoạn, con đường rộng dần ra,
cây cối thưa thớt dần, tôi mới thấy được ngôi nhà hiện ra trong ánh hoàng
hôn.Hai cái đầu hồi nhọn cao vút giữa trời chiếu, những cánh cửa sổ khung hẹp
leo đầy dây trường sinh. Không luống hoa, không bãi cỏ. Ngôi nhà thực sự là một
nơi đơn độc trong rừng cây
Tôi bước lên và gõ cửa. Vợ của John
ra mở cửa. Tôi chào:
- Mary, có mạnh khoẻ không?
Chị ta giật mình như là đã thấy ma
- Cô đấy ư, thưa cổ Cô đến chỗ cô
liêu này vào giờ tối tăm thế này ư?
Tôi theo chị ta vào bếp. John đang
ngồi bên lò sưởi. Tôi giải thích rằng tôi vứa nghe được sự việc đã xảy ra, nên
liền đến thăm ông Rochester. Tôi yêu cầu Mary thu xếp để tôi ở lại đêm, rồi tôi
nhờ John ra quán trọ để đem hành lý của tôi về.
Lúc bấy giờ có tiếng chuông từ phòng
khách, tôi bảo Mary:
- Chị vào thưa với ông cvhủ rằng có
người muốn đến nói chuyện với ông nhưng đừng nói tên tôi
Chị ta nói:
- Nhưng như thế thì chắc ông ta
không chịu tiếp. ông ấy không muốn gặp ai hết
Nói xong, chị lên phòng khách,khi chị
trở lại, tôi hỏi Rochester nói sao. Mary đáp:
- ông bảo phải cho biết tên và công
việc.
Chị rót một ly nước đầy, đặt lên một
cái khay, thêm mấy cây đèn cầy
Tôi hỏi:
- có phải ông gọi những thứ ấy?
- Dạ. ông luôn bảo thắp đèn cầy vào
ban đêm, mặc dù ông mù loà chẳng nhìn thấy
Tôi nói với chị Mary:
- Chị đưa caí khay cho tôi. Tôi mang
lên cho
Cái khay rung rinh trong tasy tôi,
tim tôi đập thình thịch. Mary mở phòng khách và tôi bước vào
Phòng khách trông tối tăm và buồn
bã. người mù đứng tựa lưng vào chiếc bệ lò sưởi, một ngọn lửa yếu ớt đang cháy
trong lò.Con chó Pilot nằm một bên, xa lối đi như sợ người ta dẫm lên mình
nó.Khi tôi bước vào, nó ngẩng đầu lên rồi nhảy chồm lên tôi và sủa mấy tiếng
nho nhiỏ. Nó gần như làm chiếc khay tuột khỏi tay tôi. Tôi đặt chiếc khay lên
bàn, rồi vỗ vỗ vào đầu nó.
Rochester quay lại như để "nhìn
" cái gì đã xảy ra.Anh nói:
- Đưa ly nước cho tôi, Mary
Tôi nói:
- Mary đang bận dưới bếp
Anh đưa bàn tay ra, nhưng không thấy
tôi đứng ở đâu, anh không sờ tôi được. Anh hỏi:
- Ai đấy? ai đấy? Trả lời lại đi.
Nói lại đi
- Tôi bảo:
- Pilot biết em, John và Mary đều
biết em đang ở đây. Em mới đến đêm nay
- Chúa nhân từ. Đúng là giọng nói
ấy. Em ở đâu? Hay cho tôi sờ tay em, bất kể em là ai
Anh đưa tay ra mò mẫm, tôi nắm lấy
trong hai bàn tay tôi. Anh lalên:
-Mấy ngón tay em! Mấy ngón tay nhỏ
nhắn, mềm dịu của em! Thế thì, em đây rồi!
Anh nắm lấy cánh tay tôi, nắm lấy
vai tôi, nắm lấy hông tôi. Cánh tay phải của anh ôm ghì lấy tôi. Anh nói:
- Jane phải không? Phải không? Đúng
nàng đây rồi...
Tôi thêm vào:
- Và đây là giọng nói của nàng. Nàng
đây rồi, trái tim của nàng cũng ở đây rồi. ôi! Em sung sướng lại được ở bên anh
biết bao!
Anh ôm chặt lấy tôi.
Anh nói lui nói tới mãi:
- Jane Eyre! Jane Eyre!
Tôi trả lời:
- Em đã đi tìm anh, em trở về với
anh
- Thật thế ư? Có thật thế không?
Jane của anh, người yêu của anh còn sống ư? Nhưng anh không còn gặp may mắn
nữa, anh đã gặp cảnh khốn khổ rồi. Thật qủa là một giấc mợ Anh cứ mơ tưởng ôm
em vào lòng và cứ tin em không bỏ anh
Tôi hứa:
- Kể từ hôm nay, em sẽ không bao giờ
lại bỏ anh
- Sẽ không bao giờ? Em có đùa không?
Anh luôn luôn tỉnh dậy là thấy mình cô độc. Mà Jane này, hãy hôn anh trước khi
đi chứ?
Tôi hôn anh, rồi đưa tay vuốt tóc
anh đang xõa trên chân mày. Rochester lại nói:
- Jane, em thật đây sao? Thật em trở
về với anh chứ?
- Em trở về, thật mà.
- Em không nói dối chứ? Em không
phỉnh phờ anh chứ?
- Không, bây giờ em là người tự chủ
rồi
- Tự chủ! Em muốn nói gì thế Janẻ
- Chú của em ở Madeira đã mất và ông
để lại cho em năm ngàn bảng Anh
Anh reo lên:
- A, thì ra là thế! Anh không bao
giờ mơ như thế! Nhưng mà giọng nói của em làm anh vui sướng, đem sinh khí đến
cho anh. Vậy em đã trở thành người phụ nữ giàu có rồi, phải không Janẻ
- Giàu rồi. Nếu anh không để em đến
sống với anh thì em sẽ xây một ngôi nhà cho em, đóng cửa nhà anh lại. Rồi anh
đến ngồi trong phòng khách của em.
- Nhưng vì em giàu rồi, Jane à. Em
sẽ không muốn nói chuyện với một kẻ mù loà thương tật như anh đâu
- Sao, chắc chắn là em sẽ nói chứ,
trừ phi anh chống đối. Em sẽ làm mắt cho anh, làm tay cho anh. Em sẽ đọc sách
cho anh, hầu hạ anh. Đừng tỏ vẻ buồn bã như thế. Có em bên anh là anh sẽ không
còn cô độc nữa.
- Nhưng mà Jane ơi, không còn như
xưa nữa. Anh bây giờ là một kẻ mù lòa vô dụng.
Tôi nhẹ nhàng khẳng định với anh:
- Rồi sẽ đến lúc người ta làm cho
anh lành lặn như mọi người
Tôi vừa hất mái tóc dài của anh ra
sau, vừa nói với anh:
- Bởi vì em thấy anh có cái bờm của
một con sư tử
- Nhưng Jane này, cảnh tượng này có
ghớm ghiếc không? Em có thấy vậy không?
Anh vừa nói vừa lôi cánh tay phải
giấu trong ngực ra đưa tôi xem. Anh bảo:
- Chỉ còn cái này, chỉ còn cái gốc.
Tôi đồng ý với anh. Tôi bảo:
- Trông đáng thương đấy, và cũng
đáng thương khi nhìn đôi mắt anh, thấy những vết sẹo trên trán anh. Nhưng nếu
vì những cái này mà không dámyêu anh, mà sợ người ta đàm tiếu thì thật là qúa
tệ.
Anh nói bằng một giọng nhỏ nhẹ:
- Anh sợ rồi em sẽ bỏ anh thôi
Anh sợ ư? Rồi sau anh sẽ thấy. Bây
giờ, để em đốt lửa lên và lau chùi lò sưởi. Khi nào lửa cháy sáng anh biết chứ?
- ừ, thỉnh thoảng con mắt phải của
anh thấy được ánh sáng.
- Và anh cũng có thể thấy khi thắp
đèn lênchứ?
- Mờ lắm. Như một đám mây mờ
Tôi hỏi anh:
- Khi nào thì anh ăn tối?
- Anh không bao giờ ăn tối hết
- Đêm nay anh sẽ ăn. Em đói rồi và
anh cũng đói, em biết nhưng anh quên đấy thôi
Tôi gọi Mary, và chẳng bao lâu sau
chúng tôi dọn dẹp căn phòng thành một nơi vui vẻ ấm cúng hơn
Suốt bữa ăn, tôi vừa cảm động vừa
sung sướng, tôi nói chuyện thoải mái, thẳng thắn. Tôi cảm thấy thoải mái trong
lòng vì tôi bioết thế nào rồi tôi cũng sống với anh. Tôi nói để an ủi anh và
làm cho anh hăng hái lên. Và quả thật kỳ diệu sao! Trước thái độ cởi mở của
tôi, anh đã bắt đầu ham sống trở lại. Trong tình trạng của anh, tôi đã cư xử
rất nhiệt tình với anh, để anh tựa vào tôi mà sống. Mặc dù mù lòa, nhưng nụ
cười lại nở trên mặt anh, niềm vui đã hiện trong giọng nói, dáng điệu của anh,
nó ấm áp, dịu dàng. Chúng tôi đã hoàn toàn hạnh phúc ở bên nhau
Sau bữa ăn, anh bắt đầu hỏi t6i
nhiều điều:Tôi hiện ở đâu, khi chúng tôi chia tay nhau thì tôi làm gì, làm sao
tôi tìm ra được chỗ ở của anh. Rồi đêm đã khuya, tôi phải đi ngủ, hẹn ngày mai
lại nói chuyện tiếp
Trước khi đi ngủ, Rochester lại nói:
- Jane này, bây giờ em có muốn lấy
anh làm chồng không?
- Rất muốn
- Cho dù anh có là kẻ mù loà khốn
khổ mà em phải dắt đi hay sao?
- Vẫn lấy anh
- Em bất kể anh tàn tật, già hơn em
đến 20 tuổi, em phải phục vụ anh suốt đời hay sao?
- Em vẫn lấy anh
- Em nhớ là anh không khác chi cây
dẻ gai bị sét đánh hôm nào ở Thornfield cả, Jane, như thế thì anh đã đòi một
đóa hoa mơn mởn sống trên một đống đổ nát hoang tàn, phải không em?
Tôi đáp:
- Anh không đổ nát. Asnh còn xanh
tươi, anh còn đầy sức sống. Cây con sống nhờ vào gốc rễ cxủa anh, cho dù anh có
đòi hỏi hay không, vì sức mạnh của anh sẽ che chở cho chúng. Được làm vợ anh,
em sẽ sung sướng mãn đời
- ôi em yêu! Chúa sẽ ban phước lành
cho em! Chúa sẽ thưởng công em! Anh đã mong đợi, chờ trông em biết dường nào!
Mấy ngày qua, anh cứ tưởng mãi mãi sẽ sống không có em. Ngồi bên cửa sổ, anh cứ
gọi tênem, và bây giờ thì lời nguyện cầu của anh đã đạt được.Chúng ta đã từng
gặp nhau trong tư tưởng, trong tinh thần, còn bây giờ thì thật sự thể xác chúng
ta lại bên nhau nữa. ôi Jane, chúng ta không còn cô độc. Chúng ta sẽ không bao
giờ rời xa nhau nữa.
Tôi nghe anh nói, lòng biết ơn vô
hạn. Anh đưa tay cho tôi dắt. Tôi nắm lấy bàn tay, quàng cánh tay anh qua vai
tôi và dẫn anh bước khỏi phòng.
Chương
Kết
Kính thưa các bạn đọc, thế là chúng
tôi lấy nhau. Chúng tôi tổ chức một đám cưới hẳn hoi, chỉ có anh ấy và tôi, ông
mục sư và thầy trợ tế, chỉ có chừng ấy người hiện diện
Khi chúng tôi ở nhà thờ về, tôiliền
đi thẳng xuống bếp. Chị Mary đang nấu nướng còn John thì đang lau chùi dao nĩa.
- Chị Mary ơi, sáng nay tôi đã là
đám cưới với anh Rochester rồi đấy
Cả hai vợ chồng không tỏ vẻ ngạc
nhiên chút nào.Mary cứ điềm nhiên quay cặp gà trên lò, chị nói:
- Thế à, thưa cổ Tôi thấy cô đi ra
với ông chủ nhưng không biết là cô đã đi đến nhà thờ để làm lễ cưới.
Tôi quay nhìn John, khi bác ấy nói,
mặt bác nhăn nhúmlại:
- Tôi đã biết ông Edward mong ước
cái gì. Tôi chắc chắn ông không đợi lâu. ông ấy đã làm đúng. Thưa cô, tôi chúc
cô hạnh phúc.
- Xin cám ơn bác John! Anh Rochester
bảo tôi đưa cái này cho bác và Mary
Tôi đặt trong tay bác một tờ 5 bảng
Anh
Khi tôi đóng cửa bếp lại, tôi nghe
được giọng nói của John:
-Thật qúy hoá, cô ấy thế mà có tình
hơn bất cứ các cô các bà nào hết
Tôi viết thư gửi về Moor House, báo
cho các anh chị tôi biết sự việc đã xảy ra. Tôi liền nhận được thư phúc đáp của
Diana và Marỵ Bức thư chưa chan tìnhcảm của chị em ruột thịt. các chị ấy bảo họ
sẽ đến thăm chúng tôi sau tuần trăng mật
Chồng tôi bảo:
- Họ chẳng cần gì phải đợi đến ngày
ấy. Trăng mật của chúng mình sẽ kéo dài đến mãn đời mình mà. Nó chỉ hết khi
chúng mình đã xuống mồ mà thôi.
Tôi không quên bé Adela, cho nên
liền sau đó tôi đã đến thăm bé ở trường. Bé xanh xao, gầy ốm, và bé cho biết là
không được sung sướng.Do vậy, tôi đã kiếm cho bé một trường gần hơn, để tôi có
thể thăm bé thường xuyên, và có thể thỉnh thoảng xin cho bé về nhà chơi. Chẳng
mấy chốc, bé đã ổn định và học tập rất tiến bộ.Khi bé rời trường về nha, bé làm
cho không khí trong nhà trở nên vui tươi và sinh động vô cùng
Chồng tôi tiếp tục mù lòa suốt hai
năm đầu sau đám cưới chúng tôi. Có lẽ nhờ vậy mà chúng tôi đã gắn bó với nhau
rất thắm thiết, bởi vì tôi là mắt, là tay của anh.Qua tôi mà anh thấy được
thiênnhiên, anh đọc được sách. Không bao giờ tôi chán chường, mệt mỏi trong
việc nhìn thay anh, miêu tả cảnh đẹp đồng ruộng, cây cối, sông ngòi, mây gió,
nắng mưa thay cho anh
Một buổi sáng sau hai năm trời mù
lòa, trong lúc anh đang đọc cho tôi viết một bức thư, bỗng anh đi đến bên tôi,
cúi xuống trên vai tôi, anh nói:
- Jane, em có đeo sợi dây chuyền óng
ánh ở cổ phải không?
Tôi có đeo sợi dây chuyền vàng. Tôi
đáp:
- Có anh ạ.
- Em đang mặc chiếc áo màu xanh nhạt
phải không?
Đúng thế. Anh nói cho tôi biết, đôi
khi anh có cảm giác đám mây che mờ mắt anh có hé ra cho anh thấy mọi vật
Chúng tôi liền đi Luân Đôn và nhờ
một bác sĩ nhãn khoa chữa trị. May thay con mắt phải của anh đã lành hẳn và anh
thấy lại ánh sáng của cuộc đời.
Đứa con trai đầu lòng của anh ra
đời, anh ẵm nó trong tay, nhận ra thằng bé có đôi mắt giống hệt anh. Đôi mắt
to, đen, sáng long lanh. Bây giờ thì anh thấy đường rồi, anh không cần người
dắt nữa. Bầu trời không còn là màn đêm của anh nữa, mặt đất không còn là chỗ
trống không nữa.
Câu chuyện của tôi đã đến hồi chấm
dứt. Thế là chúng tôi đã lấy nhau mười năm. Chúng tôi sống với nhau trọn vẹn
hạnh phúc. Tôi qủa là đã được trời thương, bởi vì chúng tôi đã sống một đời
sống vợ chồng chung thủy.
HẾT .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét