Mục lục :
Tư duy logic ( Phần 1: Nền tảng cơ bản)
Tư duy logic (P2: Nguyên tắc logic: nhân quả và đúng
sai)
Tư duy logic (P3: Thoát khỏi mơ hồ)
Tư duy logic (P4: Kỹ thuật tạo liên kết)
Tư duy logic ( P5: Kỹ thuật đặt câu hỏi tìm nguyên
nhân)
Tư duy logic (P6: Kỹ thuật suy luận đúng)
Tư duy logic (P7: Những rào cản của tư duy logic)
Tư duy logic (P8: Lập luận)
Tư duy logic (P9: Ta là ai? )
Tư duy logic (P10: Nền tảng của lập trình ngôn ngữ tư
duy)
Tư duy logic (P11:Cách đặt câu hỏi bản chất )
Tư duy logic (P12:Tư duy phản biện)
Tư duy logic (P13: Tư duy tổng hợp)
Tư duy logic
(P14: Tư duy kinh nghiệm)
Tư duy logic ( Phần 1: Nền tảng cơ bản)
Ta có thể bắt gặp trong hầu hết các thông báo tuyển dụng của các công ty về việc ứng viên phải có “Tư duy logic”. Vậy người có tư duy logic là người như thế nào? Hình như bản thân nhà tuyển dụng cũng còn khá mập mờ trong việc đánh giá một ứng viên liệu có tư duy logic không. Nếu ai đó hỏi bạn câu này thì bạn sẽ trả lời ra sao? Bạn thực sự có tư duy logic không? Làm sao bạn biết được rằng bạn có tư duy logic hoặc không có tư duy logic?Người không có tư duy logic là người tư duy phi logic. Trong loạt entry về thuật ngụy biện ta tiếp cận rất nhiều phương pháp ngụy biện khác nhau. Ngụy biện chỉ là tên gọi khác của phi logic. Ta có thể sử dụng ngụy biện với người khác hoặc chính chúng ta tự ngụy biện; thậm chí ta ngụy biện mà ta không nhận ra. Nếu ta không nhận ra là ta đang ngụy biện thì ta có tư duy phi logic.
1.Chúng ta sử dụng tư duy logic khi nào?
Khi chúng ta đánh giá:
Chúng ta có ngũ giác bao gồm Thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác, khứu giác. Các cơ quan chỉ có tiếp nhận thông tin bên ngoài truyền tới não. Theo phản xạ tự nhiên ta sẽ xử lý thông tin này, chính là ta đang đánh giá.
Ví dụ ngay khi nhìn thấy một cái ô tô bạn sẽ có đánh giá về hình dáng, màu sắc, giá tiền, người chủ của ô tô,…
Kết quả của đánh giá sẽ dẫn tới suy nghĩ và hành động tương ứng.
Khi chúng ta giải quyết vấn đề
Việc tìm nguyên nhân sau đó giải pháp đều liên quan tới logic cả. Khi ta hỏi “Tại sao vấn đề này xảy ra” chính là ta tìm mắt xích phía trước. Khi ta hỏi “Hậu quả của của vấn đề này là gì?” là ta đang tìm mắt xích phía sau.
Yêu cầu “phải có tư duy logic” chính là để làm điều này.
Khi giao tiếp
Bạn đã bao giờ nghe một người nói và cuối cùng chẳng hiểu người đó nói gì chưa? Có hai trường hợp hoặc là người đối diện trình bày các ý lộn xộn chẳng theo quy luật nào cả hoặc là trí óc bạn tiếp nhận không kịp các ý được trình bày do suy nghĩ của bạn không kịp liên kết các thông tin lại với nhau.
Với tư duy logic, người nói sẽ trình bày vấn đề đơn giản, dễ hiểu, có mối liên kết. Nếu bạn đếm 1,2,3,4,5,6,7,8,9 thì rất dễ nhưng cứ thử đếm 1,5,4,2,3,6,7,9,8 mà xem; đọc đã khó nói gì tới nhớ.
2.Các khái niệm cơ bản:
Chủ quan và Khách quan
Hãy nhìn xung quanh, bạn thấy gì? có ti vi, có chương trình phát trên ti vi, có cuốn sách, có cái bàn,…. Tivi, sách, bàn,… gọi là sự vật. Tivi đang phát chương trình “hãy chọn giá đúng” gọi là sự kiện. Sự vật và sự kiện tồn tại vốn nó vẫn vậy gọi là khách quan.
Bar Luxury bốc cháy tối qua là một sự kiện; Bar luxury là một sự vật. Nước Mỹ là sự vật, Mỹ không kích IS ở syria hôm qua là sự kiện.
Trời hôm nay rất mát, bài hát đang nghe rất hay, cô gái kia rất xinh, công việc này rất khó, máy in này in rất nhanh, Mỹ sai lầm trong việc tấn công IS. Các phát biểu này đều là chủ quan.
Một hiện tượng khách quan được giác quan con người tiếp nhận sinh ra suy nghĩ dựa vào ý thức của mỗi người để trở thành chủ quan.
Nếu một ai đó phát biểu rằng “Các quyết định của tôi là hoàn toàn khách quan” thì chắc chắn sai vì quyết định là dựa trên ý thức của mỗi người khác nhau nên nó luôn luôn là Chủ quan.
Một mô tả khách quan phải là mô tả vốn nó vẫn vậy. Ví dụ: cái máy in này có kích thước (Dài x rộng x cao) là 30cmx30cmx20cm. Nếu mô tả “Cái máy in này rất cồng kềnh” thì mặc dù vẫn là mô tả nhưng là mô tả chủ quan.
Chủ thể và khách thể
“Quan” là quan sát; “thể” là bản thể. Chủ thể là chính là con người, là chủ của ý thức, con người sử dụng ý thức của mình để biến khách quan thành chủ quan.
Khách thể chính là sự vật, sự kiện. Khách thể không có ý thức, nó tồn tại như nó vốn vậy. Con người quan niệm con mèo, con gà, con cá,… không có ý thức nên không xếp nó vào chủ thể.
Khái niệm
Khái niệm là phản ánh một sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập so với nhận thức của chúng ta. Nếu như một sự vật, hiện tượng không có khái niệm gì cả ta sẽ không thể trao đổi thông tin với nhau được.
Một số sự vật, hiện tượng ta đã trực tiếp trải nghiệm nên khi nhắc tới nó ta ngầm hiểu nó là gì thậm chí ngay cả khi ta không phát biểu được thành ngôn ngữ rằng nó là gì. Ví dụ khi nói tới cái bảng phấn, ai cũng hiểu nó là cái gì nhưng phát biểu lên chưa chắc đã phát biểu được. Giống như các cảm xúc của ta, chỉ có thể cảm nhận mà không thể phát biểu nó là cái gì.
Một số sự vật, hiện tượng ta trải nghiệm qua trung gian. Ví dụ ta có thể chưa nhìn trực tiếp thấy núi lửa nhưng ta đã nhìn nó trên ti vi vì vậy khi nhắc tới núi lửa ta biết nó là gì. Ngày nay, hầu hết các sự vật, hiện tượng ta trải nghiệm qua trung gian.
Sự kiện “Quán bar Luxury” cháy rụi ta biết nó qua vnexpress mà không trực tiếp nhìn thấy nó. Khi nhắc tới sự kiện này ta lập tức hình dung ra nó, tất nhiên là theo mô tả của trung gian và trong khi chém gió với bạn bè ta có thể phát biểu mạnh mẽ giống như chính mắt ta được chứng kiến vậy.
Một số sự kiện, hiện tượng không có cách hiểu rõ ràng, mỗi người hiểu một kiểu khác nhau. Ví dụ như hỏi Thế nào là Quản trị? chắc chắn 10 người trả lời thì có 10 khái niệm khác nhau. Nó không phải là thứ có thể quan sát, sờ nắm được nên mỗi người sẽ hiểu về nó khác nhau.
Marketting là gì? cũng có hàng chục câu trả lời; ngay cả các chuyên gia trong ngành cũng hiểu nó không thống nhất. Vì vậy một số trường hợp người ta chấp nhận một sự vật, hiện tượng có nhiều khái niệm.
Khái niệm bản chất là phản ánh chủ quan của một thực tại khách quan. Một thực tại khách quan tồn tại vốn nó vẫn vậy, việc ta khái quát về nó không thực sự phản ánh đúng về nó. Ví dụ “Một cái bảng phấn là một tấm gỗ được quét sơn đen hoặc xanh dùng để cho giáo viên ghi các nội dung bài giảng thường được đặt trong các lớp học”. Ta thấy là cho dù khái niệm có dài tới mấy thì nó cũng không thể phản ánh đúng bản chất của cái bảng phấn.
Chúng ta học các khái niệm cơ bản ở đâu?
Nếu ta
muốn tìm hiểu các khái niệm về một lĩnh vực nào thì tìm văn bản pháp luật
của lĩnh vực đó, thường là Luật của quốc hội, nghị định của chính
phủ. Thông thường nó sẽ ở ngay mấy trang đầu, nguyên nhân là muốn luật được
thi hành đúng với ý đồ của người tạo ra nó thì các khái niệm phải được hiểu một
cách thống nhất giữa những người chịu ảnh hưởng.Các khái niệm phổ biến trong xã hội có rất nhiều trong luật dân sự. Nên tìm và đọc Luật dân sự.
Chân lý
Khi ta nói một cái gì đó là chân lý thì có nghĩa là nó hiển nhiên đúng, được mọi người chấp nhận.
Chân lý bao gồm hai loại là Chân lý bản thể và Chân lý logic. Cái bàn,con mèo, cái cốc, cái bút,… là chân lý bản thể. Nó thực sự tồn tại, không ai có thể bảo với tôi là cái cốc trước mặt tôi không tồn tại được.
Chân lý logic là một lập luận, một phát biểu hiển nhiên đúng. Nó chỉ là ngôn ngữ mà không phải là một thực thể như Chân lý bản thể. Ví dụ “cái cốc được đặt trên cái bàn làm việc của tôi” là một chân lý vì rõ ràng là cái cốc trước mặt tôi được đặt trên cái bàn.
Chân lý đóng vai trò quan trọng trong logic. Nếu như ta phát triển ý logic trên một thứ không phải chân lý thì đương nhiên ta sẽ nhận một kết quả sai.
Một công dân khai rằng thời điểm trước khi quán bar luxury cháy có một người đã xách một vật rất có khả năng là một can xăng vào quán bar. Sự kiện này có thể đúng hoặc sai vì nó là phản ánh chủ quan của một sự kiện. Nếu sự kiện sai, có nghĩa nó không phải chân lý thì sẽ dễ tới kết quả sai hoặc các điều tra dựa vào nó sau đó là vô nghĩa.
Ví dụ đơn giản hơn:
– “Iphone 6 là một sản phẩm của hãng Apple” là một phát biểu chân lý hoặc chân lý đúng
– “iphone 6 là một sản phẩm của hãng Samsung” là một phát biểu không phải chân lý hoặc chân lý sai
Thuật ngữ
– “Tư
duy” chỉ đơn giản là “Cách nghĩ”. Tư duy logic là cách nghĩ logic, nó là thứ có
thể học được.– Logic học là khoa học về những quy luật và hình thức cấu tạo của tư duy chính xác.
– Từ khi con người biết suy nghĩ thì họ đã biết đến logic rồi. Nhưng bắt đầu thành một tên gọi của một môn khoa học bởi Aristote (384 – 322 trước công nguyên).
– Đối tượng của logic học là những quy luật và Hình thức của tư duy chính xác.
Mỗi khái niệm đều có Nội hàm và Ngoại
diên:
Nội hàm của khái niệm là tập hơp tất cả các dấu hiệu chung của lớp đối tượng được phản ánh trong khái niệmNgoại diên của khái niệm là tập hợp tất cả các đối tượng có các dấu hiệu chung được phản ánh trong khái niệm
Ví dụ: Khái niệm con mèo
Mèo nhà là (a)động vật có vú nhỏ và (b)ăn thịt, (c)sống chung với loài người, (d)được nuôi để săn vật gây hại hoặc làm thú nuôi.
a,b,c,d là nội hàm của khái niệm con mèo.
Tập hợp tất cả các đối tượng nào có đủ 4 đặc điểm trên thì gọi là ngoại diên của khái niệm con mèo.
Giả sử như thêm đặc điểm e. lông dài và f. đuôi dài thì nội hàm của khái niệm con mèo sẽ có a,b,c,d,e,f và số đối tượng thỏa mãn cả 6 nội hàm này sẽ ít đi vì vậy ngoại diên sẽ thu hẹp (rõ ràng là có rất nhiều con mèo có lông ngắn và đuôi ngắn sẽ bị loại ra ngoài)
– > Nội hàm càng rộng thì ngoại diên càng thu hẹp ( vì số đối tượng thỏa mãn hết các đặc điểm càng ít đi)
– Một sự vật/sự kiện có thể được mô tả bởi nhiều khái niệm. Nếu như ngoại diên của khái niệm trùng nhau thì hai khái niệm đó là đồng nhất
– Nếu ngoại diên của khái niệm A nằm trong ngoại diên của khái niệm B thì B là khái niệm rộng hơn của khái niệm A. Ví dụ mèo nhà cũng chỉ là mèo được thuần dưỡng vì vậy khái niệm của mèo sẽ bao trùm lên khái niệm mèo nhà.
– Nếu có một số phần tử thuộc cả A và cả B nhưng A hay B không phải là tập hợp con của nhau thì hai khái niệm A và B có quan hệ giao nhau.
– Nếu không có phần tử nào của ngoại diên khái niệm A thuộc ngoại diên của khái niệm B và ngược lại thì hai khái niệm này là tách rời
Ví dụ chúng ta có 20 cái bút bi trên bàn bao gồm 5 cái bút màu xanh, 10 cái bút màu đen và 5 cái bút màu đỏ.
Ngoại diên của bút màu đen = 10
Ngoại diên của bút màu xanh = 5
Ngoại diên của bút màu đỏ = 5
Khái niệm bút màu đen và xanh giao với khái niệm bút màu đỏ và xanh
Khái niệm bút màu đen và xanh bao trùm khái niệm bút màu đen.
Khái niệm bút màu đen tách rời với khái niệm bút màu xanh
Thực sự thì ai trong chúng ta đều có tư duy logic, chỉ khác nhau ở cấp độ. Khi một nhà tuyển dụng yêu cầu là “phải có tư duy logic” thực ra là yêu cầu không rõ ràng đổi với ứng viên và họ thường không quan tâm tới điều này. Tuy nhiên, nhà tuyển dụng có thể đo đếm cấp độ tư duy logic thông qua phỏng vấn, các bài kiểm tra. Họ không thể phát biểu được cấp độ nhưng họ có thể đo đếm được nó.
Tư duy logic nằm ở đâu trong các hình
thức tư duy?
Mỗi
chúng ta đều tồn tại trong mình 3 kiểu tư duy giống như chúng ta có thể
dùng chân để đi bộ, chạy bền, chạy nhanh vậy. 3 kiểu tư duy đó là:- Tư duy theo kinh nghiệm là việc dùng các kinh nghiệm mà cá nhân (hoặc người khác) đã tích lũy để xử lý vấn đề. Càng già, càng trải nghiệm nhiều thì kinh nghiệm càng nhiều.
- Tư duy logic là kiểu tư duy từ A suy ra B. A và B có mối liên kết nào đó móc xích lại với nhau. Tư duy logic hình thành lên Tư duy phân tích và Tư duy tổng hợp.
- Tư duy sáng tạo là kiểu tư duy từ A suy ra B. A và B không có mối liên kết nào trực tiếp. Ví dụ kinh điển là Edison sáng tạo ra bóng đèn không phải từ việc cải tiến cái đèn dầu. Giữa đèn dầu và đèn điện đều có cùng mục đích nhưng khác hẳn nhau.
Mặc dù sở hữu cả 3 loại tư duy nhưng mỗi người sẽ có xu hướng thiên về một hình thức tư duy nào đó phụ thuộc vào tố chất, đòi hỏi của ngoại cảnh, tuổi tác.
Tư duy logic (P2: Nguyên tắc logic: nhân quả và đúng sai)
Ngay bản thân chữ “logic” đã nói lên hết nguyên tắc của tư duy logic rồi. Tuy nhiên nói tới nguyên tắc thì chúng ta không thể hiểu mơ hồ được vì hiểu mơ hồ sẽ dễ tới cách làm sai.1. Nguyên tắc nhân quả
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại đều có thể trả lời nó từ đâu mà ra. Mọi kết quả đều phải có nguyên nhân. Có thể là 1 nguyên nhân hoặc tập hợp nhiều nguyên nhân nhưng chắc chắn phải có nguyên nhân.
Anh 3
Cái ghế tôi đang ngồi không tự nhiên mà có. Ghế đó được một xưởng sản xuất nào đó sản xuất ra. Nguyên vật liệu làm lên cái ghế không tự nhiên mà có, nó có từ gỗ trên rừng, thép từ nhà máy luyện thép,…
Quán bar Luxury cháy là một sự kiện. Sự kiện cháy phải bắt nguồn từ nguyên nhân nào đó. Ta không thể bảo là Quán bar Luxury tự nhiên cháy mà không có nguyên nhân được. Vì biết chắc rằng phải có nguyên nhân nên người ta mới bỏ sức ra điều tra.
Doanh thu đột nhiên tăng hay giảm phải có nguyên nhân. Khách hàng từ chối mua sản phẩm của ta phải có nguyên nhân. Không có ai bước chân vào quán cafe của ta cũng chắc chắn phải có nguyên nhân.
Đây là chân lý rất rõ ràng nó giúp ta có nhận thức rằng câu hỏi “Tại sao có cái này ?” luôn có câu trả lời. Ta trả lời được hay không là do năng lực của chúng ta chứ không phải là nó không có.
Một kết luận đúng phải xuất phát từ nguyên nhân đúng và đủ, nếu không kết luận sẽ trở thành không đúng.
Giả sử ta có một phát biểu Vì có A nên có B:
– Nếu như phải có thêm cả C thì mới có B thì phát biểu trên sai (Chú ý nguyên tắc logic tiếp theo, không có trạng thái vừa đúng vừa sai; không đủ cũng là sai)
– Nếu như việc có hay không có A không ảnh hưởng gì tới B thì phát biểu cũng sai.
Làm sao bạn biết được A là nguyên nhân của B? hay làm sao bạn có thể tìm được các nguyên nhân của một vấn đề?
Đối với những chân lý bản thể:
Bạn biết rõ rằng cái điện thoại bạn đang dùng không tự nhiên mà có. Nó được bạn hoặc một ai đó mua từ một cửa hàng A. Cửa hàng A này mua từ nhà sản xuất B nào đó. Nhà sản xuất B mua các linh kiện từ các nhà cung cấp C1, C2, C3..
Tại sao bạn biết được điều này? Vì bạn quan sát được trực tiếp hoặc qua một trung gian nào đó. Bạn có thể không biết chắc là có phải B mua từ C1 hay không vì bạn chỉ nghe người khác nói nhưng bạn biết chắc là cái điện thoại này do bạn mua hay do ai đó mua.
Đối với những chân lý logic.
Đang đi bon bon trên đường, xe của bạn bị xịt lốp, bạn dự đoán nguyên nhân là do đâm phải đinh. Tại sao bạn có thể chắc chắn 100% như vậy khi mà bạn chưa hề kiểm tra cái lốp? vì bạn đã từng có trải nghiệm thực tế này rồi, bạn nghe người khác truyền lại trải nghiệm của họ, bạn dùng phương pháp loại trừ.
Tóm lại khả năng suy đoán A là nguyên nhân của B đúng tới đâu phụ thuộc hầu hết vào kinh nghiệm của bạn, kiến thức của bạn. Càng trải nghiệm nhiều, càng biết nhiều về một lĩnh vực thì bạn càng dễ dàng tìm ra A.
Giờ bạn đã hiểu tại sao bạn không thể tìm ra nguyên nhân cháy bar Luxury giỏi bằng cảnh sát chữa cháy. Bạn không thể tìm ra nguyên nhân hỏng của một cái xe giỏi bằng thợ sửa xe. Bạn không thể trả lời tại sao khách hàng không dùng sản phẩm của bạn giỏi bằng chính khách hàng.
Vậy làm sao bạn biết được là B sẽ sinh ra C? hay làm sao bạn biết được hậu quả của một vấn đề?
Một cái ô tô đang lao nhanh trên đường bị cán phải đinh thì điều gì sẽ xảy ra? Bạn có thể dự đoán được vì chính bạn đã từng ở trong tình huống đó, bạn suy đoán rằng khi một lốp bị xịt sẽ làm một bên ma sát cao hơn bên còn lại khiến cho người lái xe bị mất lái, bạn xem video về nó.
Bạn trả lời được vì bạn có kiến thức về cái xe, bạn từng chứng kiến.
-> Khả năng bạn tìm ra C cũng lại phụ thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm của bạn ở lĩnh vực đó. Vì dù sao B cũng là nguyên nhân của C trong khi nó là kết quả của A trong mối quan hệ AB.
Có phải càng làm lâu thì càng có tư duy logic?
Câu trả lời là không, nó là điều kiện cần
nhưng chưa đủ vì bạn thu được kiến thức đúng từ các trải nghiệm. Cùng
một trải nghiệm nhưng mỗi người lại nhận thức khác nhau. Kiến thức sai sẽ dẫn
tới phát biểu sai mệnh đề “A là nguyên nhân của B”2. Nguyên tắc Có hoặc Không, Đúng hoặc sai
Một sự vật, hiện tượng không thể vừa có vừa không có, nó chỉ có thể ở một trong hai trạng thái.
Hoặc là có cái cốc ở trên bàn của tôi hoặc là không có cái cốc trên bàn của tôi. Không có trạng thái trung gian giữa hai trạng thái này.
Bạn cho tiền một bà ăn xin bê theo con nhỏ vì tình thương, hành động đó đúng hay sai? Hành động đó có thể đúng hoặc sai tùy vào tình huống cụ thể. Nếu như bà ăn xin thấy rằng việc bế theo đứa trẻ sẽ giúp cho việc xin ăn được tốt hơn bà sẽ tiếp tục bê theo đứa trẻ mà rất có thể là bà thuê của một ai đó. Những bà ăn xin khác học theo mô hình đó nên sẽ có nhiều đứa trẻ đáng nhẽ ở nhà trẻ thì phải đi cùng người lớn vạ vật kiếm tiền.
Nhưng cũng có thể hành động của bạn đúng vì hoàn cảnh đó đáng thương thật; bạn cho tiền đã giúp cho người đó có miếng ăn vào buổi trưa. Vấn đề là bạn có đủ dữ liệu để biết hành động của mình đúng hay sai hay không?
Như vậy đúng hay sai phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể. Không có tình huống nào vừa đúng vừa sai.
Nếu A là tập hợp của 10 tiêu chí thì chỉ cần một tiêu chí trong đó sai thì A sai. A chỉ đúng khi 10 tiêu chí đều đúng. Không có trạng thái chuyển đổi từ sai thành đúng; từ A sang phủ định của A.
Nghiên cứu bài Thuật ngụy biện P2 (tính logic)
Vậy làm sao bạn biết một cái gì đó là đúng hay sai? hay nói cách khác làm sao bạn có thể minh định được?
Đầu tiên bạn phải xác định rõ tiêu chuẩn của đúng hay sai là gì. Tiêu chuẩn khác nhau thì câu trả lời sẽ khác nhau. Nếu như tiêu chuẩn để tham chiếu của bạn bao gồm 10 tiêu chí thì nếu như bất cứ một tiêu chí nào là sai thì cái đó sai.
Tham khảo thêm bài Phí lý trí ( P1 : Tương đối và tuyệt đối)
Khi đã có tiêu chuẩn thì bạn phải có đủ thông tin về sự vật, sự kiện đó thì mới có thể so sánh để đưa ra kết luận được. Bạn phải hết sức chú ý tới nguồn tin và sự đầy đủ của tin.
Mệnh đề “Người lao động sẽ bị thiệt với cách tính lương hưu mới” là đúng hay sai? Bạn sẽ phải tính toán số tiền theo cách tính cũ để làm tiêu chuẩn và tính số tiền theo cách tính mới để làm so sánh. Chừng nào bạn chưa tính được thì chưa thể kết luận.
“Samsung bỏ một tỷ đô để xây nhà máy thứ 3 tại Việt Nam” là tốt hay không tốt?
“Mỹ tấn công IS” là đúng hay sai ?
“Việt Nam không có phản ứng rõ ràng về việc Trung quốc mở rộng đảo Gạc Ma” thế là tốt hay không tốt?
Có đúng là thang máy của Lotte trôi từ tầng 63 như trên vnexpress nói? Bạn có được chứng kiến tận mắt đâu, tại sao bạn lại cho rằng thang máy của lotte đểu từ một dữ liệu mà bạn không thực sự kiểm chứng ? mà tóm lại là có thật sự bạn cần phải ra kết luận về thang máy của lotte?
Hơn 20% học sinh Đà nẵng có biểu hiện rối loạn tâm lý có phải là một phát biểu đúng? Dữ liệu để đưa ra kết luận này là việc điều tra 3 trường phổ thông trên địa bàn. 3 trường phổ thông trên tổng số gần trăm trường từ tiểu học tới THPT của Đà nẵng. Mẫu không đủ vậy kết luận này là không chắc chắn.
Trong hầu hết các trường hợp bạn không có được đầy đủ thông tin để đưa ra kết luận một cái gì đó là đúng hay sai. Nếu như hoàn cảnh của bạn không bắt buộc phải đưa ra kết luận thì bạn đừng có kết luận gì cả, chỉ xem mà không đánh giá. Sai lầm của hầu hết chúng ta là đưa ra nhận định, đánh giá trong khi chẳng ai yêu cầu.
Internet khiến bạn ngày càng xa rời thực
tại khách quan
Bạn
hiểu rằng trung gian truyền tin bao giờ cũng phản ánh chủ quan của một
thực tại khách quan. Nếu bạn nhận tin từ trung gian càng nhiều thì bạn càng
để mình xa rời khỏi thực tại khách quan.Có phải con người ngày càng vô tâm hơn, cuộc sống ngày càng nguy hiểm hơn, kinh tế ngày càng khó khăn hơn, thực phẩm ngày càng bẩn hơn, con gái ngày càng thực dụng hơn, con trai ngày càng sở khanh hơn, y tế ngày càng tồi tệ hơn, giáo dục ngày càng nặng lề hơn?.
Bạn nhận thức những điều trên từ đâu? Có phải là từ tin tức bạn đọc hàng ngày?
Hãy nhận thức cuộc sống bằng chính trải nghiệm của mình.
Đúng và Sai
Tại sao
người trẻ thường phản ứng rất nhanh so với những kích thích bên ngoài
trong khi những người càng già lại càng có xu thể phán ứng chậm hơn? Có nhiều
nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là vì người già họ hiểu rằng
để quyết định một cái gì đó đúng hay sai phải cần nhiều thời gian để suy xét.Ranh giới giữa đúng và sai, giữa tốt và xấu,… là vô cùng mong manh. Một thứ có thể đúng ngày hôm nay nhưng lại sai vào ngày mai, một thứ có thể tốt bây giờ nhưng lại xấu vào tháng tới. Nó bị chi phối bởi tiêu chuẩn của hiện tại cũng như của tương lai.
Không hẳn khả năng dự báo tương lai của bạn càng tốt (tầm nhìn càng tốt) thì bạn sẽ đánh giá tốt hơn vì một cái đúng trở nên sai bị chi phối bởi rất nhiều các khách quan khác mà bạn không thể kiểm soát nổi.
Cha ông ta có câu “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ” hàm ý việc đôi khi tính toán quá lại là bất lợi. Ta có thể tính toán theo chủ quan sao cho có lợi nhất nhưng thực tế kết quả thế nào chỉ phụ thuộc một phần rất nhỏ vào những gì ta tính.
Cuộc sống như một trò may rủi.
Tư duy logic (P3: Thoát khỏi mơ hồ)
Khi nhắc tới “con mèo” bạn biết rõ nó là con gì vì bạn đã nhìn thấy nó rất nhiều lần, cả thực tế lẫn qua trung gian. Giờ nếu như bạn chưa bao giờ nhìn thấy con mèo, một người chỉ con mèo và nói với bạn đó là một giống chó. Bạn gán cụm từ “con chó” với một hình ảnh trong đầu về con vật đó. Lần sau ai đó hỏi bạn con đó là con gì, bạn sẽ nói đó là “con chó”.Nếu như ai đó bảo con đó không phải là “con chó” bạn sẽ tranh cãi cho bằng được vì bạn “biết rõ ràng” đó là con chó.
Trong đầu chúng ta luôn tồn tại một cặp tương xứng giữa một cụm từ và một sự vật, sự kiện. Nhắc tới con mèo ta hình dung ra con mèo, nhắc tới con chó ta hình dung ra con chó, nhắc tới con rồng ta hình dung ra con rồng. Bạn chưa bao giờ nhìn thấy con rồng nhưng bạn đã từng nhìn ảnh một con rồng và người ta dùng danh từ “con rồng” để ám chỉ con vật đó.
Điều gì diễn ra nếu như bạn gán sai? vì rõ ràng là không phải cái gì bạn cũng trực tiếp trải nghiệm, rất nhiều thứ bạn biết được từ trung gian. Người châu âu sẽ cãi nhau với người châu á rằng con rồng (Dragon) trông như con khủng long và có cánh; người châu á sẽ cãi rằng nó phải giống như con rắn có sừng mới đúng.
Khi nhắc tới từ “Quản trị” trong đầu tôi hiện ra khái niệm về nó nhưng chưa chắc khái niệm của tôi đúng vì tôi cũng chỉ đọc nó ở một cuốn sách mà cuốn sách đó được viết bởi một người, có nghĩa nó rất chủ quan.
Điều rút ra ở đây là bạn đừng gắn chặt hiểu biết của bạn với một cái gì, rằng nó là chân lý. Xét về nguyên tắc, một vật là chính nó mà không phải là thứ khác. Một con mèo là một con mèo, con mèo không thể là con chó; có nghĩa là chân lý thì có một nhưng chủ quan thì có nhiều. Chủ quan mà bạn tiếp nhận chưa chắc đã đúng vì vậy phải hết sức cởi mở để tiến dần tới chân lý.
Con người luôn muốn tiến tới chân lý vì họ biết rằng cái mình đang có không phải là chân lý. Giống như các bài viết trên blog này, đó không phải là chân lý, tôi chỉ đang cố gắng tiến tới chân lý mà thôi. Mặc dù mong muốn như vậy tôi có thể đang xa rời chân lý mà không biết vì nếu biết tôi đã không làm.
Một thực tại khách quan đáng nhẽ là A thì bạn hiểu là B; hoặc bạn không có bất cứ khái niệm nào thì đó là sự mơ hồ. Càng nhiều thứ hiểu mơ hồ thì bạn càng xa rời chân lý, mọi thứ cứ mập mờ, giữa trắng và đen, giữa đúng và sai, giữa có và không có, giữa phải và trái, giữa những thứ nên làm và những thứ không nên làm. Càng mơ hồ ta càng bị các chủ thể khác chi phối.
Mơ hồ giống như việc ta đi trong bóng đêm, ta không thể quan sát bất cứ cái gì vì vậy ta dễ dàng vấp phải đồ vật; việc đi về hướng nào cũng như nhau vì mọi hướng là giống nhau. Thoát khỏi mơ hồ ta sẽ nhìn thấy rõ điểm muốn tới, nhìn rõ đồ đạc xung quanh để không bị vấp ngã.
Chúng ta tiếp nhận thông tin ngay cả chúng ta không muốn
Ở ví dụ đầu entry này một người chỉ cho bạn con mèo và bảo bạn đó là một giống chó. Vì chưa bao giờ nhìn thấy con mèo nhưng bạn cũng không thể tin ngay được vì trong đầu bạn các giống chó hình như đều có một đặc điểm là lông cứng, mõm dài, trông cứng cáp. Con vật trước mắt bạn lông mềm và ẻo lả.
Bạn đưa thông tin này vào não với một suy nghĩ rằng điều này chưa chắc đã đúng. Tuy nhiên trí nhớ của bạn chỉ phân biệt Đúng và Sai; sau một thời gian nó chỉ còn nhớ mỗi một câu đó là Con vật có hình dạng như vậy là một giống chó.
Hàng ngày bạn đọc không biết bao nhiêu tin tức. Đừng tưởng rằng đọc chỉ với mục đích giải trí, nó sẽ định hình lên nhận thức của bạn. Bạn xem quảng cáo và cam đoan rằng mình chỉ xem cho biết mà không bao giờ mua. Nhưng trong đầu bạn đã định hình rằng một khó khăn nào đó đã được giải quyết rất tốt bởi một sản phẩm/dịch vụ nào đó. Khi gặp khó khăn đó bạn sẽ mua sản phẩm/dịch vụ đó.
Trí não ta sẽ lấp đầy những khoảng trống
Nếu như bạn nhận thức rằng A là B thì trí não ta sẽ tìm mọi cách chứng minh rằng A là B mà bỏ qua các dữ kiện khác.
Nếu bạn có nhận thức rằng A là một sản phẩm tốt thì bạn sẽ chỉ nhìn thấy những điểm tốt của A. Khi mới yêu bạn sẽ chỉ nhìn thấy mặt tốt của người yêu, ngay cả điểm xấu bạn cũng cho là tốt.
Bạn đang nhận thức thế giới như thế nào?
Khi nhắc tới Người Việt Nam bạn có nhận thức như
thế nào?Nhận thức 1: Người Việt nam có tính cẩu thả, hay chen lấn khi xếp hàng, vô tâm, keo kiệt, độc ác.
Nhận thức 2: Người Việt Nam là những người cần cù lao động, hay giúp đỡ người xung quan, thân thiện, ham học hỏi.
Khi nhắc tới Người giàu, bạn có nhận thức như thế nào?
Nhận thức 1: Người giàu là những người rất keo kiệt, hợm hĩnh, thích khoe của, luôn muốn trèo lên đầu người khác, họ làm giàu bằng những hành động bất chính.
Nhận thức 2: Người giàu là những người đã tạo dựng lên tài sản rất lớn bằng sự chăm chỉ và sáng tạo, họ tạo công ăn việc làm cho người xung quanh, họ giúp đất nước giàu hơn.
Nhận thức nào cũng có lý cả vì đúng hay sai phải được đặt trong một tình huống cụ thể. Nhận thức nào là tích cực sẽ giúp bạn tiến lên, nhận thức nào là tiêu cực sẽ kéo bạn xuống. Bạn đừng mong trở thành người giàu nếu như bạn có nhận thức tiêu cực về người giàu.
Nhận thức sẽ kéo theo hành động. Nếu bạn có nhận thức tích cực về người Việt Nam bạn sẽ hành xử tích cực. Nếu bạn nhận thức tiêu cực về người Việt Nam bạn sẽ hành xử tiêu cực vì bạn là một cá thể trong tập hợp đó.
Tại sao bạn nhận thức như vậy? có phải là bạn nghe người ta nói. Bạn sẽ bảo là Tôi vào viện toàn bị bác sĩ vòi tiền vì vậy ngành y tế rất tồi tệ, tôi có trải nghiệm thực tế để có nhận thức này. Nhưng một số ít trải nghiệm của bạn có đại diện được cho cả ngành y tế không? Cho dù bạn có trải nghiệm thì nhận thức đó cũng chưa chắc đã đúng.
4 quy luật của logic hình thức để ta
tránh bị mâu thuẫn logic
1. A
đồng nhất với A trong khách quan: A không phải là A chẳng qua là do qua
góc nhìn chủ quan của chủ thể.2. A không thể vừa là A vừa là phủ định của A: ” Học sinh A lớp tôi học giỏi toàn diện tất cả các môn, tuy nhiên có môn ngoại ngữ thì lại kém nhất lớp” hay ” Bạn rất xuất sắc tuy nhiên hầu hết trường hợp bạn lại không xuất sắc”
3. A là chân thực hoặc không chân thực, không có trạng thái ở giữa. “Ý của bạn vừa đúng vừa sai”.
4. A chỉ chân thực khi có đầy đủ căn cứ xác định A là chân lý
Bức ảnh dưới chụp về cảnh giảng đường đại học môn Vật lý đại cương:
Bạn thấy thế nào:
– Thực trạng giáo dục thật tồi tệ.
– Sinh viên không thích học vật lý cơ bản, nền tảng của khoa học kỹ thuật. Đất nước ta sẽ đi về đâu đây?
– Giáo viên kém nên không truyền được cảm hứng cho học sinh.
– Lớp học còn nhiều chỗ trống chứng tỏ rất nhiều sinh viên trốn tiết chơi điện tử, hút chích. Những người chủ của đất nước tương lai thật chán, VN ta hết cơ hội rồi chẳng bao giờ có thể bằng…Lào.
– Đây là thực trạng chung của người dân VN, mọi người đều chán nản, uể oải.
– Lý do tại sao năng suất lao động của VN chỉ bằng 1/15 Singapore.
…
Thực ra đây chỉ là bức ảnh đăng trên vnexpress về việc thí sinh thi vào trường đại học y đang tranh thủ nghỉ ngơi giữa hai môn thi.
Tư duy logic (P4: Kỹ thuật tạo liên kết)
Bản chất logic bao gồm nhiều mắt xích mà trong đó ta quan tâm tới hai điểm sau:– Mắt xích đó phải đúng vì nếu sai thì sai tất cả các ý liên quan tới nó.
– Các mắt xích gần nhau phải liên kết với nhau, mắt xích xa nhau liên kết với nhau bởi các mắt xích trung gian.
Đễ dễ hiểu chúng ta sẽ đi vào ví dụ cụ thể:
Giả sử như ta có mắt xích đầu tiên là Tắc đường tại đường Trường Chinh. Tạm liệt kê các nguyên nhân gây ra Tắc đường và các hậu quả của nó tạo ra các mắt xích phía trước và phía sau.
Đường Trường Chinh tắc do nhiều nguyên nhân, giả sử ta tìm được 4 nguyên nhân chính ở trên.Ta lấy “Cơ sở hạ tầng giao thông kém” làm mắt xích tiếp theo để phát triển các nguyên nhân và kết quả của nó.
Trừ khi bạn và người bạn muốn trình bày đều là chuyên gia trong ngành giao thông còn lại nhiệm vụ đầu tiên là bạn sẽ phải làm rõ các khái niệm xuất hiện trong sơ đồ trên nếu không sẽ mỗi người hiểu một kiểu.
– Thế nào là “tắc đường”? Thế nào là “tai nạn giao thông”? Thế nào là “tiêu tốn xăng xe”? Thế nào là “người điều khiển giao thông”….
Một cái xe máy vấp phải viên sỏi ngã ra đường không xây xát gì đã gọi là tai nạn giao thông chưa?. Dòng xe vẫn di chuyển mặc dù vô cùng chậm thì đã gọi là “Tắc đường” chưa?
Như entry trước ta có đề cập tới là cùng một sự vật, hiện tượng A nhưng dưới góc nhìn chủ quan mỗi người nó có thể ra những thứ khác hẳn nhau. Vì vậy đây là lỗi đầu tiên mà ta hay mắc, chúng ta cãi nhau đúng sai ở một khái niệm mà cả hai bên đều không thống nhất, hay nói khác không thống nhất một cách hiểu.
Các mệnh đề sau là đúng hay sai:
“Cơ sở hạ tầng kém là nguyên nhân của tắc đường”
Sai. Vì cơ sở hạ tầng kém không phải
là nguyên nhân duy nhất của tắc đường trong trường hợp này. Phát biểu đúng
phải là “Cơ sở hạ tầng kém là một trong các nguyên nhân của tắc đường”.
“Không có tiền đầu tư là một trong các nguyên nhân của
Tắc đường”
“Không có tiền đầu tư” là nguyên nhân của
nguyên nhân của “Tắc đường”, nó không cùng cấp với “Ý thức của người tham gia
giao thông kém”.Các ý càng xa nhau càng liên kết yếu. Ví dụ mệnh đề sau rất vô lý “không có tiền đầu tư có thể gây ra tiêu tốn xăng xe”.
Đây là lỗi thường gặp trong quá trình tư duy. Ta không tìm đúng mắt xích ngay phía trước nó khiến cho các nguyên nhân không cùng cấp với nhau tạo ra sự lủng củng.
“Nguyên nhân của tắc đường là do một lượng xe lớn
không thể di chuyển được”
Sai. Đây là lỗi ngược lại so với lỗi phía
trên vì ta chỉ trình bày lại khái niệm tắc đường giống kiểu A là A. Lỗi này
cũng là lỗi rất thường gặp khi ta chỉ ra nguyên nhân không đúng là nguyên nhân.
” Cơ sở hạ tầng kém có thể gây ra tai nạn giao thông
mặt khác tai nạn giao thông lại gây ra tắc đường” có sự lủng củng trong logic ở
đây.
Đây là tình huống rất thường gặp. Về nguyên
tắc các ý trong cùng cấp phải độc lập với nhau ví dụ ” Cơ sở hạ tầng kém” và ”
Ý thức người tham gia giao thống kém” là hai nguyên nhân độc lập, ta không thấy
có sự chồng lấn nào về ý ở đây.Tuy nhiên ta sẽ phải chấp nhận một sự chồng lấn tương đối giữa các ý; nếu trùng nhiều thì gộp vào thành một ý. Ta đang tìm giải pháp cho vấn đề “Tắc đường” nên sẽ không quan tâm tới các kết quả khác của nguyên nhân “Cơ sở hạ tầng kém”
Làm sao để tìm ra các mắt xích?
Ta tìm các mắt xích thông qua việc trả lời các câu hỏi 5W1H : Why, What, Where, Who, When, How
Tổng kết nguyên tắc tạo liên kết:
Nâng cao nhận thức
Nâng
cao nhận thức là cụm từ rất thường gặp. Đây là công việc nhằm giúp cho đối
tượng cần tác động hiểu được chân lý nhờ đó họ mới có hành xử đúng.Nâng cao nhận thức người dân về bảo vệ rừng là giúp người dân thấy được ích lợi của rừng, nhờ vậy họ sẽ không phá hoại rừng vì những lợi ích trước mắt sau đó sẽ phải trả giá cao hơn trong tương lai.
Nâng cao nhận thức của lái xe về an toàn giao thông, nâng cao nhận thức của bác sỹ về y đức, nâng cao nhận thức của nhân viên về tầm quan trọng của khách hàng, nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của thuốc lá.
Nâng cao nhận thức là gốc của nhiều vấn đề và cũng là phương thức khó khăn nhất. Bắt người ta thực hiện theo một lộ trình theo kiểu hành chính thì dễ nhưng kém hiệu quả. Bắt người ta tự hiểu để tự giác thực hiện thì rất khó nhưng lại hiệu quả lâu dài.
Cẩn thận với cách dùng từ
Trong
giao tiếp chúng ta cần chú ý một số điểm về dùng từ sau:1. Đối tượng của khái niệm không phải là toàn bộ ( không phải toàn bộ ngoại diên của khái niệm):
Một số, một vài, một ít, hầu hết, phần lớn, tất cả, rất nhiều, rất ít, toàn bộ, thỉnh thoảng, đôi khi,…
Ví dụ: “Một số chai nước mắm của nhãn hàng A qua kiểm dịch đã có một vài chai không đảm bảo chất lượng”
Câu này có xu hướng dẫn người đọc tới kết luận là toàn bộ hàng mang nhãn A đều không đảm bảo chất lượng.
Điểm khó khăn ở đây là không thể chứng minh được nếu không có thống kê vì vậy người viết có thể dùng từ thoải mái để định hướng người đọc tới ý muốn của anh ta.
Nếu tôi phát biểu rằng ” Hầu hết người Hà Nội đều không có thói quen xếp hàng”. Câu khẳng định này có đúng không? Muốn biết đúng hay sai thì phải thống kê toàn bộ dân Hà Nội, và phải làm rõ “hầu hết” ở đây chính xác là bao nhiêu người hay bao nhiêu %.
Từ đặc biệt trong thể loại này là từ “Các”. “Các” có nghĩa là bao nhiêu? có vẻ như là ngoại diên đầy đủ của khái niệm (Chu diên) nhưng mà cũng không hẳn.
Ví dụ:
“Các gia đình Hồng Kông mâu thuẫn nhau vì cuộc biểu tình”
Trong mệnh đề trên nếu “Các” hàm ý là toàn bộ ngoại diên của khái niệm “Gia đình hồng kông” thì chắc chắn là sai.
Nói chung chịu khó để ý ta sẽ thấy cách này được sử dụng rất phổ biến:
“Người dân chật vật xếp hàng tiêm vacxin dịch vụ” là tên một bài viết trên báo vnexpress. Từ “Người dân” ở đây rõ ràng không phải là toàn bộ chu diên của khái niệm “người dân”.
“Con trai của trùm ma túy sa lưới”; Do khái niệm “Trùm ma túy” không được định danh rõ nên tiêu đề trở nên mập mờ. Phải chăng tất cả con trai của tất cả trùm ma túy đều bị sa lưới?
2. Phủ định của phủ định:
Đây là lỗi trong logic làm cho người đọc bị rối.
Ví dụ:
– Không ai trong chúng ta là không có tình yêu quê hương đất nước
– Tôi cho rằng anh không phải là người không giỏi
– Mục tiêu của chúng ta sẽ không thể không đạt được.
3. Phủ định kép
– Nếu anh không đi chơi thì tôi cũng sẽ không đi chơi.
– Nếu như xe máy đó không có mặt ở đó thì tôi đã không đâm vào.
– Nếu trời không mưa thì tôi đã không đến trễ.
– Nếu Thị trường nhà đất không đóng băng thì tôi đã không bị chậm tiến độ xây dựng.
Câu này có ý đổ lỗi cho một sự kiện đã xảy ra. Thực tế rằng cho dù sự kiện đó có xảy ra thì chưa chắc vế sau đã xảy ra. Người nói không muốn khẳng định chắc chắn rằng nếu vế trước xảy ra thì vế sau sẽ xảy ra.
4. Sử dụng khái niệm thay thế
“NATO muốn làm lành với Nga
Tân tổng thư ký NATO hôm qua cho biết
khối này muốn có mối quan hệ mang tính xây dựng với Nga.”
Cùng
một khái niệm khách quan nhưng mỗi ngôn ngữ thể hiện khác nhau. Ví dụ “con mèo”
trong tiếng Việt gọi là “Con mèo”, Tiếng anh gọi là “Cat”. Nếu người dịch dịch
“Cat” thành “con chó” và nếu người đọc không biết tiếng anh hoặc không được
tiếp cận trực tiếp với từ “Cat” thì sẽ hiểu sai khái niệm.Ngoài ra cùng một ngôn ngữ nhưng với cùng một sự vật/ hiện tượng lại có nhiều cách diễn đạt. Khái niệm “làm lành” có tương đương với “Có mối quan hệ mang tính xây dựng” không? Hay ngoại diên của hai khái niệm này có trùng nhau không ? Trong trường hợp này thường ta sẽ muốn tiếp cận từ tiếng anh gốc để không bị hiểu sai, chính vì vậy việc đọc một sách tiếng anh bao giờ cũng chuẩn hơn là đọc một cuốn sách dịch.
Tư duy logic ( P5: Kỹ thuật đặt câu hỏi tìm nguyên nhân)
Liên quan tới nguyên nhân chúng ta sẽ có hai trường hợp chính:Trường hợp 1: Kết quả đã tồn tại và ta hỏi nguyên nhân nào sinh ra kết quả này.
Trường hợp 2: Kết quả chưa tồn tại và ta hỏi cần làm gì để kết quả đó xảy ra.
Ví dụ cho trường hợp 1:
Tại sao lại có biểu tình lớn tại Hồng Kông? Tại sao Trung quốc lại đưa dàn khoan 981 vào vùng biển Việt Nam? Tại sao cái bánh xe không hình vuông mà lại hình tròn? Tại sao Mỹ lại tổ chức không kích IS?
Tại sao chánh thanh tra Hồng Kông tự sát ? Tại sao Hào Anh lại đuổi bố mẹ ra khỏi nhà ?
Nhân nói tới sự kiện Hào Anh, nhiều người chỉ chú tâm vào sự kiện mang tính chất trái luân thường đạo lý mà quên mất một chân lý là Mọi thứ xảy ra đều có nguyên nhân. Theo nguyên tắc nhân quả thì ta gieo nhân nào ta gặp quả đó vì vậy hầu hết các trường hợp nguyên nhân xảy ra một sự kiện không hay lại bắt nguồn từ chính nạn nhân của sự kiện đó.
Ví dụ cho trường hợp 2:
Công ty chúng ta cần phải làm gì để đạt doanh số 10 tỷ ? hay nói cách khác để kết quả 10 tỷ xảy ra thì cần làm gì? (kết quả của những thứ ta làm sẽ khiến ta đạt 10 tỷ doanh số)
Làm sao tôi có đủ tiền để mua ngôi nhà này? hay để kết quả mua được nhà xảy ra thì tôi cần làm gì? (Kết quả của những tôi làm sẽ khiến tôi mua được nhà)
Làm sao tôi có thể đi tới Hải phòng trong vòng 2 giờ? hay là để đi được tới Hải Phòng trong hai giờ thì tôi cần làm gì ?
Khi bàn tới nguyên nhân ta thường nói tới một kết quả đã xảy ra và thường thì kết quả này là kết quả không mong muốn. Vì vậy, ta tìm nguyên nhân nhằm ngăn chặn nguyên nhân xảy ra từ đó ngăn chặn kết quả tiếp tục xảy ra trong tương lai.
Ngoài ra cũng có những câu hỏi tại sao về sự tồn tại khách quan của một sự vật hiện tượng nhưng chủ yếu để ta làm rõ khái niệm, sự vận động của nó mà thôi. Ví dụ tại sao cái bánh xe không hình vuông mà hình tròn? Tại sao trái đất lại quay quanh mặt trời? Tại sao lại có mưa?
Khi nói tới một kết quả trong tương lai thì thường đó là kết quả tích cực, ta mong muốn nó xảy ra. Vì vậy, ta tìm các nguyên nhân nhằm tìm cách để nguyên nhân xảy ra từ đó kết quả xảy ra .
Cẩn thận với cách đặt câu hỏi:
Chúng ta có Tại sao (Why) để hỏi về nguyên nhân một thứ xảy ra ví dụ Tại sao chúng ta cần tập thể dục thường xuyên? Tại sao anh lại học cao học? Tại sao trái đất hình tròn? Trước đây có hẳn một bộ sách mười vạn câu hỏi tại sao chỉ để liệt kê và trả lời các câu hỏi dạng này.
Chúng ta có Cái gì (What) để khái niệm một sự vật/hiện tượng nào đó. Ví dụ Quản trị là gì? WTO là gì? Danh sách đó có những gì? Trong cái hộp này có cái gì?
Chúng ta có Thế nào (How) để hỏi rõ sự vận động của sự vật/hiện tượng. ví dụ Cái xe này vận hành như thế nào? Làm thế nào chúng ta có thể di chuyển từ Hà Nội tới Hải phòng mà mất có 2 giờ? Chúng ta sẽ đạt doanh số mục tiêu như thế nào? Công ty này vận hành như thế nào? Cái máy tính này nguyên lý hoạt động như thế nào?
Cùng một mục đích hỏi ta có thể xây dựng các mệnh
đề dùng câu để hỏi khác nhau:
Tại sao anh lại làm việc này? Anh làm việc
này để làm gì?Làm thế nào anh tới được đây? Anh tới đây bằng cách gì?
Làm sao để phòng KD đạt được mục tiêu doanh số 10 tỷ? Chúng ta cần làm gì để đạt doanh số mục tiêu 10 tỷ? Làm thế nào ta có thể đạt được mục tiêu doanh số 10 tỷ?
Khi dùng Tại sao (Why) câu trả lời thường là một mệnh đề mô tả rõ ràng nguyên nhân.
Khi dùng Thế nào (How) ta thường ám chỉ tới phương tiện, cách thức. Cái cách làm cho B xảy ra.
Khi dùng Cái gì (What) câu trả lời thường chỉ là một danh từ (một sự kiện/sự vật). Liệt kê ra các A để có B.
Chúng ta đi tới gốc của vấn đề bằng cách liên tục đặt câu hỏi
Tại sao xe khách lao xuống vực? Do xe bị mất phanh.
Tại sao xe bị mất phanh? Do phanh không đảm bảo chất lượng mà chưa được thay mới.
Tại sao không thay mới phanh xe đúng hạn? Do không có tiền, do không có sổ theo dõi thay thế, do người bảo trì chủ quan.
Như vậy muốn trong tương lai không còn vụ xe khách lao xuống vực vì lý do mất phanh thì phải có tiền cho việc thay phanh cũng như phải có sổ theo dõi định kỳ việc thay. Ngoài ra cũng cần nâng cao nhận thức của người bảo trì về tầm quan trọng của phanh xe an toàn.
Tại sao anh không tập thể dục hàng ngày? Vì tôi không có thời gian.
Tại sao anh không có thời gian? Vì tôi có quá nhiều việc cần làm.
Tại sao anh lại có quá nhiều việc cần làm? Vì tôi khó dứt điểm được công việc khiến cho công việc dang dở rất nhiều.
Tại sao anh không thể dứt điểm được các công việc? Vì tôi thiếu tính quyết đoán.
Vậy để anh này có thời gian tập thể dục hàng ngày thì cần phải giúp anh ta giải quyết được điểm yếu “Thiếu tính quyết đoán”.
Tất nhiên là có nhiều nguyên nhân cho một kết quả chứ không đơn giản quan hệ 1:1 như ví dụ trên nhưng về nguyên tắc thì cách làm nó là thế. Để giải quyết được vấn đề tận gốc, ta phải đi tìm nguyên nhân gốc của vấn đề.
Tại sao anh đói? Vì tôi thiếu thức ăn.
Tại sao anh thiếu thức ăn? Vì tôi không có việc nào làm ra tiền?
Tại sao anh không kiếm việc làm? Vì không ai nhận tôi vào làm.
Tại sao không ai nhận anh vào làm? Vì tôi không đủ kỹ năng làm việc.
Như vậy nếu ta chỉ dừng ở mức cho tiền để anh ta mua thức ăn thì sẽ không giải quyết được vấn đề tận gốc. Anh ta sẽ tiếp tục đói khi hết tiền. Chúng ta chỉ có thể giải quyết được vấn đề bằng cách đào tạo nghề để anh ta có thể kiếm được việc làm từ đó có tiền để không bị đói.
Tư duy logic (P6: Kỹ thuật suy luận đúng)
Trong cuộc sống chúng ta có ba tình huống chính phải dùng tới tư duy logic:1. Giúp nhận định về một lập luận, suy luận, dự đoán, đánh giá là đúng hay sai.
2. Giúp tìm kiếm các nguyên nhân, hậu quả.
3. Giúp trình bày, lắng nghe và ghi nhớ.
Trường hợp 1 là trường hợp điển hình chúng ta thường xuyên gặp, mở mắt ra là gặp. Bạn càng giỏi thì vấn đề bạn gặp cũng càng phức tạp hơn vì vậy chúng ta luôn luôn phải đương đầu với việc biết đâu là đúng đâu là sai:
Ví dụ các bài viết sau mức độ
minh định là khó dần:
– Phía sau câu chuyện của một con chó
ghẻ giá 6 triệu đồng– Cán bộ, công chức hay bọn giang hồ, thảo khấu?
– Lời cảnh báo về nguy cơ tự suy vong của đạo Phật
Mức độ khó của bài viết phụ thuộc vào trình độ của người viết trong chuyên môn mà bài báo đề cập tới. Nếu một bài viết có chuyên môn nằm trọn trong hiểu biết của chúng ta thì dễ nhận định. Bài viết càng xa rời hiểu biết thì khiến ta còn không hiểu là nó nói gì chứ chưa nói tới đánh giá.
Lời khuyên tôi lặp lại là Bạn đừng đánh giá bất cứ cái gì mà bạn không bắt buộc phải đánh giá cũng như bạn đừng đọc bất cứ cái gì mà bạn thấy rằng nó chẳng có ích gì cho tương lai của bạn và gia đình bạn hoặc nó vượt quá khả năng bạn có thể đánh giá nó đúng hay sai.
Ví dụ mẫu cho một bài viết ngắn
Từ chối trình độ cao
Đây là một bài viết ngắn vì vậy rất đáng để mang ra làm mẫu xem xét. Bạn nên đọc bài viết trước khi đi tiếp.Tóm tắt bài viết: một bài viết về việc sở nội vụ TP HCM không chấp nhận ứng viên có chứng chỉ TOEIC, TOEFL.
Đánh giá tiêu đề: “Trình độ cao” là một khái niệm chưa rõ ràng nhưng ta hiểu chắc chắn rằng hai khái niệm “Trình độ cao” và “có chứng chỉ TOEIC, TOEFL” không thể trùng khít lên nhau được. Người viết dùng khái niệm có ngoại diên bao trùm để tăng mức độ nghiêm trọng làm cho cảm thấy “bức xúc hơn”, từ đó tăng khả năng bấm vào và đọc.
Về nội dung: ý trong bài viết không có gì nhiều túm lại là có mấy bước sau:
Bước 1: Nêu lên sự kiện
Các sự
kiện kể ra thường là ta không trực tiếp chứng kiến vì vậy tác giả sẽ có xu
hướng thậm xưng, thêm mắm thêm muối. Sự kiện càng gay cấn, càng khiến người đọc
“bức xúc hơn” thì càng tốt.
Bước 2: Nêu quan điểm của đối
tượng:
Quan
điểm của đối tượng thường rất mờ nhạt và yếu tính thuyết phục. Lấy ví dụ
như trong bài viết này thì quan điểm của đối tượng chỉ là hai mệnh đề trong khi
những đoạn còn lại là quan điểm của tác giả.
Bước 3: Nêu ra quan điểm của tác
giả
Chủ yếu
nhằm trả lời tại sao lại như vậy, hậu quả của vấn đề này là gì, có phương án
khác không. Và chắc chắn toàn bộ bài viết sẽ nhiều nhất ở bước này do bước 2 bản
thân tác giả cũng bị giới hạn về thông tin nhưng tại bước 3 thì tự sản xuất
được.Bài viết này đúng hay sai? bạn ủng hộ quan điểm của Sở nội vụ (được trình bày yếu và thiếu) hay ủng hộ quan điểm của tác giả (mạnh mẽ và chi tiết)? Nếu kéo xuống phía dưới phần comment bạn sẽ thấy đa số sẽ là ủng hộ quan điểm của người viết.
Quan điểm của bạn là gì? Bạn không quyết gì cả vì quá thiếu thông tin để ra quyết định là đúng hay sai. Mà việc bạn cho rằng đúng hay sai chỉ làm cảm xúc của bạn trở nên khó chịu mà thôi.
Trường hợp 2 và 3 là trường hợp thường xuyên phải gặp trong công việc và cuộc sống. Càng kém cái này thì làm càng kém hiệu quả vì không biết mình làm việc A để làm gì và tại sao phải làm việc A.
Trong entry đầu tiên tôi có nhắc tới việc nếu có trải nghiệm nhiều và nhận thức đúng trong các trải nghiệm ta sẽ có khả năng dự đoán các nguyên nhân và các hậu quả đúng. Nhưng chẳng nhẽ chúng ta cứ phải trả giá về thời gian, tiền bạc để có cái đó? Entry này là một tóm tắt cho các kỹ thuật để giúp bạn tiến nhanh hơn trên con đường luyện tập về suy luận đúng.
1. Nhận biết đúng và đủ các đối tượng tham gia vào sự kiện
Nếu bạn mở một quán cafe thì sẽ có những đối tượng nào liên quan?
– Bạn, gia đình bạn
– Bạn bè của bạn.
– Ông chủ cho thuê nhà.
– Hàng xóm
– Các nhà cung cấp
– Khách hàng
– Cơ quan thuế
– Quản lý thị trường
– Y tế quản lý vệ sinh thực phẩm
– Công an giao thông, công an phường,..
– Bảo kê khu vực (nếu có)
Mỗi đối tượng sẽ tác động vào công việc của bạn khiến kết quả thay đổi. Hiệu ứng cánh bướm sẽ khiến bạn phải trả giá (hoặc được lợi) từ những hành động tưởng như nhỏ bé của các đối tượng có trong phương trình của bạn.
Để liệt đầy đủ ta phải có kỹ thuật chia nhóm:
– Chia theo Bên trong và Bên ngoài: ta rất thường hay chia nhóm theo cách này ví dụ:
+ Trong công ty và ngoài công ty
+ Ta và những người quanh ta
+ Trong gia đình và ngoài gia đình
+ Trong nhà và ngoài nhà
+ Âm và Dương
….
Khi phân nhóm chú ý rằng hợp của các thành phần nhóm phải đầy đủ và không được giao nhau.
– Chia theo chức năng: Nhà cung cấp, Khách hàng, Đối thủ, cơ quan quản lý nhà nước, dịch vụ công, dịch vụ tư, dịch vụ giải trí, công việc, cuộc sống, các mối quan hệ,…
– Chia theo ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, theo mức độ ảnh hưởng, theo chủ quan và khách quan, theo ảnh hưởng trước mắt và lâu dài,….
Tóm lại ta lựa chọn tiêu chí phù hợp và phân nhỏ ra. Nhớ nguyên tắc hợp của các thành phần phải bằng tổng.
2. Hiểu đúng khả năng tác động của các đối tượng
Mỗi đối tượng mà bạn liệt kê ra đều có đặc điểm, vai trò, khả năng, nhu cầu riêng. Cơ quan thuế không thể kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ quan y tế không thể kiểm tra bạn đã nộp đủ thuế chưa, bạn sơ sơ không thể cho bạn vay tiền nhiều, đừng đặt giá vượt quá khả năng chi trả của khách hàng mục tiêu,…
Con mèo không thể là nguyên nhân của việc đĩa lạc trên bàn biến mất vì mèo không thích ăn lạc. Con chó không thể là nguyên nhân của việc mất đĩa cá trên bàn vì nó không thể nhảy lên trên mặt bàn. Cái ghim thường hay dập ghim không thể chọc lủng cái lốp xe ô tô….
Một nhạc sỹ không thể có đánh giá chuẩn về kiến trúc một ngôi nhà. Một nhà văn không thể nói chuẩn về một tôn giáo. Một kiến trúc sư không thể mổ đẻ. Một con vịt không thể bắt chuột.
Những ví dụ trên ta thấy đơn giản vì nó quá hiển nhiên nhưng khi một đối tượng nào đó vượt quá sự hiểu biết của ta thì ta sẽ thấy không hề đơn giản. Ví dụ như sự kiện Nhà nước hồi giáo tự xưng IS, sự kiện 30 năm chiến tranh Việt Nam, mở cafe tại nước ngoài, hoạt động của hệ thống ngân hàng,….
3. Hiểu về các quy luật vận động
Bạn biết tại sao Việt Nam vẫn phải đầu tư vào Khoa học cơ bản không ? tại sao ta không thể đi tắt đón đầu được? Vì mọi phát minh lớn đều phải xây dựng trên nền tảng của khoa học cơ bản. Ta chẳng thể phát minh hay làm chủ được cái gì khi mà không làm chủ được khoa học cơ bản.
Tất cả các ngành nghề, thiên nhiên, cuộc sống con người,.. đều đang vận hành theo một quy luật của riêng nó.
Nước bay hơi tạo thành mây, mây tạo thành mưa đổ xuống rồi lại bay hơi. Con người sinh ra, lớn lên, trưởng thành, bệnh tật, già nua và chết đi.
Vì không có cái gì tự sinh ra cũng tự mất đi nên mọi thứ đều đang vận hành theo một chu kỳ khép kín.
Bạn làm sao có thể tìm ra nguyên nhân gây ra hiệu suất thấp của hệ thống doanh nghiệp khi mà kiến thức quản trị của bạn là con số không. Bạn không thể đánh giá hay dự đoán tình hình kinh tế khi không có khái niệm gì về kinh tế vĩ mô. Bạn không thể sửa được ô tô khi không biết lỗi này thuộc về chức năng của bộ phận nào. Không thể dự đoán hành vi của khách hàng khi không hiểu gì về kinh tế vi mô. Không thể giao tiếp tốt khi không hiểu về con người.
Những bài toán đi tìm nguyên nhân hay hậu quả chúng ta gặp hàng ngày rất ít khi lặp lại nguyên xi nhưng chúng có những điểm giống nhau về nguyên tắc. Giải quyết được vấn đề trước mắt là tốt nhưng phải tiến xa hơn là hiểu ra nguyên tắc để có thể phán đoán tốt khi gặp một tình huống gần giống.
Khi muốn làm chủ một lĩnh vực nào đó chúng ta phải hỏi đâu là cái gốc, bản chất của lĩnh vực đó. Sau đó tập trung vào học cho tốt những thứ cơ bản song song với liên hệ với tình huống thực tế.
4. Phát triển các ý có mối quan hệ
Khi đang ở ý A bạn có ba con đường để đi tiếp:
– Chuyển sang ý B cùng cấp với ý A.
– Chuyển tới trước ý A ra nguyên nhân
– Chuyển về sau ý A để ra kết quả
Không nên từ A lại nhẩy ra C mà C ở tít đâu đó. Nếu bạn đang ở A thì chỉ nghĩ những thứ quanh A thôi, như thế ý nghĩ của bạn sẽ liền mạch
5. Phát biểu
Nếu chúng ta nói 2 mệnh đề thì khá đơn giản. Ví dụ:
– Xe em hỏng nên em tới muộn
– Trời đẹp quá đi uống cafe thôi
– Đang có vé máy bay giá rẻ mày mua chưa?
– Hôm qua trời mưa cả ngày nằm nhà xem ti vi.
….
Tốt nhất nếu không có gì thúc ép thì khi giao tiếp bạn chỉ nói hai mệnh đề một lần. Để tránh bị cụt lủn thì ta có thể thêm hoa lá cành để câu nói giàu chất văn hơn.
Khi cần phát biểu lớn hơn 2 mệnh đề ta sẽ dễ nhầm lẫn vì ta vừa phải nhớ những cái đã nói vừa phải nghĩ những cái sắp nói. Càng nhiều mệnh đề càng dễ nhầm lẫn. Ví dụ:
– Trời hôm qua mưa quá tao ở nhà cả ngày. Đứa nhỏ lại ốm nên mệt bã người. Đời đến là tệ.
– Anh nên mua cái tivi này vì nó rất đẹp, giá rẻ. Hôm qua cũng có nhiều người đắn đo hỏi bạn bè sau đó cũng quyết định mua. Bảo hành cái này 36 tháng mà cũng ít khi hỏng lắm anh ạ. Nếu anh có thẻ khách hàng thân thiết anh lại còn được giảm giá nữa.
Để tránh lộn xộn, ta phải đóng đinh trong đầu là ta đang phải trình bày, giải thích về vấn đề gì. Cái đoạn mà ta đang nói nhằm mục đích gì và ý chính của nó là gì? Nếu được bạn có thể chủ động phân nhỏ vì người nghe cũng không thích phải nghe nhiều do họ cũng gặp phải vấn đề là làm sao nhớ hết được những gì mà bạn vừa nói.
Thời nay là thời của công nghệ kỹ thuật, không phải là thời của văn chương thơ phú. Một nhà văn có thể thuyết phục bạn dễ dàng với lời văn mùi mẫn đi vào cảm xúc nhưng tính khả thi thấp. Một kỹ sư có thể thuyết phục bạn không được vì anh ta khô khan nhưng tính khả thi lại rất cao.
Tôi phản đối việc nhà văn đóng góp này lọ trừ những gì thuộc sở trường chuyên môn của anh ta. Nhà văn đừng đóng góp ý kiến vào giáo dục phải như thế nào, nên hay không nên đầu tư hay xây dựng cái gì. Anh ta có thể thỏa mãn cái sướng của bày tỏ ý kiến nhưng anh ta sẽ khiến đa số người dân, những người thiếu cả thời gian lẫn kiến thức, lao theo.
Tư duy logic (P7: Những rào cản của tư duy logic)
Trong quá trình tư duy ta sẽ gặp những rào cản lớn khiến ta khó lòng vượt qua cho dù có đầy đủ các kỹ thuật và kiến thức cần thiết. Vì vậy bên cạnh việc rèn luyện kỹ năng thì ta cũng phải nhận biết được những rào cản trên đường tìm ra chân lý.1. Cảm xúc – kẻ thù lớn nhất
Khi bạn yêu ai đó bạn có thể chỉ bằng suy nghĩ biến một thứ tiêu cực thành tích cực. Khi bạn ghét ai đó thì họ nói có lý bạn cũng cho là vô lý. Khi bạn có niềm tin với ai đó bạn sẽ có xu hướng tin tưởng lời nói của họ mà chưa phân tích cụ thể.
Cảm xúc xuất hiện thông qua ý nghĩ. Chỉ bằng ý nghĩ bạn có thể khiến mình trở nên vui vẻ hoặc buồn bã. Trong quá trình suy luận logic các ý nghĩ sinh ra sẽ làm thay đổi cảm xúc của ta.
Tham khảo tại bài Phi lý trí (P5: Cảm xúc điều khiển lý trí)
Nhưng nếu nói mà không có cảm xúc thì cũng không ổn. Ta phải hòa trộn cảm xúc vào lời nói nhưng phải quản lý được cảm xúc của mình không được để cảm xúc dẫn lối.
2. Người bảo thủ
Bảo thủ là hành động bảo vệ quan điểm của mình mà không chịu mở lòng ra để xem xét các ý kiến khác nhằm tìm tới chân lý đúng. Bảo thủ khác với kiên định, quyết đoán ở chỗ là người quyết đoán không cố gắng bảo vệ ý kiến của mình bằng mọi giá, họ sẵn sàng thay đổi nếu như họ thấy rằng họ sai nhưng họ không mất nhiều thời gian ra quyết định.
Người bảo thủ không hề nghe các ý kiến khác vì vậy đương nhiên họ sẽ không bao giờ tiến được tới chân lý.
Ví dụ nếu một người đóng đinh trong đầu là cái con đáng nhẽ là mèo kia là một con chó thì cho dù mọi người phân tích, giải thích thế nào thì họ cũng không chấp nhận rằng con mèo đó là con mèo.
Đôi khi người bảo thủ biết mình sai nhưng họ vẫn cứ hành xử như là họ đúng vì lòng tự trọng của họ quá cao.
3. Người ngây thơ, lạc quan thái quá
Ngây thơ là hành động ủng hộ ý kiến ngay cả khi chưa xem xét tới ý kiến đó. Một người bảo rằng con đáng nhẽ là con mèo kia là một con chó, người ngây thơ tin ngay mà không cần xem xét ý kiến.
Trường hợp này ngược lại với trường hợp bảo thủ, cả hai chỉ giống nhau ở điểm là đều không xem xét ý kiến trước khi ra quyết định
4. Người tiêu cực
Người tiêu cực luôn nhìn mắt trái của vấn đề trong đó có việc là không bao giờ ta có thể tìm được giải pháp cho một vấn đề nào đó. Nếu như ai đó nêu ra giải pháp, anh ta sẽ tìm ra lý lẽ để chứng minh rằng giải pháp đó là sai và chắc chắn là chúng ta không có giải pháp nào cả.
Người tiêu cực có hai loại :
1. Loại cho rằng không có giải pháp cho mọi
vấn đề. Có nghĩa là không bao giờ ta có thể tìm được chân lý. Loại này như đã
mô tả ở trên.2. Loại cho rằng đúng là có giải pháp cho mọi vấn đề nhưng ta sẽ không bao giờ có đủ năng lực để tìm ra. Loại này luôn có câu cửa miệng là “ta không thể làm được đâu”. Loại này chỉ ưu điểm hơn loại thứ nhất ở điểm là đồng ý có chân lý nhưng kết quả là giống nhau. Ta không thể tìm ra chân lý khi mà ta luôn mặc định rằng ta không thể tìm được.
5. Người hoài nghi
Người hoài nghi là người mà khi bạn khẳng định A là A họ sẽ bảo bạn A là B; còn nếu bạn bảo A là B thì họ sẽ nói A là A. Người hoài nghi nghi ngờ mọi lập luận là sai và họ tìm mọi lý lẽ để phản bác lại lập luận đó.
Nhưng chúng ta không thể không hoài nghi vì nếu đứng trước một vấn đề ta không có tâm lý nghi ngờ thì ta sẽ trở thành người ngây thơ. Nhưng hoài nghi phải đủ độ, một sự hoài nghi mang tính tích cực.
6. Tầm nhìn thấp
Tầm nhìn bao gồm Tầm nhìn không gian và Tầm nhìn thời gian. Giống như việc bạn càng leo lên núi cao thì bạn càng nhìn rộng hơn. Bạn nhìn vấn đề với tầm nhìn càng hẹp thì bạn càng dễ mắc sai lầm.
Làm sao để cải thiện tầm nhìn?
Thứ nhất bạn phải mở lòng mình, lắng nghe mọi ý kiến. Dần dần bạn sẽ có nhiều góc nhìn của một vấn đề.
Thứ hai bạn phải luôn hiểu rằng mọi sự vật hiện tượng đều có sự liên quan tới nhau trong một tổng thể hài hòa. Cái vấn đề ta đang quan tâm cũng phải nằm trong một tổng thể nào đó, nó không thể đứng riêng biệt được cũng như mọi kết quả đều phải có nguyên nhân vậy. Nếu ta không công nhận điều này thì ta sẽ bị bó hẹp trong vấn đề đó mà thôi.
Thứ ba bạn phải đọc nhiều lĩnh vực, nghiên cứu những thứ vĩ mô.
7. Người cầu toàn
Cầu toàn là việc cố gắng tìm được chân lý rồi mới quyết định. Điều này chẳng có gì sai nhưng vấn đề là có những thứ không nhất thiết phải đi tới tận cùng chân lý hoặc những thứ không cho chúng ta nhiều thời gian để quyết định.
Người cầu toàn sẽ tiến hành công việc rất chậm và kém hiệu quả.
8. Người hiếu thắng
Người hiếu thắng suy nghĩ rằng vấn đề đi đến đâu không quan trọng, quan trọng là ta phải thắng. Nếu bạn tranh luận với người hiếu thắng thì đứng đưa ra lý lẽ, dẫn chứng làm gì cho mất công vì bạn càng chứng minh rằng họ sai thì họ càng quá khích.
Đối với trường hợp này bạn phải chấp nhận rằng họ đúng ở một số điểm nào đó để họ dịu lại sau khi họ thấy bạn chấp nhận thua họ sẽ dễ cho bạn thắng ở một điểm nào đó.
Người hiếu thắng sẽ phá vỡ kết quả của mọi cuộc tranh luận vì kết thúc hoặc là họ phải thắng hoặc là chẳng ai thắng.
9. Thiếu niềm tin vào chính ý kiến cần bảo vệ
Chắc chắn đã có lúc bạn từng nghi ngờ chính cái ý kiến mà bạn đang cố gắng bảo vệ nó trước sự nghi ngờ của người khác. Sự thiếu tin tưởng sẽ thể hiện trong lời nói và hành động.
Như vậy nếu bạn muốn thuyết phục người khác mua món hàng A thì bản thân bạn đã phải rất thích A và sẵn sàng mua A để sử dụng nếu có điều kiện.
Nếu bạn không yêu cô ta và nói rằng bạn yêu cô ta thì bạn đang lừa dối chính mình và không khó để một người ở trạng thái tỉnh táo đối diện có thể nhận ra.
Điều này tương tự như thiếu tự tin. Thiếu tự tin là trạng thái tin tưởng vào ý kiến của mình nhưng lại cho rằng có thể có những ý kiến khác tốt hơn mà người khác có thể nghĩ ra vì vậy lời nói ngập ngừng, ý kiến không mạch lạc, hành động rón rén.
10. Hành động theo bản năng
Trong cuộc sống, có những hành động diễn ra quá nhanh mà bạn không kịp suy nghĩ. Những phản xạ không điều kiện, có điều kiện, thói quen,….sẽ hành động mà bạn không cần nghĩ.
Ta không nên hành động theo bản năng vì thực tế ta hoàn toàn có thể có thời gian suy nghĩ. Bạn không cần thiết phải cãi lại người đối diện ngay lập tức, không cần trả lời ngay lập tức, không cần phải ném cục gạch vào đầu họ ngay lập tức, không cần phải quyết định một vấn đề ngay lập tức… Bạn phải dành thời gian cho suy nghĩ, nếu không có suy nghĩ làm sao có được sự logic.
Tư duy logic (P8: Lập luận)
“Trời đang tối xầm lại rất nhanh, khả năng sẽ
có mưa.”
“Anh ta học rất chăm chỉ và có phương pháp
học đúng, anh ta sẽ thi đỗ được đại học.”“Khóa cửa đã bị bẻ gẫy, rất có thể tên trộm đã vào theo con đường này.”
“Xe hỏng vì vậy chắc chắn tôi sẽ đến muộn”
Tất cả những ví dụ trên được gọi là lập luận hay suy luận. Lập luận là việc chúng ta dựa vào những thứ “ta biết” để suy luận, dự đoán ra những sự kiện mà ta “không biết”.
Thứ “ta biết” gọi là tiền đề. “Ta biết” trong ngoặc kép vì như entry đầu tiên tôi có đề cập rằng những thứ ta biết chỉ là chủ quan của một thực tại khách quan nên những thứ đó chưa chắc đã đúng với bản chất thực sự.
Ví dụ: “Tôi thấy anh ta rất hay đi làm muộn vì vậy anh ta là người vô tổ chức.”
Rất có thể là anh ta đi làm muộn vì anh ta làm một số công việc của công ty ở ngoài trước khi tới cơ quan. Rất có thể đặc thù công việc khiến anh ta phải đi làm về muộn vì vậy đươc bù đắp bởi đặc cách đi làm muộn…
Cái “Ta biết” đó cũng có thể do ta nghe của một trung gian truyền tin như báo đài, bạn bè, người thân, nhân viên, sếp,..
Tất nhiên cái “ta biết” cũng có thể là cái hiển nhiên là chân lý đúng vì được nhiều người thừa nhận và đã được chứng minh ví dụ như trái đất quay quanh mặt trời.
Cái dự đoán mà ta “không biết” đó gọi là kết luận. Tính đúng đắn của kết luận phụ thuộc vào hai yếu tố:
– Tiền đề phải đúng
– Mối quan hệ giữa tiên đề và kết luận là có và đúng đắn.
Lý lẽ và dẫn chứng
Ta sử
dụng luận cứ để đưa ra các luận điểm. Luận điểm là quan điểm
của tác giả đưa ra dựa vào luận cứ. Luận cứ là những lý lẽ, dẫn chứng dùng
để làm căn cứ cho luận điểm.Lý lẽ: là một chân lý hiển nhiên đúng hoặc đã được nhiều người thừa nhận là đúng.
Dẫn chứng: là những bằng chứng thực tế.
Ví dụ: Băng trộm vô hiệu hóa như thế nào trên vnexpress
“Theo một cán bộ điều tra, căn cứ vào hình ảnh một số camera trong siêu thị ghi được và kết quả khám nghiệm hiện trường có thể xác định nhóm trộm có khoảng 7 người đã nghiên cứu địa hình rất kỹ. Khoảng 1h50, camera ghi nhận nhiều ánh đèn pin loang loáng trong siêu thị, có thể do chúng sử dụng đi lại bên trong. Tuy nhiên, một số camera khu vực nhóm này di chuyển trong siêu thị đến chi nhánh ngân hàng và các quầy kinh doanh vàng bạc đã bị vô hiệu hóa.
” hình ảnh…. trường” gọi là dẫn chứng. ” có khoảng 7 người đã nghiên cứu địa hình” là luận điểm suy ra từ dẫn chứng.
” Khoảng 1h50,… siêu thị” là dẫn chứng. “Có thể chúng sử dụng đị lại bên trong” là luận điểm. Người ta không nhìn thấy hình ảnh người đi bên trong nhưng suy luận ra từ việc có nhiều ánh đèn pin.
Như vậy tiền đề có thể là lý lẽ hay dẫn chứng. Lập luận là cách trình bày, dẫn dắt lý lẽ và dẫn chứng để đạt mục tiêu truyền tải, chứng minh một quan điểm của người viết, người nói.
Ta sử dụng các luận cứ, luận điểm trong văn nghị luận, thuyết minh rất nhiều. Ngoài thể loại văn này còn các thể loại khác như mô tả, tự sự.
Nếu như một bài viết chỉ đơn giản là mô tả lại hiện trường vụ nổ kèm các ảnh chụp thì đó là sử dụng văn Mô tả. Nhưng khi mà tác giá bắt đầu có nhận xét cái nào tốt, cái nào không tốt, cái nào xấu, cái nào đẹp, cái nào có thể đã xảy ra… thì là họ đã bắt đầu sử dụng văn nghị luận.
Diễn dịch, Quy nạp, Phân tích, Tổng hợp
Phân tích là việc chia nhỏ một vấn đề lớn ra thành các vấn đề nhỏ hơn để giúp nhìn rõ hơn bản chất vấn đề lớn cũng như để giải quyết vấn đề lớn từ việc giải quyết vấn đề nhỏ.
Tổng hợp là việc ghép các vấn đề nhỏ có liên quan lại với nhau để có cái nhìn tổng thể về một vấn đề lớn.
Phân tích và tổng hợp là ngược lại với nhau nhưng chúng bổ sung cho nhau. Trong hành văn nghị luật ta sẽ đi từ tổng thể tới chi tiết để người đọc nắm bắt sau đó lại rút về tổng thể ở phần kết luận.
Suy luận diễn dịch là đi từ cái tổng thể tới chi tiết, từ cái chung tới cái riêng.
– Tất cả các con mèo đều thích ăn cá nên con mèo nhà bạn chắc chắn cũng thích ăn cá.
– Trường học thường đóng cửa vào lúc 17h00, chắc hôm nay cũng sẽ đóng cửa giờ này.
Suy luận quy nạp ngược lại với diễn dịch là đi từ cái riêng tới cái chung, từ cái chi tiết tới cái tổng thể.
– Con mèo nhà bạn thích ăn cá, chắc tất cả các con mèo đều thích ăn cá.
– Hôm nay trường học đóng cửa vào lúc 17h00, chắc hôm nào cũng đóng cửa vào giờ này.
Cả hai dạng suy luận đều đi từ tiền đề tới kết luận. Diễn dịch có ít rủi ro hơn nếu như toàn bộ tổng thể đều đúng thì chi tiết khả năng sẽ đúng cao. Quy nạp có rủi ro lớn hơn vì chi tiết đúng chưa chắc tổng thể đã đúng.
Quy nạp được sử dụng rộng rãi hơn cả. Nó giúp ta đi từ cái đã biết để suy luận ra cái chưa biết. Muốn biết mức sống dân cư Hà nội, người ta lấy mẫu khảo sát sau đó suy luận ra tổng thể mức sống của toàn bộ dân cư Hà nội.
Muốn biết thuốc chữa Ebola thử nghiệm có hiệu quả thực hay không người ta thử nghiệm trên một số người tình nguyện sau đó kết luận là nó thực sự hiệu quả.
Muốn tìm ra nguyên nhân của tắc đường trên đường Trường Chinh người ta quan sát tình huống trước khi các vụ tắc đường diễn ra. Khi tìm ra quy luật người ta kết luận rằng nguyên nhân dẫn tới tình huồng tắc đường là do kiện A xảy ra. Người ta giải quyết sự kiện A và kỳ vọng rằng sẽ không còn tắc đường trong tương lai nữa.
Như vậy độ chính xác của kết luận quy nạp tới đâu phụ thuộc vào mẫu. Không thể khảo sát 1000 gia đình Hà nội mà suy ra mức sống dân cư của cả Hà Nội, không thể chỉ thử nghiệm thuốc trên 5 người, không thể chỉ thu thập thông tin tắc đường trong một tuần. Rất có thể có những dữ liệu mang tính cá biệt trong bộ mẫu đó.
Hầu hết phương thức ngụy biện sẽ căn cứ vào việc:
– Tiền đề không đúng.– Tiền đề không có đủ hoặc không có mối quan hệ trực tiếp với kết luận.
Một bài viết hôm nay trên vnexpress không đồng thuận về việc đưa môn văn vào môn thi của Đại học Y.
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/202519/-chung-ta-dang-nham-lan-ve-mon-van-.html
Bạn thấy ngay lập luận rất yếu, rời rạc cũng như mắc nhiều lỗi logic. Nếu ta ghét môn văn có thái độ không ủng hộ ngay từ đầu ta sẽ chỉ tập trung vào luận điểm của tác giả mà không xem xét kỹ luận cứ. Đây là bằng chứng cho việc bạn không được để luận điểm dẫn dắt bạn, phải tập trung vào luận cứ để biết cái gì đúng, cái gì sai một cách gần chính xác nhất.
Thế nào là nhận thức
Nhận thức là những quan niệm của chúng ta về thế
giới xung quanh và thế giới trong chính chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều
có một bộ nhận thức. Vợ chồng có một bộ nhận thức giống nhau sẽ hòa hợp hơn.
Nhận thức xuất phát từ những thứ ta tiếp nhận từ nhà trường và cuộc sống.Học từ nhà trường thì đúng nhưng khô khan. Học từ cuộc sống thì sinh động nhưng có thể hiểu sai. Vợ chồng cùng một trình độ học vấn là một nền tảng quan trọng cho cuộc sống sau này.
Thay đổi nhận thức là việc ta thay đổi quan niệm về một sự vật, hiện tượng cụ thể nào đó.
Ví dụ : Khi bước chân vào giảng đường đại học, tôi nhận thức rằng học tập là con đường thoát nghèo duy nhất
Trong ví dụ trên ta để ý mấy ý sau:
– Đây không phải là chân lý đúng trong mọi trường hợp mà chỉ đúng với anh ta ở tình huống của anh ta mà thôi.
– Trước thời điểm anh ta phát biểu ra điều này thì có thể anh ta đã thực hiện theo rồi chẳng qua là anh ta chưa phát biểu nó ra thành lời. Hoặc cũng có thể anh ta không nghĩ rằng học tập là con đường thoát ngèo duy nhất. Hoặc trong danh sách những cách làm giàu mà anh ta quan niệm thì không có “học tập”. Hoặc có thể anh chưa bao giờ đặt ra câu hỏi “Làm sao để giàu?”
– Thời điểm t này rất quan trọng. Quá trình tiến tới nhận thức có thể lâu dài nhưng việc chuyển từ “không” thành “có” chỉ một khoảng khắc nào đó bất chợt khi bạn đang ngồi cafe, đang đi dạo, hoặc cũng có thể đang ngồi dưới gốc cây bồ đề

Nhận thức chia làm Nhận thức tích cực và Nhận thức tiêu cực. Không phải nhận thức nào cũng đúng ngay cả trong tình huống cụ thể của người đó vì có thể bản thân người đó không hiểu hết chính tình huống của mình.
Khi dùng cụm từ “nâng cao nhận thức” là người ta muốn ai đó có được một nhận thức tích cực mà người đó chưa có hoặc nhận thức không đúng.
Tư duy logic (P9: Ta là ai? )
Entry này bắt nguồn từ kiến thức của 8 entry qua, sẽ hơi lấn sân sang Lập trình ngôn ngữ tư duy một chút.Bây giờ nếu như ai đó đặt ra câu hỏi “Bạn là ai?” thì bạn sẽ trả lời như thế nào? Câu hỏi này cũng rất hay có trong các buổi phỏng vấn xin việc, hãy tóm tắt trong vài câu mô tả Bạn là ai?
Đầu tiên bạn sẽ giới thiệu về tên tuổi, nơi ở sau đó bắt đầu mô tả về hình dáng và tính cách của bạn. Bạn là người thông minh hay không thông minh? Đẹp trai hay không đẹp trai? Dễ tính hay không dễ tính? Sáng tạo hay không sáng tạo? Có đam mê hay không có đam mê? Chăm chỉ hay không chăm chỉ? Kiên nhẫn hay không kiên nhẫn?
Chúng ta sẽ ít ngờ rằng những gì chúng ta nghĩ về mình hóa ra là đều từ người khác nói với chúng ta
Mô hình tổng thể ở phía dưới, quy trình diễn giải như sau:
Bạn có một thực tại khách quan gọi là A. Người ngoài nhìn bạn và cảm nhận là B. Người đó mô tả với bạn cái B của họ nhưng bạn lại hiểu rằng C. Cuối cùng thì A được cho là C.
Khi một người gặp bạn, ngay lập tức họ sẽ hình thành một bộ mô tả về bạn. Họ quan sát bạn, so sánh với chuẩn của mình thế nào là đẹp rồi họ đưa ra nhận xét rằng bạn đẹp hay không đẹp. 10 người bạn gặp có người nói bạn đẹp và có người bảo bạn không đẹp, giả sử như có 8 người bảo rằng bạn đẹp thì bạn sẽ tự hình thành lên rằng bạn là người đẹp.
Tương tự, nếu như hầu hết những người chơi với bạn bảo rằng bạn là người thân thiện thì bạn sẽ hình thành suy nghĩ rằng mình là người thân thiện.
Điều quan trọng là 10 người bạn gặp sẽ có cảm nhận rằng bạn đẹp hay không đẹp nhưng không phải ai cũng nói cho bạn biết suy nghĩ của họ. Theo suy nghĩ thì có 7 người cảm nhận rằng bạn đẹp và 3 người cho rằng bạn không đẹp. Nhưng 7 người suy nghĩ rằng bạn đẹp không nói với bạn điều đó, 3 người còn lại thì nói ra suy nghĩ của họ. Theo góc nhìn của bạn thì 100% người nói với bạn đều cho rằng bạn không đẹp -> bạn không phải là người đẹp.
10 người bạn gặp có những chuẩn mực so sánh hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, chẳng ai giống ai cả. Chuẩn mực đẹp, thông minh, thân thiện, năng động,….tất tần tật đều khác nhau.
Có chuẩn mực chung cho việc này không?
Thế nào là đẹp? có phải đẹp là tỷ lệ khuôn mặt theo đúng một con số nào đó. Cơ thể đẹp có phải là có số đo ba vòng 90:60:90. Mà một người đẹp có cần phải toàn bộ đẹp hay là chỉ cần khuôn mặt đẹp là đủ?
Tương tự, thế nào là người
thông minh? Thế nào là người năng động? Thế nào là người có tư duy tích cực?
Thế nào là người yêu đời? Thế nào là người thân thiện? Thế nào là người tình
cảm?
Câu trả lời là không có chuẩn mực chung.
Không có một mô tả rõ ràng cho các khái niệm trên. Như mấy bài trước có đề cập
tới thì khi các khái niệm đã không đồng nhất thì khó nói được chuyện gì cho ra
ngô ra khoai. Anh A bảo cô kia đẹp, anh B thì bảo cô kia xấu; hai anh cãi nhau
chẳng có hồi kết.Giả sử có một chuẩn mực chung về cái đẹp, bạn đáp ứng đầy đủ tiêu chí, bạn đẹp. Giờ nếu như hầu hết người gặp bạn cho rằng bạn xấu thì bạn có thể có tự tin cho rằng mình đẹp không?
Ngược lại, giả sử theo chuẩn mực đẹp thì bạn xấu. Nhưng hầu hết người bạn gặp đều khen bạn đẹp thì chắc chắn bạn sẽ hình thành niềm tin rằng bạn là người đẹp.
Ta cũng biết rằng suy nghĩ sẽ dẫn tới hành vi. Đôi khi một cảm nhận sai mang lại kết quả tốt. Ví dụ như bạn nghĩ rằng mình đẹp vì nhiều người bạn bảo thế. Đẹp thì sẽ dẫn tới tự tin. Tự tin sẽ thể hiện ra từ dáng đi tới cách nói chuyện, tóm lại tới toàn bộ hành vi. Nhờ vậy bạn sẽ tỏa ra một Khí chất lôi cuốn người khác và khiến bạn kiếm được một ông chồng tốt, một công việc tốt, những người bạn tốt.
Ngược lại, nếu bạn cho rằng bạn xấu (mặc dù bạn đẹp) thì bạn sẽ tự ti. Tự ti trong mọi hành vi. bạn dễ chấp nhận một ông chồng tệ hại vì bạn cho rằng mình không xứng đáng được một ông chồng tốt hơn. Bạn chấp nhận một công việc tệ hại vì xấu thì chỉ được thế. Tự bạn đánh giá mình thấp thì người khác sẽ đánh giá bạn thấp.
Như vậy suy nghĩ sai nhưng theo chiều hướng tích cực có lợi hơn là suy nghĩ đúng theo chiều hướng tiêu cực.
Suy nghĩ dẫn tới hành vi, hành vi tạo thói quen, thói quen quyết định sự thành công của mỗi người.
Không phải trường hợp nào ta cũng thành công với suy nghĩ sai theo hướng tích cực. Vì nghĩ rằng mình là người thông minh, bạn lao vào công việc đòi hỏi sự thông minh. Vì nghĩ rằng mình là người năng động nên bạn xin vào vị trí kinh doanh, vì nghĩ rằng mình phải làm to, lương phải cao bạn từ chối các công việc lương thấp.
Chúng ta nên nhìn nhận mình như thế nào?
Mô hình hình thành nên câu trả lời “Ta là ai?” có nguyên lý đơn giản nhưng hoạt động một cách khách quan bên ngoài bạn. Tôi nghĩ có cách khác để biết mình là ai:
1. Chúng ta biết mình là ai thông qua kết quả thực tế:
Nếu bạn giải quyết công việc nhanh gọn, có nhiều sáng kiến thì tự bạn cảm thấy là mình thông minh mà không cần sếp bạn phải bảo bạn rằng bạn là người thông minh.
Nếu bạn soi gương và tự bạn thấy rằng mình đẹp thì cũng hãy tự nhận rằng mình đẹp vì cái này có sai cũng chẳng chết ai.
Nếu bạn luôn giúp đỡ người khác trong những lúc khó khăn thì chắc bạn là người tử tế.
Nếu mọi người đều thích chơi với bạn thì chắc bạn là người dễ gần.
Càng trải nghiệm nhiều người ta càng có nhiều dữ liệu để chứng tỏ mình là ai. Càng trẻ càng ít trải nghiệm thì càng mù mờ về bản thân.
2. Bạn của bạn, họ là ai?
Thông thường người ta dễ cuốn hút những người có cùng thế giới quan. Hãy nhìn những người bạn hay chơi cùng. Họ như thế nào thì khả năng cao bạn cũng như thế. Người hiền lành không thể chơi chung lâu dài với người cục cằn, người năng động không chơi thân với người hướng nội, kẻ lưu manh không chơi được với người tử tế.
Nếu nhóm chơi của bạn đều là những người có ham muốn làm giàu một cách chính đáng thì đó quả là may mắn. Nếu bạn bè của bạn là những người mỗi chiều, mối tối cà phê, rượu với nhau thì chia buồn với bạn.
3. Từ quá khứ
Quá khứ đã qua không nên tiếc nuối nhưng quá khứ có thể nói cho bạn biết tương lai bạn sẽ đi về đâu.
Có những thất bại do ngoại cảnh nhưng nếu gặp những thất bại mang tính lặp đi lặp lại thì chắc chắn vấn đề là từ chính bạn. Liên tục khởi nghiệp, liên tục thất bại. Liên tục đổi việc với cùng lý do. Liên tục gặp rắc rối,….
Tìm nguyên nhân gốc sẽ giúp bạn phá vỡ vòng lặp.
Còn một điểm nữa cũng quan trọng là người ta ít khi nói ra đúng cái họ nghĩ. Nếu họ nghĩ rằng bạn xấu thì hoặc họ không nói ra hoặc họ sẽ nói bạn dễ thương, hoặc xấu nhưng có duyên

Một người mới gặp bạn vài lần có đủ tư cách nhận xét bạn không? Một người theo trường phái tiêu cực có thể nhận xét bạn tích cực được không? Một người quá lạc quan một cách ngây thơ có thể đặt bạn đúng vị trí không?
Cái gương mà chúng ta soi vào quá nhiều lệch lạc vì vậy chúng ta nên tự cảm nhận về chính mình. Mỗi chúng ta đều có điểm mạnh, điểm yếu; những thứ bên ngoài đều có cơ hội và thách thức. Tìm cơ hội mà phù hợp với điểm mạnh của bạn sẽ mang lại thành công cho bạn.
Tư duy logic (P10: Nền tảng của lập trình ngôn ngữ tư duy)
Entry này từ cảm hứng khi xem phim kinh dị Jessabelle (tên tiếng Việt: Tế xác).
Trong entry phần 9 chúng ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ta là ai ? “. Câu hỏi của entry này là “Làm sao bạn biết bạn đã tồn tại trong quá khứ và trong hiện tại?”
Làm sao bạn biết rằng bạn đã sống vào ngày hôm qua? Câu hỏi nghe rất kỳ cục nhưng mà nếu ai đó hỏi bạn bất ngờ bạn sẽ khó trả lời vì nó quá hiển nhiên đối với bạn. Câu trả lời đó là ký ức của ta về ngày hôm qua giúp ta biết rằng ta tồn tại vào ngày hôm qua.
Nhưng ký ức của một tháng trước bạn không hề nhớ, tại sao bạn vẫn biết mình có sống vào một tháng trước? Vì bạn có ký ức của thời điểm trước đó. Nếu như bạn tồn tại tại điểm A trong quá khứ cho tới hiện tại B thì rõ ràng bạn có sống trong khoảng A tới B cho dù bạn không còn nhớ gì cả.
Dựa vào ngày tháng năm sinh của bạn, bạn biết rằng giữa thời điểm đó cho tới bây giờ bạn có tồn tại cho dù ký ức của bạn quãng đời vừa qua chỉ là các chấm nhỏ.
Theo bạn có kiếp trước không? Cho dù câu trả lời là có hay không thì nó chẳng có chút ý nghĩa nào cả. Lý do là nếu như ta không có một tí ký ức nào của kiếp trước thì rõ là ta nhận thức rằng ta không tồn tại ở kiếp trước. Nếu có kiếp sau mà kiếp sau bạn không nhớ gì về kiếp này thì đó là một người hoàn toàn khác rồi, đó không phải là bạn.
Bây giờ hãy thử tưởng tượng trong quá khứ bạn có một khoảng thời gian từ điểm A tới điểm B vô cùng tồi tệ. Có phép màu nào đó khiến bạn quên quãng thời gian AB đi thì bạn sẽ không biết mình đã có khoảng thời gian tồi tệ đó, dường như mọi thứ đều tốt đẹp.
Ngược lại bạn có thể tưởng tượng ra rằng trong quá khứ bạn đã có một tháng nghỉ dưỡng trên đảo Mandives xinh đẹp. Bạn hình thành trải nghiệm thật chân thật: mắt bạn đã nhìn thấy mầu xanh của biển, không gian tĩnh lặng với tiếng gió xì xào, nước biển thật trong vắt, từng làn gió mát mơn man trên da bạn. Bạn chạy trên cát, nằm trên võng; thậm chí buổi tối ngày thứ hai bạn còn nặn xuống biển bắt cá mập.

Lặp đi lặp lại rồi một lúc nào đó bạn cho là đúng là mình đã từng có một tháng ở Mandives thật. Mỗi lần nghĩ về kỳ nghỉ này bạn lại thấy thư giãn, thấy mình đã biết hưởng thụ cuộc sống.
Nghe rất kỳ cục nhưng có phải là giờ đây mỗi lần nghĩ một trải nghiệm nào đó trong quá khứ bạn lại thấy như là mình đang sống ở đó. Hồi tưởng một lúc bạn có cảm xúc vui hay buồn tương ứng. Bạn có thể tự sáng tác nên quá khứ của bạn.
Bạn có thể biến quá khứ đầy đau thương của bạn thành một quá khứ huy hoàng.
Điều gì hình thành nên ta ?
1.Ta có ký ức về trải nghiệm trong quá khứ và
2.Tập hợp tính cách ta trong hiện tại và tất nhiên là
3. Thể xác của ta ở hiện tại nữa.
Nếu bây giờ 2 yếu tố đầu thay thế thành 2 yếu tố hoàn toàn mới thì ta có còn là ta nữa không? Đó là điều đã xảy ra ở phim Jessabelle, thể xác không thay đổi nhưng trải nghiệm + tính cách thay đổi vì vậy trở thành một người hoàn toàn khác.
Ở entry đầu tiên của chủ đề hoàn thiện tính cách, chúng ta biết rằng tính cách bản chất là phản ứng của ta trước khách quan bên ngoài. Các phản ứng mang tính lặp đi lặp lại giống nhau với những hoàn cảnh giống nhau (thói quen).
Tính cách hình thành từ bẩm sinh nhưng cũng có nhiều tính cách hình thành từ trải nghiệm sống nào đó trong quá khứ. Giả sử một tính cách là X được hình thành từ trải nghiệm Y trong quá khứ. Nếu như ta thay Y bằng một trải nghiệm Y’ thì tính cách X sẽ thay đổi.
Việc thay Y thành Y’ hoàn toàn có thể làm được chỉ bằng việc nghĩ lặp đi lặp lại. Việc này cũng giống như là thay đổi lịch sử. Ta có thể thay đổi lịch sử thông qua việc thay đổi sách lịch sử. Mọi người sẽ có ký ức về lịch sử khác hoàn toàn so với thực tế. Đó là lý do các nước phản đối khi Nhật thay đổi sách lịch sử của họ về thế chiến thứ II.
Câu hỏi tiếp theo: Làm sao bạn nhận ra mình trong một bức ảnh chụp nhiều người? Bạn nhận thức về khuôn mặt và cơ thể mình thông qua gương và thông qua ảnh chụp, video.
Giờ đây nếu như có một cái gương nào đó cho hình ảnh trong gương khác hẳn bạn. Thêm điều kiện nữa là bạn không có ký ức nào về khuôn mặt, cơ thể của bạn trong quá khứ. Sau khoảng một vài lần soi gương bạn có nhận thức về khuôn mặt bạn khác hẳn với thực tế. Giờ đây bạn sẽ không thể nhận ra mình trong các bức ảnh chụp trong quá khứ nữa.
Nếu một người bị cấm soi gương, xem ảnh, video của mình trong khoảng thời gian đủ dài thì họ sẽ quên khuôn mặt, hình dáng của chính họ.
Nếu một người quên nhận thức về thể xác, quên trải nghiệm trong quá khứ thì họ có còn là họ nữa không ?
Bạn có thể xóa mụn trên mặt chỉ bằng cách kiếm một cái gương mà cái gương đó tự động xóa mụn.

Dông dài như vậy để bạn thấy rằng sự tồn tại của ta rất tương đối. Nó chính là cơ sở của Ngôn ngữ lập trình tư duy. Bạn có thể học cư xử và suy nghĩ như một người thành đạt. Điều này dần dần trở thành trải nghiệm trong quá khứ của bạn. Trải nghiệm sinh ra tính cách. Tính cách dẫn tới hành động. Và hành động dẫn tới thành công.
Trong tương lai người ta có thể tạo ra một cái máy nào đó khiến thay đổi ký ức của con người. Chắc là vậy.
Thực ra câu hỏi “Ta bao gồm những gì?” rất phức tạp. Chúng ta khác con vật ở khả năng tự ý thức. Chúng ta ý thức được mỗi hành động của chúng ta. Con vật thì không tự ý thức được, hành động của chúng là theo bản năng hình thành từ nguyên tắc tự đào thải trong suốt quá trình tiến hóa giống loài.
Suy nghĩ của chúng ta hình thành từ các phản ứng hóa học giữa các neuron thần kinh. Nhưng khi chúng ta mô phỏng đúng những gì diễn ra trong bộ não thì ta không tạo được một trí tuệ nhân tạo nào cả. Làm sao trong hàng tỷ tỷ loài trên trái đất chỉ có duy nhất vượn người có thể trở thành một sinh vật có ý thức? Liệu nếu con người diệt vong bởi một thảm họa thì một tỷ năm sau loài nào sẽ trở thành sinh vật có ý thức? Liệu loài đó vẫn có hình dạng như chúng ta ngày nay?
Nếu chúng ta mất hoàn toàn dữ liệu ở thời điểm hiện tại trở về trước thì chúng ta vẫn cứ cảm nhận được sự tồn tại của mình vì thời gian trôi đi liên tục. Bất cứ một hành động nào của bạn ngay lập tức nó sẽ trở thành quá khứ và bạn thấy sự tồn tại của mình từ lúc bạn quên tất tần tật tới lúc bạn nghĩ về sự tồn tại của mình.
Tư duy logic (P11:Cách đặt câu hỏi bản chất)
Dường như các câu hỏi luôn sinh ra trong đầu chúng ta. Các câu hỏi khai mào các luồng suy nghĩ của chúng ta. Không có câu hỏi thì cũng không có câu trả lời và đương nhiên là không có tiến trình ở giữa là Lập luận.Chúng ta không trả lời “Ngôi nhà này cao 25 tầng” trước khi đặt câu hỏi “Ngôi nhà này cao bao nhiêu tầng ?”.
Chúng ta không nói “Anh ta là người tốt?” trước khi trong đầu hoặc ai đó hỏi “Anh ta là người như thế nào?”
Chúng ta không đi thẳng đến điểm A trước khi chúng ta đặt câu hỏi “Ta sẽ đi đâu?”
Các câu trả lời sẽ dẫn dắt hành động của chúng ta vì vậy đặt câu hỏi đúng sẽ dẫn tới câu trả lời đúng và đáng trả lời.
Vậy điều gì chi phối cách chúng ta đặt câu hỏi?
Giả định trên một chuyến xe đi qua hầm đèo Hải Vân có 10 người. 10 người này buộc phải ngồi yên trên xe vì vậy dữ kiện họ thu thập được tương đối giống nhau đó là hình ảnh qua cửa sổ, hình ảnh trong xe, âm thanh của động cơ, nhiệt độ xe…
Vậy họ có đặt ra những câu hỏi giống nhau không? Chắc chắn là không, các thuộc tính sẽ chi phối cách họ đặt câu hỏi
– Phụ thuộc vào trải nghiệm trước đó của họ:
Người đầu tiên đi qua hầm sẽ đặt câu hỏi hầm dài bao nhiêu ? Cao bao nhiêu ? Rộng bao nhiêu? Người đã đi qua nhiều lần sẽ không hỏi vì đơn giản là họ biết rồi -> Khi chúng ta biết hoặc cho rằng chúng ta đã biết một câu trả lời nào đó chúng ta sẽ không hỏi.
– Phụ thuộc vào chuyên môn họ quan tâm:
Người kiến trúc sư sẽ hỏi hầm này được xây bằng cách nào, xây trong bao lâu? Doanh nhân sẽ hỏi hầm này xây tốn bao nhiêu tiền, giá vé qua hầm là bao nhiêu, mỗi ngày có bao nhiêu người qua hầm? Người công nhân môi trường sẽ hỏi người ta làm sạch hầm bằng cách nào? ông chủ tịch tỉnh sẽ hỏi người dân được hưởng lợi gì khi có hầm? nó được xây vào thời kỳ nào? -> Trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp sẽ quyết định chúng ta đặt câu hỏi về lĩnh vực nào ? và mức độ sâu tới đâu?
– Phụ thuộc vào thế giới quan của họ
Thế giới quan của một người là cách mà họ nhìn nhận về thế giới xung quanh. Mỗi người trên xe có một thế giới quan khác nhau phụ thuộc vào môi trường mà họ đã trải nghiệm từ bé.
Qua hầm tối có nguy hiểm gì không? Người nào trên xe có thể gây hại cho ta? Chiếc xe có phải hình như đang phóng quá nhanh?
Làm sao người ta có thể xây dựng được những công trình vĩ đại tới vậy? Làm thế nào để ta bắt chuyện với người bên cạnh?
Phụ thuộc vào dòng suy nghĩ mà họ đang theo đuổi
Tất nhiên là lúc nào chúng ta chẳng nghĩ nhưng luôn luôn mỗi một giai đoạn ta có những dòng suy nghĩ lớn. Dòng suy nghĩ lớn sẽ chi phối các dòng suy nghĩ nhỏ, hướng sự quan tâm của ta vào đó.
Tôi đang tìm kiếm việc làm vì vậy trong đầu tôi luôn có câu hỏi thường trực Làm sao để kiếm việc làm?, Ngày mai ta có nên nộp đơn vào công ty đó không?.
Tôi đang khánh kiệt vì vậy các câu hỏi của tôi xoay quanh hậu quả của việc không có tiền và làm sao để kiếm tiền: “Làm sao tôi có thể trả tiền thuê nhà tháng này? Tháng này nên tiết giảm chi tiêu cái gì?
Khi gia đình lục đục, con sắp lấy chồng, bị bệnh trĩ,…..
Sẽ có người trên xe họ còn không nhận thức được là xe họ đang qua hầm
Đặt câu hỏi bản chất là việc đặt ra câu hỏi chất lượng đi đúng vào bản chất vấn đề. Nó giúp tìm ra nguyên nhân cốt lõi, mong muốn cuối cùng, giải pháp hiệu quả nhất,…
Một dòng suy nghĩ của chúng ta đại loại là một chuỗi ở dưới:
Ví dụ một ai đó hỏi “Tòa nhà Kangnam ở gần Mỹ Đình Hà Nội cao bao nhiêu tầng?” Giả như chưa ai có câu trả lời trước đó thì họ bắt đầu tìm câu trả lời theo chuỗi.
– Đầu tiên là tập hợp các dữ liệu đã biết: đây là tòa nhà mới xây vài năm, hình như nó được đánh giá là cao nhất, Nó có một tòa tên là landmark 72 và trên tầng 72 là nơi có dịch vụ bán vé cho người ta lên xem…..Một số dữ liệu có chữ “hình như” vì ta không chắc chắn lắm.
– Sau đó là lập luận: Nếu như tầng 72 là tầng view thì chắc chắn tòa nhà phải cao hơn 72 tầng, có thể là 73.
– Nếu như bạn không phải chịu trách nhiệm về câu trả lời bạn sẽ kết luận là Nó khoảng 73 tầng. Nếu như bạn bị phạt khi trả lời sai và phải trả lời chính xác số tầng thì bạn có thể lảng tránh câu trả lời. Nếu có thể bạn sẽ tra cứu để biết chính xác câu trả lời.
Các câu hỏi bản chất sẽ bám theo trình tự này:
1.Các câu hỏi tập trung vào câu hỏi
Tại sao tôi phải trả lời câu hỏi này? Tôi có cần phải trả lời không?
Họ có mục đích gì khi hỏi câu hỏi đó?
Tôi đã hiểu đúng câu hỏi chưa?
2.Các câu hỏi tập trung vào kết quả
Thực sự chúng ta muốn đạt tới điều gì? Rốt cục là anh muốn gì?
Mục tiêu của chúng ta là gì? Kết quả cần đạt là gì ?
Vấn đề cần phải giải quyết là gì? Chúng ta đã hiểu rõ vấn đề đang phải đối mặt chưa?
Đâu là người phải chịu trách nhiệm cho việc này?
3.Câu hỏi tập trung vào dữ kiện
Chúng ta có đủ thông tin chưa?
Anh ta có được thông tin đó bằng cách nào? Anh ta có phải là người đáng tin cậy không?
Mẫu khảo sát đã đủ lớn chưa? Anh ta có kinh nghiệm đó trong hoàn cảnh nào?
Chúng ta đã thống nhất với nhau khái niệm này chưa?
Giả định của anh có hợp lý không ?
Ví dụ: “Nếu động đất cấp 12 xảy ra thì tòa nhà này sẽ sập vì vậy nó không an toàn khi ở”. Câu hỏi tập trung vào giả định là ” Trong lịch sử, ở đây đã từng có vụ động đất nào chưa và nó thường ở cấp mấy? Căn cứ vào đâu anh cho rằng có thể có động đất cấp 12 ở đây?”
4.Câu hỏi tập trung vào lập luận
Tại sao anh kết luận như vậy? Cách lập luận đã đúng chưa?
Tại sao anh cho rằng việc A sẽ dẫn tới việc B?
Đó có phải là nguyên nhân chính không?
Anh có thể trình bày rõ hơn về lập luận của mình không?
5.Câu hỏi tập trung vào hành động
Chúng ta sẽ đạt tới điều đó bằng cách nào?
Kế hoạch có khả thi không? Ai là người đã xây dựng kế hoạch này? Anh ta có đủ năng lực và hiểu biết cần thiết chưa?
Sau khi thực hiện xong kế hoạch thì mục tiêu có đạt được không?
Chúng ta đã tính hết chi phí phải bỏ ra chưa? Chúng ta sẽ tiêu tốn những nguồn lực gì? Chi phí cơ hội là bao nhiêu?
Đây có phải cách làm tốt nhất chưa? Liệu có cách khác không?
Phương án này có phải là tốt nhất chưa?
Ai sẽ chịu trách nhiệm thực hiện ? Ai là người phối hợp? Chúng ta đã giao đủ các nguồn lực cho người thực hiện chưa?
Tư duy logic (P12:Tư duy phản biện)
Trong một tập thể mà khi một ý kiến nêu ra ngay lập tức được sự ủng hộ hoàn toàn hoặc là cũng có thắc mắc nhưng yếu ớt, hoặc một cuộc bỏ phiếu mà 100% người về một phía thì có tốt không? Liệu đó có phải là dấu hiệu của sự đoàn kết? của một sự thống nhất cao độ?Khi ta gần như mặc nhiên đồng ý với những thứ xung quanh ta mà không hề phán xét hoặc không bao giờ suy nghĩ ngược lại thì đó có phải là ta đang thuận theo tự nhiên, là có ích cho chính chúng ta?
Câu trả lời là không. Một tập thể mà bất cứ vấn đề gì nêu ra đều nhận được sự ủng hộ cao thì hoặc là tất cả đều tiến về phía trước hoặc là tất cả cùng đang lùi về phía sau. Ngược lại một cuộc họp nảy lửa không có nghĩa là nó thể hiện tính thiếu đoàn kết trong nội bộ mà nó là cơ hội để cho tập thể đó suy nghĩ nhiều chiều nhằm lựa chọn ra cách tốt nhất.
Trong cuốn “Quốc gia khởi nghiệp” có nói tới một trong những bí quyết thành công của người Israel đó là văn hóa phản biện. Văn hóa phản biện được nuôi dưỡng trong một công ty tới mức mà bất cứ ai cho dù là nhân viên cấp thấp nhất cũng có thể đứng lên tranh luận với một vị tổng giám đốc, không có phân biệt thứ bậc khi tranh luận. Tương tự ngoài chiến trường, một người cấp bậc thấp hơn có thể không theo lệnh của cấp trên khi cần. Văn hóa này kích thích việc khởi nghiệp, không ai phản đối những người nghĩ khác.
Ở Việt Nam thi khác, văn hóa phản biện cấp quốc gia cũng chỉ mới hình thành vài năm gần đây. Ở cấp công ty thì sếp bảo gì cấp dưới cấm cãi, cãi thì mời đi chỗ khác. Ở nhà thì bố mẹ nói gì con cấm cãi, trong một dòng họ thì thứ bậc càng được sắp xếp một cách ngay ngắn nhằm đảm bảo rằng mọi thứ phải có “tôn ti trật tự”
Điều này làm cho những người muốn khởi nghiệp phải gặp khó khăn về dư luận. Cứ làm cái gì khác đi một tí là thể nào cũng có một tập thể những người dỗi hơi thuyết phục bạn bằng được là đừng có làm. Bản thân những con người lớn lên trong môi trường này cũng ngại phải làm một cái gì đó khác với bình thường.
Tư duy phản biện hay còn gọi là tư duy phê phán khác hoàn toàn với phá đám hay bàn lùi. Người bàn lùi thì là bàn ngược nhưng chẳng qua là để thỏa mãn cái tôi cá nhân chứ không phải vì tập thể. Kiểu những câu thế này :
” Tôi thấy rằng ý kiến của anh rất hay nhưng có một cái gì đó không ổn” (nhưng tôi không rõ là cái gì không ổn)
“Tôi cho rằng cái chúng ta đạt được không xứng đáng với tiềm năng” (nhưng nếu cho tôi làm lại thì tôi không biết cách nào có thể làm tốt hơn)
“Tôi cho rằng cách làm này của chúng ta sẽ không đi đến đâu” (nhưng tôi không biết lý do và tôi cũng chưa tìm ra cách làm khác)
Người có tư duy “bàn lùi” ngay lập tức sinh ra ý kiến ngược lại với số đông. Nếu người ta bảo rẽ phải thì mình bảo rẽ trái, nếu người ta bảo rẽ trái thì mình bảo rẽ phải. Có nghĩa là họ chỉ muốn khẳng định rằng ý kiến của mình là quan trọng để thỏa mãn cái tôi mà không xuất phát từ mục tiêu cao cả nào đó.
Tư duy phản biện hay tư duy phê phán cùng là cùng một ý nghĩa như nhau. Nhưng chữ “phê phán” thường mang nghĩa tiêu cực. Chữ “phản biện” dùng đúng hơn.
Theo tôi Tư duy phản biện (Critical Thinking) có thể tách làm hai:
– Tư duy tự phản biện
– Tư duy phản biện ngoại cảnh.
Tự phản biện là tự mình phản biện những ý nghĩ, hành động của chính bản thân mình. Con người ta có xu thế phê phán người khác chứ ít khi tự phê phán chính mình. Khi trong đầu ta phát sinh một ý kiến ta có xu thế bảo vệ ý kiến đó thay vì tự mình đào đi đào lại ý kiến đó để nó ngày càng tốt hơn.
Khi ta quyết định làm cái gì đó ít khi ta tự đặt câu hỏi “Điều đó có đáng làm không?”, “Nếu làm điều đó thì sẽ ảnh hưởng tới ai?”, “Đây có phải cách làm tốt nhất trong hoàn cảnh hiện tại?”
Khi một ai đó phản biện ý kiến của ta thì ta có xu thể chống lại trước khi suy nghĩ kỹ về ý kiến của họ.
Đại loại chúng ta tự xây dựng một cơ chế tự bảo vệ chính mình chống lại ngoại cảnh cũng như chống lại chính những ý kiến của chúng ta.
Tư duy phản biện ngoại cảnh là việc tiếp nhận những thông tin ngoại cảnh một cách nhiều chiều, không dễ dãi.
Người có tư duy phản biện có những khả năng sau đây:
– Khả năng quan sát : Quan sát ở đây không phải chỉ là nhìn mà phải là hiểu. Mỗi người có một trình độ khác nhau trong việc “nhìn hiểu” cũng tương tự như “Nghe” và “Nghe hiểu”, “Đọc” và “Đọc hiểu”. Kết quả của quan sát là ta hiểu được bản chất đằng sau vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tư duy phản biện bắt nguồn tự việc mỗi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt. Tư duy phản biện giúp nhìn mặt mà ít người thường nhìn.
– Luôn luôn tò mò và đi tìm kiếm câu trả lời: Sau khi hiểu được bản chất ta bắt đầu nhìn nó dưới nhiều góc độ khác nhau. Lúc này các câu hỏi sẽ rất có ích đặc biệt là câu hỏi Tại sao? Làm thế nào? Quan trọng là bạn phải hướng ngược lại so với xu thế chung. Nếu chỉ đặt câu hỏi mà không chủ động đi tìm câu trả lời thì bạn sẽ được xếp vào loại đa nghi, phá đám, bàn ngược.
– Luôn nghi ngờ: đặc biệt là sự vật hiện tượng đó bạn mới gặp lần đầu. Một phát ngôn từ người mà bạn thiếu tin tưởng đương nhiên sẽ phải được soi xét kỹ hơn so với một người mà bạn đã hoàn toàn tin tưởng.
– Có tư duy logic: Tư duy logic là khả năng kết nối các mắt xích tưởng như chẳng có liên kết gì với nhau. Tư duy logic và tư duy phản biện không phải là một mà là bổ trợ cho nhau. Không có tư duy logic thì bạn cùng lắm chỉ đặt ra được câu hỏi chứ khó tự tìm ra câu trả lời. Ngược lại việc sở hữu tư duy phản biện khó hơn nhiều so với tư duy logic.
– Khả năng tự loại “cái tôi” ra khỏi khung cảnh: Khi đánh giá một vấn đề nào đó bạn phải coi bản thân như một anh A nào đó không phải là chính mình. Nếu không chúng ta sẽ dễ bị cảm xúc chi phối. Đây chính là rào cản lớn để có tư duy phản biện và biến nó thành có ích cho chính bản thân.
– Kỹ năng ra quyết định: ra quyết định là một quy trình bao gồm: 1.Gọi tên vấn đề, 2. Tìm kiếm các đối tương liên quan tới vấn đề, 3. Tìm nguyên nhân, 4. Tìm giải pháp, 5. Tổ chức thực hiện. Khi bạn phát ngôn ra là “chúng ta nên làm thế này” thì trong đầu bạn phải hình thành đầy đủ các thông tin trong tiến trình ra quyết định rồi. Nó sẽ giúp cho ý kiến của bạn chặt chẽ và có thể tiếp tục tương tác với người khác.
Đặc trưng của một ý kiến phản biện:
Ý kiến phản biện thường là của thiểu số vì đơn giản nếu nó của đa số thì đó là ý kiến chính thống rồi. Người có tư duy phản biện thường đưa các ý kiến trái ngược với suy nghĩ thông thường của nhóm đó. Gộp lại thì dấu hiệu của một ý kiến phản biện là nó là của thiểu số và nó phải không giống với những ý thông thường của nhóm đó, tổ chức đó.
Giá trị của ý kiến phản biện
Ý kiến phản biện có giá trị rất lớn quyết định tới sự thành bại của tổ chức thậm chí là sự tiến bộ của loài người. Bất cứ một ý kiến nào mới lạ mới ra đời đều trước hết là bị đám đông vùi dập, khi ý kiến đó đã tự chứng minh được từ thực tế thì nó mới dần được chấp nhận.
Nếu như bạn là người dẫn dắt tổ chức bạn phải nhìn thấy giá trị của những ý kiến phản biện. Nó không khiến tổ chức thất bại mà chính những ý kiến phản biện sẽ giúp tổ chức tránh khỏi các rủi ro không đáng có, nó giúp thúc đẩy sự cải tiến và sáng tạo. Nếu người quản lý chỉ thích những người lúc nào cũng vâng dạ thì sẽ không thu hút được những người phản biện.
Tôi nghĩ rằng đứng về thứ bậc thì tư duy phản biện phải nằm ở đỉnh cao là sự sáng tạo, mặc dù nó không phải là sáng tạo nhưng nó là chất xúc tác cho sáng tạo.
Để luyện tập Tư duy phản biện bạn phải hội đủ những điều kiện ở trên:
- Luyện khả năng quan sát
- Luôn tò mò và tìm kiếm câu trả lời
- Luôn nghi ngờ
- Luyện Tư duy logic
- Khả năng tự loại cái tôi
- Kỹ năng ra quyết định.
Tư duy logic (P13: Tư duy tổng hợp)
Tư duy phân tích và Tư duy tổng hợp là hai hoạt động tư duy khác nhau. “Phân tích” có nghĩa là chia nhỏ và Tổng hợp thì ngược lại, tập hợp những mảnh nhỏ lại. Một số bài viết cho rằng người có tư duy phân tích đương nhiên phải có tư duy tổng hợp và người có tư duy tổng hợp đương nhiên phải có tư duy phân tích. Thực chất không hoàn toàn như vậy, Tư duy tổng hợp thuộc về đẳng cấp cao hơn so với Tư duy phân tích. Chúng ta sẽ tìm hiểu Tư duy tổng hợp trong bài viết này.Ví dụ một đoạn sau nói về vụ nổ ở Thiên Tân năm 2015:
“Một đội chuyên gia hạt nhân và hóa học của quân đội Trung Quốc bắt đầu phân tích hiện trường hai vụ nổ lớn ở thành phố Thiên Tân, nhằm lý giải nguyên nhân vụ nổ làm ít nhất 50 người chết.”
Đội chuyên gia tới đó sẽ phân tích nước, không khí và những thứ còn sót lại. Họ sẽ phỏng vấn những người có liên quan tới nhà kho nới xảy ra nổ, từ người không có mặt tại đó lẫn người có mặt tại đó. Họ sẽ phỏng vấn những người chứng kiến, thu thập các đoạn video và phân tích chúng.
Các dữ liệu được mang ra phân tích mổ xẻ. Sau đó mọi dữ liệu được ghép nối, được đặt cạnh nhau để nhìn trên tổng thể vì mọi thứ trong bối cảnh đó đều có sự liên quan tới nhau. Nó cũng giống như 5 ông thầy bói mù mỗi ông sờ một bộ phận của một con voi thì từng ông không thể kết luận đúng được mà các ông phải tập hợp lại với nhau.
Trước khi các chuyên gia phân tích thì họ phải định hình trong đầu một vài nguyên nhân có thể xảy ra để việc tìm kiếm có trọng tâm. Khi phân tích nước họ sẽ tìm một số nguyên tố phóng xạ, một số loại hóa chất nào đó chứ họ không cần thiết phải phân tích toàn bộ các chất có trong mẫu nước.
Có phải Tư duy phân tích giúp hướng vào một số nguyên nhân có thể xảy ra và phân công công việc các nhóm, nhờ vậy đội chuyên gia sẽ làm việc nhanh và chính xác hơn? Có phải Tư duy phân tích sẽ được dùng để ghép nối các kết quả phân tích độc lập thành một bức tranh, nhờ đó có thể đưa ra kết luận về nguyên nhân vụ nổ? Chắc chắn đó không phải là tư duy phân tích, đó là Tư duy tổng hợp
Năng lực tổng hợp rõ ràng là phức tạp hơn nhiều so với năng lực phân tích. Người có năng lực phân tích đòi hỏi phải có kỹ năng phân tích và am hiểu cái thứ mà mình đang phân tích. Một chuyên gia phóng xạ chỉ tập trung tìm các dấu hiệu về chất phóng xạ, một chuyên gia chất nổ sẽ xem ngọn lửa, tàn tro, khói,…
Người điều hành cái tổ chuyên gia đó không cần biết chi tiết nhưng mỗi chuyên ngành lại phải biết một ít nhờ vậy mới hiểu mối liên kết giữa chúng, mới ghép nối chúng lại với nhau được. Do vậy Tư duy tổng hợp giúp định hướng phân tích và giúp thống nhất các kết quả phân tích lại với nhau thành một bức tranh hoàn chỉnh.
Khuynh hướng Tư duy tổng hợp và Tư duy phân
tích
Người
có khuynh hướng tư duy tổng hợp một cách cực đoan cho rằng mọi thứ đều phải
nhìn trên tổng thể. Nếu tách lẻ nó ra thì nó không còn là nó nữa vì vậy phải
nhìn nhận vấn đề trên tổng thể. Người có khuynh hướng này sẽ hay vĩ mô mà
ít đi vào chi tiết.Người có khuynh hướng tư duy phân tích một cách cực đoan luôn muốn phân tích một vấn đề ngay cả khi điều đó là không cần thiết. Anh ta muốn mọi thứ phải được hiểu thấu đáo, phải chính xác. Người có khuynh hướng này hay hướng tới vi mô mà bỏ qua cái tổng thể.
Do tính tương hỗ qua lại của hai loại tư duy mà chúng ta phải phát triển một cách cân bằng hai loại tư duy này. Quá thiên về một hướng nào đó đều không tốt trừ khi bạn ở trong một nhóm làm việc mà mỗi vị trí sẽ đảm nhiệm về một hướng nhờ vậy sẽ bổ trợ nhau tốt hơn, làm được nhiều thứ hơn.
Ví dụ như hình vẽ dưới, dựa vào các câu hỏi, tư duy phân tích giúp ta làm rõ từng nhánh của rễ cây, tổng hợp giúp ta đặt các nhánh trong một tổng thể hài hòa.
Các nhánh được kết nối với nhau bằng quan hệ nhân quả đòi hỏi phải có tư duy logic.
Để hình dung ra toàn bộ cái cây thì ta phải biết nó là cây gì, nó đang mọc ở vùng nào, khí hậu nơi đó ra sao, đất chỗ đó ít hay nhiều, tốt hay không tốt….Từ đó ta mới có được một cái cây hoàn chỉnh.
Chúng ta thấy là càng đi lên sẽ càng đòi hỏi nhiều hiểu biết rộng hơn. Rồi tới một mức nào đó ta sẽ phải dừng lại vì vượt quá tầm hiểu biết của cá nhân, của tập thể và của cả nhân loại.
Xét trong 1 công ty có 3 cấp đơn giản là Nhân viên, Trưởng phòng và Giám đốc. Mỗi nhân viên đảm trách một công đoạn nào đó, mỗi Trưởng phòng quản lý một tập hợp các công đoạn, Giám đốc quản lý cả chuỗi.
Một người trưởng phòng không cần biết chi tiết công việc của nhân viên nhưng vẫn có thể quản lý công việc một cách suôn sẻ. Một giám đốc càng không biết rõ công việc của nhân viên nhưng anh ta vẫn có thể điều phối công việc trong công ty tốt thông qua các trưởng phòng. Các cấp này bổ trợ cho nhau
Càng lên cấp cao thì các công việc càng đòi hỏi phải có tư duy tổng hợp. Không hẳn là anh ta không cần tới tư duy phân tích nữa mà vì để hoàn thành công việc anh ta phải sử dụng tới tư duy tổng hợp nhiều hơn. Thiếu hụt năng lực tư duy này sẽ khiến anh ta vất vả hơn vì không tổ chức được công việc của cấp dưới.
Tư duy, Năng lực, Kỹ năng,...
Năng
lực bao gồm 3 yếu tố là Kiến thức (biết đến), Kỹ năng (làm được) và Thái độ
(muốn làm).Thái độ là cách ta suy nghĩ về một đối tượng nào đó. Với chính ta, với công việc, với bạn bè, với đồng nghiệp, với công ty, với xã hội, với đất nước,….Suy nghĩ sẽ dẫn tới hành động. Ngay cả khi bạn có đủ khả năng làm nhưng bạn có thể vẫn không làm là vì yếu tố này. Thái độ vì vậy mà được đánh giá là yếu tố cao nhất và cũng là khó nhất trong 3 yếu tố.
Tư duy là một tập hợp các suy nghĩ giống như hành vi là một tập hợp các hành động. Nếu như tôi phát biểu “Cái cây này đẹp thật” thì đơn giản đó chỉ là một ý nghĩ vụt lóe lên. Còn nếu tôi tự hỏi “Cái cây này đẹp ở chỗ nào, được chăm sóc ra sao, chủ của nó là ai,…” thì đó là một quá trình tư duy. Tương tự khi ta phát biểu ” Anh ta có hành vi trộm cắp” nhằm ám chỉ rằng anh ta đã thực hiện nhiều hành động khác nhau. Nó tạo cho người nghe hiểu khác so với câu “Anh ta có hành động trộm cắp”
Suy nghĩ giống như là một hoạt động thể thao ví dụ như chạy mà trong đó não là một vận động viên. Chạy có thể tập luyện thì não cũng có thể tập luyện. Ta ví Tư duy phân tích giống như chạy tốc độ 100 m còn Tư duy tổng hợp như marathon 42 km. Một vận động viên vô địch 100m có thể về bét ở cuộc thi 42 km và người vô địch ở cự ly 42km có thể về bét ở cuộc đua 100m. Mặc dù đều là hoạt động chạy nhưng hoàn toàn khác nhau về cách tập luyện, về cách đo đạc thành tích.
Chúng ta thấy một khác biệt khá rõ là các thành phần trong quá trình phân tích có mối liên kết với nhau. Tổng hợp thì không phải vậy, các thành phần tập hợp có thể chẳng có điểm liên kết nào, ta chỉ thấy sự hợp lý khi đứng cạnh nhau. Ví dụ các thành phần đuôi, chân, thân, đầu, tai, mắt,… của một con voi chẳng có liên quan gì tới nhau, ta chỉ thấy là một con voi khi 1. Nó kết hợp với nhau và 2. Phải ở vị trí đúng hoặc gần đúng.
Một bản tin tổng hợp sẽ có nhiều bản tin nhỏ nhưng người biên tập cũng sẽ nhóm các tin vào trong các chủ đề như Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Thể thao, Trong nước, Quốc tế,..Người nghe vẫn thấy tính logic, liền mạch mặc dù các bản tin là độc lập nhau. Giả như một bản tin mà các tin tức sắp xếp lộn xộn không theo nhóm thì ta sẽ thấy rất khó chịu.
Nguyên tắc của tư duy tổng hợp:
Tất cả các đối tượng tồn tại trên thế giới này đều có sự tương tác với nhau chỉ là cấp độ ít hay nhiều. Vấn đề mà bạn đang muốn giải quyết nằm trong một vấn đề lớn hơn, đến lượt vấn đề lớn hơn đó lại nằm trong một vấn đề lớn hơn khác. Các vấn đề không tồn tại độc lập, đơn giản là nó không tự nhiên mà có.
Ví dụ vấn đề lộn xộn ở một phòng ban trong công ty không phải chỉ là trong nội bộ phòng đó. Nếu chăm chăm giải quyết trong phòng đó thì không giải quyết được triệt để mà phải nhìn rộng ra ở cấp công ty, cấp ngành. Người có tư duy tổng hợp nhìn được các đối tượng và sự tương tác giữa chúng. Người không có tư duy tổng hợp sẽ chỉ nhìn vấn đề đó tồn tại một cách độc lập so với xung quanh.
Ví dụ một cái cây không tồn tại độc lập. Nó cần có nước, có không khí, có đất. Tất cả các đối tượng xung quanh đó quyết định rất nhiều tới việc cái cây sẽ như thế nào ở hiện tại, nó cũng quyết định quá trình sinh trưởng của cả cái cây trong tương lai.
Việc ta đang gặp một khó khăn nào đó trong cuộc sống hay trong công việc là kết quả của rất nhiều các yếu tố, các yếu tố này độc lập với nhau. Một phần từ chính ta, bạn bè của ta, gia đình, công ty, hàng xóm,….Chúng ta cần quan sát đối tượng trên một tổng thể nhiều đối tượng đang có tương tác với nhau hàng ngày.
Ngày nay, tương lai khó đoán định là vì có quá nhiều các yếu tố cần xem xét. Thiếu tư duy tổng hợp sẽ khiến chúng ta ít khả năng dự đoán và có những hành động kịp thời hơn.
Tôi nghĩ là Tư duy tổng hợp sẽ theo 2 bước sau:
Bước 1: Hình dung ra cái tổng thể
Trước khi định ghép các bộ phận của con voi lại thì rõ ràng là ta phải hình dung ra một số hình con voi. Nếu chưa từng nhìn thấy con voi (hoặc không được biết trước rằng đó là các bộ phận của một con voi) thì ta sẽ xây dựng một số mô hình ghép nối hợp lý. Sau khi ghép thực tế ta sẽ lựa chọn ra mô hình hợp lý nhất.
Bước này đòi hỏi ta phải vượt qua những rào cản về suy nghĩ, chấp nhận những sự mâu thuẫn, trái ngược, khác biệt. Nếu ta chỉ giữ lại những ý có mối liên kết với nhau, cùng chiều thì là đi vào nối tư duy phân tích. Do vậy một người có đầu óc mở sẽ dễ có được tư duy này hơn là người có suy nghĩ hẹp hòi, bảo thủ, máy móc.
Càng biết nhiều mô hình thì sẽ càng dễ trong bước này. Do vậy mỗi người đừng nên chỉ quan tâm tới mỗi công việc của mình mà phải quan tâm tới những thứ xung quanh nữa.
Điểm quan trọng ở bước này là bạn phải có ý thức rèn luyện để nó trở thành thói quen rằng khi xem xét bất cứ cái gì phải đi từ trên xuống, phải mở rộng suy nghĩ của mình.
Nếu như các bộ phận chưa đủ để ta hình dung ra tổng thể thì chuyển sang bước 2
Bước 2: Thông qua tư duy phân tích tìm ra các mảnh ghép còn thiếu cho tới khi có thể kết luận rõ ở cái tổng thể
Ví dụ như ở hình bên, nhiệm vụ của ta là phải vẽ ra toàn bộ bức tranh ABCDEFG trong khi chỉ biết mỗi G.
Từ G sử dụng câu hỏi “Tại sao lại có G ? ” để tìm ra D. Từ D sử dụng câu hỏi ” Ngoài G ra thì D còn gây ra điều gì nữa để tìm ra F”. Tìm đủ các yếu tố dưới D sẽ giúp ta hiểu rõ D tới mức trả lời được câu hỏi “D đến từ đâu ?. Nếu như câu trả lời có nhiều yếu tố thì ta có thể tìm ra quan hệ với C thông qua câu hỏi ” Thường khi D xảy ra thì cái gì cũng hay xảy ra cùng ? ”
Cứ đào đi đào lại như vậy ta sẽ vẽ được bức tranh. Trong quá trình đi tìm các yếu tố ta cũng phải lặp lại công việc tại bước 1. Khi hình dung ra tổng thể công việc sẽ tiến hành nhanh và chuẩn xác hơn nhiều.
Kết luận:
- Tư duy phân tích đòi hỏi mọi thứ phải có sự liên kết
với nhau thông qua quan hệ nhân quả. Tư duy tổng hợp chấp nhận sự đối lập, trái
ngược nhau của các thành phần.
- Tư duy phân tích hướng tới chi tiết. Tư duy tổng hợp
hướng tới tổng thể.
- Con người sử dụng tư duy tổng hợp để định hướng phân
tích và ghép các kết quả của các phân tích thành một bức tranh hoàn chỉnh.
- Một người có thể sở hữu cả hai loại tư duy này hoặc
là trong một nhóm làm việc mỗi người sẽ chuyên môn một loại tư duy nhờ vậy
họ sẽ bổ trợ cho nhau.
- Càng lên cấp cao trong một công ty càng đòi hỏi Tư
duy tổng hợp ở cấp độ cao hơn. Do vậy luyện tập tư duy tổng hợp là cách để bạn
nâng mình lên. Tư duy giống như một hoạt động thể lực vì vậy bạn có thể tập
luyện.
Tư duy logic (P14: Tư duy kinh nghiệm)
Trong entry đầu tiên của Tư duy logic tôi có phân tạm ra có 3 kiểu tư duy chính:Cách chia này chưa chắc đã đủ nhưng là cách để chúng ta đỡ bị lẫn giữa rất nhiều các tên gọi khác nhau. Tư duy phản biện tôi nghĩ cũng là nằm trong tư duy phân tích trong đó chúng ta hướng về mặt trái của vấn đề thay vì theo mặt phải thông thường.
Mỗi người trong chúng ta đều có khả năng cho cả 3 loại này, chỉ khác nhau ở cấp độ. Người nào mạnh về loại tư duy nào sẽ cố gắng tận dụng loại tư duy đó. Mỗi loại tư duy có những điểm mạnh và yếu riêng, tận dụng cả 3 sẽ giúp bổ trợ cho nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu sự khác nhau của 3 kiểu tư duy này.
Ví dụ: xây dựng nhận thức về việc lửa rất nóng và có thể
bị bỏng khi chạm vào
Tư duy kinh nghiệm: Nếu như A chưa có bất cứ kinh nghiệm nào với lửa. A tò mò thử sờ tay vào và thấy rất nóng. Khi rút tay ra khỏi lửa A vẫn thấy khó chịu chỗ đó, sau 1 ngày chỗ đó phồng rộp lên. A đã có thêm một nội hàm về khái niệm của lửa và cũng đã biết thêm khái niệm của bỏng. A đã có thêm nhận thức này và từ nay A sẽ không còn dám chạm tay vào lửa nữa.
A ở trong bộ lạc X có rất nhiều các thành viên khác trong đó có 3 ông là Đa nghi, Ngây thơ và Vô tư. A truyền đạt đạt kinh nghiệm này cho cả 3. Kinh nghiệm này trở thành kiến thức của 3 ông. Đa nghi chỉ tin những gì anh ta trực tiếp trải nghiệm, anh ta không tin và thử làm những gì A đã làm, kết quả là anh ta thu được kinh nghiệm cho riêng mình với cái giá phải trả như A.
Ngây thơ là người cả tin, anh ta lập tức tin A mà không nghi ngờ gì, kiến thức đó biến thành kinh nghiệm của Ngây thơ. Vô tư là người chẳng bao giờ chú tâm vào cái gì, anh ta quên ngay khi vừa nghe xong, một ngày đẹp trời nào đó anh ta vì lý do nào đó cũng chạm tay vào lửa và cũng sẽ có kinh nghiệm cho riêng mình.
Tư duy logic:
B chưa có bất cứ kinh nghiệm nào với lửa và rất muốn biết ngọn lửa như thế nào . B nhìn thấy ngọn lửa đang biến lá cây khô thành mủn đen xì và nhận định rằng nếu như sờ tay vào có thể sẽ bị đen thui như lá cây. Vì vậy B rất cẩn thận để tay tiến lại gần ngọn lửa mà không để tay ngay vào như A. B thu được kinh nghiệm rằng càng tiến tới gần ngọn lửa thì càng nóng, tới một lúc không chịu được B rụt tay lại. Vì chưa bị bỏng nên B không thu được khái niệm về bỏng nhưng biết rằng lửa rất nóng.
B sử dụng tư duy logic để thông qua khái niệm mới có để tự nhận thức ra các khái niệm khác có liên quan. Trong khi đó thì A vẫn cứ thử nghiệm, trả giá để có kinh nghiệm mặc dù không cần thiết.
C là người cũng không có kinh nghiệm với lửa và đương nhiên cũng muốn biết lửa thế nào. C nghe thông tin từ tất cả để rút ra nhận thức về lửa. C không mất công sờ vào lửa cũng chẳng chạm tay vào lửa mà vẫn có kinh nghiệm.
Tư duy sáng tạo:
B bắt đầu tìm cách để bảo quản lửa, tạo ra lửa, sử dụng lửa trong đời sống… Để lấy lửa B chỉ nghĩ ra mỗi cách là chỗ nào có sét đánh thì tới đó lấy lửa. Rất nhiều trường hợp B bị chết hụt hoặc tới đó quá trễ. Quá nhiều người trong bộ lạc X chết vì sét đánh, quá mệt mỏi vì phải canh sét rồi chạy tới; B ngồi nghĩ cách khác; lúc này B đã bị ép phải dùng tới tư duy sáng tạo.
A có được nhận thức về lửa thì đi ngủ kỹ; đợi tới một lúc nào đó bỗng nhiên biết cách tạo ra lửa hoặc là được người khác truyền cho cách tạo ra lửa.
Như vậy ta thấy là tư duy sáng tạo chỉ xuất hiện khi người ta gặp một trở ngại mà sử dụng tới tư duy kinh nghiệm hay tư duy logic là không thể vượt qua. Trường hợp còn lại là họ ý thức được rằng tư duy sáng tạo là cách để có bước nhảy vọt và vì vậy chủ động hướng tới nó.
Qua ví dụ ta thấy là tư duy kinh nghiệm cũng có chỗ đứng của mình. Thông thường khi nghĩ tới loại tư duy này ta hình dung ngay ra một bác già làm lâu năm trong công ty lúc nào cũng mang kinh nghiệm ra để làm cơ sở, cản trở mọi sự đổi mới. Thực tế là bất cứ ai trong chúng ta càng về già thì càng dựa nhiều vào tư duy kinh nghiệm vì theo lý đơn giản là mạnh cái gì thì dựa vào cái đấy.
Người trẻ vì chưa có kinh nghiệm nên họ không bị kinh nghiệm tri phối nhiều trong các quyết định của mình. Họ sử dụng nhiều tới tư duy logic để thu thập kinh nghiệm cho mình mà không phải trả giá vì nó. Như trường hợp của C, C không mất thời gian chạm lửa, cũng không bị bỏng. C thông qua tư duy logic phân tích thông tin nhận được từ nhiều nguồn khác nhau để tự nhận thức một thực tại khách quan mà không thông qua trải nghiệm trực tiếp. C không quá đa nghi, không quá ngây thơ và cũng chẳng quá cả tin.
Nhận thức của B sẽ không đầy đủ bằng A vì B không bị bỏng. Nhận thức của C có thể bị sai lệch quá nhiều do nhận thức qua nhận thức của người khác.
Đa nghi, Vô tư chỉ có được kinh nghiệm thông qua sai lầm. Họ sẽ không tận dụng được kinh nghiệm mà nhân loại, công ty, đồng nghiệp, bố mẹ, bạn bè đã tích lũy . Họ tiến chậm trên con đường gia tăng năng lực.
Ngây thơ là người cái gì cũng tin vì vậy như ông già đẽo cày giữa đường. Sai lầm của Ngây thơ là không sàng lọc những kinh nghiệm mà người khác truyền cho mình trước khi biến nó thành kinh nghiệm của mình. May mắn thì gặp được người có những kinh nghiệm đúng đỡ lưng, ngược lại thì sẽ nhẩy từ con đường này tới con đường khác và mãi không bao giờ tới đích.
Tư duy sáng tạo hướng tới sự đổi mới theo bước nhẩy lớn. Tư duy logic hướng tới sự đổi mới từng bước rất nhỏ. Tư duy kinh nghiệm hướng tới sự ổn định và an toàn. Một nhóm làm việc nếu có đủ tối thiểu 3 thành viên theo 3 hướng tư duy khác nhau cộng với có niềm tin vào nhau thì không khó khăn nào không thể vượt qua.
Một cá nhân khó mạnh cả 3 loại nên cần biết tận dụng loại tư duy mà mình có thế mạnh để lựa chọn làm các công việc phù hợp tương ứng.
Chúng ta cũng cần phân biệt một số khả năng sau trong tư duy kinh nghiệm:
- Khả năng tích lũy kinh nghiệm: là việc chúng ta tích
lũy kinh nghiệm nhanh tới đâu. Thông thường kinh nghiệm sẽ tích lũy nhiều từ
thất bại nhưng có người thất bại đi thất bại lại ở cùng một hoàn cảnh nhưng vẫn
không rút ra được kinh nghiệm gì.
- Khả năng sử dụng kinh nghiệm: Có kinh nghiệm rồi
nhưng sử dụng không linh hoạt vì mỗi hoàn cảnh đều có những xáo trộn, không bao
giờ giống y chang với hoàn cảnh cũ.
Do vậy một người có năng lực tư duy kinh
nghiệm tới đâu phụ thuộc vào Khối lượng kinh nghiệm mà anh ta sở hữu và kỹ năng
sử dụng kinh nghiệm đó. Khi anh ta càng lớn tuổi thì khối lượng kinh nghiệm
ngày càng tăng lên nhưng kỹ năng sử dụng kinh nghiệm là yếu tố liên quan tới việc
thực hành rèn luyện có thể không tăng tương ứng. Điều này dẫn tới việc là anh
ta không xử lý được khối lượng kinh nghiệm đang nắm giữ một cách hiệu quả.Trên chương trình ” Đường đi của hạt giống” hôm qua tôi có xem một đoạn thì có 3 tình huống khởi nghiệp trong nông nghiệp như sau:
- Trường hợp
1: Một bác nông dân miền tây trăn trở với việc tìm đầu ra cho sản phẩm Thanh
Long, đặc biệt ở khâu chế biến sau thu hoạch. Bác cầm cố tài sản được 20 tỷ và
mua công nghệ chế biến của Đức để làm thanh long dẻo. Sau khi có sản phẩm bác
mới bắt đầu vác sản phẩm đi các siêu thị để chào mời. Kết quả là chẳng ai mua.
Sai lầm của bác là không nghĩ tới đầu ra trước khi đầu tư.
- Trường hợp
2: Anh thanh niên ở nông thôn trồng lúa không bón phân mà cũng chẳng phun thuốc
để có được gạo sạch. Năng suất lúa của anh ta giảm phân nửa so với bình thường
nhưng bán được gấp vài lần vì là gạo sạch. Sai lầm của anh là quan niệm về khái
niệm gạo sạch khá ngây thơ vì đâu phải cứ sử dụng phân bón hóa học, chất diệt
cỏ diệt sâu là bẩn.
- Trường hợp
3: Một anh tri thức trăn trở với việc gia tăng giá trị cho cây lúa thông qua
việc nghiên cứu cách sử dụng các phụ phẩm của gạo như trấu, cám, rơm. Sai lầm
của anh là ôm cả chuỗi từ khâu nghiên cứu, sản xuất tới phân phối khiến cho
nguồn lực không đủ. ( Trường hợp 3 này mình chỉ nghe loáng tháng vì lúc đó đã đến
giờ đi ngủ
)
Cả 3
đều rất tâm huyết, đều có ý tưởng hay nhưng đều dùng cách làm cũ theo kinh
nghiệm áp dụng cho vấn đề mới.
Tư duy kinh nghiệm vốn là bậc tư duy thấp nhất trong 3 kiểu tư duy. Bất cứ ai cũng có được khả năng tư duy này vì nếu không thì họ đã không thể tồn tại. Ta chỉ có thể dựa vào nó để tránh lặp lại sai lầm chứ không thể dùng nó để xử lý các vấn đề mới mà thiếu đi hai kiểu tư duy còn lại.
Tư duy logic không phải ai cũng có nhưng dù sao có thể học được. Khó nhất là kiểu tư duy sáng tạo mà đây là kiểu tư duy rất cần trong thời buổi mọi thứ khó đoán định như hiện nay. Tham khảo bài BrainStorming.
Tham khảo phân loại cấp độ tư duy theo cấp độ nhận thức:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét